THU QUYẾN RŨ
Sáng tác: Đoàn Chuẩn & Từ Linh
Ca sĩ: Thu Hà
Điệu: Boston
Tùy bút
THU VỀ NHỚ CỐ HƯƠNG.
Lê Bá Châu.
Cử đầu vọng minh nguyệt.
Đê đầu tư cố hương. (Lý Bạch). (1)
Con đường mòn chạy vòng sau lưng các cao ốc khu chung cư Vollsmose sáng nay trông khác lạ, tất nhiên chỉ đối với riêng tôi.
Trời nắng tốt nhưng cái giá buốt cuối Thu vẫn len qua lớp áo ẩm thấm vào tuổi già. Tôi bước đi, chân hơi khập khiễng trên con đường quá quen thuộc này. Bệnh thấp khớp cùng với mùa lạnh đã giữ tôi từ hai tuần nay trong bốn bức tường trêm cao ốc mười hai tầng này.
Khi rẽ vào đầu con hẻm vắng lót sỏi chạy dọc theo hồ nước nhỏ, tôi bắt đầu nhẩm Chú Đại Bi thở sâu và đều. Trước kia đọc bài “Phép Lạ Của Sự Tỉnh Thức” của thầy Nhất Hạnh dạy phương pháp thiền trong lúc đi, lúc làm việc, cả lúc rưả chén bát tôi thử niệm Nam Mô A Di dà Phật và quán niệm theo hơi thở. Nhưng tôi thấy phương pháp này hơi khó vì trí óc tôi luôn luôn bị xáo trộn vì cảnh sắc bên ngoài. Một tiếng chim vỗ cánh, một con thỏ rừng chạy vụt qua đủ làm tôi xao lãng và trí óc cứ triền miên quay về những chuyện đâu đâu, vui buồn, lo lắng, hờn giận.
Nhẩm Chú Đại Bi theo bước chân, tôi vừa dứt được những tạp niệm mà vẫn thưởng thức được ngoại cảnh. Như thường lệ, khi niệm xong ba lần chú tôi đến một khu rừng nhỏ và ngồi nghỉ chân trên chiếc băng gỗ đặt lui vào sau mấy khóm cây.
Sáng hôm nay tâm trí tôi không được thanh thản như thường lệ. Cảnh sắc có một cái gì khác lạ làm tôi xao xuyến, đúng ra như cố lôi kéo tôi trở về những khu trời nào đó nhạt nhòa ẩn hiện. Một cái bóng, một âm thanh lướt qua, tôi chụp lấy chúng. Vô ích chúng vượt đi biến mất rồi lại hiện ra như bóng ma.
Nhìn quanh, thì ra nãy giờ tôi đang ngồi lọt vào giữa một tấm màn toàn một màu vàng. Những bụi giẻ gai lá nhỏ và dày đan vào nhau như một tấm thảm xanh biếc đang đổi màu từ hồng sẩm sang vàng nhạt. Những cây sồi tùng đã rụng lá từ bao giờ trơ lại những cành khô khẳng khiu chỉ còn giữ lại ít ngọn sẩm màu đầu ngọn. Sau lưng tôi là một rừng phong, rừng du vàng ối.
Trong cái vắng lặng của khu rừng nhỏ, lá khô rơi vãi đầy lối đi làm tôi nghĩ đến một mùa thu nữa lại sắp qua, một bước đi nữa của thời gian của cuộc đời. Tự nhiên tôi liên tưởng đến một cảnh thu muộn tại một làng nhỏ quê tôi ở miền bắc Trung Việt.
Mà đâu phải riêng mình tôi mới có cảm nghĩ như vậy trong cái khung thời gian và không gian này.
Ngọn gió thu phong rụng lá hồng.
Lá rơi tường bắc lá sang đông.
Hồng rơi mấy lá năm hồ hết.
Ngơ ngẩn kìa ai mỏi mắt trông.
Ngọn gió thu phong rụng lá vàng.
Lá rơi hàng xóm lá bay sang.
