Diễn đàn của người dân Quảng Ngãi
giới thiệu | liên lạc | lưu niệm

 April 09, 2025
Trang đầu Hình ảnh, sinh hoạt QN:Đất nước/con người Liên trường Quảng Ngãi Biên khảo Hải Quân HQ.VNCH HQ.Thế giới Kiến thức, tài liệu Y học & đời sống Phiếm luận Văn học Tạp văn, tùy bút Cổ văn thơ văn Kim văn thơ văn Giải trí Nhạc Trang Anh ngữ Trang thanh niên Linh tinh Tác giả Nhắn tin, tìm người

  Văn (Kim văn)
TUẤN CHÀNG TRAI NƯỚC VIỆT (Ch.31-35)
NGUYỄN VỸ
Các bài liên quan:
    TUẤN CHÀNG TRAI NƯỚC VIỆT (Ch.36-40)
    TUẤN CHÀNG TRAI NƯỚC VIỆT (Ch 26-30)
    TUẤN CHÀNG TRAI NƯỚC VIỆT (Ch.21-25)
    TUẤN CHÀNG TRAI NƯỚC VIỆT (Ch.16-20)
    TUẤN, CHÀNG TRAI NƯỚC VIỆT (Ch.11-15)
    TUẤN CHÀNG TRAI NƯỚC VIỆT (Ch.6-10)
    TUẤN, CHÀNG TRAI NƯỚC VIỆT (Ch.1-5)
    TUẤN, CHÀNG TRAI NƯỚC VIỆT (Tựa)
    NGUYỄN VỸ, NHÀ VĂN NƯỚC VIỆT

TUẤN CHÀNG TRAI NƯỚC VIỆT
Nguyễn Vỹ.

Chương 31.

1926.

- Lễ truy điệu cụ Phan Chu Trinh do học sinh tổ chức lén trên núi.

- Các giáo sư diễn tuồng cải lương mừng lễ “Hưng Quốc Khánh niệm” của Gia Long

- Truyền đơn của “Dân Việt Cách Mạng Đảng”

- Đấu khẩu giữa một nhóm Nam Nữ học sinh chống Pháp và một ông Lý trưởng nịnh Pháp.

Mấy tháng sau, tháng 3 năm 1926 tin cụ Phan Chu Trinh tạ thế ở Saigon bay ra khắp nước, mãnh liệt như một làn thuốc súng.

Đám táng của cụ ở Saigon thành ra một đám tang chung cho toàn quốc. Một số học trò Trường Trung học Qui-nhơn nghe tin ấy một buổi tối thứ sáu, do một người từ Saigon đem về. Tức thì đêm ấy một nhóm độ 10 trò rủ nhau đến nhà thầy Đổng sĩ Bình để hỏi xem tin kia có đúng không, và phải làm thế nào?

Thầy Bình đang gục đầu khóc nức nở trước một hương án, trên đó thầy đã treo một bức ảnh của cụ Phan Chu Trinh đặt một lư trầm khói bay nghi ngút, một bình hương, một cặp đèn nến cháy đỏ bừng, với một bình hoa phượng. Tụi trò Tuấn bỏ cả quốc ngoài hè, đứng vòng tay lễ phép một bên. Nhìn lên ảnh cụ Phan, trò nào cũng rưng rưng nước mắt. Bỗng dưng không ai bảo ai, các trò đến qùy sụp xuống hết trước bàn thờ, sau lưng thầy Đổng sĩ Bình, và khóc cả lên một lượt, ầm ĩ cả nhà.

Sau đó, thầy Bình cho mấy cậu học trò biết rằng chính thầy cũng mới nhận được giây thép báo tin buổi chiều trong lúc thầy đang làm việc trong Toà Sứ. Đợi mãn giờ làm việc, thầy vội vàng đạp xe máy về nhà thiết hương án để vọng bái cụ.

Hôm ấy là 26 tháng 3, Cụ Phan Chu Trinh tạ thế tại Saigon lúc 9 giờ rưỡi đêm 24.

Gần 2 giờ khuya các trò ra về, mang nặng trong lòng một mối tang chung, và thầm thì với nhau sắp đặt lễ truy điệu cho toàn thể nhà trường.

Lễ truy điệu cụ Phan Chu Trinh do một nhóm học trò trường trung học Qui-nhơn tổ chức lén lút trong đêm thứ Bảy 27-3 và sáng Chủ Nhật 28-3-1926 có thể coi mhư là một chứng dẫn cảm động nhất của lòng yêu nước nhiệt thành của thế hệ thanh niên Việt Nam thời bấy giờ.

Tôi nói: Nhiệt thành, vì lòng sùng bái đối với cụ Phan Chu Trinh xui họ tự động tổ chức lấy, do một nhóm 10 cậu học trò hăng hái vận động từ hai hôm trước và đa số tán thành. Nhưng họ không dám tổ chức công khai trong thành phố.

Nhóm 10 cậu cầm đầu có 5 cậu ở lớp Đệ Tam niên và năm cậu ở lớp Đệ Nhị niên, trong đó có các trò Quỳnh, Tố, Thu, Hảo, Tuấn. Trong số 5 anh lớn ở Đệ Tam niên có anh Trọng, người đeo kính cận thị, cao lớn nhất và học lười nhất, chỉ thích vô Saigon mở tòa báo để mời ông Hồng Tiêu làm chủ bút.

