Diễn đàn của người dân Quảng Ngãi
giới thiệu | liên lạc | lưu niệm

 April 12, 2025
Trang đầu Hình ảnh, sinh hoạt QN:Đất nước/con người Liên trường Quảng Ngãi Biên khảo Hải Quân HQ.VNCH HQ.Thế giới Kiến thức, tài liệu Y học & đời sống Phiếm luận Văn học Tạp văn, tùy bút Cổ văn thơ văn Kim văn thơ văn Giải trí Nhạc Trang Anh ngữ Trang thanh niên Linh tinh Tác giả Nhắn tin, tìm người

  Kiến thức, tài liệu
SỰ KẾT THÚC CHỦ NGHĨA ĐA VĂN HÓA? NHẬP CƯ VÀ SỰ HÒA NHẬP Ở ĐỨC VÀ VƯƠNG QUỐC ANH.
Webmaster
Các bài liên quan:
    CHÍNH SÁCH ĐA VĂN HÓA CỦA CHLB ĐỨC – THẤT BẠI VÀ ĐỊNH HƯỚNG (Trần Thị Khánh Hà)

 

(The End of Multiculturalism? Immigration and Integration in Germany and the United Kingdom)

By Laura Muchowiecka

Thái Hà dịch

The International Student Journal,

Vol 5, No 06, 2013. TN 2014

 

Trong một thời gian ngắn, nhập cư đã trở thành một trong những vấn đề lớn trong đời sống chính trị châu Âu và dư luận xã hội đặt câu hỏi về hiện trạng của những khái niệm như quyền công dân, tính dân tộc và sự gắn kết cộng đồng. Sự di cư bên trong biên giới của Liên minh châu Âu và, trên hết, sự nhập cư của người nước ngoài đã dẫn tới một hiện tượng được mô tả là chủ nghĩa đa văn hóa. Như Elliot và Lemert đề cập, ý niệm về chủ nghĩa đa văn hóa – mà gần đây được tuyên bố là một mô hình mới của không chỉ các nhà nước hiện đại tự do kiểu mới như Canada, Australia hay Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, mà còn của những nước ở Cựu Lục địa như Pháp, Hà Lan, Vương quốc Anh hay Đức, – ngày càng ít nhận được sự ủng hộ của mọi người. Sự ủng hộ, nếu đã từng có ở chừng mực nào đó, trở thành thái độ ác cảm chính thức và phổ biến đối với cả một vài nhóm nhập cư lẫn các cộng đồng sắc tộc thiểu số theo đúng nghĩa, và đối với chủ nghĩa đa văn hóa như là hệ tư tưởng của một chiến lược chính trị nói riêng. Thậm chí, có vẻ như là ý niệm đó trở thành vật tế của vài vấn đề xã hội như sự chia rẽ, đói nghèo, sự gia tăng về tỷ lệ tội phạm và thất nghiệp, chủ nghĩa cực đoan, các cuộc tấn công khủng bố, khi đề cập đến ngoài mấy lời buộc tội.

 

“Phần lớn giống như các vấn đề khó chịu khác của thời đại – chủ nghĩa hậu hiện đại, toàn cầu hóa, chủ nghĩa khủng bố,…  ý tưởng thuần túy về chủ nghĩa đa văn hóa – ý thức hệ – gây lo ngại quá mức so với những gì trên thực tế có thể xảy ra. Sự thực là cái thế giới mà nhiều người cho là họ đang sống trong đó thực sự đa dạng… Song, kỳ lạ là, vào lúc còn thịnh hành từ những năm 1990 khi ngày càng nhiều người bắt đầu tuyên bố đa văn hóa là một cách tư duy về các thế giới, thì những lời tuyên xưng của họ thường được chào đón với thái độ hoang mang”.

 

Những câu hỏi chủ chốt mà luận án này sẽ tìm cách giải đáp có liên quan tới những phản đối này. Những lời buộc tội này có chính đáng không và nếu có thì ở phương diện nào? Những băn khoan và lo ngại nào của xã hội hay được đề cập nhất về những người nhập cư và những thay đổi mà người nhập cư mang tới? Các nhà chức trách và các chính phủ có phản ứng gì trước sự định cư lâu dài của các dòng người nhập cư khác nhau? Để giải quyết vấn đề này, trước hết, tôi sẽ xem xét những nguyên nhân gốc rễ và khảo sát xem làm thế nào mà một số xã hội phương Tây lại trở nên đa dạng đến vậy về mặt sắc tộc, đâu là các nhóm nhập cư chính và họ hòa nhập như thế nào vào xã hội nước chủ nhà. Và cuối cùng: có hợp lý không khi nói đến sự khủng hoảng hay thậm chí là sự sụp đổ của chủ nghĩa đa văn hóa?

 

Những nước được chọn để phân tích là Vương quốc Anh và Đức. Từ khi kết thúc cuộc chiến tranh thế giới thứ II, cả Đức và Anh đều là điểm đến của các dòng người di cư khác nhau. Luận án này được chia thành 2 chương, trong đó mô tả cả hai nước theo cùng một cấu trúc: các tiểu mục đầu tiên nghiên cứu lịch sử nhập cư và các chính sách nhập cư, tiếp đó mô tả sự hòa nhập của những người có nguồn gốc nhập cư, sau đó đưa ra cái nhìn khái quát về các chủ đề tranh luận chính đề cập đến vấn đề nhập cư và chủ nghĩa đa văn hóa. Để hiểu được ý nghĩa của những vấn đề được bàn đến trong luận án này, cần phải đưa ra cơ sở lý luận và giải thích thuật ngữ “chủ nghĩa đa văn hóa”.

 

Chủ nghĩa đa văn hóa là gì?

 

“Theo học thuyết chủ nghĩa đa văn hóa của nhà nước, chúng ta khuyến khích các nền văn hóa khác nhau sống cách biệt, tách rời nhau và tách khỏi dòng chảy chính. Chúng ta không đưa ra một hình ảnh xã hội mà họ cảm thấy họ muốn thuộc về. Chúng ta lại còn cho phép những cộng đồng tách biệt này hành xử theo những cách thức hoàn toàn trái ngược với các giá trị của chúng ta”.

 

Những lời này của Thủ tướng Anh David Cameron nằm trong bài phát biểu của ông tại Hội nghị An ninh Munich vào tháng 2 năm 2011. Sự chỉ trích của ông về chính sách đa văn hóa lâu nay đã khuấy lên một cuộc tranh luận công khai về cái được cho là sự khủng hoảng hay thậm chí là sự thất bại của chủ nghĩa đa văn hóa. Những nhận xét phê phán của ông cũng nhắc đến một tuyên bố thường được trích dẫn của Thủ tướng Đức Angela Merkel vào tháng 10 năm 2010. Bà đưa ra những nghi ngờ của mình về chủ nghĩa đa văn hóa theo một cách thức kém phần tinh tế hơn khi tuyên bố những nỗ lực của đất nước tạo ra một xã hội đa văn hóa đã “hoàn toàn thất bại”. Họ chỉ là hai trong số ngày càng nhiều các nhà lãnh đạo châu Âu buộc phải đi đến cùng một kết luận về các cộng đồng thiểu số người nhập cư và sự thích nghi được cho là không thành công của họ vào các xã hội châu Âu.

 

Như vậy, rõ ràng là chủ nghĩa đa văn hóa trở thành một vấn đề gây căng thẳng và lo ngại trong đời sống chính trị châu Âu trong những năm gần đây. Nó cũng được phản ảnh trong các chuyên luận khoa học. Hãy nhìn vào một số tiêu đề gần đây của các học giả về vấn đề này như: Phản đối chủ nghĩa đa văn hóa, Sự kết thúc của chủ nghĩa đa văn hóa? Chủ nghĩa khủng bố, hội nhập và quyền con người: sự khủng hoảng và những thách thức mới?; Sự thuật được thuật lại: những diễn biến của cuộc khủng hoảng chủ nghĩa đa văn hóa; Suy xét lại chủ nghĩa đa văn hóa – là đủ để đồng ý rằng chủ đề này cũng gây tranh cãi trong các học giả. Những gì mà ba thập kỷ qua được coi là giải pháp cho một số vấn đề kinh tế và xã hội là sự mở rộng vinh quang của các phong trào nhân quyền, thì giờ đây ngày càng bị nhiều người đặt câu hỏi. Các lý do cho sự thay đổi này trong cách nhận thức về nó là rất phức tạp. Nhưng trước khi đưa ra những “cái cớ” chủ yếu về chủ nghĩa đa văn hóa ở Anh và Đức, cần phải nói về thuật ngữ “chủ nghĩa đa văn hóa”.

 

Phần khó khăn của chủ nghĩa đa văn hóa là ý nghĩa của nó mơ hồ và dễ thay đổi. Như Charles W. Mills viết, đó là cái “túi chụp khái niệm” của vài vấn đề liên quan tới văn hóa, chủng tộc và bản sắc của các xã hội đa sắc tộc phương Tây hiện đại. Trong khi mô tả thuật ngữ này, tôi sẽ dựa vào cách tiếp cận của Kenan Malik – nhà văn người Anh, diễn giả và tác giả của một cuốn sách mới xuất bản gần đây, Kết quả kỳ quặc: tại sao cả hai bên đều sai trong cuộc tranh luận về chủng tộc (Strange Fruit: Why Both Sides Are Wrong in the Race Debate). Ông lập luận rằng, các hiểu lầm về chủ nghĩa đa văn hóa nằm ở thực tế là thuật ngữ này có hai nghĩa khác nhau hiếm khi phân biệt được. Thứ nhất, thuật ngữ này ám chỉ những phản ứng nào đó của nhà nước trước sự đa dạng nhằm mục đích quản lý nó. Thứ hai, nó tiêu biểu cho “kinh nghiệm sống của chủ nghĩa đa văn hóa” – những thay đổi thực sự xuất hiện ở một số nước phương Tây bắt nguồn từ sự đa dạng hơn về sắc tộc và văn hóa. Hai khía cạnh này cũng được coi là mặt mô tả và mang tính quy chuẩn của chủ nghĩa đa văn hóa. Sự “khủng hoảng” hay “sụp đổ” của chủ nghĩa đa văn hóa đôi khi được ám chỉ tới nghĩa thứ nhất và đôi khi tới nghĩa thứ hai. Trong những nhận xét được đề cập ở trên của Thủ tướng Anh Cameron và Thủ tướng Đức Merkel, cả hai chính trị gia đều đặt câu hỏi về chủ nghĩa đa văn hóa theo nghĩa mang tính quy chuẩn (như là một “học thuyết”, một chính sách dựa trên triết lý về chủ nghĩa đa văn hóa). Tuy nhiên, một số chỉ trích nhằm vào chủ nghĩa đa văn hóa như là một trạng thái tồn tại của các dân cư khác nhau ngày nay Những chỉ trích này chủ yếu, song không ngoại lệ, là của giới cánh hữu phản đối mạnh mẽ sự nhập cư và dân nhập cư nói chung, và người Hồi giáo nói riêng.

 

Chủ nghĩa đa văn hóa theo nghĩa quy chuẩn được mô tả là “tán dương sự đa dạng văn hóa sắc tộc, khuyến khích các công dân thừa nhận và ủng hộ việc thể hiện các phong tục tập quán, các truyền thống… tồn tại trong một xã hội đa sắc tộc”. Trọng tâm của nó là ý niệm mang tính khẳng định về sự thừa nhận và tôn trọng chung đối với mỗi cộng đồng và những giá trị độc đáo của họ tạo nên một xã hội. Chủ nghĩa đa văn hóa được cho là thách thức các hệ thống thức bậc sắc tộc và chủng tộc trước kia khi nó ủng hộ niềm tin cho rằng không có nền văn hóa này tốt hơn hay xấu hơn – và không nền văn hóa nào có quyền chi phối nền văn hóa khác. Trên thực tiễn, chủ nghĩa đa văn hóa bao hàm nhiều biện pháp khác nhau song chúng không bao gồm một tập hợp chính sách. Những biện pháp này thay đổi ở mỗi nước song nhìn chung có thể nhận ra một số thông lệ và nguyên tắc chính, chẳng hạn như: sự thừa nhận công khai (ủng hộ đối với các tổ chức sắc tộc thiểu số), sự thừa nhận về mặt giáo dục (bao gồm kiến thức về các nền văn hóa khác nhau trong chương trình giảng dạy của nhà trường và thành lập các trường công và dân lập cho các tộc người thiểu số), sự công nhận về mặt pháp lý (bảo vệ khỏi sự phân biệt chủng tộc và cho phép một số ngoại lệ vă hóa trước các điều luật), sự thừa nhận về mặt tôn giáo (cho phép và ủng hộ việc duy trì nghi lễ tôn giáo của các tộc người thiểu số đối với nơi thờ phụng, nghỉ làm việc trong những ngày lễ tôn giáo chính).