Vàng rơi mấy lá năm già nữa… (Gió Thu - Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu)
Hoặc như Đào Tiềm than thở: “Lá thu đã rụng đầy ngõ, sao ta lại chưa trở về”.
Bây giờ thì tôi đã hiểu, sáng nay rừng lá đổ màu, cảnh sắc cuối thu đã lôi kéo tôi trở về quê hương. Những bóng ma quá khứ, tôi đã nhận ra nó dầu chúng ẩn mình sau lớp bụi mù của thời thơ ấu xa xôi. Đó là một bức tranh trong cuốn Quốc văn giáo khoa thư lớp dự bị (lớp tư).
Tranh vẽ một cụ già bận áo dài đen chít khăn đóng, tay chống gậy đang đứng ngơ ngẩn một mình bên hàng rào tre trong một ngõ vắng. Tôi thấy rõ cả con đường rải lá khô men theo hàng dậu thưa. Hình ảnh này nhiều vị ở lứa tuổi tôi có thể không nhớ, nhưng bài học thì không thể nào quên được.
Đó là bài “Chỗ quê hương là đẹp hơn cả”. Bài viết:
“Một người đi du lịch đã nhiều nơi. Hôm về nhà, kẻ quen người thuộc, làng xóm láng giềng đến chơi đông lắm. Một người bạn hỏi: “Ông đi du sơn du thuỷ, thế tất đã trông thấy nhiều cảnh đẹp. Vậy ông cho ở đâu là thú hơn cả?”
Người du lịch đáp lại rằng: “Cảnh đẹp mắt tôi trông thấy đã nhiều, nhưng không đâu làm cho tôi cảm động, vui thú bằng lúc trở về chốn quê hương, trông thấy cái hàng rào, cái tường đất cũ kỹ của nhà cha mẹ tôi. Từ cái bụi tre ở xó vườn, cho đến con đường khúc khuỷu trong làng, cái gì cũng gợi ra cho tôi những mối cảm tình chứa chan, kể không sao xiết được.” (2)
Thì ra trong tuổi thơ, chúng ta đã được nhen nhúm tình yêu quê hương.
Tôi cũng còn nhớ, lúc vào học lớp sixième (lớp 6) học sinh chúng tôi bắt đầu học vào văn học sử Pháp. Bài học đầu tiên là bài thơ của thi sĩ Joachim Du Bellay thế kỷ thứ 16.
Quand reverrai - je hélas, de mon petit village
Fumer la cheminée, et en quelle saison
Reverrai - je le clos de ma pauvre maison,
Qui m’est une province, et beaucoup davantage?
(Dịch: Biết đến lúc nào tôi mới thấy lại ngôi làng nhỏ của tôi, nhen lại lò sưởi, và mùa nào tôi mới thấy lại hàng rào căn nhà nghèo hèn của tôi, mà đối với tôi là một tỉnh thành và còn hơn thế nữa)
Cái tâm sự đó của Du Bellay, Đào Tiềm, Vi Ứng Vật cũng là tâm sự của biết bao chúng ta. Căn nhà nghèo hèn, ngôi làng bé nhỏ, đúng ra vào tuổi này tôi nên ở đó, và tại sao tôi không trở về nơi đó nhỉ?
Tiêu sơ phát dĩ ban
Hà nhân bất quy khứ.Vi Ứng Vật
(Dịch: Đầu lơ thơ vài sợi tóc thưa đã bạc sao không trở về)
Thời gian gần đây, bà con bạn hữu của tôi trở về thăm quê hương khá nhiều. Nỗi niềm tha hương ẩn dấu trong lòng bao nhiêu năm trước đây vì nhiều nỗi e ngại nay có thể bày tỏ tự nhiên. Năm năm, mười năm, mười lăm năm ở xứ người, không còn lo đói rét, không phải tính đến chuyện dành dụm cho tuổi già hay để lại ít nhiều cho con cháu, thế mà lòng kẻ xa quê vẫn thấy thiếu thốn một cái gì đó. Tuồng như ngọn lửa quê hương vẫn âm ỉ trong lòng.
Và như tôi sáng hôm nay khi nhìn rừng cây đổ màu vàng rực rỡ, lá khô rơi vãi trên lối đi, ngọn lửa nhỏ bừng sáng trở lại, trong khoảng khắc những hình bóng thân yêu lờ mờ hiện ra rõ nét dần không theo một thứ tự thời gian nào cả.
Tôi muốn thăm lại thằng cháu ngoại, ngày tôi ra đi nó còn ẵm ngửa. Không khéo tôi lại như Hạ Tri Chương, lúc già trở về làng, lũ cháu chắt lạ lùng hỏi: “Ông già từ đâu mà đến đây?”
Tuần trước, tôi xuống tận Swendborg thăm người bạn vừa về thăm quê. Tôi lặn lội đi xa như vậy vì anh bạn này ngày trước ở với tôi cùng xóm.
Quân tử cố hương lai
Ưng tri cố hương sự. (Vương Duy)
Ông bạn kể cho tôi nghe đủ thứ chuyện trên trời dưới đất bên nhà. Có nhiều chuyện như là chuyện tiếu lâm buồn cười chết đi được nhưng có lúc nụ cười như mắc nghẹn ở cổ, vì ta thấy bà con ta sao cơ cực đến như ậy. Cuối cùng thì tôi hỏi ông bạn y như trong bài học. Vậy chứ ở bển anh thích gì nhất. Anh trả lời không chút do dự:
“Tôi thích nhất chiều chiều mặc cái quần xà lỏn, áo may ô đi đôi dép dắt thằng cháu nội ngồi ngoài hiên nghe đủ mọi thứ tiếng đinh tai nhức óc”.
Ủa! thì ra hạnh phúc con người nhiều lúc chỉ có từng đó, đơn giản như vậy thôi. Mà có lẽ nếu tôi trở về thì cũng chỉ vì những cái đơn giản đó quyến rủ tôi, cũng có thêm vài thứ lỉnh kỉnh khác, ví dụ vài cọng bạc hà trong tô canh chua, vài ngọn lá chanh trong dĩa thịt gà bóp tiêu muối.
Có tiếng chó sủa làm tôi giật mình. Một bà già Đan Mạch đang dằng co với con chó của bà lớn gần bằng con bê. Cảnh tượng trông cũng ngộ nghĩnh, như là con chó dắt bà đi dạo.
Tôi đã ngồi đây lâu hơn thường lệ. Tôi ra về, theo con đường tắt ngược lên một con dốc, tâm tư nhẹ nhàng khác lúc ra đi. Con đường này băng qua một khu đất được chia thành nhiều mảnh vườn nhỏ. Có khá nhiều mảnh vườn của đồng hương sống trong khu Vollsmose này. Vào mùa hè ta dễ dàng nhận ra chúng với những luống cải tần ô, rau thơm xanh tốt.
Tôi sẽ ghé vào vườn rau của bác Th… nếu có bác tôi sẽ cùng bác uống ly trà đậm bàn chuyện đời, chuyện vặt vãnh của trăm năm trong cõi người ta.
Như vậy lúc trở về, tâm hồn tôi vô cùng thanh thản vì thấy mình được sống nửa ngày nhàn nhã trong kiếp phù sinh như cổ nhân đã nói: “Hựu đắc phù sinh bán nhật nhàn”.
Lê Bá Châu.
Odense, cuối Thu. (3)
Chú thích:
[Lưu ý: Chú thích (1) và (3) do Webmaster thêm vào. Chú thích (2) có sẵn trong bài tác giả gởi đến].
(1) Cử đầu vọng minh nguyệt/ Đê đầu tư cố hương (Ngẩng đầu ngắm ánh trăng đầy/ Cúi đầu bỗng nhớ những ngày cố hương) là 2 câu cuối trong bài “Tĩnh dạ tứ” (Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh). Bài thơ nầy có sự hiểu lầm của một số người đời sau, xin gởi đến quý độc giả thích cổ thư bài viết dưới đây: (Webmaster)
CÂU THƠ CỦA LÝ BẠCH BỊ HIỂU LẦM HƠN 100 NĂM: “ĐẦU GIƯỜNG ÁNH TRĂNG RỌI/ NGỠ MẶT ĐẤT PHỦ SƯƠNG”
Bài của Tiểu Lý.
Trên bầu trời thơ Đường, Lý Bạch chính là ngôi sao chói lọi nhất, tỏa ánh hào quang tận thiên thu. Thơ ông thấm đẫm phong cách trữ tình, lãng mạn, có phong thái siêu trần, thoát tục. Nhưng có một câu thơ kỳ lạ của thi nhân họ Lý đã bị hiểu lầm cả nghìn năm qua…
Câu thơ ấy nằm trong bài “Tĩnh dạ tư” nổi tiếng cổ kim. Đó là bài thơ đã gắn liền với tên tuổi của thi nhân họ Lý, được bao thế hệ độc giả mến mộ. Sử cũ ghi chép, năm 726 (Đường Thái Tông niên hiệu Khai Nguyên năm thứ 14), theo lịch cũ khoảng vào ngày rằm tháng 9, Lý Bạch mới 26 tuổi đang du ngoạn Dương Châu. Trong một đêm trăng sáng, Lý Bạch ngửa mặt lên ngắm ánh trăng sáng vằng vặc trên bầu trời, bất giác nhớ nhà, tức cảnh sinh tình rồi viết nên bài thơ thiên cổ ngàn năm sáng rọi.
Dịch âm:
TĨNH DẠ TỨ
(Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh).
Sàng tiền minh nguyệt quang
Nghi thị địa thượng sương
Cử đầu vọng minh nguyệt
Đê đầu tư cố hương.
Dịch nghĩa:
Đầu giường ánh trăng chiếu rọi.
Ngỡ là sương trên mặt đất.
Ngẩng đầu ngắm trăng sáng.
Cúi đầu nhớ quê cũ.
Dịch thơ:
Ánh trăng chiếu sáng đầu giường
Ngỡ là mặt đất phủ sương móc dày
Ngẩng đầu ngắm ánh trăng đầy
Cúi đầu bỗng nhớ những ngày cố hương. (Bản dịch Văn Nhược)
Xã hội hiện đại, lối nghĩ của con người đã chệch đi quá xa ý tứ của cổ nhân, rất nhiều câu chữ cổ bị mai một, ý nghĩa bị ngộ nhận, hiểu lầm. Trong bài thơ của Lý Bạch, câu: “Sàng tiền minh nguyệt quang. Nghi thị địa thượng sương” (Đầu giường ánh trăng sáng, ngỡ là sương trên mặt đất) thì chữ “Sàng” (床) ở đây bị hiểu lầm thành “giường ngủ”.
Thực tế, điều đó hoàn toàn không phải như vậy. Căn cứ theo khảo chứng của nhiều học giả, chữ “床 - Giường” có tới 5 kiểu giải thích:
1. Là nói về “Đài giếng” (井台), tức là mặt bệ thành giếng.
2. Là nói về Thành giếng (井栏). Thời cổ đại thành giếng còn được gọi là “Ngân giường” (银床). Căn cứ theo phát hiện của các nhà khảo cổ học, vào thời Trung Quốc cổ đại, khi đào giếng nước, người ta thường dùng gỗ để ghép lại làm thành giếng. Hơn nữa, thành giếng được làm cao hơn 1 mét, giống như một cái tủ gỗ hình vuông vây quanh miệng giếng, đề phòng không may có người ngã xuống. Ngoài ra về cách thiết kế thành giếng này cũng có phần giống với giường ngủ đương thời. Chính vì vậy mà nó còn được gọi là “Ngân giường”.
3. Là một cách gọi thông thường để chỉ “Cửa sổ” (窗).
4. Là cách gọi của “Chõng tre” (坐卧).
5. Là cách gọi của “Hồ sàng” (胡床), một loại ghế ngồi có thể gấp lại thời xưa. Nó còn một tên gọi khác nữa là “Giao sàng” (交床) hay “Giao kỷ” (交椅). Cho đến tận thời nhà Đường chữ “床 - Giường” vẫn được mọi người hiểu là “Hồ sàng” (胡床).
Do vậy, đa số các học giả đều nhận định chữ “床 - Giường” trong thơ Lý Bạch nên hiểu là “Mặt thành giếng”. Vậy nên, ý nghĩa chính xác của câu thơ này là trong một đêm trăng thu sáng tỏ, thi nhân đứng bên giếng nước ngẩng đầu ngắm ánh trăng, tức cảnh sinh tình viết ý thơ.
Lý Bạch sinh năm 701 tại Thanh Liên hương, Quảng Hán, Tứ Xuyên. Nơi đây vốn dĩ tên là Thanh Liêm hương, nhưng vì sau này Lý Bạch lấy hiệu là Thanh Liên cư sĩ nên đổi thành Thanh Liên hương. Tương truyền lúc ông sắp sinh, bà mẹ nằm mộng thấy sao Trường Canh. Vì sao này có tên là Thái Bạch nên bà đặt tên con là Bạch, ông mang họ Lý, nên gọi là Lý Bạch.
Lý Bạch ngay từ khi còn nhỏ đã bác học tinh thâm, ngoài kinh điển của Nho giáo, Thích giáo, Đạo giáo, văn ký nổi tiếng cổ đại ra còn học cả thi thư của bách gia, kiếm thuật. Ngay từ khi rất sớm, Lý Bạch đã chuyên tâm tu Đạo, thích ẩn cư nơi sơn cốc cầu Tiên tìm Đạo. Ông vân du sơn thuỷ, khổ cầu thuật đạo tu Tiên. Lý Bạch bản tính phóng khoáng, không thích sự gò bó, câu thúc nên được người ca ngợi gọi là “Thi Tiên”.
Đỗ Phủ từng nhận xét về ông như sau: “Bút lạc kinh phong vũ, thơ thành khấp quỷ thần“, ý rằng khi Lý Bạch hạ bút thì kinh động cả mưa gió, cảm động cả quỷ thần khiến tất cả phải rơi lệ. Hạ Tri Chương, một thi nhân nổi tiếng khác thời Đường từng tán thán rằng: “Lý Bạch là bậc Trích Tiên trên trời“, ý rằng nhà thơ là Tiên trên Trời bị giáng xuống cõi phàm trần.
“Tĩnh dạ tư” là một bài thơ nhuốm đầy u hoài. Thuở nhỏ, Lý Bạch thường lên đỉnh núi Nga Mi ở quê nhà ngắm trăng. Từ năm 25 tuổi, ông lên đường ngao du sông biển, rời xa quê nhà, từ đó cho đến lúc nhắm mắt xuôi tay chưa từng một lần trở lại. Cứ mỗi lần ngắm mảnh trăng trong treo trên bầu trời, họ Lý lại nhớ quê da diết.
Trong thơ Lý Bạch, hình ảnh ánh trăng xuất hiện dày đặc, đến nỗi người đời sau cứ mỗi khi nhắc đến Lý thì lại nhớ đến trăng, mỗi khi nhìn thấy trăng thì nhớ ra Lý. Viết về trăng hay nhất chính là Lý Bạch vậy. “Tĩnh dạ tứ” ngập tràn một màu hoài niệm, ngập tràn ánh trăng. Trăng soi tỏ khắp cả bài thơ, trên trời, dưới đất đến đầu giường, trăng soi cả vào lòng thi nhân, chiếu lên nỗi niềm tha hương của người khách tang hải nhớ quê mà chẳng thể trở về.
“Ngẩng đầu ngắm trăng sáng
Cúi đầu nhớ cố hương”.
Hai hành động chắc chỉ cách nhau một khoảnh khắc nhưng lại là hai trạng thái hoàn toàn khác biệt. Ngẩng đầu ngắm trăng là vui, là say cảnh đẹp. Cúi đầu nhớ quê là buồn, là u hoài, là thương tiếc. Ngẩng đầu – cúi đầu thoạt nhìn có vẻ chỉ là vài cử động giản đơn nhưng bên trong chất chứa tình ý sâu xa, là quan hệ nhân quả: Vì ngẩng đầu ngắm trăng mà chợt nhớ quê nhà.
Mà cái chợt nhớ ấy cũng không phải vô duyên vô cớ, bất thình lình. Chỉ khi trong lòng lúc nào cũng chất đầy một nỗi niềm nhớ thương đến thế thì khi bất ngờ gặp cảnh mới lại sinh tình làm vậy. Trong lòng người có tình, trăng chỉ là cái cớ, là chất xúc tác để thi hứng vút bay mà thôi. Thơ Lý Bạch tinh tế đến thế, thanh thoát đến thế, trong cảnh có tình, trong thơ có họa, thực làm người ta nghìn năm đọc hoài chẳng chán.
Tiểu Lý
19/11/2017.
Các bản dịch bài Tĩnh Dạ Tứ khác:
1.
Đầu giường ánh trăng rọi,
Mặt đất như phủ sương.
Ngẩng đầu nhìn trăng sáng,
Cúi đầu nhớ cố hương. (Bản dịch của Nam Trân).
2.
Trông trăng dọi trước giường
Những ngỡ đất mù sương
Ngẩng đầu nhìn trăng tỏ
Cúi đầu nhớ cố hương. (Bản dịch của Lê Nguyễn Lưu).
3.
Đầu giường trăng tỏ rạng
Đất trắng ngỡ như sương
Ngẩng đầu nhìn trăng sáng
Cúi đầu nhớ cố hương. (Bản dịch 1 của Hải Đà).
4.
Giường khuya trăng chiếu bời bời
Sương rơi phủ đất ngỡ đời chiêm bao
Ngẩng đầu trăng sáng trên cao
Cúi đầu ngấn lệ nghẹn ngào... cố hương. (Bản dịch 2 của Hải Đà).
5.
Đêm nay trăng sáng rọi đầu giường
Mặt đất hình như phủ kín sương?
Ngẩng mặt nhìn trời, trăng sáng quá
Cúi đầu suy ngẫm nhớ quê hương. (Bản dịch của Lão Nông).
6.
Ðầu giường vầng trăng gác
Trên đất phủ màn sương
Ngẩng lên nhìn trăng tỏ
Gục xuống nhớ quê hương. (Bản dịch của Túc Mỡ)
7.
Đầu giường ngó bóng trăng soi
Mơ màng ngỡ đám sương rơi mặt đường
Ngẩng đầu trăng sáng như gương
Cúi đầu sao nhớ quê hương ngàn trùng. (Bản dịch của Trúc Khê)
8.
Ánh trăng sáng đầu giường
Ngỡ mặt đất đầy sương
Ngẩng đầu trông trăng sáng
Cúi đầu nhớ cố hương! (Bản dịch của Hoàng Giáp Tôn)
9.
Ánh trăng sáng rỡ đầu giường,
Mà nhầm ngỡ đất đầy sương đây mà!
Ngẩng trông vằng vặc vầng nga,
Cúi đầu chạnh nhớ đâu là cố hương? (Bản dịch của Hoàng Giáp Tôn).
10.
Đêm khuya rọi ánh trăng ngà
Làm ta cứ ngỡ như là màn sương
Ngẩng nhìn trăng sáng đầu giường
Lòng ta dâng nỗi nhớ thương quê nhà. (Bản dịch của Demimia Nguyenduong)
(2): Người đi du lịch trả lời bạn, nhìn vào ngôi nhà trước mắt: “… trông thấy cái hàng rào, cái tường đất cũ kỹ của nhà cha mẹ tôi. Từ cái bụi tre ở xó vườn, cho đến con đường khúc khuỷu trong làng, cái gì cũng gợi ra cho tôi những mối cảm tình chứa chan, kể không sao xiết được.” (Quốc văn giáo khoa thư, lớp Dự bị).
