Đề tài liên hệ:
CỤC AN-NINH QUỐC-GIA CỦA HOA-KỲ - NSA (Phần I)
THIẾT-BỊ KIỂM-SOÁT AN-NINH.
DỮ LIỆU CÁ NHÂN ĐƯỢC KHAI THÁC TRIỆT ĐỂ RA SAO?
HỆ THỐNG GIÁN-ĐIỆP ECHELON.
(THE INTELLIGENCE COUP OF THE CENTURY)
By Greg Miller
Đỗ Đặng Nhật Huy dịch
The Washington Post
February 11-2020.
Một báo cáo gây chấn động làng tình báo thế giới
Trong hơn nửa thế kỷ, các chính phủ khắp thế giới tin tưởng trao toàn bộ những giao tiếp bí mật về ngoại giao, quân đội, và tình báo vào tay đúng một công ty duy nhất.
Công ty ấy, Crypto AG, ra đời với bản hợp đồng xây dựng các máy tạo mã cho quân đội Mỹ hồi Thế chiến II. Thu được nhiều tiền mặt, họ trở thành nhà sản xuất thiết bị mã hóa thống trị suốt nhiều thập niên, dẫn đầu làn sóng công nghệ từ các thiết bị cơ học cho đến vi mạch điện tử, và cuối cùng, là chip bán dẫn và phần mềm máy tính.
Công ty Thụy Sĩ này đã kiếm được hàng triệu đô bằng cách bán thiết bị của mình cho 120 quốc gia cho đến tận thế kỷ 21. Khách hàng của họ bao gồm Iran, các chế độ độc tài quân sự ở Mỹ Latinh, các đối thủ hạt nhân Ấn Độ và Pakistan, thậm chí là cả Vatican.
Dấu hiệu tiền điện tử vẫn còn hiển thị trên đỉnh trụ sở
lâu năm gần Zug, Thụy Sĩ, mặc dù công ty đã được
thanh lý vào năm 2018. (Jahi Chikwendiu/ Washington Post)
Song một điều không vị khách nào hay biết đó là Crypto AG thuộc sở hữu bí mật của CIA thông qua mối quan hệ hợp tác tuyệt mật với tình báo Tây Đức. Các cơ quan tình báo này tùy chỉnh thiết bị của công ty, cho phép họ dễ dàng giải mã các bức điện mật của các nước.
Mối hợp tác nhiều thập niên này, thuộc vào hàng các bí mật lớn nhất Chiến tranh Lạnh, được công khai trong một tài liệu đầy đủ, tuyệt mật của CIA, được The Washington Post (TWP) và ZDF, một công ty phát sóng Đức, cùng thu thập được trong một dự án chung.
Tài liệu này xác định danh tính các quan chức CIA vận hành chương trình và các lãnh đạo công ty được giao thực hiện nó. Tài liệu đi tìm nguồn gốc chương trình và các xung đột nội bộ suýt làm công ty thất bại. Tài liệu miêu tả cách Hoa Kỳ và các đồng minh lạm dụng sự ngây thơ của các nước khác, cuỗm đi tiền bạc và ăn cắp bí mật của họ.
Chương trình ấy, đầu tiên được biết với tên mã “Thesaurus” và sau đó “Rubicon”, là một trong những thứ táo bạo nhất trong lịch sử CIA.
“Đó là chương trình tình báo thế kỷ”, bản báo cáo của CIA kết luận. “Các chính phủ nước ngoài trả những khoản tiền lớn cho Hoa Kỳ và Tây Đức chỉ để cho các bức điện mật của mình bị đọc lén bởi hai (hay thậm chí là năm hoặc sáu) nước khác”.
Kể từ năm 1970, CIA và người anh em song sinh trong ngành phá mã của mình, Cơ quan An ninh Quốc gia (NSA), kiểm soát gần như toàn bộ mọi mặt hoạt động của Crypto – cùng với các đối tác người Đức quyết định các vấn đề nhân sự, thiết kế công nghệ, điều khiển các thuật toán và quyết định chỉ tiêu doanh số.
Sau đó, các điệp viên Mỹ và Tây Đức nghe ngóng.
Họ nghe lén các giáo chủ Iran giữa cuộc khủng hoảng con tin 1979, cung cấp cho Anh các nguồn tin quân sự của Argentina giữa Chiến tranh Falklands, theo dõi các chiến dịch ám sát các nhà độc tài Nam Mỹ và phát hiện các quan chức Libya ăn mừng sau vụ đánh bom một sàn disco Berlin năm 1986.