Sau một buổi nhóm âm thầm bí mật ở nhà trọ anh Trọng hồi 7 giờ tối thứ Bảy, mỗi trò phải lập tức chạy đi từng nhà trọ rủ anh em góp tiền và hẹn sáng sớm hôm sau là Chủ Nhật phải đi lên núi Xuân Quang làm lễ. Căn dặn với nhau đi bằng xe máy hay đi bộ như đi chơi thường đừng để người ta chú ý, và không được đi chung đông người. Tiền góp mỗi trò 5 xu, để mua nhang đèn và nếu có thể được thì mỗi trò sẽ đem theo một miếng vải đen để tang.

Ở trong buổi nhóm ra, Tuấn chạy đến nhà trọ của hai cô bạn gái lớp Nhất, Trâm và Anh. Hai cô rất sốt sắng tán thành ngay. Vì giờ đó không thể mua vải ở đâu được. Anh vội vàng đi lấy chiếc áo dài đen còn mới của cô bằng vải trăng đầm và không do dự lấy kéo cắt phăng một cánh tay áo, làm được ba cái băng tang, cho Tuấn một, Trâm một và Anh một. Trâm thì lấy tiền riêng chạy ra phố mua ba thẻ nhang và sáu cây đèn bạch lạp. Trâm và Anh lại bảo nhau sáng sớm trước khi đi bẻ mấy cành hoa phượng để đem cắm trên bàn thờ cụ. Hai cô dặn Tuấn đến đi với hai cô, và đi bộ, đi thật sớm, lúc hừng đông, trước khi mặt trời mọc. Lúc bấy giờ hầu hết phụ nữ ở Trung kỳ và Bắc kỳ đều chưa biết đi xe đạp. Ở Saigon và lục tỉnh cũng chỉ có một số rất ít chị em mới tập đi xe máy đầm. Học trò gái đi học toàn đi bộ, mặc dù nhà trọ ở xa trường.

Tuấn còn chạy đi rủ các bạn khác. Giữa đường gặp Quỳnh, Quỳnh hỏi thật khẽ:

- Mầy rủ được mấy đứa rôì?

Tuấn cũng trả lời rất khẻ:

- Được 20 đứa …Còn mầy?

- Tao rủ được 35 thằng lớp Đệ Nhất niên. Mày có cho bọn học trò con gái biết không?

- Có. Trâm và Anh. Anh xé cánh tay áo dài đen làm cho tao cái băng tang.

- Mày sướng quá vậy. Tao chưa có băng tang. Mày trở lại con Anh, biểu nó làm cho tao một cái được không?

Tuấn gãi đầu:

- Được. Để tao bảo nó cái băng của tao ra làm đôi, mỗi đứa một nửa.

Theo “chương trình” – tạm gọi là chương trình, vì sự thực không có chương trình và chính “ban tổ chức” cũng không có. Chỉ có anh Trọng và 9 đứa với nhau sơ sài rôì mạnh ai nấy đi cổ động riêng. Theo sự dặn dò với nhau thì lễ truy-điệu phải làm ngay lúc mặt trời mới mọc.

Bảo nhau rằng làm lễ truy điệu trên núi Xuân Quang nhưng sự thật Tuấn không biết làm chỗ nào, vì núi Xuân Quang ở phía Bắc trường học Qui-nhơn là một dẫy núi dài. Các trò chỉ biết là đi dọc theo con đường lớn lên miệt nhà quê, rôì đến đấy gặp nhau sẽ liệu.

Tuấn đi với Trâm và Anh, từ lúc gà mới gáy vào khoảng 5 giờ. Thành phố hãy còn ngủ thim thíp. Các anh cu ly kéo xe cũng còn ở nhà ngủ, chưa có một bóng anh nào lảng vảng ở ngoài đường. Trâm và Anh hơi sợ, vì sắp sửa dự vào một việc nguy hiểm. Hai cô học trò lớp Nhất mơí 15 tuổi đã biết gì đâu, tuy là hăng hái, do trò Tuấn xúi giục rủ reng. Hai cô tóc kẹp, đội nón Huế, chân mang quốc, vẫn chưa biết là lén lút như thế này đến dự lễ truy điệu cụ Phan chu Trinh ở một nơi kín đáo trên núi sẽ có hậu quả như thế nào? Nhưng Trâm và Anh đều hoàn toàn tin tưởng nơi Tuấn, cho nên Tuấn đi giữa, hai cô đi hai bên, kề sát vào nhau như người anh cả 16 tuổi đi với hai cô em gái 15 tuổi, vừa đi vừ thầm thì trò chuyện.

- Anh Tuấn ơi, tụi mình làm lễ đề tang cho cụ Phan chu Trinh, lỡ ông Đìa-réc-tơ biết, ổng có đuổi không anh?

- Không lẽ đuổi cả trường à?

- Nhưng chắc gì bữa nay có cả trường đi lễ?

- Không có cả trường thì cũng có một nửa. Nội đêm hồi hôm, một mình tôi đi rủ được 30 đứa. Không lẽ còn mấy anh kia không rủ được ba trăm đứa sao?

- Các ông giáo có dự không anh?

- Ai mà dám cho ổng biết - Lỡ thứ Hai vô học các ông biết thì sao?

- Nếu có chuyện gì, thì tôi với mấy anh kia chịu.

- Không, nói thế chứ các anh bị cái gì, thì tụi em cũng bênh các anh.

Câu chuyện thầm thì đến đậy, xem chừng như nghẹn nơi cổ rôì. Tuấn và Trâm, Anh, đều làm thinh, không ai nói gì nữa.