 

Về nghĩa mô tả của chủ nghĩa đa văn hóa, có vẻ như nó rất giống với thuật ngữ “xã hội đa sắc tộc”. Một số người còn cho rằng, nên giảm bớt lối nói khoa trương của chủ nghĩa đa văn hóa theo hướng thuật ngữ không tới mức gây tranh cãi là chủ nghĩa đa nguyên (pluralism). Vì vậy, một số định nghĩa về xã hội đa sắc tộc cũng có thể nói đến chủ nghĩa đa văn hóa. Một trong số định nghĩa sẽ được sử dụng trong luận án này là sự mô tả phong phú và thích hợp nhất về vấn đề được thảo luận tới. Xã hội đa văn hóa, vì vậy, là một xã hội có “sự pha trộn giữa các dân tộc… vì họ pha trộn chứ không kết hợp. Mỗi nhóm đều có tôn giáo riêng, văn hóa và ngôn ngữ riêng, các ý niệm và lề thói riêng của họ. Với tính chất là các cá nhân, họ gặp nhau, nhưng chỉ ở chợ, để mua và bán. Đó là một xã hội đa sắc tộc, với các nhóm khác nhau trong cộng đồng sống bên cạnh nhau, nhưng tách biệt, trong cùng một thực thể chính trị”.

 

Đáng chú ý là, định nghĩa này được John S. Furnivall đưa ra để mô tả Myanmar, một trong những thuộc địa cũ của Anh. Sau nửa thế kỷ, bức tranh này liên quan tới tình huống của các nước hậu thuộc địa như Anh hay Pháp. Chiều hướng của các dòng di cư đổi chiều. Trong khi, trước kia, đó là những người châu Âu đến với tư cách là người nước ngoài, thì nay đó là những công dân của các khu vực hậu thuộc địa nhập cư vào các nước cựu thực dân của họ.

 

Người ta cũng có thể nói rằng, cách hiểu theo nghĩa mô tả này về chủ nghĩa đa văn hóa, vốn là nét đặc trưng của những xã hội mà các cộng đồng khác nhau trong đó sống “cạnh nhau nhưng tách biệt” – là kết quả của khái cạnh mang tính quy chuẩn. Nói cách khác, những chính sách nào đó (hoặc không có chúng) khuyến khích các nhóm nhập cư ở cạnh nhau và không coi bản thân họ là một phần của xã hội nước chủ nhà. Anh và Đức được gọi là các xã hội đa văn hóa, mặc dù con đường của họ khác nhau hoàn toàn cả về dòng nhập cư lẫn chính sách. Để hiểu tại sao gần đây người ta lại đặt câu hỏi về chủ nghĩa đa văn hóa như là “sự khoan dung tự do” được thể hiện trong các chính sách, chúng ta chỉ cần nhìn vào kinh nghiệm của cả hai nước này. Cả hai nước sẽ được bàn luận kỹ hơn trong phần chính của luận án, các trình bày ngắn gọn được đưa ra ở đây nhằm mục đích trả lời câu hỏi: đâu là con đường dẫn tới chủ nghĩa đa văn hóa của Anh và Đức.

 

Ba thập kỷ trước, Vương quốc Anh là một nơi khác với ngày nay. Chủ nghĩa phân biệt chủng tộc diễn ra hết sức mạnh mẽ và phổ biến. Các cuộc tấn công bạo lực vào người nhập cư từ những khu vực hậu thuộc địa chẳng hạn như châu Á và vùng Caribean diễn ra phổ biến. Sự phân biệt đối xử và bất bình đẳng ở nơi làm việc là căn bệnh địa phương. Thái độ hung bạo của cảnh sát đối với các tộc người thiểu số là hết sức nổi tiếng. Tất cả gây ra sự tức giận và nỗi thất vọng ngày càng tăng dẫn tới hàng loạt bạo loạn diễn ra ở London, Liverpool, Bristol, Brixton và các thành phố khác vào cuối những năm 70 và đầu những năm 80.

 

Các nhà chức trách địa phương thừa nhận tình huống này là hiểm họa và mối đe dọa đối với trật tự và sự ổn định của xã hội. Trong bối cảnh này, các chính sách chủ nghĩa đa văn hóa được đưa ra. Chúng bao gồm một loạt các chiến lược khác nhau về sự bình đẳng, chẳng hạn như thành lập các đơn vị liên quan tới vấn đề chủng tộc hay tài trợ cho tổ chức tộc người thiểu số. Chủ nghĩa đa văn hóa được đưa vào chương trình giảng dạy trong trường học như là một chương trình tạo cơ hội dạy cho trẻ em về những dấu hiệu nhận biết của các nền văn hóa khác như trang phục, ẩm thực hay âm nhạc (một việc mà sau này bị chỉ trích là hội chứng thiển cận “3S”: “trang phục sari, bánh gối và trống thép”). Các chính sách đa văn hóa không có nghĩa là giúp các tộc người thiểu số phát triển bản sắc Anh hay chấp nhận các tiêu chí và truyền thống của đất nước này. Mà đúng hơn là chúng trao cho họ quyền duy trì bản sắc của chính họ, lịch sử đất nước cội nguồn của họ và theo đuổi cách sống của riêng họ. Những khác biệt của họ còn được nhấn mạnh và tái khẳng định. Những người được coi là lãnh đạo cộng đồng của họ được đối xử như là những người đại diện cho các cộng đồng của họ – mặc dù những người này thường có quan điểm bảo thủ. Cũng có nhiều phong trào cấp tiến hơn song không được coi là mang tính đại diện.

 

Người Hồi giáo thường bị gắn liền với những người có quan điểm cực đoan hơn là với chủ nghĩa thế tục – và điều đó không thay đổi nhiều lắm. Theo đó, các chính sách đa văn hóa – nổi lên như là sự phản đối các bất bình đẳng không đáng về chủng tộc – thúc đẩy sự đa dạng mà nghịch lý là lại khẳng định các tộc người thiểu số như là những “người khác” chứ không phải là một phần của “bản sắc Anh”. Nó góp phần tạo ra những tình cảm cực đoan hơn ở những người Hồi giáo mà, ở chừng mực nào đó, dẫn tới các vụ rắc rối như các cuộc bạo loạn chẳng hạn giữa các cộng đồng người Banglades và Pakistan ở ba thành phố phía bắc vào năm 2001 và dẫn tới các cuộc đánh bom London vào năm 2005. Chủ nghĩa đa văn hóa được cho là nhân tố tạo ra không gian cho sự quá khích như vậy ở các tộc người thiểu số và, quay trở lại tuyên bố của Thủ tướng Anh Cameron, “khuyến khích các nền văn hóa khác nhau sống tách biệt nhau”, một việc mà ông cho là nuôi dưỡng các hệ tư tưởng quá khích.

 

Phản ứng của Đức đối với những người nhập cư thời hậu chiến lại khác. Không giống như Anh, các dòng nhập cư chủ yếu vào Đức không phải là kết quả của quá trình phi thực dân hóa mà là do sự thiếu hụt nhân công mà Đức phải đối mặt trong những thập kỷ thời hậu chiến. Nguồn nhân lực nước ngoài được tuyển chọn ồ ạt từ vài nước như Italy, Tây Ban Nha và Hy Lạp, và sau đó là Thổ Nhĩ Kỳ. Cả những người lao động lẫn nước tiếp nhận đều coi đó là sự di cư ngắn hạn – vì vậy, họ được gọi một cách đầy ý nghĩa là: Gastarbeiter (công nhân nhập cư), lao động nước ngoài vãng lai (guest worker).

 

Tuy nhiên, nhiều người trong số đó không quay trở về nhà, và như vậy, họ tạo thành các tộc người thiểu số ở đất nước tự nhận là nước không nhập cư. Đức không trở thành một xã hội đa văn hóa bằng bất kỳ “chính sách đa văn hóa” nào giống như Anh, mà do không có bất kỳ chính sách vững chắc nào về các tộc người thiểu số. Người Thổ Nhĩ Kỳ và những người nhập cư khác được phép ở lại song bị coi là người nước ngoài, có quyền giữ lại nền văn hóa riêng của họ chừng nào họ không gây ra vấn đề gì. Kết quả là, họ không được khuyến khích hội nhập mà trở nên xa cách với xã hội chủ đạo. Ở Đức, chủ nghĩa đa văn hóa diễn ra một cách vô định, nó đúng hơn là kết quả của sự phủ nhận quyền công dân của những người nhập cư. Có thể nói rằng, dựa vào cơ sở thiếu chiến lược đa văn hóa này, nhận xét của bà Merkel về sự thất bại của “multikulti” (chủ nghĩa đa văn hóa) nghe thật mỉa mai.

 

Phần 1: Đức

 

Trọng tâm của các đặc trưng tính dân tộc Đức chủ yếu nằm ở ý niệm về nguồn gốc chung: tính dân tộc Đức được hiểu là vấn đề giống nòi/dòng dõi. Vì vậy, sự định cư của những người di cư thuộc các nhóm sắc tộc khác sau Thế chiến thứ II dẫn đến những quan ngại sâu sắc của người dân. Mô hình chính của sự di cư dựa trên nền tảng “đa văn hóa” của xã hội Đức ngày nay được gắn với kinh tế. Quá trình công nghiệp hóa và sự tăng trưởng kinh tế nhanh chóng trong những thập niên sau chiến tranh làm nảy sinh nhu cầu to lớn về nhân công, dẫn tới các chính sách lao động nước ngoài vãng lai.

 

Người ta cho là các công nhân nước ngoài vãng lai sẽ quay trở về đất nước cội nguồn của họ và nước Đức, theo dự kiến, sẽ trở thành một đất nước thuần chủng như nó tự coi mình trước kia. Tuy nhiên, những người nước ngoài không chỉ ở lại mà còn mang cả gia đình của họ tới Đức. Bằng cách này, Đức gàn đây phải đương đầu với đòi hỏi cấp bách về khái niệm của nhà nước tự do hiện đại là xây dựng lại ý niệm của nó về quyền công dân, cho đến nay, dựa vào dòng dõi. Nói cách khác, Đức phải thừa nhận rằng vì Đức là nước nhập cư nên mọi người phải được ghép trở thành nước Đức cho dù không có nguồn gốc Đức. Mặc dù chủ nghĩa đa văn hóa chưa bao giờ nhận được sự tán thành hoàn toàn của người dân và thậm chí gần đây bị cáo buộc là đã thất bại, như đã đề cập ở phần giới thiệu, song động thái hiện nay của chính phủ là hướng tới một chính sách hòa nhập rõ ràng.

 

Chương này mô tả quá trình đầy thách thức mà Đức trở thành một xã hội đa dạng về sắc tộc, và chủ yếu đề cập đến những tranh cãi được dấy lên ở khắp nước Đức. Phần đầu sẽ tìm hiểu lịch sử di cư tới Đức sau Thế chiến thứ II, tập trung vào những nhóm nhập cư lớn và thái độ của người dân đối với họ. Phần thứ hai trình bày quá trình thay đổi các chính sách đồng hóa ở Đức và sự hòa nhập của những người dân có nguồn gốc di cư vào lĩnh vực giáo dục và kinh Đức. Phần 3 tập trung vào quan điểm của xã hội về những người nhập cư và tác động của họ tới xã hội Đức, chỉ ra những mối quan ngại lớn nhất về những người nhập cư và thảo luận về chúng dựa trên cơ sở số liệu thống kê và các quan điểm của chính phủ.

 

(còn tiếp)

 

Laura Muchowiecka

Thái Hà dịch

 

*  *  *

 

Xem bài có liên hệ với đề tài: click vào đây

Xem bài nầy bằng Anh ngữ: click vào đây

Xem trang Kiến thức, Tài liệu: click vào đây

More in English topic: please click here

Trở về trang chính: www.nuiansongtra.net

 


Nếu độc giả, đồng hương, thân hữu muốn: 

* Liên-lạc với Ban Điều Hành hay webmaster 
* Gởi các sáng tác, tài liệu, hình-ảnh... để đăng 
* Cần bản copy tài liệu, hình, bài...trên trang web:

Xin gởi email về: quangngai@nuiansongtra.net 
hay: nuiansongtra1941@gmail.com

*  *  *

Copyright by authors & Website Nui An Song Tra - 2006


Created by Hiep Nguyen
log in | ghi danh