PHÚ HỎNG THI.
Trần Tế Xương.
Đau quá đòn hằn, Rát hơn lửa bỏng.
Tủi bút tủi nghiên, Hổ lều hổ chõng.
Nghĩ đến chữ nam nhi đắc chí, thêm nỗi thẹn thùng.
Ngẫm đến câu quyển-thổ trùng lai, nói ra ngập-ngọng.
Thế mới biết học tài thi phận, miệng đàn bà con trẻ nói vậy mà thiêng,
Nào ai ngờ chữ tốt văn hay, tài Bảng-Nhỡn Thám-hoa lỡ ra cũng hỏng.
Có một thầy:
Dốt chẳng dốt nào, Chữ hay chữ lỏng.
Nghiện chè nghiện rượu, nghiện cả cao-lâu,
Hay hát hay chơi, hay nghề xuống lõng.
Quanh năm phong-vận, áo hàng Tàu, ô Nhật-bản xanh,
Ra phố xênh-xang, quần cát-bá, giầy Gia-định bóng.
Giá cứ chăm nghề đèn sách, thì mười-lăm mười-sáu đỗ tự bao giờ,
Chỉ vì quen lối thị-thành, nên một tuổi một già hóa ra lóng-đóng.
Tú rốt bảng giữa năm Giáp-Ngọ, nổi tiếng đầu trò,
Con nhà nghề ở đất Vị-Xuyên, ăn phần cổ nọng.
Năm vua Thành-Thái mười hai, Lại mở khoa thi Mỹ-trọng.
Kỳ đệ-tam văn đã viết rồi, Bảng đệ-tứ chưa ra còn ngóng.
Thầy chắc hẵn văn-chương có mực, mượn khách xem giò,
Cô mừng thầm mũ áo đến tay, gặp người nói mộng.
Sáng đi lễ Phật, còn kỳ nầy kỳ nữa thế là xong, Đêm dậy vái Trời, qua mồng-bốn mồng-năm cho chóng.
Nào ngờ:
Bảng nhỏ có tên,
Ngoại hàm còn trống.
Kẻ đến sáng vẫn còn được chấm, bảng cót nghênh-ngang,
Người ngồi khuya tên hãy được vào, áo dài lụng-thụng.
Thi là thế, học hành là thế, tri-kỷ cùng ai,
Người ở đây, hồn phách ở đâu, than thân với bóng.
Thôi thời thôi!
Sách vở mập mờ, Văn-chương lóng-ngóng.
Khoa trước đã chầy, Khoa sau hẵn chóng.
Yù có kẻ lo toan việc nước, vua chửa dụng tài,
Hay thiếu người dạy dỗ đàn em, trời còn bắt hỏng.
Trần Tế Xương.