Đến đầu làng Xuân Quang đã thấy anh Trọng, Quỳnh, Tố và 5, 6 trò khác tụ họp nơi chân núi đá. Mấy người này đi xe máy đã đến trước. Anh Trọng và hai trò đi vào một nhà tranh gần núi. Không biết họ nói cách nào mà họ mượn được một cái bàn cũ kỹ, khiêng ra đặt ngay trên bãi cỏ xanh. Mặt trời đã rạng đông, và lần lượt học trò kéo tới, hầu hết là đi xe máy, chở nhau mỗi xe hai ba trò. Cũng có nhiều trò đi bộ. Tuấn lăng xăng với Quỳnh, Hảo và anh Trọng, sắp đặt cho anh em dựng xe máy vào các tảng đá, và kê dọn bàn thờ. Đầu tiên, trò Quỳnh lấy tấm ảnh cụ Phan Chu Trinh, cắt trong quyển sách "Quân trị chủ nghĩa và Dân trị chủ nghĩa “của cụ Phan, do một người ở Saigon đem ra bán mấy hôm trước. Tấm ảnh đẹp, gương mặt cụ Phan thật là oai nghiêm. Anh Trọng trở vào túp lều tranh ban nãy, mượn được chiếc bài vị cúng thần thổ địa. Anh em mừng qúa, cười rộ lên. Tuấn và Quỳnh xúm lại lấy cơm nguội trét dán ảnh cụ Phan Chu Trinh lên trên bài vị .Bắt đầu có ảnh cụ Phan đặt trên bàn thờ anh em đã thấy rạo rực trong lòng, và nét mặt người nào người nấy tự nhiên buồn rầu, cảm động. Không ai dám cười giỡn.

Trâm và Anh đưa ra bó hoa phượng. Tuấn chạy vào nhà anh dân quê kia mượn được chiếc bình mẻ đem ra, để cắm hoa. Các bạn khác cũng vào núi bẻ rât nhiều hoa rừng đặt phủ kín bàn thờ.
Nến và hương thắp thật nhiều, chung quanh ảnh cụ Phan khói bay nghi ngút. Anh Trọng lớn hơn hết, có vẻ ngưòi anh cả thật sự, bảo anh em đứng sắp hàng cho có trật tự. Tuấn và Quỳnh đi sắp đặt chỗ, để Trâm và Anh đứng gần bàn thờ, còn học trò trai, cả thảy gần một trăm người mặc toàn áo trắng dài, đứng sắp hàng hai bên.

Mặt trời vừa mọc, chói rực trên mặt biển Qui-nhơn, chiếu những tia vàng trên sườn núi. Gió thổi hiu hiu mát rượi. Cảnh vật chung quanh hoàn toàn yên tỉnh. Chẳng có một người dự vào, trừ hai vợ chồng dân quê và mấy đứa con tò mò đứng ngó nơi sân nhà. Anh Trọng đứng trước bàn thờ, Tuấn một bên, Quỳnh một bên. Thấy anh Trọng qùi xuống. Tuấn và Quỳnh cũng bắt chước quỳ. Anh Trọng móc trong túi ra một tờ giấy để đọc. Đó là bài văn tế cụ Phan Chu Trinh mà anh soạn lúc nào không ai biết, Tuấn cũng không biết. Giọng anh run run với những câu như:

“…Thưa cụ, chúng con là học trò khờ dại, nhưng nghe tin cụ mất ở Nam kỳ, chúng con cũng đau đớn vô cùng. Chúng con thương khóc cái chết một bậc anh hùng của quốc dân An nam, một bậc đại chí sĩ đã nêu gương ái quốc cho thanh niên chúng con. Trong lúc đồng bào khắp nơi đều khóc cụ, chúng con tụ hợp nơi đây với chút lòng thành, một nén hương, một ngọn nến, chúng con xin vong linh cụ chứng giám cho…”.

Anh Trọng đọc chưa hết đã gục đầu xuống khóc. Tuấn và Quỳnh cũng khóc. Rồi tất cả học trò đều khóc.

Lần lượt anh em đến trước bàn thờ cụ, cung kính quỳ xuống lạy. Trâm và Anh khóc nhiều hơn cả . Xong rôì anh Trọng nói:

- Tôi có đem theo đây một vuông vải trăng-đầm đen và cái kéo. Cô Trâm và cô Anh cắt giùm ra làm băng tang cho anh em đeo. Ai có rồi thì lấy ra đeo, để tang cho cụ.

Buổi lễ truy điệu cụ Phan chu Trinh rất giản dị và trọng thể, đã cử hành được hoàn toàn mỹ mãn. Xong kẻ rũ nhau đi chơi núi, một tốp đi về đường Lò Bò, một tốp đi băng đồng cát, còn vài chục trò đi theo đường quan lộ. Trâm và Anh rủ Tuấn cùng về, đi bộ.

Nhưng gần đến phố, sợ thiên hạ thấy trai gái đi chung với nhau, Tuấn từ biệt Trâm và Anh, và băng qua động cát, phía sau trường.
Sáng hôm sau, thứ Hai, vào trường học, một số độ chừng sáu bảy chục trò còn đeo băng đen trên cánh tay. Mấy trò khác cất băng ở nhà không dám đeo đến trường.

9 giờ, học trò lớp Tuấn đang ngồi nghe Ông giáo sư An nam giảng Vật lý học, thì anh cai trường xuống, cầm một tấm giấy nhỏ đưa ông giáo sư. Ông trố nhìn giấy, nét mặt nghiêm khắc, gọi:

- Tuấn! Quỳnh!, Thu!, Hả! A la Direction!

Bốn trò tái mặt, đứng dậy ra đi. Cả lớp đều tỏ vẻ lo sợ.

Đến văn phòng, ông Tổng Giám thị đưa bốn người vào gặp ông Đìa-réc-tơ.

Tụi này cúi đầu chào. Ông Daydier, với nét mặt hầm hầm hỏi Tuấn:

- Mày để tang cho ai đấy?

Trò Tuấn ấp úng trả lời:

- Dạ …thưa… tôi để tang cho Ông nội tôi.

Ông Daydier trợn mắt:

- Ông nội mầy đã chết hai chục năm rôì, bây giờ mầy mới để tang hả?

Tức thì ông Daydier đánh vào má Tuấn một tát tay. Tuấn nghe một tiếng “Pâng!” kinh khủng! Tuấn xiểng liểng, muốn té xỉu luôn.

Rồi ông quay lại trò Quỳnh:

- Còn mầy?

Quỳnh chưa trả lời, cũng bị ông tát một tát kinh hồn. Hảo, Thu đều bị như thế. Xong, ông đuổi bốn đứa về lớp, không nói thêm một câu.

Bốn đứa lặng lẽ đi về lớp thì giữa hành lang gặp người cai trường và ba anh nữa ở lớp Đệ Tam niên xuống văn phòng. Tuấn chỉ cho anh Trọng cái vết tát tay còn đỏ bừng trên má trò, và khẻ bảo:

- 36 ngón nến!

Trông nét mặt anh Trọng y người tù sắp sửa lên máy chém.

Học trò xầm xì hỏi nhau:

- Không biết đứa nào mét với ông Đốc? Nếu không có thằng chó nào làm “ráp bo” cho ổng, thì làm sao ổng gọi đúng tên tất cả mấy đứa bày đầu.

Người tức giận nhất là anh Trọng. Anh này từ trước đến giờ vẫn hiu hiu tự đắc là người có cái xác cao lớn nhất trong trường, học Đệ Tam niên cũng lại là lớp cao nhất, với đôi kính cận thị ra vẻ đạo mạo tiên sinh, thế mà bây giờ bị ông Đìa đánh ba bạt tay nổ đom đóm, làm anh mất hết thể diện với lũ học trò em út. Đâý là anh nghĩ thế, nhưng sự thật thì học trò cả trường đều thương anh, chớ có đứa nào khinh khi hay chế nhạo anh đâu.

Nói cho đúng, tất cả mấy trò bị ông Đốc Daydier đánh tát tay đều không có oán giận ông Đốc, vì học trò thời bấy giờ vẫn còn theo lễ giáo ngày xưa, kính trọng thầy, và sợ thầy, không dám hỗn xược, không dám phản đối… Mình sùng bái cụ Phan Chu Trinh, thì lòng mình cứ sùng bái cụ, nhưng không phải vì thế mà mình oán thù ông Đốc trường, mặc dầu bị ông đánh chảy máu răng. Anh Trọng lý luận rằng mình làm lễ truy điệu và để tang nhà cách mạng Phan Chu Trinh là một việc hãy còn làm lén lút riêng trong đám học trò, chứ đồng bào trong thành phố có ai dám đề xướng ra lễ truy điệu đâu? Đến cả thầy Đổng sĩ Bình cũng chỉ lập bàn thờ riêng trong nhà để thờ cụ và khóc lạy cụ một mình.

Nhưng anh Trọng cũng như mấy trò kia tức giận là tức giận cái thằng bạn chó má nào đã đi mét với ông Đốc vụ lễ truy điệu cụ Phan Chu Trinh? Anh Trọng, trò Quỳnh, trò Tuấn, trò Hảo, trò Thu đều nghi cho trò Thức và trò Trâm. Nghi cho trò Thức ở Đệ Tam niên vì thường nhật trò này được ông Đìa thương nhất. Nghi trò Trâm vì trò này giỏi toán nhất lớp Đệ Nhị niên, thường được ông giáo sư toán là Gabriel cưng nhất, Gabriel là ông giáo đã chửi Tuấn một câu: “An-na-mít là giống người bẩn thỉu, giống mọi rợ".
Hôm lễ truy điệu, Thức và Trâm đều không có đi dự lễ. Đấy chỉ là điều nghi ngờ, có thể là nghi oan cho hai người bạn vô tội, nhưng từ hôm đó cả trường đều ghét Thức và Trâm.

Cho đến các em lớp nhỏ ở lớp Tư lớp Năm, cũng chỉ trỏ hai người kai mà nói xầm xì với nhau: “Hai cái anh lớn đó vậy mà làm điềm chỉ cho ông Đốc, mầy ơi”.

Buổi sáng, mấy trò đeo băng đen trên mũ và nơi cánh tay đã bị Ông đìa tát tay cho trò nào trò nấy xiểng liểng, thì buổi chiều không còn trò nào dám đeo băng đen nữa. Tội nghiệp cho trò Lý ở lớp Đệ Nhất niên để tang thật sự cho mẹ đã hơn một năm, từ hôm đó đi học cũng không dám đeo băng tang cho mẹ nữa.
Thái độ mấy ông giáo sư An nam, đối với cái tang cụ Phan Chu Trinh, thì hoàn toàn lãnh đạm, cũng như hầu hết các thầy thông, thầy phán làm việc ở các tòa và các sở nhà nước. Đại đa số dân chúng trong thành phố đều sung bái cụ Phan Chu Trinh và cụ Phan Bội Châu, nhưng họ sợ tù tội, không dám thổ lộ công khai. Sau khi nghe vụ học trò làm lễ truy điệu cụ Phan Tây Hồ ở trên núi Xuân Quang, nhiều người chủ tiệm buôn trách móc: "Sao mấy trò không cho tui biết với, để tui gởi nhang đèn bánh trái lên cúng Cụ?". Đaị khái dư luận dân chúng trong thành phố đều hoan nghênh vụ học trò làm lễ truy điệu cụ Phan, mặc dầu sự hoan nghênh ấy đã muộn.

Trò Tuấn cất cái băng tang trong va li để làm kỷ niệm, mãi 10 năm sau vẫn còn.

Trong lúc ở Qui-nhơn, học trò tự động làm lễ truy điệu cụ Phan Chu Trinh lén lút ở trên núi, thì ở nhiều nơi khác lễ truy điệu được tổ chức công khai, như ở Saigon, Đà Nẵng, Hà Nội. Đặc biệt ở Saigon là nơi cụ Phan Chu Trinh chết, đám tang của cụ đã thành ra Quốc Táng của người An nam, trước cặp mắt thù ghét của người Pháp.

Cụ Phan mệnh chung tại một căn nhà đường Lagrandière (đường Gia Long bây giờ) và đám tang của cụ do một Ủy ban tổ chức gồm những nhân vật trí thức có tên tuổi, được dân chúng tín nhiệm. Hầu hết những nhân vật ấy, Trạng sư, Kỹ sư, Giáo sư, Ký giả, lúc bình nhật đều có thành tích hoạt động chính trị công khai, vì Saigon là nhượng địa của Pháp theo chế độ tự do của Pháp. Tuy thế, thanh niên và nam sinh và nữ sinh các học đường, chỉ tham gia một phần nào thôi, dưới sự dẩn dắt của người lớn. Ở đây, mọi việc đều có các giới trí thức lo liệu, thanh niên không có tự động tổ chức như ở các tỉnh Trung kỳ và ở Bắc kỳ.

Lớp trẻ hăng hái hoạt động cách mạng ở Saigon trong lúc này như Nguyễn An Ninh, Trương Cao Động, Phan Văn Hùm, Diệp Văn Kỳ v.v…và vài năm sau có Vũ Đình Duy, Cao văn Chánh… Tuy nói là thanh niên nhưng đã đều xấp xỉ hoặc trên 30 tuổi, và hầu hết là những trí thức đã thi đỗ Tú tài, Cử nhân ở các đại học Pháp. Các lớp trẻ gọi là học trò từ Trung học trở xuống hãy còn là những con chiên hiền lành, ngoan ngoãn, chưa có ý thức rõ rệt về cách mạng, hay là theo đúng danh từ thông dụng lúc bấy giờ, là “quốc sự". Năm 1925-26, hai chữ “cách mạng" chưa được phổ biến trong đại chúng.

Ở Trung kỳ, lễ truy điệu cụ Phan Chu Trinh được tổ chức công khai ở Tourane, nay gọi là Đà Nẵng. Thành phố này cũng là nhượng địa của Pháp, theo chế độ đặc biệt của Pháp, được phần tự do hơn. Ủy ban tổ chức ở đây do một nhóm nhân sĩ Nho học và Tây học, phần nhiều là bạn đồng chí của Cụ Phan tây Hồ, quê quán ở Quảng Nam.

Nam nữ học sinh đại diện hai trường Quốc học và Đồng Khánh ở tận Huế đi xe lửa vào Tourane để dự lễ, vì chính ở Huế, kinh đô của nhà Vua, lễ truy điệu bị cấm.

Ai cũng biết rằng cụ Phan Chu Trinh là kẻ thù số 1 của Vua Khải Định, hay là nói ngược lại, vua Khải Định là kẻ thù số 1 của nhà cách mạng Phan Chu Trinh. Khải Định đã chết (tháng 11-1925), trước cụ Phan mấy tháng (tháng3-1926), nhưng cái chết của Khải Định, ngoài đám tang theo nghi lễ rầm rộ của triều đình Huế, không được dân chúng, và thanh niên thương tiếc và chú ý đến.
Cụ Sào Nam Phan Bội Châu đã được về an-trí ở Huế nhưng cụ chỉ đánh giây thép và gửi câu đối vào Saigon để phúng điếu cụ Phan Tây Hồ, chứ cụ không được tòa Khâm sứ Huế cho phép vào Saigon đưa đám cụ. Cụ Phan Bội Châu cũng không được vào Tourane để chủ lễ truy điệu cụ Phan Chu Trinh, tuy nhượng địa Pháp chỉ cách kinh đô Huế 100 cây số.

Ban tổ chức truy điệu cụ Phan Tây Hồ ở Tourane lại còn quyên được một số tiền của các đồng chí địa phương để xây cất một nhà thờ cụ Phan ở đường Verdun.

Ở Hà nội, lễ truy điệu cụ Phan Chu Trinh được tổ chức tại Đền Hai Bà Trưng, ở ngoại ô thành phố khoảng cuối đường Armand Rousseau, thuộc làng Đồng Nhân. Ủy ban tổ chức Hà nội cũng gồm các nhân sĩ cách mạng, đồng chí của cụ Tây Hồ như cụ Nghè Ngô Đức Kế, cụ Cử Dương Bá Trạc. Một số sinh viên Đại học ở trường Cao Đẳng Đông Dương (Université Indochinoise) và Học sinh trường Lycée du Protectorat (trường Bưởi) Trường Bưởi, trung học Pháp Việt tự động đến tham gia buổi lễ.

Ban tổ chức lễ Truy điệu cụ Phan Chu Trinh tại đền Hai Bà Trưng lúc đầu hơi thắc mắc vì không biết nên đặt bàn thờ cụ Phan ở chỗ nào. Bàn thờ giữa đền thì đã có hai pho tượng cao lớn của Hai Bà, tượng gỗ, nhưng chạm trỗ thật đẹp, bà chị mặc áo vàng chít khăn vàng, bà em mặc áo đỏ chít khăn đỏ, rất là oai vệ.

Chẳng lẽ đặt bàn thờ cụ Phan Chu Trinh trước pho tượng Hai Bà?
Sát bên hông Đền, có chùa thờ Phật. Chẳng lẽ đặt bàn thờ cụ Phan trong điện thờ Phật? Sau cùng do đề nghị của đám sinh viên Cao đẳng và Học sinh trường Bưởi, bàn thờ cụ Phan được đặt vào vách tường phía bên trái bàn thờ Hai Bà. Thành ra hôm lễ Truy điệu cụ Phan Chu Trinh, ban tổ chức Hà nội phải làm lễ tế luôn Hai chị em Bà Trưng.

Sau lễ truy điệu, bàn thờ cụ Phan được để luôn đấy. Nhưng vài năm sau, mỗi năm đến ngày lễ tế Hai Bà, mấy Hương chức làng Đồng Nhân sợ ở tù, chỉ cúng lạy Hai Bà mà không dám cúng lạy cụ Phan . Bàn thờ cụ Phan ở bên cạnh không được chút nhang khói. Hai pho tượng hai vị Nữ Anh Hùng, cầm kiếm đứng oai nghiêm trên bàn htờ, chứng giám bọn con dân cung kính quỳ lại Hai Bà, còn cụ Phan Tây Hồ trong chiếc ảnh lồng kiếng, với mái tóc chải bồng, hai chùm râu mép giống như Napoléon III, với cái nơ đen xinh đẹp thắt nơi cổ áo sơ mi, ngồi trố mắt nhìn im lặng …Một tấm vải đỏ phủ lên trên khung ảnh, đã bị bụi dính mốc meo, không ai lau chùi.

Nhưng đến ngày giỗ Cụ, có một số người trai trẻ đến cho ông Từ vài ba đồng bạc, để nhờ ông mở cửa Đền (cửa hông) cho họ vào cúng nhà chí sĩ Việt Nam mà đồng bào hầu như đã quên lãng. Mấy người này lặng lẽ thắp một nén hương, đốt vài ngọn nến, rồi thay phiên nhau quỳ xụp xuống lạy. Mười lăm phút sau, họ ra về lặng lẽ như khi họ đến. Họ là những người trẻ tuổi vô danh, không đại diện cho ai cả. Nhưng họ là những chàng trai của đất Việt, không bao giờ quên ơn bậc chí sĩ bất khuất đã đạo tạo tinh thần bất khuất cho họ. Họ là những người con, cụ là người cha của thế hệ.

Vào khoảng nửa tháng sau lễ Truy điệu cụ Phan Chu Trinh, ở Qui Nhơn học trò bàn tán xôn xao về việc mấy ông Giáo sư An Nam bỗng dưng hăng hái tập ca cải lương. Thật là một điều mới lạ. Mấy ông Đốc (Đốc học, lúc bấy giờ chưa gọi là Giáo sư) thuộc vào giới thượng lưu trí thức trong thành phố, từ trước đến giờ vẫn có một nếp sống trưởng giả, đêm nào cũng tụ họp nhau lại để cờ bạc, xổ tam hường hoặc đánh tổ tôm, tài bàn, sao bây giờ các ông lại tự nhiên rủ nhau đi học ca cải lương? Mỗi đêm bắt đầu vào khoảng 7 giờ người ta thấy quý ông Đốc tụ họp tại nhà một Thầy Trợ Giáo (nay gọi là giáo viên) để học đờn và học ca những bản Hành vân, Lưu thủy, Tứ đại oán, Nam ai, Nam bình v.v…của một tuồng cải lương tựa là "Gia Long phục quốc". Hăng hái nhất trong việc này lại chính là ông Đốc Tr. giáo sư Lý Hóa, một ông giáo nghiêm khắc nhất và được học trò sợ nhất. Thật không có gì buồn cười bằng một ông Đốc dữ tợn khét tiếng ở trường, lại tập đóng vai đứa ở trong tuồng cải lương, nhưng vẫn mặc đồ Tây sang trọng, đeo cà vạt, tay cầm cái chổi cau mà hát theo điệu "Khổng Minh tọa lầu”.

Sáng dậy sớm quét nhà Quét nhà gánh nước nâú cơm Ra cái thân ở mướn Phải cái nghe lời thầy Miễn cho người yêu chuộng thì thôi Miễn cho người yêu chuộng thì thôi…

Mấy tối liên tiếp, Tuấn cứ đến nhà thầy trợ Liễn, đứng thập thò ngòai cửa để xem ông Đốc Tr. tập đóng vai đứa ở và ca bài cải lương trên kia. Trò không nhịn cười được liền cười rồ lên và bị ông Đốc Tr. chộ mặt. Sáng hôm sau vào lớp, đến giờ Vật Lý học, trả lời vấp một chữ là Tuấn bị ông Tr. cho "zéro" liền và đuổi xuống chỗ.

Dần dần một tháng sau học trò cả trường mới biết rằng theo lệnh Triều đình và tòa Khâm Sứ Huế, lễ Tết mồng Năm tháng 5 âm lịch năm ấy sẽ bị bãi bỏ và thay thế bằng Lễ Quốc Khánh ngày 2 tháng 5 An Nam là ngày vua Gia Long đã tòan thắng Tây Sơn, lên ngôi Hòang Đế và sáng lập triều Nguyễn. Đó là Lễ Quốc Khánh đầu tiên của nước An nam và được cử hành rất long trọng ở hai xứ Trung Kỳ và Bắc Kỳ. Xin nhớ rằng lễ Quốc Khánh chính thức ở tòan cõi Đông Dương dưới quyền đô hộ của Pháp là "Lễ Chánh Trung "14 tháng 7 dương lịch mà thường dân vẫn gọi là Lễ "Cách tót ruy dê".

Lần đầu tiên nước An Nam được phép tổ chức ngày lễ Quốc Khánh mồng 2 tháng 5 Âm lịch cũng gọi là ngày lễ "Gia Long Phục quốc". Nghe đồn rằng Quan Công Sứ của Pháp đã giao phó công việc tổ chức cho các ông Đốc An nam ở trường, cho nên mấy ông này sốt sắng lo ngày đêm làm sao cho ngày lễ được long trọng để được Quan Sứ khen. Theo chương trình thì có hai cuộc vui lớn nhất trong đêm mồng 1 tháng 5; học trò rước đèn, và các ông Đốc (giáo sư) cùng các thầy trợ giáo ca cải lương.

Tuồng cải lương do một anh soạn tuồng chuyên môn tên là anh Tám, vừa dàn cảnh vừa điều khiển các diễn viên tòan là mấy ông Đốc và mấy Thầy.

Đúng 7 giờ tối, tòan thể học trò trường Nhà Nước, đều phải tụ họp đông đủ tại sân Công quán (nhà Hội của các quan An nam) và được giao cho mỗi trò một cây đèn bánh ú. Tất cả đều sắp hàng tư trước cổng ngó ra đại lộ. Đúng 8 giờ, đám rước đèn bắt đầu khởi hành. Hai người Lính Tập (Lính khố xanh) thổi kèn, đi trước một toán lính tập 12 người sắp hàng hai, mặc lễ phục trắng, vai mang súng cầm lưỡi lê. Rồi đến học trò cầm đèn. Toàn thể học trò được lệnh của ông Đìa-réc-tơ phải tham dự đông đảo cuộc rước đèn. Trò Tuấn và một nhóm độ vài ba chục học trò đã định với nhau là lẻn ở ngoài để coi, nhất định trốn việc cầm đèn. Không dè số đèn thì dư mà số học trò thì thiếu. Thấy thế ông Đốc T. chạy đi kiếm lũ học trò lười biếng, lén lút lẫn trong đám đông dân chúng đi coi. Trò Tuấn núp sau lưng một người đàn ông, bị ông Đốc Tr. trông thấy, đánh một tát tay, rôì ông bắt cầm một cây đèn bánh ú đứng sắp hàng vào đám rước. Tất cả các trò lười biếng trốn tránh đều lần lượt bị chộ mặt hết và cũng bị đánh bạt tay như Tuấn.

Đi tiền phong đám rước đèn của học trò, trước cả lính kèn, là một trò cầm cây cờ Pháp, lá cờ thật lớn, mới tinh, ba màu xanh trắng đỏ nổi bật lên rực rỡ dưới ánh đèn và ánh đuốc của mấy người lính cận vệ đi hai bên.

Tuy là ngày "lễ Quốc Khánh An nam" nhưng không có chưng cờ An nam (nền vàng với một rẻo xanh trắng đỏ ở góc phía trái), mà chỉ có mỗi một lá cờ Pháp rộng lớn bay phất phới trên hàng đầu đám rước. Dĩ nhiên hai bên hàng phố của người An nam và người Tàu đều treo cờ Pháp. Đám rước đèn đi từ Công quán ngang qua đường phố chính, thẳng xuống Tòa Sứ, cách xa gần hai cây số. Có thể đoán chừng rằng 4000 dân chúng trong thành phố đều có mặt ở đấy. Họ đứng chen chúc hai bên lề đường để xem đám rước đèn và trầm trồ khen ngơị. Tất cả đều nô nức, hân hoan, cả học trò, giáo sư trợ giáo, thầy thông, thầy phán, binh lính, cai đội và dân chúng, đàn bà, đàn ông, con trai, con gái.

Chỉ có hai người không đi dự cuộc vui công cộng ấy. Thầy Đổng sĩ Bình, Thông phán tòa Sứ, người Huế và ông Đốc Bính, giáo sư Quốc văn, người Bắc. Họ không thèm đi.

Nhà ông Đốc Bính ở ngay trước Công quán, nơi khởi điểm của tất cả các cuộc vui chơi náo nhiệt.

Tất cả các nhà cùng dãy, đến vài chục căn, đều mở cửa, treo cờ tam tài, người đứng đông đảo hân hoan, xem quan cảnh tưng bừng của dạ hội "Quốc Khánh”, Tuấn để ý thấy duy có mỗi căn nhà của ông Đốc Bính là đóng cửa kín mít mà không treo cờ.
Thầy phán Đỗng sĩ Bình thì đem ấy nằm nhà làm thơ "cách mạng"và thắp đèn hương trên bàn thờ cụ Phan chu Trinh. Ngay chiều hôm ấy, ba bốn đứa học trò rủ Tuấn đến thăm thầy. Thầy bảo, với nét mặt hầm hầm, giận dữ:

- Vua Gia Long là một kẻ bán nước. Hắn đem Tây về lấy nước An nam. Hắn rước voi về dày mồ. Tây họ khôn, họ thấy cụ Phan Bội Châu và cụ Phan Chu Trinh về tuyên truyền cách mạng, họ sợ quýnh cho nên họ bày đặt ra cái lễ Quốc Khánh An nam để vỗ về dân An nam, để lừa gạt dân An nam, và để tăng uy tín cho giòng Vua Triều Nguyễn. Các anh em học trò có hiểu không?

Sự thật thì học trò đâu có hiểu sâu xa như vậy. Tuấn cũng như tất cả thanh niên đồng lứa, hãy còn khờ dại, tuy đầu óc đã được tiêm nhiễm tư tưởng cách mạng của hai cụ Phan, nhưng đâu có sáng suốt nghĩ ra những chuyện quốc sự thâm thúy như thế .Nghe thầy Đổng sĩ Bình giảng giải, một số bạn bè của Tuấn và Tuấn mới hiểu rõ ý nghĩa mĩa mai chua chát của lễ Quốc Khánh An nam. Nhưng hiểu là một việc, mà cầm đèn bánh ú đi trong đám rước là một việc khác. Chưa chi mấy trò trốn tránh đã bị mỗi trò một tát tai rồi đó, thấy không?

Bị bắt buộc đi rước đèn và bị lôi cuốn trong đám đông người liên hoan nồng nhiệt, mấy đứa bạn của Tuấn và Tuấn không thể tách ra ngoài được và cũng phải chường mặt ra như muôn người.
Đám rước đến trước cổng tòa Sứ thì Tuấn thấy trong Tòa đèn sáng trưng hơn mọi đêm, và tất cả các quan Tây đều có mặt chung quanh quan Công Sứ. Có cả ông Đia-réc-tơ và các giáo sư người Pháp, với những nét mặt hân hoan và nụ cười hãnh diện. Học trò cầm đèn, sắp ngay hàng thẳng lối tiến vào Tòa Sứ, cờ Pháp rộng lớn bay phất phơ trên hàng đầu. Rôì theo lệnh của ông Đốc Tr. hướng dẫn và đã tập dượt mấy đêm trước, đám học trò cầm đèm bánh ú chia ra hàng ngũ dứng sắp thành hai chữ Q.K. Cũng theo huấn lệnh đã dặn trước, ông Đốc Tr. thổi một tiếng còi síp lê, thì toàn thể học trò hô lên mấy tiếng Tây:

- Vive la France! Vive L’Annam! (Pháp quốc vạn tuế! An Nam vạn tuế!).

Vài chục ông Tây bà Đầm đứng chểm chệ trên bao lơn tòa Sứ nhìn xuống vỗ tay. Ba ông quan An nam, quan Tổng Đốc, quan Bố chính, quan Lĩnh binh, đeo thẻ ngà tòn-ten trước ngực, đứng né một bên quan Tây, cũng gật đầu cười, vỗ tay. Nét mặt ông nào cũng tươi vui hoan hỉ.

Xong rồi, theo tiếng síp lê của ông Đốc Tr. đám rước đèn sắp hàng ngũ lại như cũ, kéo ra về, đi vòng ra dọc theo bờ biển, dưới rặng thùy dương, đến xóm Lò bò, quẹo vô thành phố, đi thẳng lên trường, và giải tán ngay trước cổng trường, cách Công quán chừng hai trăm thước.

Đến đây, không còn ai bắt buộc nữa, tha hồ tụi học trò cầm đèn múa nhảy lung tung, cười ầm ĩ như quỷ phá nhà chay. Mấy đứa bạn của Tuấn và Tuấn hè nhau đập phá nát tan mấy cái đèn bánh ú có sơn hai chữ Quốc Khánh trên mỗi cây đèn. Bọn này còn chạy đi dựt những cây đèn trong tay các trò khác để đập nát và đốt cháy hết trên mấy nấm mả đá trước cổng trường. Trò Quỳnh hăng hái nhất, la lớn lên: “Đốt cháy hết đi, tụi bây!”. Trò Tuấn cũng la lên: “Rước voi dày mồ! Rước voi dày mồ! Đốt! Đốt!". Trò Trân là người được ông Đốc Tr. lựa chọn vầm cờ tam tài của Pháp đi tiền phong, sợ cháy cờ, lật đật vác cờ chạy một mạch về công quán.

Tất cả cũng kéo về công quán để còn xem hát cải lương.

Rạp hát cải lương được dựng ngay trước công quán, để cho dân chúng được đến coi đông đảo và không trả tiền.

Giẫy ghế danh dự của khan đài để dành cho quan Sứ và bà Đầm, quan Phó Sứ, bà đầm phó Sứ, ông Đìa-réc-tơ (goá vợ và sói đầu) N. Có cả ông Cố đạo nhà thờ Thiên chúa, quan Giám binh, một vài ông Tây bự khác và Quan Tổng Đốc Bình định.

Hàng ghế thứ hai để cho các quan Tây và các bà đầm khác. Tội nghiệp cho hai ông quan An nam là quan Bố chính và quan Lãnh binh, oai vệ với chiếc thