Diễn đàn của người dân Quảng Ngãi
giới thiệu | liên lạc | lưu niệm

 April 09, 2025
Trang đầu Hình ảnh, sinh hoạt QN:Đất nước/con người Liên trường Quảng Ngãi Biên khảo Hải Quân HQ.VNCH HQ.Thế giới Kiến thức, tài liệu Y học & đời sống Phiếm luận Văn học Tạp văn, tùy bút Cổ văn thơ văn Kim văn thơ văn Giải trí Nhạc Trang Anh ngữ Trang thanh niên Linh tinh Tác giả Nhắn tin, tìm người

  Văn (Kim văn)
TUẤN CHÀNG TRAI NƯỚC VIỆT (Ch.21-25)
NGUYỄN VỸ
Các bài liên quan:
    TUẤN CHÀNG TRAI NƯỚC VIỆT (Ch.36-40)
    TUẤN CHÀNG TRAI NƯỚC VIỆT (Ch.31-35)
    TUẤN CHÀNG TRAI NƯỚC VIỆT (Ch 26-30)
    TUẤN CHÀNG TRAI NƯỚC VIỆT (Ch.16-20)
    TUẤN, CHÀNG TRAI NƯỚC VIỆT (Ch.11-15)
    TUẤN CHÀNG TRAI NƯỚC VIỆT (Ch.6-10)
    TUẤN, CHÀNG TRAI NƯỚC VIỆT (Ch.1-5)
    TUẤN, CHÀNG TRAI NƯỚC VIỆT (Tựa)
    NGUYỄN VỸ, NHÀ VĂN NƯỚC VIỆT

TUẤN, CHÀNG TRAI NƯỚC VIỆT.
Nguyễn Vỹ.

Chương 21

Lúc bấy giờ các trường nghỉ Tết được nửa tháng, từ 22 tháng chạp ta đến mồng tám, hoặc mồng mười tháng Giêng. Trong mấy ngày nghỉ Tết, đa số học trò bị nhiễm một tật thông thường của đa số các bậc phụ huynh, là cờ bạc. Ở tỉnh nào và Phủ, Huyện nào cũng thế cả.

Có năm loại cờ bạc trong mấy ngày xuân:

1) giới quý phái, quan liêu, các quan lớn, quan nhỏ, thì đánh tổ tôm, tài bàn (nhất văn, nhị văn, tam văn... chi chi, cửu vạn, bát sách) v.v...

2) giới bình dân phong lưu thì đánh Kiệu (thất kiệu, tam kiệu).

3) giới bình dân đại chúng, nhất là phụ nữ, thì đánh Tứ sắc (tướng xanh, tướng đỏ, tướng vàng, tướng trắng, tốt xanh, tốt vàng v.v...) hoặc bài Tam cúc (ông Ẩm, ba Tiền, tám Tiền, v.v...).

4) giới cờ bạc chuyên môn thì Hốt Me, Xóc đĩa, Bài cào, Xì lác, các tê.

5) sau cùng là học trò và con nít thì đánh lú: Tam Túc Lượng Yêu (tam là ba đồng tiền, túc bốn đồng, lượng hai đồng, yêu một đồng).

Trong mấy ngày Tết, hầu hết các gia đình đều tổ chức đánh bài như thế, tuy là để "tiêu khiển" trong mấy ngày Xuân, nhưng cũng ăn thua tiền bạc quá nhiều và rất ham mê.

Cờ bạc công cộng thì có bài chòi, do làng xóm tổ chức. Lối chơi bài chòi công cộng này rất vui, rất dễ quyến rũ ngưởi ta. Thường thường một nơi xa kéo đến, có khi từ Huyện nọ sang Huyện kia, đến vài chục cây số. Hội Bài Chòi thường khai mạc sáng Mồng Một Tết và kéo dài đến Rằm tháng Giêng. Lối chơi này riêng biệt ở Trung Kỳ, rất thông dụng. Ở miền Bắc và miền Nam không có.

Đám thanh niên và học sinh vùi đầu vùi cổ trong các canh bài, đêm nào cũng thức thật khuya, có đêm thức tới sáng. Vì học trò có ít tiền nên mãn canh bạc, ăn thua chỉ trong vòng năm bảy tiền, hay một quan là nhiều.

Phải nhận xét vô tư và xác thực rằng tất cả những cuộc cờ bạc trên kia chỉ thịnh hành trong mấy ngày xuân thôi. Trừ ra một vài gia đình tiếp tục chơi đến hết tháng Giêng, còn hầu khắp các nơi hết Tết là hết cờ bạc. Các bộ bài được gói cất kỹ lưỡng trong tủ, và ai nấy lo làm ăn.

Học trò cũng thế. Hết nghỉ Tết, bắt đầu học trở lại, phần nhiều học sinh lo học, không đánh bài nữa. Dù có muốn chơi cũng không dám chơi, vì bài học và bài làm rất nhiều, đâu có thì giờ rảnh rang nữa.

Trừ một thiểu số lười biếng, phần nhiều là con nhà giàu, được cha mẹ cưng, còn hầu hết học sinh thời trước đều chăm chỉ học tập, sợ thầy phạt, và lo tranh đua với chúng bạn. Học không thuộc bài, bị thầy cho zéro trong sổ điểm, là một cái nhục lớn cho người học trò, đối với bạn bè trong lớp. Học trò thuở trước biết tự trọng, do đó mà biết cố gắng.

Xã hội Việt Nam từ 1910 đến 1950 không có hạng thanh niên lêu lỏng, truỵ lạc, quá nhiều như ngày nay. Chính ở hai đô thị xa hoa rộn rịp nhất là Saigon, Hà Nội, số thanh niên trác táng cũng không có bao nhiêu. Hoạ chăng chỉ là một thiểu số con nhà giàu, mà cha mẹ để cho ăn chơi tự do; bọn công tử, công tôn xài phí hoang đường, cậy quyền, ỷ thế, có những hành động ngang tàng mất dạy. Còn hầu hết thanh niên đều cố gắng học hành thi cử, để kiếm công ăn việc làm. Tùy theo khả năng của mình, tất cả đều được tiếp nhận trong các công sở, tư sở, nhà buôn, nhà máy, và các ngành hoạt động khác trong xứ. Luân lý gia đình chặt chẽ, kỷ luật học đường nghiêm khắc, chương trình học vấn điều hoà, có căn bản, và phong độ chung của xã hội Việt Nam được lành mạnh, tốt đẹp, để bảo đảm cho thanh thiếu niên Tiền-chiến một đời sống tinh thần và vật chất thăng bằng, không bê bối, không hỗn loạn.

Thanh niên 1920-1940, có lễ độ, không hỗn láo, không xấc-xược. Đối với thầy họ không lỗ mãng, đối với bạn không lơ là, với mọi người trong xã hội họ giữ được tư cách đứng đắn, gương mẫu của người học trò. Tuy học chữ Tây, nhiễm văn minh vật chất của Âu Tây nhưng họ vẫn điều hoà được cả hai tinh thần đông phương và tây phương. Nhờ đó họ đã xây dựng một thế hệ trung bình, phấn chấn, không rụt rè thoái bộ, mà cũng không hời-hợt, lăng nhăng.

Tuấn-em lớn lên giữa một xã hội mới đang phôi thai trong tiến bộ, hấp thụ một dưỡng khí học đường lành mạnh, tinh khiết và mát dịu. Tinh thần chủng tộc càng nẩy nở mạnh mẽ trong tâm khảm nó. Bao nhiêu những rực rỡ tân kỳ của văn minh Pháp quốc, như tầu bay, xe hơi, giây điện, giây thép, đồng hồ và trăm ngàn máy móc mới lạ, tuy khiến cho nó kính phục, nhưng không sao biến đổi được tính chất thuần túy của giống nòi đã khắn khít như keo sơn, như cội rễ, trong giòng máu Việt Nam của nó.

Những kẻ "phục Tây sát đất", và nịnh Tây theo Tây - tôn người Pháp là "quan Thầy", tôn nước Pháp là "mẫu quốc". Chỉ có một số rất ít thôi. Đó là những kẻ muốn tăng cường địa vị cá nhân, muốn khuếch trương quyền lợi riêng, muốn dựa thế người Pháp để xây dựng danh vọng, vinh hoa, phú quý cho họ và cho gia đình họ. Những kẻ ấy không ảnh hưởng chút nào đối với đại đa số thanh thiếu niên, nhất là thanh thiếu niên học sinh ở các trường Pháp-Việt.

Nhân vật điển hình của hạng nịnh Tây, năm 1920 ở tỉnh Q., thuộc về giới "thượng lưu trí thức" lại chính là ông đốc học Phạm văn Mỗ. Tốt nghiệp trường Cao Đẳng Sư Phạm Đông Dương ở Hà Nội, ông là người Nghệ An được bổ nhiệm vào tỉnh Q. thay thế cho ông đốc học Pháp đổi đi nơi khác. Ông là một trong số người Việt Nam đầu tiên tốt nghiệp trường Cao Đẳng Sư Phạm (trường này mới được chính phủ thuộc địa thành lập tại Hà Nội, năm 1914), và cũng là người Việt Nam đầu tiên được bổ nhiệm làm Đốc học tại trường Tiểu học Pháp Việt ở tỉnh (Ecole de Plein Exercice). Ông độ 30 tuổi, người thấp và nhỏ, luôn luôn nói tiếng Pháp, ít khi nói tiếng Việt.

Năm 1920, ở các tỉnh toàn xứ hãy còn ít người An-Nam mặc Âu phục. Các thầy Thông, thầy Phán làm việc các Toà, các sở, các thầy giáo, đều mặc áo dài đen dài, mang giầy Hạ, đội mũ, hoặc chít khăn đen. Ở tỉnh Q. Quan Đốc học Phạm văn Mỗ là người đầu tiên mặc âu phục và "quan" chỉ mặc đồ tây, không bao giờ mặc đồ An-nam cả.

Ấy thế mà một năm sau, một thầy giáo lớp Tư cũng bắt chước mặc âu phục như quan Đốc thì quan Đốc không bằng lòng và thù ghét tìm cách đuổi thầy đi khỏi trường. Nghe nói thầy đi vô Đồng Nai, Gia Định!

Chỉ tội nghiệp cho thầy giáo lớp Ba. Cũng như thầy lớp Tư, thầy này cũng bắt chước may một bộ đồ tây, sắp sửa mặc đi dạy học. Học trò đến nhà thầy, thầy lấy bộ áo tây mới may đem ra khoe, có vẻ hảnh diện và vui sướng lắm. Học trò cũng thích thầy mặc đồ tây cho oai. Nhưng thấy cái gương thầy lớp Tư như thế, thầy lớp Ba vội-vàng xếp bộ đồ tây cất vô tủ, không dám lấy ra mặc nữa. Đến đổi chủ nhật thầy đi dạo chơi ngoài phố, hoặc đến chơi nhà các thầy khác, thầy cũng không dám mặc đồ tây, sợ có ai mét lại với quan Đốc thì nguy!

Mỗi buổi chiều thứ Năm nghỉ học, Tuấn-em đến thăm thầy, thầy than thở với Tuấn:

- Ở tỉnh mình không có thợ may đồ tây, và cũng không có tiệm nào bán vải may đồ tây, sẵn có người bà con đi Đồng Nai buôn bán, thầy gởi tiền nhờ họ vô Đồng Nai mua vải và mướn thợ may cho thầy một bộ. Không dè ông Đốc không muốn cho thầy giáo mặc đồ tây, thành thử thầy phải bỏ. Thầy tiếc quá!

Tuấn hỏi:

- Thưa thầy, thầy thuê thợ Đồng Nai may hết bao nhiêu tiền?

- Thầy để dành nửa tháng tiền lương mới đủ mua hàng tissu và may được bộ đồ complet đó.
Tuấn-em nghe thầy nói, thương thầy lắm. Học trò cả lớp đều thương thầy không đứa nào dám chế nhạo về vụ đó. Đối với ông Đốc, các thầy giáo và học trò cả trường đều sợ.

Buổi học cuối niên khoá, trước kỳ nghỉ hè 3 tháng, từ đầu tháng 7 dương lịch, ông Đốc vào từng lớp căn dặn học trò. Dĩ nhiên ông nói tiếng Pháp. Học trò lớp Năm và lớp Tư không hiểu nổi, các thầy giáo dịch lại tiếng An-nam:

- Ngày mai 1 tháng 7, bắt đầu nghỉ Hè. Nhưng các trò ở xa không được về quê vội. Vì ngày 14 tháng 7 là ngày lễ Quốc-khánh của nước Đại Pháp, có quan Công Sứ chủ toạ, cuộc diễn binh long trọng. Tôi muốn toàn thể học trò trường tỉnh phải đến đông đủ dự buổi lễ ấy. Vậy sáng ngày mai, và liên tiếp trong 7 ngày, học trò lớp Nhất, lớp Nhì và lớp Ba, phải tới trường để tập hát bài quốc ca Pháp, là bài La Marseillaise. Phải tới đông đủ, học trò nào vắng mặt sẽ bị phạt consigne. Ngoài ra, tất cả học trò các lớp phải nói với cha mẹ mua vải xanh vải đỏ may cho mỗi trò một lá cờ Tam Tài, xanh-trắng- đỏ, lá cờ của Mẫu quốc, để ngày 14 Juillet cầm đi dự lễ. Sáng 14-7, đúng 6 giờ các trò và các thầy giáo phải tề tựu đông đủ tại sân trường, mặc áo dài trắng sạch sẽ, và mỗi trò cầm một cây cờ Tam Tài lớn bằng một tờ giấy tây, sắp hàng tề chỉnh, để các thầy giáo dẫn đi dự lễ Quốc-khánh và chào mừng quan Công Sứ. Trò nào khiếm diện hôm đó, sẽ bị đuổi luôn.

Ông Đốc học Phạm văn Mỗ truyền huấn lệnh rõ ràng, và nghiêm khắc như thế, rồi ra về.

Tuấn-em về nhà nói chuyện lại cho anh và cha mẹ nghe lời căn dặn của ông Đốc. Thím Ba, mẹ Tuấn, nói:

- Không lẽ may một lá cờ tam sắc nhỏ bằng tờ giấy tây mà phải đi mua ba thứ vải ba màu sao! Mẹ cắt một tấm vải trắng ra thành ba, mẹ mua phẩm xanh, phẩm đỏ về nhuộm hai miếng, rồi mẹ may lại, được không ?

- Thưa mẹ, không được đâu. Ông Đốc bảo phải mua vải xanh, vải đỏ.

Nhưng Phán Tuấn ngắt lời em:

- Ông Đốc bảo thế, kệ ổng. Mẹ cứ nhuộm vải trắng rồi may. Miễn có cờ ba sắc là được... Nhưng Ông Đốc này làm lố quá. Nghỉ hè, không cho học trò về quê thăm cha mẹ, bắt ở lại đến 14-7 để đi chào mừng ông Sứ là nghĩa lý gì ? Lễ Quốc-khánh của Tây, chớ của An-nam sao? Nếu muốn dẫn học trò đi chào ông Sứ, thì học trò ở tỉnh được hơn trăm đứa cũng đủ rồi, cần gì phải bắt học trò quê ở các Phủ huyện xa phải ở lại? Ông Sứ có bắt buộc như thế đâu?

Tuấn-em hỏi anh:

- Lễ 14-7 là lễ gì, anh Hai?

Phán Tuấn lấy sách Sử Ký Pháp ra giảng cho em hiểu:

- Đấy là một ngày lễ kỷ niệm cuộc Cách mạng Pháp. Dân chúng Pháp uất ức vì bị nhà Vua hà hiếp, thuế má nặng nề, nên họ nổi dậy phá tan ngục Bastille, và đòi bắt chém vua...

Tuấn kể dài nữa, thật dài và thật rõ ràng đầu đủ về cuộc Cách mạng nổi dậy ngày 14 tháng 7 năm 1789, ở Paris...

Tuấn-em nghe say mê lời anh thuật chuyện và sáng hôm sau cũng phải đến trường tập hát bài quốc Pháp, La Marseillaise, theo lịnh của ông Đốc.