Một máy bay trực thăng của Hải quân Hoàng gia Anh cất cánh
sau khi vận chuyển TQLC Anh tới Darwin, quần đảo Falkland,
năm 1982. Trong chiến tranh Falklands, tình báo Mỹ đã cung
cấp cho Anh các thông tin về quân đội Argentina.
(Paul Haley/Imperial War Museums/Getty Images).
Một con tin người Mỹ được dẫn đi bên ngoài tòa nhà
Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Tehran năm 1979, sau khi các
sinh viên tràn vào sứ quán và bắt các nhân viên ngoại
giao Mỹ làm con tin. Sử dụng Crypto, Hoa Kỳ đã theo
dõi các lãnh đạo của Iran trong suốt cuộc khủng hoảng.
(Kaveh Kazemi/Getty Images)
Song chương trình này cũng có giới hạn. Các đối thủ chính của Mỹ, bao gồm Liên Xô và Trung Quốc, chưa từng mua thiết bị của Crypto. Thái độ ngờ vực sâu sắc về quan hệ của công ty này với phương Tây đã giúp họ tránh bị lộ bí mật, mặc dù bản báo cáo của CIA có ngụ ý rằng tình báo Mỹ đã thu thập được rất nhiều thông tin bằng cách theo dõi các bức điện giữa các nước khác với Moskva và Bắc Kinh.
Đã có những vụ rò rỉ an ninh đặt Crypto vào thế bị nghi ngờ. Các tài liệu công bố vào những năm 1970 cho thấy những trao đổi liên tục và không được che đậy cẩn thận giữa một điệp viên thời đầu của NSA và nhà sáng lập Crypto. Các mục tiêu nước ngoài bị công khai bởi tuyên bố vô tình của các quan chức, kể cả Tổng thống Ronald Reagan. Và vụ bắt giữ một nhân viên bán hàng của Crypto năm 1992 ở Iran, người khi ấy không hề hay biết mình đang bán các thiết bị đã bị can thiệp, đã châm ngòi cho một “cơn bão công luận” tai hại, theo tài liệu của CIA.
Nhưng bản chất thực sự của quan hệ hợp tác giữa công ty với CIA và cơ quan đồng cấp Đức mãi cho đến ngày nay mới được công bố.
Cơ quan tình báo Đức, BND, nhận ra nguy cơ bị phơi bày bí mật là quá lớn, đã quyết định rời bỏ chương trình vào đầu những năm 1990. Song CIA đã mua lại số cổ phần này và tiếp tục thu thập toàn bộ các thông tin tình báo của Crypto mãi cho đến năm 2018, khi họ quyết định bán tài sản công ty, theo lời các quan chức hiện tại cũng như trước đây.
Kể từ đó, tầm quan trọng của công ty trên thị trường an ninh toàn cầu sụt giảm, phần vì ảnh hưởng bởi làn sóng công nghệ mã hóa online. Từng một thời là lãnh địa riêng của các chính phủ và tập đoàn khổng lồ, mã hóa bảo mật giờ đã trở nên phổ biến như chính các ứng dụng điện thoại.
Dù vậy, chương trình Crypto vẫn còn nguyên giá trị đối với ngành tình báo hiện đại. Tầm hoạt động và thời gian tồn tại lâu dài của nó giúp giải thích tại sao Mỹ lại muốn phát triển một mạng lưới giám sát toàn cầu như Edward Snowden đã phơi bày hồi năm 2013. Và vẫn còn đó dư âm của câu chuyện Crypto trong những ngờ vực xoay quanh quan hệ giữa các công ty với các chính phủ ngày nay, bao gồm hãng chống virus máy tính Nga Kaspersky, một ứng dụng nhắn tin có liên hệ với Các Tiểu Vương quốc Ả Rập Thống nhất, và gã khổng lồ viễn thông Trung Quốc Huawei.
Bài viết này dựa trên bản báo cáo của CIA và cả BND, đều được thu thập bởi The Washington Post và ZDF, bên cạnh các cuộc phỏng vấn với các đương kim và cựu quan chức tình báo phương Tây cũng như các nhân viên Crypto. Nhiều người muốn ẩn danh, vì sự nhạy cảm của chủ đề.
Lịch sử của CIA và BND rất ấn tượng. Các hồ sơ tình báo nhạy cảm thường được giải mã và công bố cho công chúng theo định kỳ. Song rất hiếm, thậm chí chưa từng có tiền lệ, khi họ công bố cả một tập báo cáo nội bộ về toàn bộ một chương trình tình báo bí mật. TWP đã đọc qua tất cả các tài liệu, song nguồn tư liệu khẳng định rằng phần được công bố chỉ là các đoạn trích.
CIA và BND từ chối bình luận, mặc dù các quan chức Mỹ và Đức không hề bác bỏ sự xác thật của các tài liệu. Tài liệu đầu là báo cáo 96 trang của chương trình được thực hiện bởi Trung tâm Nghiên cứu Tình báo CIA, một ban nghiên cứu lịch sử nội bộ của cơ quan này, vào năm 2004. Tài liệu thứ hai là một báo cáo lịch sử truyền miệng được tập hợp bởi các quan chức tình báo Đức hồi năm 2008.
Các tình tiết trùng khớp nhau cho thấy bất đồng giữa hai đối tác về tiền bạc, kiểm soát và các giới hạn đạo đức, với việc người Tây Đức thường hoảng sợ trước mức độ hăng hái của tình báo Mỹ khi nhắm vào các đồng minh của chính mình.
Tuy vậy, cả hai bên đều miêu tả chương trình là thành công hơn cả những mong đợi lạc quan nhất của họ. Trong nhiều thời điểm, bao gồm những năm 1980, Crypto chiếm tới 40 phần trăm số thông tin liên lạc ngoại giao và các giao tiếp khác của các chính phủ nước ngoài được chuyên gia mã hóa của NSA giải mã và dùng cho thu thập tình báo, theo các tài liệu.
Crypto AG logo. Photo: Wikipedia
Trong khi đó, Crypto thu hàng triệu đô lợi nhuận, số tiền sẽ được chia chác và dùng bởi CIA và BND cho các chương trình khác.
Các sản phẩm của Crypto hiện vẫn còn được dùng ở hơn chục nước trên thế giới, và biểu tượng màu cam-trắng của họ vẫn còn phát sáng trên tường trụ sở gần Zug, Thụy Sĩ (hình đầu bài). Song công ty đã bị chia nhỏ vào năm 2018, được thanh lý bởi các cổ đông mà danh tính của họ sẽ mãi mãi được giữ kín bởi các điều luật phức tạp của Liechtenstein, quốc gia châu Âu nhỏ bé với danh tiếng sánh ngang Quần đảo Cayman về bảo mật tài chính.
Có hai công ty mua phần lớn tài sản của Crypto. Công ty đầu, CyOne Security, được thành lập nhằm thực hiện vụ thôn tính và hiện đang cung cấp các hệ thống an ninh chỉ riêng cho chính phủ Thụy Sĩ. Công ty còn lại, Crypto International, tiếp quản thương hiệu và mảng kinh doanh quốc tế của Crypto cũ.
Cả hai đều khẳng định không còn mối liên hệ nào với tình báo, song chỉ một công ty tuyên bố là họ không hay biết gì về cổ phần của CIA trước đây. Đó là tuyên bố của họ khi trả lời TWP, ZDF, và hãng phát sóng Thụy Sĩ SRF, bên cũng có quyền truy cập các tài liệu này.
CyOne có nhiều liên hệ đáng kể với Crypto cũ hơn, bao gồm việc giám đốc điều hành của họ cũng từng nắm vị trí tương tự ở Crypto suốt gần hai thập niên khi CIA còn giữ quyền sở hữu.
Một người phát ngôn của CyOne từ chối bình luận về bất kì khía cạnh lịch sử nào của Crypto AG, song nói hãng mới “không có liên hệ với bất kì cơ quan tình báo nước ngoài nào.”
Andreas Linde, chủ tịch của công ty hiện giữ quyền đối với các sản phẩm và mảng kinh doanh quốc tế của Crypto, nói ông không hề hay biết về mối quan hệ giữa công ty với CIA và BND trước khi các tài liệu được công bố.
“Chúng tôi tại Crypto International không hề có bất kì quan hệ nào với CIA và BND – và xin hãy trích nguyên lời tôi,” ông nói trong một cuộc phỏng vấn. “Nếu những gì các bạn nói là sự thật, thì tôi hoàn toàn cảm thấy bị phản bội, và gia đình tôi thấy bị phản bội, và tôi cho rằng rất nhiều nhân viên cũng như khách hàng cũng sẽ thấy bị phản bội.”
Chính phủ Thụy Sĩ nói hồi thứ Ba (11/02/2020) rằng họ đang mở một cuộc điều tra vào mối liên hệ giữa Crypto AG với CIA và BND. Đầu tháng này, các quan chức Thụy Sĩ đã thu hồi giấy phép xuất khẩu của Crypto International.
Thời điểm Thụy Sĩ có động thái này rất đáng ngờ. Tài liệu CIA và BND cho thấy các quan chức Thụy Sĩ đã phải biết từ lâu về quan hệ giữa Crypto với các cơ quan tình báo Mỹ và Đức, song họ chỉ can thiệp sau khi phát hiện báo đài sắp sửa phơi bày vụ việc.
Các báo cáo, không hề nói rõ khi nào hoặc liệu CIA có chấm dứt sự tham gia của mình hay không, phản ánh thái độ thiên vị rõ ràng thường thấy của các tài liệu được viết dựa trên quan điểm của các kiến trúc sư chương trình. Họ miêu tả Rubicon (tên mật của chương trình) là một thắng lợi tình báo, giúp Hoa Kỳ đạt ưu thế trong Chiến tranh Lạnh, kiểm soát hàng chục chế độ độc tài và bảo vệ quyền lợi của Hoa Kỳ cùng các đồng minh.
Các tài liệu phần lớn không đề cập đến các câu hỏi khó hơn, bao gồm việc Mỹ đã biết gì – và họ đã làm hoặc không làm gì – về những nước có sử dụng máy móc của Crypto trong khi tham gia vào các kế hoạch ám sát, các chiến dịch thanh lọc sắc tộc và vi phạm nhân quyền.
Tiết lộ từ các tài liệu có thể khiến ta quay lại đặt câu hỏi rằng liệu Mỹ có ở thế có thể can thiệp vào, hay chí ít là công khai, các thảm họa quốc tế, và liệu Mỹ có từng từ chối làm vậy nhằm tránh để lộ nguồn tin tình báo vô giá của mình hay không.
Các tài liệu cũng không hề đề cập đến các vấn đề đạo đức hiển hiện từ trong cốt lõi của chương trình: lừa dối và khai thác các đối thủ, đồng minh, và qua mặt hàng trăm nhân viên của Crypto. Nhiều người đi khắp thế giới chào bán các hệ thống đã bị can thiệp mà không hề hay biết rằng điều này đe dọa sự an toàn của chính họ.
Trong các cuộc phỏng vấn gần đây, các nhân viên bị lừa dối – kể cả những người bắt đầu hoài nghi từ khi còn làm việc rằng công ty của họ đang hợp tác với tình báo phương Tây – cho biết việc phơi bày các tài liệu đã làm sâu sắc cảm giác bị phản bội, của chính họ và các khách hàng.
“Bạn nghĩ bạn đang làm việc tốt và đang giúp bảo mật,” theo lời Juerg Spoerndli, một kĩ sư điện tử làm việc 16 năm cho Crypto. “Và rồi bạn nhận ra bạn đã lừa dối các khách hàng này.”
Những người vận hành chương trình siêu bí mật này tiếp tục thể hiện thái độ không tiếc nuối.
“Liệu tôi có tí dằn vặt nào không ư? Không!” theo lời Bobby Ray Inman, giám đốc NSA và phó giám đốc CIA giai đoạn cuối những năm 1970 và đầu những năm 1980. “Đó là một nguồn tin tình báo đầy giá trị về một phần lớn thế giới, có vai trò quan trọng đối với các nhà hoạch định chính sách Mỹ.”
Chiến dịch “chống tiếp cận”
Chương trình tinh vi, phức tạp này khởi nguồn từ nhu cầu có một thiết bị mã hóa đơn giản nhưng gọn nhẹ của quân đội Mỹ.
Boris Hagelin, nhà sáng lập Crypto, là một doanh nhân và nhà phát minh sinh ở Nga, nhưng chạy đến Thụy Điển sau khi phe Bolshevik nắm quyền. Ông di cư một lần nữa đến Hoa Kỳ khi phát xít Đức chiếm Na-Uy vào năm 1940.
Người đàn ông này mang theo mình một chiếc máy mã hóa trông giống một hộp nhạc được gia cố, với một lắp quay tay đóng chắc bên hông cùng các cấu trúc và chong chóng kim loại đặt dưới vỏ hộp kim loại cứng.