(3): Thành phố Odense.
a. Tổng thể:
Odense là thành phố lớn thứ ba của Đan Mạch (sau Copenhagen và Aarhus). Tên Odense phát sinh từ Odin, tên một vị thần trong thần thoại Bắc Âu.
Odense có diện tích là 306 km² với 158.163 cư dân (theo thống kê ngày 1.1.2008), và là thành phố chính của đảo Fyn, đồng thời cũng là trụ sở của Thị xã Odense. Nhà ga xe lửa của thành phố nối giao thông đường sắt giữa Copenhagen với bán đảo Jutland.
Sau khi Đan Mạch xây Cầu Storebælt thay thế cho tàu phà qua Eo biển Storebælt, thì việc giao thông giữa Odense và Copenhagen rất thuận lợi và được rút ngắn thời gian rất nhiều.
Odense cũng là nơi đặt trụ sở của trường Đại học Nam Đan Mạch, và đài TV2 của Đan Mạch. Thành phố cũng có 1 sân bay nhỏ Sân bay Odense nằm ở Bắc Tây Bắc thành phố khoảng 10 km.
b. Lịch sử:
Odense (từ chữ Odins Vi = "nơi thiêng liêng của thần Odin") là một trong các thành phố lâu đời nhất của Đan Mạch. Năm 1988, thành phố đã tổ chức mừng sinh nhật thứ 1.000 của mình bằng việc trồng 1 rừng cây, gọi là Rừng 1.000 tuổi (Tusindårsskoven).
Trong thế kỷ 16, thành phố đã là nơi hội họp của nhiều nghị viện và cho tới năm 1805 là trụ sở của Hội đồng tỉnh Fyn.
Trước khi có Cuộc cách mạng công nghệ Đan Mạch, Odense là thành phố lớn thứ nhì, nhưng nay đứng sau thành phố Aarhus.
c. Các nhân vật nổi tiếng:
. Nhà văn nổi tiếng thế giới Hans Christian Andersen sinh tại Odense ngày 2.4.1805. Một ngôi nhà ở cổ thành đã được dùng làm nhà bảo tàng với bộ sưu tập lớn các tác phẩm cùng các vật dụng của ông ta. Cả ngôi nhà mà ông ta sinh sống thuở thiếu thời cũng trở thành nhà bảo tàng.
. Nhà soạn nhạc cổ điển Carl Nielsen cũng sinh gần Odense, và thành phố cũng có 1 nhà bảo tàng dành riêng cho ông ta.
. Vua Knud IV cũng gọi là thánh Knud (khoảng 1043 - 17.7.1086), sinh tại đây và khi chết được chôn trong Nhà thờ chính tòa của thành phố cũng mang tên ông.
. Kỹ nghệ gia kiêm chủ ngân hàng Carl Frederik Tietgen sinh tại Odense ngày 19.3.1829. Ông ta là người sáng lập ngân hàng tư đầu tiên ở Đan Mạch (Private Bank, nay là Nordea) và một số công ty sản xuất kinh doanh lớn, trong đó có DFDS, B&W, Danisco, và Tuborg.
. Kỹ nghệ gia Thomas B. Thrige sinh tại Odense ngày 5.5.1866.
. Diễn viên Ove Sprogøe (21.12.1919 - 14.9.2004), cũng là người Odense, nay có 1 quảng trường ở trung tâm thành phố mang tên ông ta.
. Caroline Wozniacki (sinh 11 tháng 7 năm 1990) là một nữ vận động viên quần vợt nổi tiếng. (Theo Wikipedia).
* * *
Xem bài cùng một chủ đề: click vào đây
Xem trang Kiến thức, tài liệu: click vào đây
Xem bài trang Tạp văn tùy bút: click vào đây
Trở về trang chính: http://www.nuiansongtra.net