Sáng ngày 14-7, Tuấn-em phải cầm lá cờ Tam tài đến trường đúng 6 giờ. Học trò và các thầy giáo đều đến đông đủ, đếm tất cả trường được 415 trò dưới sự chỉ dẫn của 10 thầy giáo. Học trò sắp hàng hai trước sân trường đúng 7 giờ, ông Đốc Phạm văn Mỗ đến. Ông mặc bộ đồ tây mới, toàn màu trắng, mang giày trắng, đội mũ trắng. Ông bảo học trò lớp Nhất, lớp Nhì, lớp Ba hát bài quốc ca Pháp cho ông nghe. Trò nào hát sai giọng, hoặc sai một chữ, bị ông đánh một tát tai nẩy lửa. Nét mặt giận dữ, ông la hét om sòm làm cho các thầy và toàn thể học sinh hoảng sợ. Đúng 7 giờ 30 phút, ông ngồi trên chiếc xe kéo nhà sơn đen, bánh cao su, do một người cu-li mặc quần áo mới kéo ra Sở Cò, trên đường Cửa Tây, là nơi hành lễ. Các thầy dẫn học trò sắp ngay hàng thẳng lối, mỗi trò cầm một cây cờ Tam tài, lặng lẽ đi sau xe ông Đốc. Học trò sắp hàng trên lề đường phố, đối diện khán đài.

Linh khố xanh (lính Tập) độ trăm người, mặc lễ phục oai vệ, cầm súng cắm lưỡi lê sáng quắc, đứng sắp hàng trên lề đường bên kia, hai bên khán đài. Dân chúng đứng xem đông nghẹt, chung quanh khán đài và trên các đường phố, chen lấn nhau chật ních, không còn một chỗ hở.

Sau khi ông Công Sứ và các quan khách đến đúng 8 giờ 30, và lính thổi kèn, bồng súng chào, ông Đốc học Phạm văn Mỗ bước ra trước mặt ông Sứ, đọc bài diễn văn bằng tiếng Pháp. Bài diễn văn rất dài, đại khái có một đoạn hùng hồn như sau đây:

“Oh France magnanime! Oh France Bienfaitrice de l'Humanité! Oh Mère Patrie! Combien, nous, les Annamites, vos fils adoptifs, vos fidèles protégés, nous sommes fiers ce jour glorieux qui porte la marque sublime de la grandeur francaise!...”.

Ông Đốc bảo một thầy giáo đọc bản dịch quốc ngữ cho mọi người nghe:

“Hỡi nước Đại Pháp khoan hồng đại lượng! Hỡi nước Đại Pháp ân nhân của nhân loại! Hỡi Mẫu quốc! Chúng tôi, người An-na-mít, là những đứa con nuôi của nước Pháp, những con trung thành được nước Pháp bảo hộ, chúng tôi hãnh diện xiết bao trong ngày hôm nay, ngày vinh quang của nước Pháp vĩ đại!...”

Các quan Tây-Nam vỗ tay như sấm dậy. Theo huấn lịnh của ông Đốc dặn trước, ông đọc xong bài diễn văn, lúc học trò phải phất cờ tam tài của Pháp và hát lên bài quốc ca La Marseillaise...

Ông Công Sứ cảm động quá, đứng dậy gắn một chiếc mề đay trên ngực ông Đốc học Phạm văn Mỗ, và ôm hôn ông...

Lễ Quốc-khánh của nước Pháp, ngày 14 tháng 7 dương lịch, được gọi là "lễ Chánh-chung". Không biết ông quan nào của Nam-triều, hay thầy Thông, thầy Phán nào của chính phủ Bảo hộ, đã đặt ra danh từ lạ lùng ấy mà không ai hiểu ý nghĩa đích xác là gì cả. Có nhiều ông Tú, ông Cử nhà Nho nói rằng đúng chữ là Chánh - Trung", nghĩa là ngày lễ đúng vào giữa năm. Ngoài ra, còn có một danh từ khác thông dụng hơn, là lễ "cách-tót-duy-dê", phiên âm theo tiếng Pháp.

Trừ ngày Tết Việt-Nam có tính cách nghi lễ gia đình nhiều hơn, người ta có thể nói rằng lễ "cách-tót-duy-dê" là một ngày đại hội toàn quốc tưng bừng náo nhiệt nhất trong năm, dưới thời đô hộ Pháp ở xứ ta.

Sáng sớm tinh sương Tuấn-em vừa thức dậy đã nghe tiếng kèn lính tập thổi một bài quân nhạc đặc biệt vang lừng khắp tỉnh. Ngoài đường phố đã thấy lính khố xanh rộn-rịp, mặc toàn quân phục trắng của những ngày đại lễ. Sau nghi lễ chính thức có ông Đốc học Phạm văn Mỗ đọc diễn văn suy tôn ông Công Sứ, và tâng bốc nước Đại Pháp, và sau một cuộc "diễn binh" có hai anh lính khố xanh thổi kèn đi đầu, Toà Sứ có tổ chức những cuộc vui công cộng mà dân chúng nô nức từ các làng kéo về tỉnh để xem.

Trước sân chợ, có một môn giải trí do Quan Tuần Phủ bày ra. Trên khán đài đông đủ mặt các quan Tây, quan An-nam, và các bà Đầm ngồi hàng ghế danh dự, một thiếu phụ Pháp cầm một cần câu treo một cái chảo dính đầy lọ nghẹ. Dưới đít chảo có dán một đồng bạc trắng. Quan Tuần giảng nghĩa trò chơi cho công chúng nghe:

-"Ai muốn lấy đồng bạc kia, thì phải lấy khăn cột hai tay sau lưng, đứng dưới cần câu, ngước mặt lên đít chảo và đưa miệng lên cắn lấy đồng bạc".

Nếu cần câu để yên một chỗ thì trò chơi không khó khăn gì, nhưng cô Đầm quái ác ngồi trên khán đài cố ý cầm cần câu nhử mồi như cầm cục xương đưa cao lên để nhử con chó vậy. Cô hạ cần câu xuống gần miệng người ham đồng bạc đang dùng mọi cử chỉ lanh lợi để đưa miệng lên táp vào đít chảo sắp sửa thành công, thì cô Đầm lại dựt cần câu lên, cái chảo cũng lắc lư ra xa. Người ham đồng bạc đã không cắn được đồng bạc mà mặt mủi lại bị dính đầy lọ nghẹ.

Các quan Tây, quan An-nam, và các bà Đầm, cô Đầm đều cười rũ rượi, khoái chí lắm. Khán giả "An Nam" cũng cười rùm lên. Người ham đồng bạc vẫn không thất vọng, cứ chườn cái mặt lọ lem kia ra, cố há miệng cho to táp vào đít chảo, mong táp trúng đồng bạc...
Tuấn-em đứng xem cũng tức cười như mọi người. Nhưng anh nó, thầy Phán Tuấn, sa sầm nét mặt, bảo nó:

- Em muốn xem nữa, cứ đứng đây xem, hay là xem các trò khác. Anh đi về.

Tuấn-em còn con nít, ham vui, đi coi khắp các trò chơi công cộng, như leo cột mỡ, bịt mắt bắt vịt, đua xe kéo, keó thùng nước đừng cho đổ ra ngoài v.v...

Phán Tuấn về nhà, nghĩ lại cuộc chơi của "người An-nam liếm đít chảo" trong ngày lễ Quốc Khánh Pháp, cho rằng đây là một trò chơi nhục nhã cho người Việt. Nhưng còn biết bao nhiêu cái nhục nhã nữa kể sao cho hết? Kể cho ai nghe? Mà ai dám nghe? Tuấn làm thông phán đầu toà, hàng ngày gần gũi với các ông Công Sứ Pháp và các quan Tây, các quan ta, các ông tổng, ông xã, đã mắt thấy tai nghe biết bao nhiêu những chuyện nhục nhã, đê tiện, khốn nạn, bỉ ổi, do chính hạng "An-nam nịnh Tây" nêu gương ra. Họ tưởng làm vui ông Tây, nhưng chính ông Tây chê cười, khinh bỉ.

Gặp những viên quan cai trị Pháp biết tôn trọng dân tộc Việt Nam, thì mình xấu hổ, vì họ vẫn theo thành kiến dân chủ và tinh thần bình đẳng. Nhưng một số đông người Pháp đã có kỳ thị chủng tộc, nhiễm thói tự cao tự đại với dân thuộc điạ, lại gặp những "người an nam mít" tâng bốc họ một cách đê tiện, vô liêm sĩ thì họ càng lên mặt vênh-váo, khinh khi cả giống người Việt và chà đạp lên dân ta như loài trùn dế vậy thôi.

Cuộc vui liếm đít chảo để lấy một đồng bạc, tự nó có thể được coi như một trò chơi bình dân, thật ra không đến nỗi xúc phạm đến quốc thể của một nước, nhưng chính vì do các "quan Đại Pháp” chủ trương, do các "quan An nam" bày đặt, và cả một công chúng "An Nam" đông đảo đứng xem và vỗ tay cười trước mặt Tây và Đầm, cho nên Tuấn thấy thương tổn đến phẩm giá của người Việt, và chạm đến lòng tự ái dân tộc của chàng.

Mặc dầu Trần Anh Tuấn đương là một kẻ giúp việc cho Tây, ăn lương của "Nhà Nước Bảo Hộ" nhưng Tuấn đã được thấm nhuần tư tưởng ái quốc của vua Duy-Tân, vua Thành-Thái, lúc Tuấn còn là học sinh trường Quốc Học Huế. Cho nên một cuộc chơi liếm đít chảo bày ra mà đa số đồng bào chỉ biết hùa nhau vỗ tay cười, Tuấn lại cho là nhục nhã. Tuấn bùi-ngùi đau xót, tức giận, mà âm thầm không dám nói với ai.

Năm 1923, ở tỉnh có một đám rước "thầy Tú vinh qui" thật là vui. Người ta nô nức đi xem đông vô số kể. Đối với đám rước của Lê văn Thanh hồi chàng mới thi đỗ bằng tiểu học "ri-me" ở tỉnh thì đám rước này còn linh đình hơn nhiều.

Thầy Tú tân khoa là con một ông bá hộ có theo đạo Thiên Chúa. Cậu cũng học trường Quốc Học Huế, thi đậu bằng Thành Chung, lúc bấy giờ có một số người gọi là "Tân khoa Tú Tài". Cũng như Trần anh Tuấn vậy. Kể ra năm 1923, lớp học sinh thi đỗ bằng Thành Chung ở Huế, Vinh, cũng như ở Hà Nội, Nam Định, Saigòn, Cần Thơ v.v... đã nhiều rồi, không phải hiếm hoi như ba, bốn năm về trước, nhưng ở tỉnh Q., toàn tỉnh chỉ có chừng năm người. Hầu hết chỉ học đến lớp đệ nhị niên, đệ tam niên (2è Année, 3è Année Primarie Supérieur) đã thi ra làm thầy Thông ở các công sở như Thương chánh, Kho bạc, Bưu điện, Kiểm lâm, hoặc làm trợ giáo.

Một số ít con nhà khá giả mới học thi bằng Thành Chung (cũng gọi tắt là thi Diplôme).

Lúc mới mở các học đường thì chính người Pháp bày ra việc rước các cậu tuyển sanh và tú tài tân khoa, sau đó vài ba năm họ bỏ lệ ấy. Nhưng ông Bá hộ muốn khoe khoang, nên tự ý tổ chức riêng việc rước con trai của ông mới thi đỗ ở Huế. Cậu Tú mặc áo gấm, mang giầy hạ, đội mũ trắng, ngồi trong chiếc cáng. Có phường nhạc bát-âm và cờ xí loè-loẹt, chuông trống vang lừng. Đám rước phải đi gần mười cây số và đi thật chậm, để cho dân chúng các làng, các tổng ở khắp nơi kéo nhau đi coi mặt "thầy Tú vinh qui".

Về nhà, ông bá hộ tổ chức một buổi tạ ơn Chúa và tạ ơn Đức Mẹ tại nhà thờ Đạo trong tổng. Các cha sở và gần trăm bà con họ Đạo tham gia. Xong rồi ông giết ba con bò và năm con heo khao đãi dân làng và quan khách liên tiếp ba ngày đêm.

Tiếng đồn gần đồn xa, đến đỗi bọn ăn mày ở khắp tỉnh có đến năm, sáu chục người, già trẻ, lớn bé, đàn ông đàn bà xách bị, chống gậy, bưng nồi, bưng thúng, tổ chức thành một đoàn kéo đến ngồi chật cả sân ông bá hộ để xin một bửa ăn khao mừng thấy Tú tân khoa.

Còn những bà con của thầy Tú, họ nội, họ ngoại, xa lắc xa lơ từ mấy đời cũng lần lượt về mừng "cậu Tú nó", "anh Tú nó"... Kẻ vuốt ve, người ngắm nghía, trầm trồ khen ngợi không hết lời. Thi đỗ bằng Trung học về làng, chàng thanh niên 1923 vẫn còn được trọng vọng như một vị anh hùng của xóm làng, huyện, tổng.

Quan Tuần, quan Phủ, có con gái lớn 15, 16 tuổi, cũng lăm le muốn gã con cho thầy Tú tân khoa. Thôi thì mai mối tấp nập. Nhiều cô gái trong tỉnh hồi hộp ước muốn làm cô Tú.

Tết năm ấy, làng sở tại có tổ chức một cuộc chơi Bài Chòi, sáng Mồng Một thầy Tú đước mời đến ngồi ghế tràng kỷ với các vị bô lão.

Tuấn-em đi xem về, thèm thuồng, hỏi anh nó:

- Anh Hai, anh cũng đỗ thành chung trước người ta sao anh không làm lễ rước tân khoa?

Phán Tuấn mỉm cười :

- Ở đời, có người thích thế này, có người thích thế khác. Chừng nào em học giỏi, thi đỗ, em có muốn được đón rước như thế không?

- Không, em bắt chước anh Hai. Anh Hai làm sao, em làm theo vậy.


Chương 22

1923
- Hội "Như Tây du học" của các quan
- Thanh niên Nam-Trung-Bắc du học ngoại quốc từ năm 1900 đến 1930
- Con gái Quan Thượng Thư đi du học ở Paris về, lấy tên Tây, ghê tởm nước mắm, và không biết cầm đũa ăn cơm.
- Con vua bằng đồng, mừng lễ Tứ-tuần Vua Khải Định "Đại Nam Hoàng Đế"
- 20 thanh niên khiêng con voi ra Huế
- Cả tỉnh chỉ có 4 cô nữ sinh lớp Nhất, học chung với con trai.
- Cô học trò 16 tuổi, xưng "con" với Thầy giáo 20 tuổi.
- Phụ nữ đứng đắn ở Bắc chỉ mặc quần đen để phân biệt với bọn gái điếm quần trắng
- Y phục phụ nữ Bắc - Trung - Nam.

Các quan Thượng Thư của triều đình Huế nhận thấy rằng các trường Sơ học, Tiểu học và Cao đẳng tiểu học (#1) ở khắp ba kỳ, và ngay đến cả trường Cao đẳng Đông Dương ở Hà Nội, chỉ đào tạo các thanh niên trí thức vừa đủ khả năng làm việc cho nha hành chánh thuộc địa trong xứ, chứ không thể học lên cao được nữa, bèn lập ra một hội tên là "Như Tây Du Học Hội" để tuyển lựa một số thanh niên học sinh, cấp học bổng cho đi du học bên Tây. Cũng như ngày nay chính phủ cấp học bổng cho một số học sinh du học hải ngoại vậy.

Dưới thời thực dân phong kiến, những thanh niên được may mắn xuất ngoại đều là con cháu của các cụ Thượng Thư các Bộ, hoặc trong gia đình bên nội hay bên ngoại. Hoặc là con của các Quan Tổng Đốc, Tuần Phủ, có thần thế "có chưn trong chưn ngoài", nhờ các cụ Thượng-thơ và các quan Tây gửi gấm, hoạ may mới được đi Tây học. Các "ông lớn" đã giàu có, phần nhiều con cháu của các ông lại học kém thua con nhà bình dân, trung lưu, nhưng họ vẫn được cấp học bổng đầy đủ, có khi dư dã, để sang Pháp học.

Họ học về văn minh tiến bộ thì ít mà học cách ăn chơi xa xí thì nhiều. Ấy là nguyên nhân cho ta hiểu vì sao cùng một lúc thanh niên Nhật và Ấn Độ du học bên Âu-Tây mà khi thành tài sau mấy năm chuyên cần học hỏi, họ đem về tất cả những khả năng kỹ thuật mới lạ, những bí quyết văn minh khoa học để mở mang kinh tế, kỷ thuật của xứ sở họ, không kém thua các nước Tây phương bao nhiêu. Còn du học sinh An-Nam đi Tây năm sáu năm trời, chỉ đem về một mớ kiến thức đủ làm công cho người Pháp ở thuộc địa mà thôi.

Người ta có thể đếm trên đốt ngón tay số thanh niên An-Nam đi du học bên Pháp "thành tài" trở về quê hương trong thời gian từ 1900 đến 1930, cả ba kỳ, Nam,Trung, Bắc. Vài ba ông kỹ sư Cầu Cống, kỹ sư Canh Nông, theo dân Tây, lấy vợ Đầm, hoặc chủ trương một đường lối chính trị úp mở, vì quyền lợi cá nhân hơn là quyền lợi Tổ Quốc, Dân Tộc. Một số Bác sĩ Y-khoa, năm bảy ông Tiến sĩ Luật-khoa, vài ba ông Cử nhân, Tiến sĩ văn chương.

Người ta không thấy những ông ấy làm được một việc gì ích quốc lợi dân cả. Họ không để lại được một thành tích gì vẻ vang cho xứ sở. Trừ ra một nhóm vài ba sinh viên ở Nam kỳ đi Tây về hoạt động Cách Mạng, gây ra phong trào sôi nổi, chứng tỏ tinh thần quật khởi của Dân Tộc, còn thì bao nhiêu sinh viên khác chỉ lo Vinh Thân Phì Gia, chẳng góp được một phần xây dựng nào cho xã hội đang vươn lên với văn minh thế giới. Hầu hết thế hệ thanh niên "Như Tây Du Học" của thời Pháp-thuộc, chẳng đem về cho Đất Nước một tiến bộ nào xứng đáng.

Trái lại, người ta đã thấy biết bao nhiêu những điều lố lăng nhục nhã cho đám thanh niên du học ở Pháp về nước, phần nhiều là VONG BỔN.

Một buổi sáng thứ Hai, niên khoá 1924-25, Tuấn-em ngồi học trong lớp Nhất, giờ luận Pháp văn, do chính ông Đốc học Phạm văn Mỗ dạy. Bỗng anh cai trường đứng ngoài cửa lớp, lễ phép nói với ông Đốc:

- Dạ bẩm quan, có cậu Ấm con trai cụ Tuần-vũ, đi Tây về, đến thăm quan.

Ông Đốc học ỷ mình là cựu sinh viên trường Cao đẳng Đông Dương Hà Nội, và hiện làm quan Đốc học tại tỉnh, một bậc thượng lưu trí thức nào có kém ai, nên ông tỏ vẻ ganh ghét cậu Ấm, con quan Tuần-vũ, học bên Tây về đã chắc gì hơn ông. Nhưng không lẽ không tiếp, ông bảo người cai trường:

- Cho người ta vào.

Trò Tuấn thấy một chàng thanh niên mặc đồ Tây, tóc chải láng mướt, mang giầy tây đen bóng, không kém gì ông Đốc đeo nơ đen dính vào cổ áo sơ mi dài kín cổ, còn cậu Ấm đi Tây về lại mặc áo sơ mi hở cổ và đeo chiếc cà-vạt (cravate) nơi giữa ngực.

Ông Đốc chào bằng tiếng Tây:

- Bonjour!

Cậu Ấm mỉm cười vồn vã chào lại cũng bằng tiếng Tây:

- Bonjour, Monsieur le Directeur... Je suis enchanté de faire votre connaissance... (Tôi hân hạnh được làm quen với ông)

Ông Đốc gật đầu vài cái:

- Moi aussi (tôi cũng thế). Qu'est ce-que vous avez fait en France? (anh đã làm gì ở bên Pháp?)

Hình như câu hỏi này làm chột dạ cậu Ấm con quan Tuần, nhưng cậu cũng loè lại ông Đốc:

- J'ai été dans une Ecole Supérieure à Paris. (Tôi đã học trong một trường Cao đẳng ở Ba-Lê)

- Oui, mais... qu'avez-vous comme diplôme? (Ừ, nhưng mà... anh đã đỗ bằng cấp gì?)

- Je suis ingénieur de canne à sucre. (Tôi là kỹ sư mía ).

Ông Đốc cười ngạo nghễ. "Kỹ sư Mía" là kỹ sư quái gì? Làm gì có trường Cao Đẳng Kỹ Sư Mía ở Paris?

Thế rồi ông Đốc cắt ngang câu chuyện:

- Bon, je vous remercie de votre visite. Je n'ai pas le temps de vous recevoir plus longuement, je regrette. (Thôi, được rồi, tôi cám ơn cậu đến thăm tôi. Tôi không có thì giờ tiếp chuyện lâu, tôi rất tiếc).

Hai người gật đầu chào nhau, rồi cậu Ấm Kỹ sư Mía cầm ba-toong đi ra. Cậu vừa ra đến sân, thì ông Đốc nói với học trò:

- Cái thằng ấy đeo cravate theo kiểu lãng mạn Pháp hồi thế kỷ mười chín. Nó nói nó đỗ kỹ sư Mía là nó nói láo. Tao nghe quan Công Sứ nói rằng cha nó là quan Tuần-vũ đang xin xỏ với Triều đình An-nam cho nó làm Tri-huyện.

Tuấn về nhà học lại với anh nó câu chuyện cậu Ấm con quan Tuần đến lớp học thăm quan Đốc. Phán Tuấn cười bảo:

- Anh chàng ấy có đến thăm ông Sứ, và nhờ ông Sứ tiến cử cho một chổ làm. Ông Tuần cũng có "vận động" với ông Sứ và ông Phó Sứ nhưng ông Sứ bảo anh rằng cậu ta không đỗ bằng cấp gì cả, chỉ biết nhảy đầm là giỏi. Có lẽ ông Sứ sẽ viết thư ra toà Khâm, đề cử cậu Ấm làm sở Mật-thám ở Huế.

Cũng năm ấy, trò Tuấn nghe người ta đồn có cô con gái lớn của một quan Thượng-thơ ở Huế, nhưng quê quán tỉnh nhà, đi du học bên Tây cũng vừa về. Ở Pháp, cô đã nhập tịch dân Tây, 22 tuổi chưa có chồng, và lấy tên tây là Anna.

Vì ở cùng làng, nên trò Tuấn tò mò muốn đến xem mặt. Trưa, tối, hoặc chủ nhật và thứ năm, nghỉ học, Tuấn thường chạy tới dinh cụ Thượng-thư xen lẫn với đám con nít kéo vào nhà bếp cụ Thượng để xem mặt cô Anna. Tuấn thấy sao, về học lại hết cho cha mẹ và anh Hai của nó nghe.

Nó bảo:

- Cô Tỳ-Ty (tên hồi còn ở nhà) mới qua Tây có ba năm mà bây giờ về nhà, cô ăn cơm không được. Mẹ ơi, bà cụ phải mua bánh tây cho cô ăn. Cô cầm đũa theo kiểu An-nam mình cũng không được nữa, anh Hai à!

Thím Ba vừa nhai trầu, vừa cười, hỏi:

- Con thấy cổ ăn bằng gì?

- Cô cầm cái gì mà Tây gọi là cái fourchette đó, với con dao tây. Cổ cắt bánh tây theo kiểu tây mẹ à!

- Bánh tây là bánh gì? Nó ra sao?

- Là bánh mì đó. Tây gọi là pain.

- À, "panh" là bánh đó hả ? Cổ cắt bánh theo kiểu tây là cắt cách sao?

- Cổ cầm con dao cắt ngược từ ngoài cắt vô, từ dưới cắt lên, chứ không phải như An-nam mình từ trong cắt ra, từ trên cắt xuống dưới.

- Cổ ăn bánh tây với gì?

- Bà vú Hai dọn cơm có chén nước mắm, cổ la om sòm, cổ bịt mũi, nói cái này thúi, cổ không chịu được, cổ hất chén nước mắm ra ngoài sân. Cổ ăn toàn đồ tây, mua tận ngoài Huế, đem về mẹ ơi!

Ông Ba (tức là chú Ba thợ mộc) hồi Phán Tuấn còn đi học, hỏi Phán Tuấn:

- Cô Hai đi Tây học đỗ tiến sĩ chưa con?

- Con có xem hồ sơ của cổ ở toà Sứ, cổ thi đậu Brevet Supérieur. Bằng cấp ấy ở bên ta không có. Đỗ bằng ầy sẽ được làm giáo sư dạy trường Quốc Học Huế.

- Nếu con đi tây, thì con cũng đỗ bằng ấy chứ gì?

- Dạ, nhưng nhà mình nghèo, mình chịu thấp kém hơn họ. Nhờ cổ là con quan thượng thơ, nên cổ là người con gái đầu tiên được nhà nước cho học bổng du học bên Pháp, đỗ bằng Brevet Supérieur, và làm giáo sư dạy collège. Nhưng bây giờ cổ là dân tây, chớ không phải An-nam nữa, cho nên cổ theo nếp sống của người Tây.

Nghe người ta đồn cô Anna, con gái quan Thượng thư đi du học ở bên Pháp có 3 năm mà về nước đã quên hết "tiếng An-nam", Phán Tuấn không tin. Nhưng hàng ngày, Phán Tuấn được bà con trong tỉnh nói lại - những người đã được nghe rõ ràng cô Hai "nói tiếng Tây như Đầm" và quên hết "tiếng An-nam" - Tuấn định chờ một cơ hội gặp cô Anna để xem lời đồn đãi của thiên hạ đúng thật hay không?

Một buổi sáng thứ hai, Tuấn đang ngồi làm việc nơi bàn giấy toà Sứ, thì cô Anna bước vào. Tuấn lễ phép đứng dậy:

- Chào cô, cô đến có chuyện chi?

Cô Đầm An-nam trố mắt ngó Tuấn, hỏi lại bằng tiếng tây:

- Qu'est ce-que vous dites? (Anh nói cái gì?)

Tuấn điềm nhiên hỏi:

- Thưa cô, cô muốn gặp ai?

- Voulez-vous parler Francais? Je ne comprend pas l'Annamite. (Anh hãy nói tiếng Tây cho tôi nghe. Tôi không hiểu tiếng An Nam).

Tuấn cười:

- Ah! Pardon! Vous êtes Francaise? (À!..xin lỗi cô, cô là người Pháp?)

- Oui, je veux voir monsieur le Resident. (Phải, và tôi muốn gặp Quan Sứ).

Một giờ sau, cô Anna ra về, ông Sứ gọi Phán Tuấn vào văn phòng của ông, và khen cô Anna nói tiếng Pháp y như giọng một cô Đầm ở Paris ông thuật lại cho Tuấn nghe lời cô Anna vừa mét với ông rằng lúc nãy cô mới đến nghe Tuấn nói "tiếng An-nam", cô không hiểu gì cả...

Rồi ông Sứ hỏi Tuấn:

- Quả thật cô Anna quên hết tiếng An Nam rồi sao?

- Dạ, chính cô ấy cũng vừa nói với tôi như thế.

Ông Sứ ngồi trầm ngâm một lát, rồi nhún vai, nhìn Tuấn:

- Tôi không hiểu cô gái Annam sinh trưởng ở đất Annam từ nhỏ cho đến 19 tuổi, sang Pháp chỉ ở có ba năm, lúc trở về không nói được tiếng mẹ đẻ của nó nữa, chuyện ấy làm cho tôi ngạc nhiên lắm. Anh có hiểu ra làm sao không?

- Dạ không.

- Có hai lẽ, một là tiếng an-na-mít là một thứ tiếng rất tồi, hai là cô Anna là một người An-na-mít rất tồi.

Để kết luận, ông Sứ cười hỏi Tuấn:

- Còn anh Tuấn, khi anh nói tiếng Pháp với tôi, anh có quên tiếng an-na-mít không?

Tuấn mỉm cười, xấu hổ, không trả lời.

Năm 1923, các quan Annam ở tỉnh Q. điều khiển một con voi bằng đồng, để gửi ra Huế dâng lên vua Khải- Định trong dịp Tứ-tuần của ông vua này.

Nơi đúc là khu vườn hoang của Kho tỉnh, ngay trước trường học, phía bên kia đường cái, sau một bức tường dài vuông vức bao bọc chung quanh Kho.

Tuấn-em, cũng như số đông học trò, mê xem công việc này lắm. Buổi sáng, buổi chiều, Tuấn-em thường đến thật sớm trước giờ học, và trong các giờ chơi, Tuấn rủ một bọn học trò cùng lớp, chạy qua Kho để xem đúc tượng voi.

Không biết các đồ đồng lấy ở đâu mà nhiều thế! Nồi đồng, mâm đồng, chảo đồng, lư đồng, bỏ vào bốn năm cái chảo lớn, nấu thường xuyên trên một đống củi cháy hừng-hưc, suốt mười ngày đêm, cho đến khi đồng chảy ra để đỗ vào khuôn. Khuôn voi bằng đất sét, do một ngươi thợ hồ Việt Nam xây lên, giống hình con voi, nhưng không đẹp tí nào cả: chân cẳng, thân hình, đầu và đuôi, đều thẳng cứng, cái vòi cũng chỉa ra ngay đơ, hai tai thì nhỏ, cái bụng thì bự. Tuấn-em tò mò hỏi mấy người thợ đúc, mới biết rằng các đồ đồng dùng nấu để đúc tượng voi là do các làng xã thâu nhặt của dân chúng, theo lịnh quan tỉnh và các quan phủ, huyện. Sự thực thì các quan thâu góp của dân nhiều đồ đồng lắm, nhiều gấp ba, gấp bốn số đồng để đúc tượng voi, nhưng các quan lớn lấy bớt một phần, các quan nhỏ lấy một phần. Còn lại bao nhiêu đút trong kho để đúc tượng, có lính lệ canh giữ. Một đêm tối trời, một chị đàn bà ăn ở gần đây lẻn lấy trộm được một chiếc nồi đồng bị bắt quả tang. Lính dẫn chị qua dinh Quan Án, quan truyền lịnh đánh chị mười roi, rồi đem giam bên nhà Lao.

Tượng voi đúc một tháng mới xong, và phải đúc đi đúc lại ba lần, vì hai lần bị hỏng. Lần thứ nhất con voi không có vòi, vì đồng chảy không đều. Lần thứ hai có vòi, hai ngà, bốn chân, có cả đuôi lớn bằng chiếc đủa, nhưng trên đầu con voi bị sứt một cái tai, nên quan Tuần truyền lịnh đúc lại. Lần thứ ba này, các người thợ phải nấu một nồi xôi, mua một nãi chuối, một bình rượu và đèn hương, cùng cái miểu thờ Thổ thần nơi góc vườn Kho.

Tuấn-em có tính tò mò,cái gì cũng muốn coi, chuyện gì cũng muốn biết, cho nên nó chạy theo ông thợ Cả cúng thần. Nó lễ phép vòng tay đứng dựa vào cột miếu, nghe ông thợ cả khấn vái như sau đây:

- Con được lệnh của quan Tuần-vũ khuya nay phải đúc cho xong tượng voi đồng để kịp ngày đưa ra Huế dâng lên Đức Đại Nam Hoàng Đế, để mừng lễ khánh thọ Tứ-tuần của Hoàng đế. Vậy con lại xin Thổ-địa linh thần gia hộ cho con đúc tượng voi được hoàn thành, viên mãn, kẻo có tội với Đại Nam Hoàng đế .

Cúng lạy xong, ông thợ lấy hai đồng tiền kẽm, một mặt tiền bôi vôi, một mặt không, khẻ thả rõi hai đồng tiền xuống mặt đia sành để gieo quẻ, xem Thổ-thần có ưng thuận và chứng minh cho không? Nếu tiền rơi xuống đĩa một đồng ngửa (có bôi vôi) và một đồng xấp (không có vôi) tức là Thần bằng lòng. Nếu trái lại cả hai đồng tiền đều ngửa hết hoặc sấp hết, tức là Thần nhất định phá phách việc đúc tượng voi đồng dâng lên vua Khải-định.

Chẳng may, khi ông thợ cả gieo quẻ thì cả hai đồng tiền đều nằm sấp. Gieo lại lần thứ hai, hai đồng tiền đều ngửa. Gieo lần thứ ba, hai đồng tiền nhảy tung ra ngoài đĩa, rớt xuống đất. Ông thợ cả rầu rĩ muốn khóc lên được. Theo lệ gieo quẻ, quá lắm là ba lần, được hay không cũng thôi, chứ không ai gieo lần thứ tư. Ông thợ Cả nhất định xin quẻ lần thứ tư và lạy lục Thổ thần thiếu điều gãy xương sống. Lạy xong, ông cầm cây đèn nến, cúi xuống soi kiếm hai đồng tiền, nhưng chúng văng vào khe tường nào, hay nấp trốn trong bụi cỏ, lùm cây nào, ông và bốn ngườì thợ đúc lụi cụi tìm mãi không ra. Các ông thợ đành bưng xôi, chuối và cầm bình rượu đi.

Ông thợ Cả lẩm bẩm nói với bốn anh thợ phụ của ông:

- Cái ông Thần Thổ-địa này cứng đầu cứng cổ thật. Tượng voi đúc để dâng lên vua, mà ổng cứ theo phá phách mãi, đó là phạm tội khi quân, chứ không phải giỡn à!