Boris Hagelin, người sáng lập Crypto, và vợ tới New York
năm 1949. Hagelin chạy sang Mỹ khi Phát xít Đức chiếm
Na-Uy năm 1940. (Bettmann Archive)
Vật này không tinh vi, hay bảo mật, như các máy Enigma của Phát xít Đức. Song máy M-209 của Hagelin lại nhỏ gọn, chạy cơ tay và hữu dụng cho binh sĩ trên đường hành quân. Các bức hình ghi lại cho thấy binh lính mang những chiếc hộp nặng 4kg – cùng cỡ với một cuốn sách lớn – buộc xuống dưới gối. Nhiều thiết bị của Hagelin vẫn còn được giữ lại tại một bảo tàng tư nhân ở Eindhoven, Hòa Lan.
Để gửi được một thông điệp mật từ thiết bị này rất tốn công. Người dùng sẽ phải xoay vòng quay chữ, từng chữ một, và xoay mạnh lắp quay tay. Các bộ phận bên trong sẽ xoay và đưa ra một thông điệp đã mã hóa trên một mảnh giấy. Một sĩ quan thông tin sau đó truyền thông điệp này bằng mã Morse tới người nhận, người sẽ làm ngược lại quy trình để đọc mã.
Thiết bị M-209 của Hagelin, được đùng để gửi các
thông báo chiến thuật về hướng di chuyển của binh sĩ.
(Jahi Chikwendiu/The Washington Post)
Mức độ bảo mật của nó yếu tới nỗi gần như ai cũng tin rằng bất kì kẻ địch nào cũng sẽ có thể giải được mã nếu có đủ thời gian. Song việc này mất hàng giờ. Và bởi vì các máy này chỉ được dùng để gửi các thông điệp chiến thuật về hướng tiến quân, nên đến khi Phát xít Đức giải mã được thì giá trị của nó đã không còn.
Trong suốt cuộc chiến, khoảng 140.000 máy M-209 đã được chế tạo tại nhà máy đánh chữ Smith Corona ở Syracuse, bang New York, thông qua một hợp đồng giữa Crypto với quân đội Mỹ trị giá 8,6 triệu đô. Sau cuộc chiến, Hagelin quay về Thụy Điển để mở lại nhà máy của ông, mang theo một tài sản cá nhân lớn và một lòng trung thành suốt đời với nước Mỹ.
Dù vậy, các đặc vụ Mỹ vẫn cảnh giác với các hoạt động hậu chiến của ông. Đầu những năm 1950, ông phát triển một phiên bản tốt hơn của chiếc máy thời chiến với trình tự đọc mã cơ mới, “khác thường” mà trong một khoảng thời gian đã làm bất ngờ các nhà giải mã Mỹ.
Cảnh giác trước khả năng của chiếc máy CX-52 mới và các thiết bị khác đang được Crypto lên kế hoạch, các quan chức Mỹ bắt đầu thảo luận về “vấn đề Hagelin.”
Đó là “Những ngày Đen tối của ngành cơ yếu Hoa Kỳ,” theo báo cáo của CIA. Liên Xô, Trung Quốc, và Bắc Triều Tiên dùng các hệ thống tạo mã gần như không thể xuyên thủng được. Các cơ quan tình báo Mỹ lo ngại phần còn lại của thế giới cũng sẽ “đen tối đi” nếu các nước có thể mua thiết bị bảo mật của Hagelin.
Người Mỹ có nhiều đòn bẩy ảnh hưởng đối với Hagelin: ông thân thuộc với ý thức hệ của Mỹ, ông hy vọng Mỹ sẽ tiếp tục là một khách hàng lớn, cùng với mối đe dọa tiềm tàng rằng người Mỹ có thể gây hại cho tương lai công ty ông bằng cách bán tháo các máy M-209 dư thừa sau cuộc chiến.
Hoa Kỳ còn có một át chủ bài: William Friedman. Thường được công nhận là cha đẻ của ngành mã học Mỹ, Friedman quen biết Hagelin từ những năm 1930. Họ có một tình bạn lâu dài vì cùng một xuất thân và đam mê, tức cùng gốc Nga và cùng say mê sự phức tạp của công việc mã hóa.
Có lẽ đã chẳng có Chương trình Rubicon nếu hai người đàn ông này không bắt tay nhau về một thỏa thuận mật đầu tiên giữa Hagelin và tình báo Mỹ tại một bữa ăn tối ở quán Cosmos ở Washington năm 1951.
Thỏa thuận yêu cầu Hagelin, người đã chuyển công ty sang Thụy Sĩ, chỉ bán các thiết bị tinh vi nhất của hãng cho các quốc gia được chấp thuận bởi Mỹ. Các nước không có trong danh sách sẽ chỉ được bán các hệ thống cũ và yếu hơn. Hagelin sẽ được đền bù cho phần doanh thu tổn thất: 700.000 đô trả trước.
Phải mất vài năm để Hoa Kỳ định rõ đường đi nước bước của mình, khi mà các quan chức hàng đầu ở CIA và NSA mãi cãi nhau về các điều khoản và lợi ích của chương trình. Nhưng Hagelin tôn trọng thỏa thuận ngay từ đầu, và trong vòng hai thập niên kế tiếp, mối quan hệ bí mật của ông với các cơ quan tình báo Mỹ càng sâu sắc hơn.
Năm 1960, CIA và Hagelin đồng ý với một “thỏa thuận cấp phép” chi trả cho ông 855.000 đô để ông tiếp tục kế hoạch ban đầu. Sau đó, cơ quan này trả khoản phí duy trì 70.000 đô mỗi năm và bắt đầu bơm cho công ty các khoản 10.000 đô phí “tiếp thị” để bảo đảm rằng Crypto – chứ không phải các công ty mới nổi trên thị trường mã hóa – mới là bên kí được các hợp đồng bảo mật với các chính phủ trên khắp thế giới.
Đó là một “chiến dịch chống tiếp cận” điển hình theo cách nói của giới tình báo, một kế hoạch được lập nên nhằm ngăn chặn kẻ thù sở hữu các loại vũ khí hoặc công nghệ sẽ mang lại lợi thế cho họ. Dù vậy, đó chỉ mới là bước khởi đầu của mối hợp tác giữa Crypto và tình báo Mỹ. Trong vòng một thập niên tiếp theo, toàn bộ chương trình rơi vào tay CIA và BND.
Một thế giới mới tươi đẹp
Các quan chức Mỹ ngay từ đầu đã thăm dò xem liệu Hagelin có sẵn sàng để các nhà mã học Mỹ tùy chỉnh các thiết bị của ông hay không. Song Friedman cản họ, tin rằng Hagelin sẽ xem đó là một bước quá xa.
CIA và NSA nhận thấy một cơ hội mới vào giữa những năm 1960, khi sự lan truyền của mạch điện tử buộc Hagelin phải chấp nhận hỗ trợ từ bên ngoài để thích nghi với công nghệ mới, hoặc dần đi vào suy thoái nếu tiếp tục bám lấy thiết bị cơ học.
Các nhà mã học của NSA cũng đồng thời nhận thấy ảnh hưởng tiềm tàng của vi mạch, thứ dường như sẽ mở ra thời kỳ của công nghệ mã hóa không thể bị phá. Song một trong những nhà phân tích cấp cao của cơ quan này, Peter Jenks, lại xác định được một lỗ hổng tiềm năng.
Nếu “được thiết kế một cách cẩn thận bởi một nhà toán học – mã học thông minh”, ông nói, một hệ thống dựa trên mạch điện tử có thể trông như một chuỗi vô tận các ký tự ngẫu nhiên, trong khi trên thực tế nó lặp lại chính mình với các khoảng đủ ngắn để chuyên gia của NSA – và những chiếc máy tính mạnh mẽ của họ – có thể giải mã.
Hai năm sau, năm 1967, Crypto ra mắt dòng máy mới, hoàn toàn điện tử, máy H-460, với toàn bộ phần lõi bên trong được thiết kế bởi NSA.
Báo cáo của CIA rất hả hê khi nói về bước phát triển này. “Hãy tưởng tượng chính phủ Mỹ thuyết phục được một nhà sản suất nước ngoài tùy chỉnh thiết bị của mình theo ý Mỹ,” báo cáo nói. “Hãy nói về một thế giới mới tươi đẹp.”
NSA đã không cài đặt các “cửa hậu” hay bí mật lập trình để các thiết bị làm lộ chìa khóa mã. Và cơ quan này vẫn phải đối mặt với công việc khó khăn là chặn được các liên lạc mật của các chính phủ, bất kể là tín hiệu truyền trong không khí, hay trong những năm sau này, là can thiệp vào đường dẫn cáp quang.
Nhưng việc thao túng các thuật toán của Crypto đã giúp hợp lý hóa quy trình phá mã, đôi khi giúp giảm quy trình xuống chỉ còn vài giây một công việc vốn đã từng tiêu tốn hàng tháng trời. Công ty luôn sản xuất ít nhất hai phiên bản của các sản phẩm – dòng bảo mật bán cho các chính phủ thân thiện (với Mỹ), và dòng bị tùy chỉnh bán cho phần còn lại của thế giới.
Trong quá trình này, mối hợp tác Hoa Kỳ - Hagelin đã tiến hóa từ “chống tiếp cận” sang “biện pháp chủ động”. Crypto không còn chỉ bán các thiết bị tốt nhất, mà giờ đây còn bán các thiết bị đã được tùy chỉnh để phản bội chính khách hàng của mình.
Lợi ích của việc này không chỉ dừng lại ở quyền theo dõi các thiết bị. Bước chuyển của Crypto sang hệ thống điện tử giúp doanh thu tăng trưởng lớn đến nỗi họ trở nên ưa thích việc phụ thuộc vào NSA. Các chính phủ nước ngoài cũng thích các thiết bị mới vốn trông tốt hơn hẳn các máy cơ nặng nề, không hề biết rằng chúng dễ bị tình báo Mỹ theo dõi hơn.
Cái bắt tay Đức - Mỹ
Cuối những năm 1960, Hagelin đã gần 80 tuổi và trăn trở cách bảo vệ tương lai của công ty, bấy giờ đã thuê tới 180 nhân viên. Các quan chức CIA cũng lo lắng về tương lai của chương trình nếu Hagelin bất ngờ bán công ty hoặc qua đời.
Hagelin từng muốn con trai mình, Bo, kế tục. Nhưng các quan chức tình báo Mỹ chỉ xem anh này là “kẻ ngoài lề” và cố gắng che đậy mối hợp tác khỏi mắt Bo. Bo Hagelin chết trong một tai nạn xe hơi ở Đường vành đai Washington vào năm 1970. Không có dấu hiệu chơi xấu.
Các quan chức tình báo Mỹ thảo luận việc mua Crypto suốt nhiều năm, song tranh cãi giữa NSA và CIA ngăn trở kế hoạch này mãi cho đến khi chương trình chào đón thêm hai cơ quan tình báo mới.
Người Pháp, Tây Đức và các cơ quan tình báo Châu Âu khác đã được nghe nói về hợp tác giữa Mỹ với Crypto, hoặc đã tự mình phát hiện ra. Một số đã ganh tỵ và tìm cách đạt được một thỏa thuận tương tự cho chính mình.
Năm 1967, Hagelin được cơ quan tình báo Pháp đề nghị mua lại công ty trong một liên doanh với tình báo Đức. Hagelin từ chối và báo về cho CIA. Nhưng rồi 2 năm sau, người Đức quay lại với lời đề nghị hợp tác mới, lần này với sự ủng hộ của người Mỹ.
Trong một cuộc gặp đầu năm 1969 tại Đại sứ quán Tây Đức ở Washington, người đứng đầu cơ quan mật mã của nước này, Wilhelm Goeing, đưa ra đề nghị và đánh tiếng xem liệu người Mỹ “có hứng thú cùng trở thành đối tác không.”
Vài tháng sau, Giám đốc CIA Richard Helms chấp thuận kế hoạch mua Crypto và cử một cấp dưới đến Bonn (thủ đô Tây Đức) để vạch rõ các điều khoản cùng một điều kiện tiên quyết: người Pháp phải bị “dẹp qua một bên,” theo lời các quan chức CIA nói với Goeing.
Tây Đức đồng ý với Mỹ, và thỏa thuận giữa hai cơ quan tình báo được ghi lại trong một bản ghi nhớ vào tháng 6 năm 1970, trong đó bao gồm chữ ký run run của một quan chức CIA cấp cao ở Munich, người lúc đó đang ở kì đầu của bệnh Parkinson, bên cạnh chữ ký không tài nào đọc được của người đồng cấp BND.
Hai cơ quan đồng ý góp số vốn bằng nhau để mua số cổ phần của Hagelin với giá khoảng 5,75 triệu đô, song CIA gần như tín thác cho người Đức việc che giấu giao dịch này khỏi mắt công chúng.
Một hãng luật Liechtenstein, Marxer and Goop, đã giúp che giấu danh tính của những người sở hữu mới bằng một loạt các công ty vỏ bọc và loại cổ phiếu không yêu cầu danh tính trong tài liệu đăng ký. Hãng này được trả một khoản tiền hàng năm “không phải vì công việc nặng nhọc mà nhằm khiến họ im lặng và chấp nhận,” báo cáo của BND nói. Hãng này, giờ mang tên Marxer and Partner, từ chối bình luận.
Năm 1967, Crypto ra mắt mẫu H-460, một máy điện tử có ruột
được thiết kế bởi NSA. (Jahi Chikwendiu/The Washington Post)
Một hội đồng quản trị mới được thành lập để quản lý công ty. Chỉ một thành viên của nó, Sture Nyberg, người từng được Hagelin ủy thác quản lý công việc hằng ngày, biết việc CIA có tham gia. “Thông qua cơ chế này,” báo cáo của CIA viết, “CIA và BND kiểm soát các hoạt động” của Crypto. Nyberg rời công ty vào năm 1976. Chúng tôi không thể tìm ra và cũng không thể xác định được liệu ông còn sống hay không.
Hai cơ quan tình báo tổ chức họp thường kỳ để quản lý chương trình. CIA dùng một căn cứ bí mật ở Munich, ban đầu tại một cơ sở được dùng bởi quân đội Mỹ và về sau nằm trong tầng mái của một tòa nhà gần lãnh sự quán Mỹ, làm tổng hành dinh của chương trình.
CIA và BND thống nhất tên bí mật của chương trình và các cấu thành của nó. Crypto được gọi là “Minerva,” đồng thời cũng là tên bản báo cáo của CIA. Chương trình có tên bí mật ban đầu là “Thesaurus,” và từ những năm 1980 gọi là “Rubicon.”
Mỗi năm, CIA và BND phân chia số lợi nhuận Crypto mang lại, theo báo cáo của Đức; BND lo việc kế toán và chuyển tiền cho CIA tại một hầm ga-ra đỗ xe.
Từ đầu, mối hợp tác bị bao phủ bởi bất đồng và căng thẳng lặt vặt. Đối với các điệp viên CIA, BND trông quá tập trung vào lợi nhuận, và người Mỹ phải “liên tục nhắc nhở người Đức rằng đây là một chương trình tình báo, không phải công việc làm ăn.” Trong khi đó, người Đức choáng váng với việc Mỹ sẵn sàng do thám tất cả chỉ trừ các đồng minh thân cận nhất, trong số mục tiêu có cả các đồng minh NATO như Tây Ban Nha, Hy Lạp, Thổ Nhĩ Kỳ, và Ý.
Nhận thức rõ hạn chế của mình trong việc vận hành một hãng công nghệ, hai cơ quan mang vào chương trình các công ty tư nhân. Người Đức bổ sung Siemens, một tập đoàn đóng ở Munich, để cố vấn cho Crypto về các vấn đề kinh doanh và công nghệ, đổi lấy 5% doanh số của công ty. Ở chiều ngược lại, Mỹ bổ sung Motorola để sửa các thiết bị dính lỗi, đánh một tín hiệu rõ ràng cho vị CEO rằng việc này được thực hiện cho tình báo Mỹ. Siemens từ chối bình luận. Các quan chức Motorola cũng không phản hồi yêu cầu bình luận.
Tổng thống Ai Cập Anwar Sadat và Tổng thống Mỹ Jimmy
Carter gặp gỡ trong giai đoạn đàm phán hòa bình Ai Cập –
Israel tại Trại David vào tháng 9/1978. Trong thời gian đó,
NSA đã bí mật theo dõi các liên lạc giữa Sadat với thủ đô Cairo.
(White House/CNP/Getty Images)
Dù không hài lòng, Đức chưa bao giờ được kết nạp vào nhóm “Five Eyes” nức tiếng, liên minh tình báo lâu đời giữa Mỹ, Anh, Úc, Canada, và New Zealand. Nhưng với cái bắt tay Crypto, Đức tiến gần vào vòng thân cận với tình báo Mỹ hơn so với khi Thế chiến 2 vừa kết thúc. Với sự hậu thuẫn bí mật của hai cơ quan tình báo hàng đầu thế giới và hỗ trợ từ hai trong số các công ty lớn nhất thế giới, việc kinh doanh của Crypto nở rộ.
Một bảng kê trong báo cáo của CIA cho thấy doanh số tăng từ 15 triệu Franc Thụy Sĩ vào năm 1970 lên hơn 51 triệu vào năm 1975 (19 triệu đô). Bảng lương của công ty giờ có tới 250 nhân viên.
“Vụ mua lại Minerva đã mang lại một khoản lợi nhuận tốt,” bản báo cáo CIA bình luận về giai đoạn này. Chương trình từ đây bước vào hai thập niên do thám chưa từng có đối với liên lạc của các chính phủ nước ngoài.
(Xem tiếp Phần II)
* * *
Xem bài nầy bằng Anh ngữ: click vào đây
Xem trang Kiến thức, Tài liệu: click vào đây
More in English topic: please click here
Trở về trang chính: www.nuiansongtra.net