Rốt cuộc cái tượng voi cũng đúc xong nội trong đêm ấy. Con voi không đẹp, nhưng cũng may không bị sứt vòi, sứt tai chi cả, xem cũng ra vẻ con voi!

Rồi các bạn có biết, con voi đồng ấy phải chở đi bằng cách nào không từ tỉnh ra Huế? Quan An-nam truyền lệnh thợ mộc đóng một cái cũi to tướng bằng gỗ, kín mít chung quanh, để đựng con voi. Rồi các làng sở tại phải bắt 40 thanh niên, họp thành hai đoàn, mỗi đoàn 20 thanh niên thay phiên nhau mà khiêng món quà kết -xù ấy đi bộ ra đến Huế!

Hôm lễ Tứ-tuần cuả Khải Định, ông vua chê cái tượng voi xấu-ỉnh. Xấu là tại nó bằng đồng. Giả sử nó bằng vàng thì dù cho nó sứt đuôi mẻ vòi, chắc "Đức Đại Nam Hoàng đế" cũng khoái chí tử!

Tuy vậy, các quan An-nam chủ tỉnh cũng được vua ban cho một số tiền để thưởng cho mấy "thằng thợ đúc".

Nhưng mấy "thằng thợ đúc" có được hưởng đồng tiền của vua hay không, Tuấn-em không biết. Còn 40 cậu thanh niên lực lưỡng khiêng con voi đồng từ tỉnh ra đến kinh đô để mừng vua hưởng thọ 40 tuổi, thì phải đem tiền nhà theo để xài. Hết tiền, bốn cậu ở lại đất thần kinh làm nghề cu-li xe kéo cho các quan, còn 36 cậu đưọc đi xe lửa về đến Tou-Ranh (Đà Nẵng), rồi từ Tou-ranh đi bộ về tỉnh, trên trăm cây số.

Niên khóa 1923-1924, Tuấn-em đã học lớp Nhất. Trường nữ học chỉ có đến lớp Nhì, và ở cách biệt trường Nam . Cả tỉnh, lần đầu tiên mới có 4 cô nữ sinh học lớp Nhất, cho nên phải học chung với tụi con trai ở trường Nam. Bốn cô cùng dãy ghế đầu trong lớp, ngay nơi cửa vào: cô Dư, cô Ánh-Tuyết, cô Yến-Tuyết, cô Tỷ. Tuấn-em ngồi dãy ghế thứ hai, sau lưng cô Nguyễn thị Dư. Cùng một dãy ghế với Tuấn, có Hường, Ái, Tế. Tế là con một quan Phủ nên có vẻ làm nghiêm, còn Hường, Aí, Tuấn, thì chính ba cậu không ngồi dẫy ghế này, vì họ thích ngồi ở phía sau, ở cuối lớp, để thỉnh thoảng lén thầy, ăn kẹo hay lánh mặt trong những hôm không thuộc bài. Nhưng tại vì hôm nhập học trong lớp Nhất có 40 trò con trai, trò nào cũng mắc cở không chịu ngồi gần các cô con gái, thành ra dãy sau lưng 4 cô gái bị bỏ trống.

Thấy thế, thầy giáo bèn lôi cổ ba thằng tinh-nghịch nhất chui trốn ở cuối lớp, đem chúng nó lên ngồi dãy ghế thứ hai, sau lưng mấy cô. Tuấn-em, Hường, Aí ngoan ngoãn tuân lịnh thầy, nhưng trò nào cũng mắc cỡ, đỏ mặt tía tai.

Tuổi trung bình của học trò lớp Nhất năm ấy là 14 đến 15 tuổi ta. Đấy là đứa học sinh lớn nhất trong tỉnh. Thế hệ mới, có nhiều triển vọng nhất. Về việc học, có thể nói rằng tất cả đều chăm chỉ, và học trò cũng học thuộc bài, và cố gắng làm bài để khỏi bị thầy cho 'zéro'.

Đối với toàn thể học sinh, sự lười biếng, không thuộc bài bị thầy phạt là một cái nhục lớn . Nói đúng ra, bạn bè không ai chê cười mình nếu thầy gọi lên bảng đen, mình trả bài không xuôi, bị ăn trứng gà, nhưng mình tự xấu hổ với lương tâm của mình vì cả lớp đều học thuộc bài.

Về hạnh kiểm, thí dụ có tiếng là tinh nghịch nhất như Tuấn-em, Hường, Ái, cũng chỉ là tinh nghịch đùa dỡn với bạn bè mà thôi, chứ đối với thầy giáo, cả với thầy giáo lớp khác, học trò không bao giờ dám vô lễ, hỗn láo, xấc xược. Có thể nói rằng, học sinh của thế hệ 1920-1940 còn giữ được nề nếp nho phong của học trò chữ Hán, theo đúng phương châm "Tiên Học Lễ nhi Hậu Học Văn".

Có điểm đáng chú trọng, là học sinh lớp Nhất vẫn chưa biết gì về chuyện "yêu đương" như một số thanh niên ngày nay. Trái lại, hầu hết hình như là "sợ" con gái, và học trò trai ở lớp Nhất vẫn goị 4 cô nữ sinh cùng lớp bằng "chị" mặc dầu cùng lứa tuổi.

Gần Tết bỗng dưng có một thầy giáo mới đổi tới dạy riêng về Pháp-văn cho lớp Nhất. Thầy này người Huế, vừa mới đỗ "diplôme", còn trẻ măng, tuổi chừng 18, 19. Thầy đẹp trai, thường mặc áo xuyến đen, quần thật trắng, và ủi thật phẳng nếp, có vẻ bảnh bao lắm. Thầy hiền lành nhưng Tuấn-em để ý thầy không bao giờ dám ngó bốn cô nữ sinh, và thầy không khi nào gọi bốn cô nữ sinh lên bảng trả bài. Mỗi lần thầy vào lớp, mặt thầy tự nhiên đỏ bừng. Thầy bẽn-lẽn ra chiều bối rối. Để giữ uy quyền của nhà mô phạm, thầy làm nghiêm với học trò con trai, không bao giờ thầy cười hay nói đùa một câu với học trò . Ấy thế mà 4 cô nữ sinh lại sợ thầy như sợ cọp ! Một lần, trong kỳ thi lục cá nguyệt, buộc lòng thầy gọi các cô lên bảng để thi bài khẩu vấn. Cô Dư bối rối không trả lời được.

Thầy nghiêm trang hỏi:

- Cô không học bài ?

Cô vừa run vừa đáp:

- Dạ thưa thầy, con có học, nhưng tự nhiên con quên.

Học trò trai bụm miệng, không dám cười to, học trò gái cúi đầu lấy quyển vở che mặt. Thầy giáo không hề nhếch môi. Thầy nói tiếng Pháp đuổi cô Dư về chỗ vì cô không thuộc bài văn phạm:

- Allez-vous-en! Vous ne savez pas votre leçon de grammaire. (Không thuộc bài. Về chỗ)

Rồi thầy tặng cô con zéro tròn vo trong sổ điểm.

Lúc ra về, Tuấn-em theo sau cô Dư, nghe cô thút-thít.

Mặc dầu có nghiêng chiếc nón bài thơ để che mặt. Tuấn cũng thấy cô thỉnh thoảng lấy tà áo dài trắng đưa lên lau mấy giòng nước mắt lặng lẽ tuôn trên đôi má hồng đào...

Các cô đều 16 tuổi, nhưng xác đã lớn, và vẫn xưng "con" với thầy giáo 18,19 tuổi, vì kính trọng thầy. Nói cho công bằng, không phải riêng thầy giáo trẻ này là làm nghiêm với các cô học trò lớp Nhất, mà tất cả các thầy giáo đều nghiêm. Tất cả bốn cô sợ thầy, chính vì thầy là Thầy Giáo.

Có điều nên nói để khen tặng các cô nữ sinh thuở ấy: "tuy là sợ thầy nhưng các cô vẫn kính mến thầy, chớ không phải thù ghét". Trước khi nghỉ hè, thầy giáo trai trẻ được lệnh đổi đi tỉnh khác, học trò lớp Nhất kéo nhau đến nhà thăm thầy để chào tiễn biệt. Bốn cô cùng đến với đám học trò trai. Thầy tiếp niềm nở, hôm ấy thầy rất dễ thương - và khi thầy nói mấy lời từ giã, bốn cô đều cảm động, rưng rưng hai ngấn lệ. Chính cô Dư đại diện cho ba cô bạn, thưa với thầy:

- Thưa thầy, chúng con xin kính chúc thầy lên đường bình an mạnh giỏi...

Thầy khẽ cúi đầu đáp lễ. Hôm ấy, lần đầu tiên Tuấn-em cảm thấy quý mến bốn cô bạn gái cùng lớp. Tuấn hối hận vì suốt cả năm Tuấn chuyên môn phá phách các cô. Nào là trong giờ chơi, Tuấn ra sân trường tìm bắt những con cóc, con nhái, con trùn, để lẻn vào lớp bỏ trong cạt-táp các cô. Nào là bỏ cục phấn trong bình mực tím của cô Dư hay cô Ánh Tuyết.

Ba đứa học trò nghịch nhất trong lớp, lại là ba đứa vào hạng học khá nhất, Hường vẫn đứng đầu, hoặc đứng thứ hai, thứ ba, trong bảng sắp hạng hàng tháng. Ái và Tuấn cũng thế. Có lẽ nhờ học khá, nên mấy trò trai tinh nghịch này vẫn được mấy cô bạn gái mến hơn cả. Tình bạn ngây thơ, vô tội, của đám học sinh thời bấy giờ không có hậu ý gì vẩn vơ, bậy bạ .

Tôi đã nói tuổi 16, 17 của thế hệ 1920-1924, chưa biết tí gì về "yêu đương", "mơ mộng". Tâm hồn thanh thiếu niên hãy còn trong sạch, chưa bị tiêm nhiễm, chưa bị cám dỗ, chưa bệnh hoạn, suy đồi .

Chỉ có một lần, một câu chuyện "trai gái" của học trò bị đổ bể, làm xôn xao cả trường. Thủ phạm chính là trò A. ở lớp Nhất. Nữ đồng lõa là cô H. con một nhà buôn bán ở phố cửa Tây, mới 16 tuổi. Nhà hai cô cậu này gần nhau. Không biết hai đứa làm quen với nhau hồi nào, mà một đêm, mẹ cô H., vô tình bắt gặp con gái của mình trò chuyện nhỏ to với cậu học trò. Bà lôi cổ con gái về nhà, đánh một trận nhừ tử. Bà lại sang mét với gia đình trò A. Trò A cũng bị một trận đòn nên thân. Hôm sau cả trường đều biết vụ ấy. Toàn thể học sinh đều coi A là một đứa "học trò xấu-xa" và chế nhạo nó. A lại bị thầy giáo mắng, và bị Ông Đốc trừng phạt gắt gao.

Thế là câu chuyện "trai gái" của cặp thiếu niên chưa đâu vào đâu đã bị chấm dứt ngay sau khi chàng bị phạt quỳ gối trong hai tiếng đồng hồ trong cửa lớp học.

Thế hệ thanh niên 1920-1925 không chú trọng đến vấn đề tình ái cá nhân và không dùng những danh từ "yêu đương", "ái tình", "tình yêu". Ở miền Trung và miền Nam chỉ gọi là "trai gái" với nhau, hay là "phải lòng nhau", thường bị coi như làm một việc tội lỗi, không tốt đẹp, và bị chê cười.

Một thanh niên Việt Nam trong những năm 1920-1925 không bao giờ viết thư cho con gái với những câu "anh yêu em". Họ chỉ viết lén lút "tôi thương cô", đã là quá lắm rồi. Ba chữ rất tầm thường đó đã đã chứa đựng bao nhiêu... mê ly!

Tìm trên các tờ báo văn nghệ cách đây 35 năm, chưa hề thấy đăng những bài thơ loại "anh yêu em", "em yêu anh", "nhớ nhung", "nhung nhớ" tràn ngập như ngày nay.

Nhưng nói rằng thời bấy giờ thanh niên không biết yêu, lại cũng không đúng, thanh niên nào mà không biết yêu? Chỉ có khác là tình yêu kín đáo, dè dặt, nghĩa là tế nhị hơn. Không bồng bột sôi nổi, không bộc lộ công khai và không trơ-trẻn.

Tình yêu trước đây 30 năm, cũng được gìn giữ kín nhẹm như y phục của thiếu nữ không bộc lộ ranh mãnh, không nửa kín nửa hở, và cũng không khiêu khích. Con gái ở các đô thị xa-hoa Saigon, Hà Nội, Huế... may mặc bằng hàng lụa sang đẹp, nhưng vẫn kín đáo, e-ấp như các cô thôn nữ.

Cô Dư, cô Ánh-Tuyết, cô Tạ thị Tỷ, đều là con nhà giàu hoặc con nhà quan. Các cô thuộc giới "văn minh" nhất trong tỉnh và trong xứ. Đến trường, các cô mặc y phục trắng, đen hoặc tím. Chỉ những ngày chủ nhật, hoặc đi đâu, các cô mới mặc màu xanh, màu hồng.Tuấn không thấy bao giờ các cô mặc áo đỏ chói, hay màu vàng. Ngày Tết hay các ngày lễ các cô mặc áo gấm, quần sa-tanh mang giầy thêu cườm.

Ở Bắc Việt, phụ nữ mới bắt đầu mặc quần trắng vào khoảng năm 1930 trở về sau. Trước 1930, các bà, các cô đứng đắn mặc toàn quần đen.

Về nữ trang, các cô thường đeo kiềng vàng trơn (đi học cũng đeo kiềng) và hoa tai vàng. Không bao giờ đeo nhẫn, trừ khi đã có chồng . Các cô đã để răng trắng và tóc quấn trần theo kiểu Huế. Ở Bắc, vấn tóc trong khăn nhung đen, Ở Nam, để búi tóc sau ót.
Cổ áo cao một phân, tà áo dài xuống vừa đến đầu gối (ở Trung); hoặc trên đầu gối 1 phân (ở Nam): hoặc dưới đầu gối 1 phân (ở Bắc), các cô Hà nội mặc quần ống rộng, ở Huế và các tỉnh miền Trung ống vừa, ở Saigon và Lục tỉnh ống chật hơn, độ hai phân tây. Giày cao gót xuất hiện tại Hà nội và Saigon khoảng năm 1935, nhưng để riêng cho các thiếu nữ đã trưởng thành, theo phép xã giao tân tiến của Âu Mỹ. Nữ sinh các trường và các thiếu nữ dướí 21 tuổi không bao giờ mang giày cao gót.

Chương 23

1924

- Một ông Quan tỉnh tặng ông Sứ Tây sắp về nghỉ phép ở Pháp một chiếc xe kéo và cả người cu-li để về Pháp ông xử dụng.

- Vua Khải Định có ý đem theo một chiếc xe kéo sơn son thếp vàng qua Pháp để Vua ngự du trong kỳ Hội Chợ Thuộc địa ở Marseilles.

- Công chức dùng "đồng hồ trái quít" đeo trên túi áo. Chưa có đồng hồ đeo tay.

- Phong trào đi xe máy bắt đầu thịnh hành. Lần đầu tiên thanh niên tập đi xe máy

- Một bài "Dictée" (chánh tả) thi Tiểu-học Pháp-Việt.

- Một kỳ thi vấn đáp: 100 quan tiền 6 cô (San Francisco)

- Bức trướng tặng Thầy trước khi từ giã mái trường, và 10 năm sau.

- Tình bạn giữa đôi nam nữ học sinh.

Năm 1924, ở các thủ đô các tỉnh An Nam đã bắt đầu xuất hiện khá nhiều những món nhật dụng mà trước đây một vài năm còn rất hiếm hoi. Các thầy Thông, thầy Ký đã sắm xe máy (ngoài Bắc: xe đạp), mà hầu hết là xe hiệu Hirondelle (chim én) do hãng Manifactures d' Armes et de Cycles de Saint Etienne ở Pháp sản xuất.

Saint Etienne là tỉnh lỵ của tỉnh Loire, ở phía Nam thành phố Lyon cách không xa, là nơi sản xuất nhiều nhất các dụng cụ máy móc về sắt và thép, Tuấn-em để ý thấy hầu hết các đồ dùng văn minh mới lạ, đẹp và bền của người An nam lúc bấy giờ đều có ghi sản xuất là Saint Etienne. Cho đến nổi dụng cụ học sinh: bút chì, ngòi bút, quyển vở, tẩy, compas, équerre, double décimètre v.v... Cũng đều gởi mua tận bên Pháp, ở Saint Etienne. Cách gởi duy nhất là bằng tàu thủy, ba tháng hàng mới về. Lúc bấy giờ chưa có đường hàng không nào nối liền các xứ Đông Dương và Pháp.

Xe đạp do Pháp quốc gởi qua đã nhiều, và luôn luôn là các thầy Thông, thầy Ký có trước. Tuy nhiên, vì mới lạ nên nó vẫn được người chủ nó quý chuộng, nâng niu săn sóc, lắm khi còn hơn đứa con cưng.

Thầy Thông Hồ ở cạnh nhà Tuấn, làm việc ở sở Kiểm Lâm, bắt chước các thầy khác thuê thợ mộc đóng một cái kệ để gác chiếc xe đạp của thầy. Đường đi từ nhà thầy đến sở, quanh co, gồ ghề (đường phố trong tỉnh chưa tráng nhựa) thầy đạp đi rất chậm, sợ hư bánh xe. Đi làm về thầy xuống xe nhè-nhẹ, rồi hai tay nâng chiếc xe lên kệ gỗ. Nghe thầy bấm chuông leng-keng, tức thì vợ thầy, cô Thông Hồ, còn trẻ và đẹp, cầm một nùi giẻ ra lau chùi chiếc xe, từ cặp niềng cho đến bàn đạp. Nhờ hai vợ chồng gìn giữ chiếc xe cẩn thận như thế, mà bốn năm sau, Tuấn thấy chiếc xe của thầy vẫn láng mướt, còn mới tinh như lúc mới mu. Thời bấy giờ không có nạn ăn cắp xe nên xe không khóa, và không cần khóa. Đa số các thầy Ký đều có đóng kệ để gác xe như thầy Hồ, và gia đình nào sắm được chiếc xe máy cũng hãnh diện đôi chút, như ngày nay những người làm việc ít tiền ráng dành dụm sắm chiếc deux-chevaux...

Nhất là ở thôn quê, xe đạp được coi như là biểu hiện của văn minh tiến bộ. Các nhà thi sĩ ở Trung và Nam kỳ đã đặt cho nó biệt hiệu vinh dự là "con ngựa Sắt" cũng như bên Pháp lúc chiếc xe đạp mới ra đời được công chúng suy tôn là "La petite Reine" (Tiểu Hoàng Hậu). Một người đạp xe máy chạy trên đường làng, bóp chuông leng-keng... leng-keng, thế là con nít từ dưới các mái nhà tranh chạy nhao nháo ra ngõ đứng xem.

Mấy cậu học trò đi coi mắt vợ ở làng xa, cứ đi xe đạp đến nhà gái là được các cô thôn nữ ưng ý liền. Trai trong làng không biết đi xe máy, và biết bao giờ họ mới sắm được chiếc xe máy? Các câụ học trò ở tỉnh, ở huyện, ngồi trên yên xe còn oai hơn là ông Nghè ngồi trên yên ngựa vinh quy bái tổ hồi xưa, nghĩa là cách đây chưa quá 30 năm.

Tuy nhiên, chỉ có thầy Thông, thầy Ký làm việc được ít lương, các nhà buôn bán, tư chức, và học trò là thích đi xe đạp.

Hầu hết các thầy Phán làm được lương cao, và các thầy Trợ giáo lại thích đi bộ. Vì theo quan niệm của các thầy lúc bấy giờ ngồi trên yên xe máy và khom lưng đạp lia liạ cho xe chạy, là mất vẻ đạo mạo, đứng đắn. Cho nên nếu dư tiền, thì các thầy sắm xe kéo nhà, ngồi bệ vệ trong xe để cho người "cu-li" kéo. Nếu ít tiền (như đa số) thà đi bộ, với một lũ học trò năm bảy đứa cung kính đi theo sau, còn oai hơn, và thanh nhã hơn.

Xe đạp, tuy là văn minh, là tiện lợi, nhưng ngay từ lúc mới nhập cảng sang xứ ta, nó đã bị coi như là một loại xe bình dân, mà những người trưởng giả không thích dùng. Vả lại mấy thầy mặc tòan là quốc phục, áo dài đen quần vải quyến hoặc lụa trắng, chưn mang giầy Hạ, mà đi xe đạp thật là bất tiện. Phải kẹp ống quần để nó khỏi vướng vào giây chaîne, phải kéo tà áo ra phía trước và nhét nó vào lưng quần để nó khỏi thòng xuống garde-boue, phải kéo cả tà áo trước lên cao quá đầu gối, để nó khỏi bị dính dầu mỡ nơi giây chaine, tất cả ngần ấy chuyện đã là rắc rối, mà xem bộ tịch của thầy như thế kia lại không còn vẻ gì oai vệ như nhà mô phạm nữa. Trông chẳng hơn nào chú lính lệ cho quan Tuần, quan Án.

Chính vì những lý do danh dự ấy mà đa số các thầy Trợ giáo cũng như các thầy Thông, thầy Phán làm việc ở các sở các tòa đều không ưa đi xe đạp.

Riêng Phán Tuấn lại nghĩ khác. Tuấn là "quan Phán đầu tòa", cao nhất trong các ngạch công-chức An-nam toàn tỉnh, và là quan Phán được cụ Sứ tin cậy nhất, nên uy tín còn có khi hơn cả các quan An-nam, nhưng Tuấn lại ghét những gì quan cách, những "trưởng giả học làm sang". Tuấn đã nhất định không sắm xe kéo nhà. Có lần ông già của Tuấn hỏi tại sao, Tuấn bảo:

- Con là thanh niên, con ngồi trên xe để cho một người gìa cả khom lưng kéo như trâu, như ngựa, con không đành lòng.

- Mấy thầy vẫn ngồi xe kéo đó thì sao?

- Tại mấy thầy không nghe ông Sứ nói...

- Ông Sứ nói sao?

- Một hôm con hỏi ổng bên Pháp có xe kéo không, ông Sứ trả lời rằng: "Người Pháp đã văn minh lắm, ở Pháp một con người là một con người, chứ không phải là một con ngựa". Nghe thế là con hiểu ý ổng chê người "An-nam" mình còn dã man, con người mà đi kéo xe như con ngựa. Cho nên con nhất định không đi xe kéo.

- Vậy sao ông Sứ vẫn thường ngồi xe kéo, do người lính An-nam kéo!

- Ông Tây thấy người cu-li An-nam kéo xe như ngựa thì ổng ngại gì mà không ngồi xe cho An-nam kéo, như mấy ông quan An-nam và những người An-nam khác.

Một lần trước, ông Tuần-vũ nghe tin ông Sứ sắp về Pháp nghỉ 6 tháng, ông Tuần đến thăm, và nói muốn tặng quan lớn một chiếc xe kéo mới tinh, và cho một người lính lệ theo hầu Quan Lớn để về Paris thằng lính nó kéo xe cho quan lớn đi chơi, thì ông Sứ cười sặc sụa và cảm ơn ông Tuần :"Quan Lớn có lòng tốt, tôi rất cảm động nhưng nếu dân chúng ở Paris thấy một người ngồi trên xe do một người khác kéo, thì họ sẽ cho rằng cả hai người là hai thằng điên... Vì thế nên khi Hoàng Đế Khải Định sắp sang Pháp dự cuộc đấu xảo ở Marseilles, Ngài tỏ ý với quan Khâm Sứ rằng Ngài muốn đem theo một chiếc xe kéo của Ngài, sơn son thếp vàng thật đẹp, để lúc sang bên Pháp, lính An-nam sẽ kéo Ngài đi xem thành phố, thì quan Khâm Sứ liền kính cẩn khuyên Ngài đừng nên thực hiện ý định ấy... ".

Năm 1924, tại các tỉnh miền Trung, xe kéo bánh sắt vẫn còn. Nhưng bánh cao su đã thay thế bánh sắt khá nhiều. Xe bánh sắt chỉ có hạng ít tiền đi thôi. Ở các tỉnh thành lớn cứ độ 10 xe kéo bánh cao su cũng còn 2, 3 xe bánh sắt.

Đồng hồ, thì tất cả các thầy Thông, thầy Ký, thầy Giáo đều có. Vì sự bắt buộc phải có đồng hồ để làm việc đúng giờ, nên mặc dầu đắt giá, các thầy cũng ráng sắm mỗi người một chiếc. Nhưng năm 1924, đồng hồ đeo tay chưa có nhiều. Chỉ được thông dụng loại đồng hồ bỏ túi, gọi là "đồng hồ trái quít", tuy hình thức nó không phải tròn vo như trái quít, mà tròn dẹp, có sợi giây và cái khoen để đeo vào khuy áo.

Tuấn-em, cũng như tất cả học trò lớn ở trường tỉnh, đều ao ước được xe máy. Phán Tuấn có mua một chiếc, ngày hai buổi đạp đi đạp về, rất tiện lợi. Buổi tối chàng tập cho Tuấn-em đi. Hai đêm đầu, Tuấn-em cứ ngã luôn, có lần té vấp một bụi duối bị gai cào trầy cả mặt mũi. Nhưng đêm thứ ba, trò Tuấn đã đi được một mình, khỏi phải nhờ anh đỡ cái yên chạy theo sau. Từ đấy, cứ buổi trưa, mặc dầu nóng oi-ả, trò Tuấn cứ lấy xe máy của anh đạp chạy một vòng quanh các phố. Buổi trưa, các thành phố đều im lặng, không náo nhiệt như ngày nay. Trừ tiếng chuông xe máy và "lục lạc" xe kéo, không có tiếng ồn ào khác. Xe hơi vẫn còn ít, ít lắm. Trừ đôi ba chiếc của quan Tây, còn thì quan An-nam vẫn thích ngồi xe nhà, thường thường là xe sơn đen, bóng loáng, hoặc sơn đỏ sẫm, màu rượu bordeaux. Cũng còn nhiều ông quan An-nam đi xe song mã.

Tư gia không ai dùng xe hơi. Nhà giàu không dám sắm, sợ các quan ghen ghét. Nhất là Hoa-kiều, vì hầu hết các nhà buôn lớn nhất ở các tỉnh đều là của "các chú", họ dư sức sắm xe hơi, nhưng họ sợ các "quan An-nam" ghét nên họ cứ đi xe đạp, hay là xe kéo. Đi xa thì họ đi xe đò STACA.

STACA là "Société des Transports Automobiles de Centre Annam", một hãng chuyên chở bằng xe hơi của người Pháp, mà ta có thể nói là hãng xe đò độc quyền lúc bấy giờ chạy từ Tourane (Đà Nẵng) vào Nha Trang và ngược lại.

Mỗi ngày chỉ có một chuyến duy nhất từ Tourane vào và một chuyến từ Nha Trang ra, gặp nhau khoảng 12 giờ trưa trước cổng nhà giây thép Quảng Ngãi.

Xe chở thư tín giao thông hàng ngày, một loại xe "car" không quá 10 chỗ ngồi. Nghĩa là mỗi ngày từ miền ngoài vào miền trong, hay từ miệt trong ra ngoài không quá 10 hành khách, hầu hết là khách sang, hoặc nhà buôn lớn.

Trò Tuấn cứ khoảng 12 giờ trưa là thích đến vườn hoa trước cổng nhà giây thép để coi hai chiếc xe thơ staca gặp nhau tại đây. Ngừng độ một tiếng đồng hồ, rồi bỗng nhiên một chiếc rồ máy, xịt khói, bay hơi, chạy. Nó chạy vùn vụt ra miền Bắc. Chiếc thứ hai cũng rồ máy, xịt khói, bay hơi, chạy bon bon vào hướng Nam, bụi và khói tỏa mịt mù hai bên hàng phố. Trò Tuấn xem mê và cứ nghĩ thầm: "Biết bao giờ mình mới được đi trên chiếc xe điện này xem ra sao nhỉ? Ồ... biết bao giờ?".

Riêng gì trò Tuấn! Hầu hết người "Annam" ở các tỉnh đã mấy ai được đi xe hơi. Mặc dầu là xe thơ (người ta vẫn bảo là xe chở thơ của nhà nước), nó vẫn còn hiếm hoi, mỗi ngày chỉ một chuyến chạy ra, một chuyến chạy vào, ngoài ra không còn xe hơi nào khác nữa.

Nhưng đến năm 1924, đã bắt đầu có vài ba chiếc xe khác, gọi là xe "cam nhông" (camions) của người An-nam làm chủ. Các loại xe đò này không phải là xe Thơ, chỉ chuyên chở hành khách và hàng hóa tư nhân. Xe cam nhông chạy không có giờ phút nhất định, muốn ngừng đâu thì ngừng, hành khách đông nghẹt, ngồi ép với nhau chật ních, không có trật tự đàng hoàng như trong xe thơ Staca.

Lần này, Tuấn-em được mãn nguyện. Cậu học trò tinh nghịch và tò mò hạng nhất, đã biết đi xe máy, muốn trèo lên xe hơi, thì bây giờ đã có dịp được lần đầu tiên ngồi trên xe hơi... Dịp ấy, là cuối tháng năm 1924, sắp sửa nhập học niên khóa 1924-1925 tại Qui-nhơn. Trò Tuấn đã thi đỗ bằng "Ri-me" cuối niên khóa 1923-1924 ở Quảng-Ngãi.

Hãy xin nói trước về kỳ thi Tiểu học của Tuấn, thiếu niên nước Việt, năm 1924.

Tuấn thuộc hạng học giỏi nhất lớp. Kỳ thi cuối niên khóa trong lớp Tuấn đứng hạng thứ 2, và được phần thưởng danh dự, thế mà thi bằng "Ri-me" cậu lại đỗ hạng bét. Và đỗ được là nhờ thầy trợ-giáo đứng ngoài " thổi " dùm cho.

Bài Dictée (chánh tả), Tuấn còn nhớ vài đoạn đầu như sau đây:

Les Norias de Quảng-Ngãi,

Aucun spectacle de la province ne renseigne mieux sur l'esprit ingénieux du paysan d'Annam, et ne cause pareille surprise aux yeux curieux du voyageur,

Accouplées par demi douzaines, elles atteignent parfaites, ces norias géantes, une hauteur de dix mètres...
v.v...

Bài dài hơn nửa trang giấy thi, đầy những mẹo văn phạm lắt-léo khó khăn đại khái như đoạn trên, nhưng Tuấn chỉ bị 2 lỗi.

Hết giờ ra về, Tuấn đọc lại nguyên vẹn bài dictée cho thầy giáo nghe, thầy mừng rỡ khen Tuấn rối-rít, nhưng thầy căn dặn Tuấn về môn thi Toán, Thầy chỉ sợ Tuấn hỏng Toán, vì Tuấn dở Toán nhất lớp. Quả nhiên, hôm thi Toán, chép xong hai đề toán trên giấy thi, Tuấn ngồi rưng rưng nước mắt, sắp khóc to lên. Toán thế này thì có nước trừ chữ "T" ra, còn lại chữ "oán", cộng với chữ "ai" ở trước là tìm ra lời giải?!

Mà ai-oán thật! Hai đề thi toán "Problèmes d' Arithmétique", đọc đi đọc lại ba bốn lượt, Tuấn vẫn thấy bí kinh khủng! Liếc mắt nhìn qua những dãy bàn kế cận, Tuấn thấy hầu hết các trò khác đều đã bắt đầu làm bài ngay trong giấy thi, không cần làm nháp ở ngoài. Sao tụi nó làm dễ dàng, mau lẹ thế nhỉ? Sao tụi nó giỏi toán thế nhỉ? Trò Tuấn tệ quá, chỉ một mình trò là cùi, cùi thật là cùi, ngồi ngó hai đề toán mà mồ hôi chảy toát ra cả người, mặt mày choáng váng. Tuấn muốn té xỉu xuống, chết giấc luôn.

Nhưng ông Trời thương hại mấy học trò dốt toán, nên bổng dưng lúc bấy giờ có một người chết ở nhà thương gần trường học, và đám ma từ trong bệnh viện đi ra, tiến thẳng Cửa Đông, theo con đường dài ngay sau sân trường... Tiếng ai kêu khóc thật là ai oán thê lương!... Ông giám khảo đủng đỉnh bước ra đứng nơi cửa sổ, nhìn xem đám ma, quay lưng vào lớp thí sinh. Thừa dịp tốt hiếm có, trò Tuấn lẹ làng nghiêng đầu... thằng bạn giỏi toán ngồi nơi mút bàn (mỗi bàn chỉ có 3 thí sinh, Tuấn ngồi ngay giữa). Tuấn nói thầm với bạn: "tao không làm được một bài nào cả, mầy ơi!". Thằng bạn thật quả có lòng tốt. Lạy trời, ban phước đức cho nó. Nó nháp lia lịa bài toán thứ nhất và lời giải đáp trên một mảnh giấy, rồi lén lút đút ngay dưới bàn cho Tuấn. Trò Tuấn mừng như thể chết đi sống lại, vồ lấy miếng giấy nhanh như chớp, và chỉ có việc chép lại sạch sẽ vào trang giấy thi bài nháp làm phước của thằng bạn giàu lòng bác ái.

Tuấn chép xong, vò viên mảnh giấy bỏ vào miệng nhai rồi nuốt cái "ực" vào trong bao tử. Đám ma phía sau trường cũng vừa qua khỏi. Tuấn vái thầm: "Xin cầu chúc cho hương hồn ông bà nào chết đó được tiêu diêu miền Cực Lạc!". Nhưng ông giám khảo cũng vừa quay mặt vào và đi thẳng đến bàn Tuấn. Ông đứng ngay đối diện Tuấn, nghiêm khắc chỉ vào mặt trò: "Mầy vừa bỏ cái gì vào mồm?"

- Dạ thưa thầy, con không có gì bỏ vào mồm cả.

- Tao đứng nơi cửa sổ, tuy tao quay lưng vô lớp nhưng tao nhìn trong cửa kiếng, thấy rõ ràng hết, mầy đừng chối.

Tuấn gần luýnh huýnh, nhưng cố cứu vãn tình hình:

- Thưa thầy... con xin... há miệng cho thầy coi.

Nói xong nó làm liền. Tuấn há miệng ra, cái miệng còn hôi sặc mùi cháo lòng mà nó đã ăn vội vàng hồi sáng sớm trước khi đến trường, chưa kịp uống nước.

Ông giám khảo phì cười, nhưng xách tai nó đau điếng:

- Attention à toi, hein! (mày liệu hồn nhé!)

Từ phút đó, ông giám khảo cứ liếc mắt rình mò trò Tuấn, Tuấn cắm đầu xuống bàn, giả vờ chăm chỉ làm bài Toán thứ hai. Nhưng chốc chốc trò lại gãi đầu (sao hôm nay cái đầu nó hay ngứa thế?) Rồi rốt cuộc trống trường đánh ba tiếng, hết giờ thi Toán.

Tuấn nhanh nhẩu nộp bài trước hết thảy mọi người, nhưng trò chỉ "làm" được một bài thứ nhất thôi. Bài thứ hai, Tuấn chịu "forfait", bỏ giấy trắng. Nhờ đám ma đi qua, Tuấn làm trúng một bài, nhưng không biết trong lúc vội vàng Tuấn chép sai lời giải thế nào mà chỉ được 1/2 điểm. Tuy thế, nhờ các môn Việt văn và Pháp văn cứu vớt, Tuấn vẫn đậu "écrit" (thi viết), được vào "oral" (thi vấn đáp).

Trước giờ thi vấn đáp, thầy trợ giáo gặp Tuấn trên sân trường, hỏi Tuấn:

- Con đã thuộc hết các bài Sử Ký, Địa Dư chưa?

Tuấn trả lời ấp úng:

- Dạ, thưa thầy, con thuộc hết... Nhưng lỡ họ hỏi con câu nào con "bí" thì con phải làm sao ?

- Thì ăn trứng vịt, chớ sao!

- Thầy làm cách nào "thổi" cho con...?

Thầy trợ giáo cười:

- Tuấn muốn thầy ở tù hả?

Thầy trợ giáo hồi hộp lo ngại, khi Tuấn vào lớp thi vấn đáp. Ông giám khảo là người Tây, tên là Paul Rivière. Ông này dữ lắm, hay bắt bí học trò, hỏi những câu trẹo họng.

Nhờ ông có giọng nói ồ ồ, vang cả lớp, nên thầy trợ giáo đứng ngoài sân trường nghe rõ các câu hỏi. Ông hỏi trò Tuấn hai câu rồi, Tuấn trả lời trôi chảy, đến câu thứ ba về Địa Dư:

- Trò hãy kể tên 5 thành phố lớn nhất của nước Huê-Kỳ?

Ở nhà Tuấn đã học thuộc lòng 5 tên thành phố ấy rồi, nhưng vào đây Tuấn chỉ kể được 4:

- Washington, New York, Chicago, Philadelphia...

Còn một thành phố nữa, Tuấn quên mất. Bổng Tuấn nghe ngoài sân tiếng một đứa học trò la lớn:

- "Một trăm quan tiền, sáu cô", mầy ơi!

Tuấn sực nhớ ngay vừa lúc ông giám khảo lặp lại câu hỏi:

- Còn một thành phố nữa tên gì?

- San Francisco (San Francisco có thể phiên âm ra tiếng Pháp là cent franc six...)

- Giỏi!

Ông Tây cho Tuấn 10 điểm.

Ra sân trường, thầy Trợ giáo cười, cho Tuấn biết là thầy phải bảo một đứa học trò lớp Ba reo lên câu nói mánh lới trên kia để giúp trí nhớ của Tuấn.

Thế là Tuấn đậu bằng "Ri-me" năm ấy, nhờ tiếng kèn ai oán thê lương đưa một vong linh về thế giới của Phật A-di-đà...và nhờ một trăm quan tiền sáu cô của thầy Trợ giáo đứng mặc cả ngoài sân trường.

Phải nói rằng câu "học tài thi phận" họa chăng có áp dụng được hồi thi chữ Nho, chứ trong thời kỳ thi chữ Tây chỉ có thể là một lời an uỉ tạm bợ mà thôi.

Vì theo thời ấy, hễ học giỏi, thông suốt hết chương trình thì tất nhiên đi thi phải đậu. Thi hỏng, là tại học không thuộc bài. Học trò dở, nếu không có môn nào trội hơn để cứu vớt các môn kém, thì nhất định là "trợt vỏ chuối".

Đấy là không kể một vài trường hợp hy hữu mà học trò thừa lúc giám khảo vô ý, lén lút "gà " cho nhau, như trường hợp trò Tuấn. Ngoại giả, việc thi cử thời Tây rất nghiêm ngặt. Không bao giờ các đề thi bị tiết lộ ra ngoài dù là thi Tiểu học, Trung-học hay Tú-tài. Chưa bao giờ xảy ra một vụ bán đề thi, từ 30, 40 nghìn đồng đến 100, 200 nghìn đồng.

Không có sự gian lận của các thí sinh thi mướn với sự đồng lõa im lặng của giám khảo. Không có những vụ con em của một số hiệu trưởng, giám khảo, giáo học, học dốt mà thi đậu - nhiều khi đậu cao - còn học trò ngoài học giỏi hơn, trội hẵn mà lại thi rớt.

Trong các kỳ thi thời trước, bất cứ là thi gì, sự may rủi đã là ít có rồi, sự gian lận lại còn khó khăn hơn. Nói chi đến chuyện ăn tiền, “đút lót, “nhờ cậy“, ”gởi gấm“, thật hoàn toàn không có, và không thể có.

Dù là con em ông giám khảo, ông Đốc học hay là con cháu ông Tổng Đốc, ông Thượng Thư, ông Sứ, ông Khâm, hễ học giỏi là nhất định đỗ, học kém là phải rớt, không có đút lót được ai cả, không gởi gấm cách nào được cả.

Bạn của Tuấn-em, sau này cùng Tuấn đi thi Tú-tài ở Hà Nội, có một số đông là con cháu của các vị quan to lớn có uy quyền, và thế lực biết bao. Họ quen thân với các ông giám sư, ăn uống tiệc tùng với các vị giám khảo, thế mà con cháu của họ thi hai ba lần đều hỏng cả, chỉ vì quanh năm chúng ăn chơi phè phởn, nhẩy đầm, nghiện rượu, say mê tình ái, không lo học hành.

Tuấn thi Tú-tài cũng hỏng hai khóa, vì một lần làm sai bài toán Hình-học, một lần không thuộc bài Vật-lý học, chứ không phải vì “học tài thi phận“. Những bạn của Tuấn đỗ trước Tuấn một hai năm, đều là học giỏi hơn Tuấn về các môn đó, chứ không phải nhờ đút lót tiền cho các ông giám khảo, hoặc nhờ gởi gấm cho ai.


Chương 24.

Năm 1924, cả tỉnh chỉ có một trường Tiểu học duy nhất của Nhà Nước, không có một tư thục nào. Cả trường Tiểu học, chỉ có một lớp Nhất. Trong lớp chỉ có 40 học trò, thi đậu được 21, rớt 19. Riêng trong số 4 chị ngồi bàn đầu, có hai chị thi trợt vỏ dưa. Kết qủa ấy chứng tỏ rằng thi cử đã bắt đầu gắt gao, và thí sinh cần phải có một căn bản vững chắc mới hy vọng có tên trên "bảng vàng".

Đậu hay rớt, thi xong rồi toàn thể học sinh đều phải đi học một tuần lễ nữa, vì còn một tuần lễ nữa mới thật là mãn niên khóa. Phát phần thưởng cuối năm học, xong rồi mới chính thức bắt đầu nghỉ Hè.

Những học trò thi "Primaires" rớt, dù có hơi mắc cỡ với bạn bè , cũng ráng tiếp tục đi học cho hết mấy ngày cuối niên khóa, vì còn hy vọng được ông Đốc cho học lại một năm nữa. Trừ vài ba trò, vì lý do gia đình, hoặc vì lớn tuổi phải thôi học, buồn rầu từ giã mái học đường để về quê làm ruộng, hoặc đi buôn bán. Mấy trò thi đậu đáng lẽ được nghỉ chơi thỏa thích, nhưng ông Đốc vẫn bắt buộc phải cắp vở đến trường như thường lệ, tuy chỉ còn 7 ngày nữa là nghỉ hè. Tất cả đều phải tuân lệnh, vì tụi thi đỗ sợ rằng nếu khiếm diện mấy ngày ấy sẽ bị Ông Đốc cho chứng chỉ xấu rồi không được thi vào trường “Collège Quốc Học“ ở Huế hoặc "Collège Complémentaire" ở Qui-nhơn.

Nói đúng ra, mấy ngày cuối năm, có học hành gì nữa đâu! Các học trò thi rớt thì vô lớp ngồi rầu-rĩ tỉ tê, chán cho đến nỗi một con ruồi bay đậu trên chóp mũi các trò cũng không buồn lấy tay xua đuổi. Ngày trước thi rớt không có nạn tự tử. Chỉ có sự cố gắng thêm để thi đậu khóa sau. Nhưng trông thấy một chị thi rớt ngồi trong lớp khóc sướt mướt vì bị bài Dictée 7 lỗi. Tuấn trong lòng nao nao, thấy lòng rung cảm, thương xót người bạn gái đau khổ. Buổi trưa Tuấn đến nhà bạn an uỉ “Đừng khóc nữa chị Tuyết. Chị giỏi Toán, sang năm chị ráng học thêm các môn thế nào chị cũng đậu". Tuyết đã 17 tuổi, sợ cha mẹ không cho đi học nữa. Nhưng năm sau Tuyết thi đỗ hạng ba, và được học trường Nữ Trung Học Đồng Khánh - Huế.

Các trò thi đậu thì dĩ nhiên sung sướng, vui vẻ, bàn tán không ngớt chuyện đi Qui-nhơn hay đi Huế. Trò nào trò nấy mặt tươi rói, miệng cười không ngớt. Phần thì được các Thầy khen ngợi, các bạn thèm thuồng, trìu mến, phần thì được cha mẹ cưng, muốn ăn gì cha mẹ cũng mua cho ăn, muốn mặc áo quần đẹp cha mẹ cũng sắm cho, lại được họ hàng, làng xóm o bế, nâng niu…

Câu chuyện thằng Tuấn-em đã thi đỗ "Ri-me" chỉ trong một buổi sớm cả tỉnh cả làng đều biết.

Mấy ngày cuối niên học, thầy giáo dạy ít mà nói chuyện nhiều. Lớp học tạm vui không đến nổi buồn tẻ lắm.

Nhưng khổ nhất là giờ tập thể thao (gymnastique).

Huấn luyện viên là một ông đội và ba người lính Khố xanh do bên đồn Lính Tập đưa sang. Họ tập thể thao cho học trò mà gắt gao không khác nào tập lính. Họ lại hô toàn những tiếng " bồi " khiến học trò không thể nào nín cười được.

Họ hét thật to, bảo:

- Đứng ngay thẳng: Ga-ra-vu!

Bảo:

- Bước đi, một hai …một hai…một hai …

- An-na-văng mạc! …Ấc đơ…ấc đơ …ấc đơ …

-Xoay bên phải: a oách …oách …

Trò Bông nghe "a oách…oách…" liền cười to lên, bị thầy đội đến đánh một bạt tay nẩy lửa. Các trò khác liền chạy lại níu thầy đội và sừng sộ hỏi: "Sao thầy đánh nó".

Một trò lớn nhất toan đánh lại thầy đội để trả thù cho bạn, nhưng cả lớp cùng bảo nhau: "Đừng đánh ổng, mà cũng đừng thèm tập nữa. Tụi mình vào thưa với Quan Đốc. Mấy lớp dưới, từ lớp Nhì A, Nhì B đến lớp Năm, đều một loạt bắt chước lớp Nhất, tức giận không tập thể thao nữa mặc dầu không có ai xúi giục cả. Ông Đốc đã về nhà, chỉ còn lại một thầy trợ và anh tùy phái.

Thầy trợ vội vàng chạy đến nhà quan Đốc học để tường trình mọi việc. Một lát sau, quan Đốc đi xe kéo nhà đến, nét mặt hầm hầm, gọi trò B, người gây chuyện, đến trước mặt ông. Ông đã không bênh vực danh dự học đường lại còn đánh B một bạt tay nữa. Toàn thể học sinh đều uất ức, nhưng không dám nói gì, oai danh hung hăng của quan Đốc học đã từng làm đám học trò và cả thầy giáo khiếp đởm nhiều phen.

Nhưng đây là buổi tập thể thao cuối cùng trong niên khóa. Năm sau môn thể dục do chính các thầy phụ trách huấn luyện học trò.

21 trò đậu “Ri-me" tự ý rủ nhau hùn tiền thuê thợ thuê một bức trướng tặng thầy làm kỷ niệm trước khi vĩnh biệt nhà trường .

Bức trướng thuê bằng kim tuyến bốn chữ Nho "Ngưỡng Chi Như Sơn" (ngước lên nhìn Thầy ơn cao như núi) . Bốn chữ này do ông Tú Phong đặt giùm cho và chính tay ông Tú viết, nét chữ tuyệt đẹp. Tại tỉnh không có thợ thêu, nên học trò phải xuống tận Thu-xà, nơi đây có mấy tiệm thêu của người Bắc Kỳ. Bên trái 4 chữ lớn, có giòng chữ nhỏ: "Quảng Ngãi tỉnh, Pháp-Việt học đường, sĩ tử Nguyễn …Lê …Trần …( vv… tên họ của 21 học trò thi đậu) đồng bái tặng "

Thầy cảm động nhận bức trướng long lanh các mặt kiếng nhỏ, rực rỡ các sắc màu, và thầy treo ngay tại phòng khách của thầy.

Nhưng cảm động hơn nữa là 10 năm sau, Tuấn-em trở lại thăm thầy, vẫn còn thấy nơi phòng khách gió phất phơ trìu mến bức trướng xưa, tuy hàng vãi đã nhạt màu, các viền trướng đã rách xác xơ, màu kim tuyến đã đen, mấy mặt kiếng đã vỡ nát hoặc đã rơi mất cả.

Toàn thể học trò lớp Nhất cũng chung tiền nhau lại mỗi trò góp 5 xu, để thuê thợ ảnh đến chụp với Thầy một bức ảnh lớn, ngoài sân trường để làm kỷ niệm. Thầy ngồi ghế giữa, hàng đầu, mặc áo xuyến đen, đầu chít khăn đen, chân mang giầy bốt tin, trông thầy thật đạo mạo. Trò Tuấn cặp vào nách một chiếc mũ trắng, tay cầm mấy quyển sách, mặc áo dài đen, mang guốc, đứng tít ngoài bìa, vì tuy nghịch ngợm nhất lớp, nhưng lại phải cái tính nhút nhát, vào chỗ đông người thì ưa đứng ngoài xa.

Cuộc chụp hình này đánh dấu buổi học cuối cùng niên khóa, thầy trò đều vui vẻ.

Sáng hôm sau, bắt đầu nghỉ Hè, Tuấn được cha mẹ cho phép tắm sông với một lũ bạn gần mười đứa đến nhà Tuấn rủ đi. Đứa nào cũng ôm theo một gói quần áo bẩn để ra sông giặt, và một cục xà bông Marseilles là loại xà bông duy nhất được thông dụng lúc bấy giờ khắp từ tỉnh đến quê.

Mẹ Tuấn căn dặn:

- Con tắm trong cạn, đừng ra ngoài chỗ sông sâu, nghe con? Con coi chừng kẻo ma-da níu cẳng chết đấy!

Cũng như hầu hết con nít lúc bấy giờ - cả người lớn nữa – nghe nói đến ”ma-da“ là Tuấn sợ hết hồn. Lúc tắm sông, Tuấn vẫn nhớ lời mẹ dặn, chỉ lội quanh quẩn trong cạn, chỗ nước trong, nhìn thấy rõ lớp cát và sỏi dưới đáy sông. Tuấn theo bắt một bầy cá lia thia con, đưa hai tai hứng bầy cá đang bơi tung tăng trong nước, nhưng hễ sắp bắt được cá thì cá lại thoát ra ngoài, rất nhanh. Tuấn đuổi theo ra xa xa một chút. Cứ như thế, Tuấn vô ý đi từ trong cạn ra đến chỗ sông sâu, mực nước lên đến gần cổ. Bổng Tuấn dẫm dưới chân một vật gì nhơn nhớt, hoảng hốt la lên:

- Ma da níu tao! Ma da níu tao! Cứu tao với, tụi bây ơi!

Tuấn sụp xuống chỗ nước hơi sâu, bị giòng nước cuốn mạnh, Tuấn la khóc ần ỉ: “Ma da bắt tao!”. Trò Diễn, lớn tuổi và biết bơi, vội vàng bơi ra kịp, nắm tay Tuấn ì-ạch lôi vào. Diễn kéo Tuấn chạy lẹ lên bờ, cùng lúc tất cả mấy đứa học trò đang tắm đều hoảng hốt chạy toán loạn. Tuấn nín khóc, lượm ba bốn cục đá quăng mạng xuống sông, và la lên với vẻ mặt giận dữ: “Mẹ cha con ma da, tao ném cho mầy bể đầu. Mầy giỏi lên đây bắt tao?". Con ma-da biến đâu mất, không thấy nó thò đầu lên. Nhưng tụi học trò vẫn còn hơi sợ sợ, ôm áo quần còn ướt kéo nhau đi về hết.

Tuấn-em bị mẹ rầy một mẻ nên thân. Buổi trưa, đi làm ở Toà Sứ về, Phán Tuấn nghe Tuấn-em mét: ”Anh Hai ơi, sáng nay em đi tắm sông, suýt bị con ma-da bắt. Nó níu chân em rồi, nhưng có trò Diễn bơi ra kéo em thoát chết.

Phán Tuấn cười bảo: ”Không có ma-da đâu em". Phán Tuấn giảng cho em nghe. Dù sao, mẹ Tuấn cũng vội vàng đi thắp hương đèn trên bàn thờ ông bà và cúng vái tạ ơn ông bà đã cưú cho thằng Tuấn vừa thi đỗ “Ri-me“, khỏi bị chết đuối.

Chiều tối, Tuấn đến nhà Tuyết, thấy Tuyết nằm võng, mặc áo cụt, gác tay trên mặt, khóc thút-thít. Tuấn đến gần võng. Tuyết nghe tiếng guốc bước nhè nhẹ, lấy tay ra, trông thấy Tuấn. Tuấn bảo:

- Sao chị khóc hoài vậy, chị Tuyết? Sang năm chắc chắn chị đậu mà. Chị cứ vui đi!

Tuyết lau nước mắt, ngồi dậy, đứng dựa vào cột nhà:

- Anh thi đỗ, sung sướng, tôi đâu có đỗ mà tôi vui?

- Tôi thấy chị rớt, tôi cũng buồn chứ tôi vui gì? Tôi đến để chào chị, sáng mai tôi về thăm bà ngoại tôi và ở nghỉ Hè trong làng bà ngoại.

Tuyết không nói gì, nhưng òa ra khóc. Nghĩ cũng kỳ! Tuấn-em 16 tuổi và Tuyết 17 tuổi chỉ là đôi bạn cùng lớp. Trong lớp, Tuấn ngồi bàn thứ nhì, ngay sau lưng Tuyết, và thỉnh thoảng Tuyết xoay lại mượn Tuấn một cục tẩy, hoặc cây bút chì màu, hoặc hỏi bài toán, hay một vài chữ Tây khó hiểu. Thế thôi.

Có lần trong giờ chơi, Tuấn lại ra sân bắt một con cóc, rồi thừa lúc bốn chị đi uống nước, Tuấn lẻn vào lớp bỏ con cóc trong cạc-táp của Tuyết, làm trò tinh nghịch để cười chơi. Ấy thế mà không hiểu sao từ hôm Tuyết thi hỏng, ngồi khóc trong lớp, Tuấn tự nhiên thương xót, cứ theo an ủi Tuyết mãi. Còn Tuyết có mến Tuấn hay không, Tuấn đâu có biết? Nhưng thấy Tuấn đến thăm và từ giã Tuyết để hôm sau đi về quê ngoại. Tuyết lại tỉ-tê, nỉ-non, buồn rười-rượi. Tình bạn giữa đôi trai gái học sinh cũng có khi thật cảm động ! Tuyết nhìn Tuấn với đôi mắt hiền lành:

- Sao anh không ở tỉnh cho vui?

- Mẹ tôi bảo về nghỉ hè ở nhà bà ngoại cho khỏe-khoắn, để rồi tháng 8 về đây sửa soạn đi Qui-nhơn thi vô Collège.

- Anh ở tỉnh, mỗi buổi sáng anh tới đọc dictée cho tôi viết…

- Mẹ tôi không cho… Hay là để tôi xin anh Hai tôi. Tôi cũng muốn ở tỉnh chứ không muốn về bà ngoại tôi. Tôi nghe mẹ tôi nói ở gần nhà bà ngoại tôi, có nhà ông Hương Cảnh có con gái học lớp Ba trường Huyện, ông Hương muốn gả cô đó cho tôi, nhưng tôi mắc cỡ, tôi đâu có chịu.

Tuyết cúi mặt xuống, hỏi khẽ:

- Sao anh không chịu?

- Tôi muốn ở tỉnh, mỗi buổi sáng đến đọc dictée cho chị viết.

Tuyết bổng dưng vui cười, chạy vào nhà lấy một trái mãng cầu chín đem ra cho Tuấn. Vừa lúc mẹ Tuyết trong nhà đi ra. Tuyết giới thiệu:

- Thưa mẹ, anh Tuấn, học trò lớp con, ảnh mới thi đỗ Primaire đấy.

Mẹ Tuyết cười:

- Mầy học giỏi quá vậy? Con Tuyết, nó thi rớt mấy bữa rày, nó khóc hoài, nó không ăn uống gì hết trọi.

Tuyết khẽ đánh yêu cánh tay mẹ:

- Mẹ cứ nói!

Bà hỏi Tuấn:

- Mầy năm nay mấy tuổi?

- Dạ thưa bác, con 14 tuổi.

- Chu-cha giỏi quá, 14 tuổi mà đỗ “ri-me” rồi hả!

- Dạ thưa bác, con nhớ lộn, chớ tuổi thiệt của con là 15.

Mẹ Tuyết và Tuyết cười rùm lên. Mẹ Tuyết hỏi:

- Chớ tuổi thiệt của mầy là bao nhiêu mà mầy nhớ lộn?

- Dạ tuổi con 16, mà hồi xin vô học, anh Hai con biểu làm giấy khai sinh rút xuống hai tuổi, thành ra trong giấy khai sinh con mới 14.

- Mầy con ai ?

- Dạ …bẩm bác, cha con làm thợ mộc. Anh Hai của con đi làm việc nhà nước.

- Anh mầy làm gì?

- Dạ, bẩm bác, anh Hai con là thầy Phán Tuấn làm trong Tòa Sứ.

- Ủa, vậy he? Mầy là em thầy Phán Tuấn he?

- Dạ.

- Hèn chi mầy học giỏi. Ở nhà có thầy Phán dạy thêm cho mầy. Chớ con Tuyết, ổng làm quan Kinh lịch không biết chữ Tây, tao cũng không biết chữ, có ai dạy thêm cho con Tuyết đâu, hèn chi nó thi rớt.

Tuyết quay sang thưa mẹ:

- Con nhờ anh Tuấn mấy tháng nghỉ hè, mỗi buổi đến đọc dictée cho con viết để con tập cho quen, sang năm con thi chắc đỗ.

Mẹ của Tuyết gật đầu, bảo Tuấn:

- Ừ… Mầy tới đọc đít-tê cho nó viết rồi tao may cho mày cái áo cụt để thưởng công cho mầy. Mầy chịu không?

Tuyết vội ngắt lời:

- Ảnh tới đọc dictée dùm cho con, chớ đâu phải ảnh đi làm thuê mà mẹ may áo để trả công cho ảnh?

Nhưng Tuấn cũng vui vẻ đáp:

- Dạ, thưa bác, để con về xin phép cha mẹ của con và anh Hai con…

Kỳ nghỉ hè ấy, Tuấn được gia đình cho ở lại tỉnh, và mỗi sáng đến giờ ông Kinh-lịch đi làm việc trong dinh cụ Tuần, bà Kinh-lịch đi chợ, hoặc đi đánh bài tứ-sắc, thì Tuấn đội mũ trắng, mang đôi guốc cùn, đến nhà cô Ánh-Tuyết đọc dictée …

Đôi bạn trẻ học chung với nhau, viết dictée, làm toán, vẽ bản đồ Địa dư v.v… và trao đổi cùng nhau những chuyện ngây thơ êm đẹp. Mãi đến 11 giờ Tuấn mới về nhà.

2 tháng rưỡi sau, trước hôm Tuấn lên xe đi Qui-nhơn thi vào Trung học, Tuyết trao tặng Tuấn 10 chiếc khăn “mu-soa” do tự tay Tuyết thêu mỗi góc một chữ T và Tuyết khóc sướt mướt tiễn Tuấn lên đường...

Chương 25.

1920 – 1924

- Tình hình chính trị tổng quát ở toàn xứ, sau những vụ Phan-Xích-Long ở Saigon (1916), vụ Duy-Tân ở Huế (1916), vụ Đội Cấn ở Thái Nguyên (1917) và Phạm Hồng Thái ở Sa Điện (1923)

- Những ngày tàn của Nho học.

- Một lớp học chữ Hán sáng thứ Năm.

- Các cụ nhà Nho còn tôn kính "Hoàng-Thượng".

- Một lễ "Bái mạng" trước Hành Cung , có sự chứng kiến của các ông Tây bà Đầm.

- "Văn minh khắp cả hoàn cầu, ông sư cũng cúp cái đầu 3 xu".

- Sinh viên Cao Đẳng Hà Nội đã bắt đầu mặc đồ Tây trước tiên.

- Đá kiện, trò chơi phổ thông nhứt của học sinh.

Từ 1920 đến 1924, tình hình chính trị tổng quát ở toàn cõi An-nam có thể gọi là yên ổn. Từ thành thị đến thôn quê, uy quyền của nước Pháp đã được triệt để tôn trọng, địa vị của chính phủ thuộc địa đã vững chắc, không có gì làm lay chuyển được.

Tất cả các cuộc vận động cách mạng trong nước hoặc âm mưu khởi nghĩa, đều đã bị thất bại. Ở Saigon, vụ Phan xích Long đánh phá Khám lớn năm 1916, ở Bắc Kỳ, vụ Đội Cấn và đảng Việt Nam Quang Phục đánh chiếm tỉnh Thái Nguyên năm 1917, cho đến cả ở Quảng Châu, bên Tàu, vụ Phạm Hồng Thái ném bom ở tô giới Sa Điện toan giết viên Toàn quyền Merlin năm 1923 – không một cuộc hoạt động nào trên kia thành công, và tất cả những nhà ái quốc khởi xướng đều bị đàn áp, bị bắt, bị giết, hoặc bị đày đi xa. Trong toàn xứ An-nam, hình như không còn ai dám rục rịch nổi dậy đánh Tây, hoặc hô hào cách mạng nữa.

Nước Pháp lại vừa thắng nước Đức trong cuộc Thế giới Đại chiến 1914-1918, và cứ hàng năm, đến ngày 11 tháng 11 dương lịch là chính phủ thuộc địa ở Đông Dương tổ chức ngày lễ Chiến Thắng (họ gọi là “Fête de la Victorie") rất long trọng, uy nghi, hùng hổ, vừa để mừng một ngày kỷ niêm vẻ vang nhất của họ, vừa để nhắc nhở cho dân An-nam rằng nước Pháp rất hùng cường, vĩ đại, "văn minh bậc nhất trên tòan cầu". Người dân An-nam lúc bấy giờ cũng nhìn nhận rằng nước Pháp thật là văn minh, hùng cường hơn nước ta trên rất nhiều phương diện.

Phái nhà Nho "từ Tú-tài lên đến Tiến sĩ, Phó Bảng" mà có tinh thần chống Pháp, đã tham gia trực tiếp các phong trào cách mạng từ 1916, thì đã bị giết chết hoặc đi Hải ngoại, phần đông sang Nhật, sang Tàu. Một số bị đày ra Côn Lôn, nhưng lúc mãn hạn tù trở về làng xã, hầu hết là trước 1924, đều lo an-thường thủ phận, không hoạt động gì nữa cả. Một số đông các cụ mở trường tư ngay tại nhà dạy chữ Nho và chữ Quốc-ngữ cho một ít học trò nhỏ để vui qua ngày tháng, hoặc làm nghề Đông-Y, xem mạch, bốc thuốc, hoặc chuyên về khoa bói, quẻ Dịch, quẻ Lục-nhâm, tử-vi, tướng-số v.v… theo các sách Tàu.

Còn phái nhà Nho thụ động, không có tham gia một cuộc hoạt động chính trị nào cả, thì hoàn toàn ngưỡng mộ người Pháp và triệt để ủng hộ chính sách thuộc địa, triệt để trung thành với Hoàng Đế An-nam. Những ông Tú-tài có đôi chút thế lực, đem tiền lo lót - không có tiền thì bán đất bán ruộng - để được làm một chức quan nho nhỏ như Đề-lại, Thư-lại. Mấy ông Cử nhân thì được bổ đi Tri Phủ, Tri Huyện, Tri Châu. Một số Tú-tài, Cử Nhân khác ở nhà làm ruộng, tham gia vào việc làng xã, hoặc sống một cuộc đời nhàn hạ, uống rượu, ngâm thơ, làm đối, làm liễn dùm cho các người ít học và được dân làng trọng vọng như một bậc danh nhân ở địa phương.

Tuy từ năm 1919 không còn Thi Hương, Thi Hội nữa, và Nho-học đã chính thức bãi bỏ ở toàn xứ An Nam, bị chữ Pháp và chữ Quốc-ngữ hoàn toàn thay thế, nhưng chính phủ Nam triều vẫn còn dùng chữ Hán một cách mặc nhiên, người Pháp không ngăn cản. Chữ Nho bị bỏ, chứ không bị cấm. Cho nên, bên Hành Chính Thuộc Địa, các quan Tây thì dùng chữ Pháp; còn bên Hành Chính Nam Triều các quan An-nam vẫn dùng toàn chữ Nho. Các giấy tờ, công văn, từ Bộ về Tỉnh, từ Tỉnh về Phủ, Huyện, từ Phủ, Huyện về làng, đến năm 1924 vẫn còn áp dụng chữ Nho. Ngay ở các trường Tiểu học Pháp Việt, mỗi tuần vẫn còn 2 giờ học chữ Nho buổi sáng thứ Năm.

Theo chương trình tiểu học, lớp Nhất cũng như lớp Nhì A, Nhì B, và lớp Ba, đều phải học hai giờ chữ Hán sáng thứ Năm. Thầy dạy chữ Hán cho lớp Nhất của Tuấn học là một ông Tú-Tài, tên là ông Tú Cẩn. Một hôm đang học, bỗng có thanh tra người Pháp, tên là Délétie, ở Huế đi thanh tra các trường đột ngột bước vào lớp học, không báo tin trước cho thầy giáo và học trò biết trước. Ông Tú, khăn đen áo dài đen như thường lệ , đang đứng nơi bảng đen giảng nghĩa bài học về con Hoàng-ngưu ( con bò ). Ông dạy theo nghĩa từng tiếng một theo lối nhà Nho :

-"Kỳ nhục sở thực, Kỳ nhũ sử ẩm", nghĩa là "Sửa thịt khá ăn, sửa sữa khá uống".

Ông Délétie mà ai cũng biết là giỏi chữ Nho, trố mắt hỏi học trò:

- Các anh có hiểu lời giảng của ông Thầy không?

Dĩ nhiên, học trò chẳng ai hiểu cả. Ông Tây hỏi ông Tú:

- “Sửa thịt khá ăn, sửa sữa khá uống” là nghĩa làm sao?

- Dạ bẩm quan lớn, kỳ là sửa, nhục là thịt, khả là khá, thực là ăn … kỳ là sửa, nhũ là sữa … ông Tây cười xòa , rồi bỏ lớp đi ra.

Tuy nhiên, các ông Tú, ông Cử cuối cùng của mùa Hán-học đã suy tàn, còn có thể hãnh diện là đã có lần được lĩnh áo mão của Vua ban hồi các ông mới thi đậu, mặc dầu những ngày vinh quang ấy đã khá xa rồi.

Họ còn tôn kính Vua, thờ Vua, và luôn luôn, dù ở trong hương thôn, mỗi khi có dịp gì nói đến Vua, họ đều cung kính suy tôn Hoàng Thượng, hay là “Đức Hoàng Thượng".

Năm 1924, những ngày mừng vua Khải- Định được 40 tuổi (lễ Tứ-tuần). Tuấn-em có chứng kiến một buổi lễ phi thường, tại "Hành Cung" ở tỉnh. Lễ này được tổ chức khắp tất cả các tỉnh Trung-kỳ và Bắc-kỳ, trừ ra Nam-kỳ là "nhượng địa" của Pháp, không có. Tỉnh nào cũng có một Hành-Cung, là một gian nhà kiến trúc như một Cung điện nhà Vua, phía trước có sân Rồng lát gạch, và một cổng lớn có chạm rồng gọi là "Ngọ Môn".

Theo nguyên tắc, Hành Cung là tượng trưng Cung Điện của Hoàng Đế, khi nào vua đi kinh lý đến tỉnh, sẽ "ngự" nơi đây. Nhưng ít khi Vua đến. Vua ngự trị ở Huế, không bao giờ "Ngự du" đi đâu xa.

Cho nên Hành cung vẫn bỏ trống luôn luôn giữa ba bức thành bao bọc, cỏ mọc đầy sân, không có ai gìn giữ quét dọn, tuy là ở đối diện ngay trước dinh quan Tuần-vũ, hay quan Tổng Đốc, hai bên con đường chính nối dài từ Cửa Đông đến Cửa Tây. Chủ nhật, thứ Năm, bọn học trò tinh nghịch như Tuấn-em, thường rủ nhau đến đây chơi. Bởi không có lính canh gác, nên tui. con nít này tha hồ "ngự trị" trong Hành cung đào lỗ đánh bi, đánh đáo, và lấy gạch, lấy phấn viết, vẽ bậy bạ khắp các vách tường.

Thỉnh thoảng có trò đau bụng, ngồi làm bậy ngay một nơi góc tường của Hành cung, mấy trò khác bịt mũi cười la rất là náo động. Các chú lính lệ bên dinh quan Tuần bận uống rượu và đánh bài tứ sắc, và quan Tuần chễm chệ hút thuốc lào trong văn phòng có một chú lính đứng quạt hầu, không một ai hay biết lũ ôn con làm gì bên Hành cung.

Thế rồi, một buổi sáng Chủ nhật, Tuấn với mấy đứa bạn rủ nhau đến Hành cung để đánh bi, bỗng thấy cờ xí treo chung quanh, và lính Khố Vàng (của quan An-nam), lính Khố Xanh (của quan Tây) mặc lễ phục toàn màu trắng sắp hang đứng chật ních hai bên sân rồng. Chiếu hoa trải kín hết sân, và Cung điện quét dọn sạch sẽ, kết hoa lá, treo cờ Pháp, cờ An-Nam, giữa cung có đặt một "ngai vàng". Đó là một cái ghế fauteuil bằng mây, sơn màu vàng – kê trên một bục gỗ sơn màu đỏ.

Dân chúng không được vào trong, đứng đông nghẹt phía ngoài thành (thành chỉ cao độ 1 thước) chen lấn nhau để xem chốc nữa các quan lạy Hành cung, mừng lễ Tứ-tuần của Hoàng đế Khải-Định. Người ta đã cấm con nít không được vào trong, nhưng Tuấn cũng len lỏi thế nào để vào cho được, nhờ nó bé nhỏ và nó đứng nấp sau lưng một người lính khố xanh, cậu của nó.

Các quan An Nam đã lần lượt kéo đến rất đông và đã sắp hạng trên sân, tùy theo phẩm trật. Các quan nhỏ từ Thất phẩm, Lục phẩm, các thầy đề lại, các ông tú-tài, cử nhân đều mặc áo rộng xanh, đứng phía sau cùng, gần cửa Ngọ môn. Các quan Huyện, quan Phủ, đứng mấy hàng trước. Phía trước hết, các quan Án sát, Lãnh binh, cả các quan đã về hưu râu tóc bạc phơ, và riêng hang đầu là quan Tuần-vũ hay quan Tổng đốc. Mấy ông quan từ Ngũ phẩm trở lên đều mặc triều phục, mang hia, đội mũ cánh chuồn.

Đúng 9 giờ, các "quan Bảo Hộ" từ bên tòa Sứ đi xe hơi đến trước cổng Ngọ môn, được quan Tuần vũ đón chào và mời vào Hành cung. Tuấn nhận thấy có ông Sứ, ông Phó Sứ, ông Tây Kho bạc (ông này bị một chân thọt, thay bằng chân gỗ, học trò đặt cho ông biệt hiệu là “ông Tây Point-et-Virgule”, vì mỗi khi ông đi, chân thật bước một bước thì chân gỗ hất tới, y như thể một dấu chấm và một dấu phết). Ngoài ra, còn có ông Giám binh đồn lính Khố xanh, ông Tây Lục-lộ, ông Tây Giây thép, ông Tây Thương chánh, ông Kiểm lâm, ông Đốc-tờ, ông Cò, với mấy bà Đầm. Tất cả đều được quan Tuần vũ, chủ tỉnh An Nam, mời vào Hành cung. Họ đứng một dãy cách "ngai vàng" độ ba, bốn bước.

Chuông trống nổi lên, có một ông quan làm xướng ngôn viên, hô lên từng tiếng, nhịp với tiếng kèn tiếng trống theo trong nghi lễ. Các quan An-nam sụp xuống lạy. Nói là lạy Vua để mừng "Thánh Thọ" 40 tuổi, nhưng kỳ thực là lạy mấy ông Tây bà Đầm đứng trong Hành cung nhìn ra, chứ cái ngai vàng để trống có Hoàng Thượng nào “Ngự Tọa" đấy đâu. Các quan An Nam cúi lạy liên tục bốn lạy, đồng một loạt với nhau, trong lúc lính Khố xanh, Khố vàng bồng sung chào. Các “Quan Bảo hộ " và các bà Đầm đứng gần bên chiếc ngai vàng nhìn ra với cặp mắt tò mò, ngạc nhiên. Tuy họ vẫn giữ lễ độ đứng đắn nhưng không phải là họ không lộ ra đôi chút kiêu hãnh, khinh khi.

Tuấn-em nhìn thấy trong đám các ông Cử, ông Tú sụp lạy ở đằng sau cùng , có cả ông Tú Cẩn, là thầy dạy chữ Nho của Tuấn mỗi buổi sáng thứ Năm. Ông mặc chiếc quần trắng dơ bẩn và chít áo rộng xanh bạc màu, rách một miếng to tướng nơi cùi chỏ.

Trước khi đi Qui-nhơn để thi lên các lớp Trung-học Pháp-Việt (Collège Complémentaire francaise-indigène). Tuấn-em muốn hưởng cho hết thời niên thiếu trong ba tháng nghỉ Hè trong năm 1924. Vì bằng Tiểu học “Primaire” có thể được coi như gần dứt thời kỳ niên thiếu của chàng trai đất Việt, thời kỳ mà Tuấn-em đã sống đầy đủ, hăng hái, đôi mắt mở to, hai tai vểnh rộng, để nhìn thấy và nghe ngóng bao nhiêu những mới lạ, trong lúc giao thời của Đất Nước đang nô nức ùa theo phong trào mới của “Văn minh tiến bộ".

Như các bạn đã biết, phong trào ấy đã bồng bột từ 1910, thế hệ của Trần anh Tuấn – bây giờ là Phán Tuấn – cho đến 1924. Một thời đại mà ngày nay chúng ta có thể gọi là thời kỳ thiếu niên của một nước An Nam mới, đang dần dần cởi bỏ những lốt cũ kỹ nghìn xưa.

Tuấn-em sung sướng và có thể có đôi chút hãnh diện là đã được may mắn sinh nhằm thế hệ này. Chàng khôn lớn cùng một lượt với xứ sở đang vươn lên song song với những tiến triển nhanh chóng của dân tộc mà nếp sống vật chất và tinh thần đã khác nhiều so với thời kỳ trước Thế giới Đại chiến thứ Nhất, mở đầu Thế kỷ.

Nhận xét thật đứng đắn, ta thấy rằng tất cả mọi biến đổi trong thời kỳ ấy đều xảy ra một cách tuần tự lặng lẽ, gần như tự nhiên, không có một áp lực nào thúc đẩy, và cũng không có một trở ngại nào. Không phải một cuộc cách mạng xã hội, mà chỉ là một định mệnh, một sự kiện dĩ nhiên của Lịch sử mà chính những nhân vật đương thời, dù muốn dù không, cũng mặc nhiên công nhận, sẵn sàng để bị lôi cuốn theo.

Có điều nên lưu ý, là nếu “Đông và Tây không gặp nhau được" như lời của nhà văn Anh-quốc, Rudyard Kipling – và điều đó cũng đúng một phần nào, thì ta ngạc nhiên thấy rằng sự tiếp xúc đột ngột giữa hai văn hóa Pháp và Việt. Hai văn hóa cổ truyền của Tây phương và Đông phương cách biệt hẳn nhau, và trái ngược hẳn nhau, vẫn không gây ra một cuộc chống chọi nào cả. Xin nhắc rằng đây tôi không nói về phương diện chính trị và tôn giáo, mà nói tổng quát về văn hóa mà thôi. Trái lại, đã có nhiều cuộc phối hợp ngẫu nhiên và thuận lợi, nếu không thì cũng có sự dung túng và thông cảm với tinh thần hiểu biết rộng rãi, không nề hà câu chấp.

Nhiều biến đổi trái hẳn với nguyên tắc Khổng-giáo, như dân chúng xem thường ông Vua, trai gái học chung một trường, đàn ông đàn bà giao thiệp thân mật, đàn ông hớt tóc v.v…đã được mặc nhiên công nhận, không bị phản ứng nào mãnh liệt.

Hơn nữa, chính các ông Tú, ông Cử Nho học, cũng đã bắt chước cắt bỏ búi tóc tượng trưng cho lòng Hiếu đến với Cha Mẹ, và đã đua nhau “cúp đầu carré", phong trào đang lan tràn mau chóng nhất lúc bấy giờ.

Dân chúng ở hương thôn, thường là thủ cựu 100 phần 100, cũng đã rủ nhau ra huyện, ra tỉnh, để hớt tóc. Nghề hớt tóc đã thịnh hành, thợ hớt tóc đã mở tiệm khắp cả từ thành thị đến thôn quê.

Một câu ca dao xuất hiện thời bấy giờ, diễn tả rất vui vẻ và hóm hỉnh sự kiện thực tế ấy:

"Văn minh khắp cả hoàn cầu,
Ông Sư cũng cúp cái đầu 3 xu!"

Năm 1924, cúp cái đầu đã được coi là "bắt chước theo văn minh". Sự phối hợp giữa “mới" và " cũ " được biểu hiện rõ rệt ngay trên tấm quảng cáo bằng ba thứ chữ treo trước các tiệm hớt tóc An nam từ năm 1924 như sau đây:

(COIFFEUR - HỚT TÓC - TIỂN PHÁT)

Tuy nhiên, đến năm 1921, đại đa số thanh niên An nam vẫn chưa mặc âu phục, và chưa chào nhau bằng cách bắt tay. Ngay ở Hà Nội và Huế (Saigon có khác hơn vì gần gụi với Tây lâu hơn), chỉ có một thiểu số công chức, tư chức, làm việc trực tiếp với người Pháp -- nhưng cũng chỉ mới có một thiểu số thôi – là mặc âu phục gặp nhau bắt tay “bonjour" và dở mũ. Sinh viên trường Cao đẳng Đông Dương ở Hà nội cũng đã bắt đầu “mặc đồ Tây" theo các giáo sư Pháp.

Phụ nữ, dĩ nhiên chưa có một người nào uốn tóc, độn ngực, đeo xu-chiêng (Soutien-gorge), - kể cả các Bà, các Cô “tân thời" nhất. Hầu hết nữ sinh đều đi chưn không, các cô Trợ giáo mang guốc, đội nón.

Ở Nam Kỳ, đàn bà thành thị phần đông che dù, ngoài Bắc Kỳ che ô, ở Trung Kỳ đội nón gò găng, hoặc nón lá, thứ đẹp cho các bà các cô nhà giàu, thứ xấu cho phụ nữ bình dân.

Năm 1924, thiếu nữ miền Trung không ăn trầu nữa, nhưng một số đông còn nhuộm răng đen, và chưa dám mặc quần trắng (thời bấy giờ chỉ có con gái “nhà thổ”, gái điếm mới mặc quần trắng). Ở Nam Kỳ thì đã để răng trắng từ lâu, và mặc áo quần “bà ba" bằng hàng lụa ngoại quốc.

Về Thể thao, học trò lớn đã chơi ballon (Foot-ball, đá bóng). Tennis là môn chơi dành riêng cho hạng trí thức sang trọng và quý phái, phần nhiều chỉ chơi với Tây Đầm. Bóng rỗ và bóng bàn chưa được thông dụng trong đám thanh niên và học sinh.

Bọn học trò nhỏ, 15, 16 tuổi như Tuấn-em, chưa ham chuộng các môn Thể thao và cũng rất ít khi đi chơi lang thang ngoài phố. Môn chơi thịnh hành nhất trong đám học trò Tiểu học là “Đá Kiện". Có nhiều trò đá giỏi, đến 200 cái một lượt. Có khi bốn trò đứng bốn góc sân đá chuyền cho nhau một trái “kiện", hàng nửa tiếng đồng hồ mà trái "kiện" vẫn chưa rơi xuống đất. Tuấn-em môn nào cũng khoái chơi, đá kiện, đánh bi, đánh đáo, xích đu, bắt cóc, bắt thằn lằn, bắt dế.

Mấy thầy Trợ giáo và thầy Thông làm việc các sở, ngoài những buổi sáng xách ô đi tối xách về, thường tiêu khiển bằng âm nhạc An Nam (các cây đờn cổ điển) hoặc trồng bông, đánh cờ tướng, đi bẫy chim. Ít có ai đi câu cá hoặc đánh Tennis.

Có những thầy dùng cả những sáng Chủ nhật để lau chùi chiếc xe máy, là món đồ được đa số công chức tâng tiu nhất.

Trừ Hà Nội, Huế, Saigon, còn toàn xứ An nam chưa có tỉnh nào có rạp chiếu bóng. Mỗi tỉnh chỉ có một rạp: ở Nam Kỳ là hát cải lương (còn sơ khai), ở Trung Kỳ hát bội, ở Bắc hát chèo. Tất cả những tuồng hát đều có tính chất Khổng giáo, Phật giáo, nêu gương đạo đức, luân lý, và luôn luôn đến đoạn kết là kẻ hiền tài được thành đạt vẻ vang, được khán giả khâm phục, còn kẻ dữ, kẻ bất lương thì không tránh khỏi bị Trời phạt đích đáng và khán giả phê bình, nguyền rủa.

Nếu thỉnh thoảng một vài cô thiếu nữ đa cảm và nhẹ dạ mê kép hát đến nỗi trốn nhà đi theo chàng, thì toàn là những anh kép đóng vai oai hùng, hiệp sĩ. Những vai độc ác, bất nhân , bọn nịnh thần, quân phản chúa, dù cho hát hay thế mấy, cũng không bao giờ được ai khen ngợi, không đời nào được các cô gái say mê.

Đấy, tình hình tổng quát về tinh thần và vật chất của xã hội An Nam từ năm 1910 đến năm 1924, dưới cặp mắt quan sát tò mò của Tuấn-em, một thiếu niên nước Việt.

(Còn tiếp).


Nếu độc giả, đồng hương, thân hữu muốn: 

* Liên-lạc với Ban Điều Hành hay webmaster 
* Gởi các sáng tác, tài liệu, hình-ảnh... để đăng 
* Cần bản copy tài liệu, hình, bài...trên trang web:

Xin gởi email về: quangngai@nuiansongtra.net 
hay: nuiansongtra1941@gmail.com

*  *  *

Copyright by authors & Website Nui An Song Tra - 2006


Created by Hiep Nguyen
log in | ghi danh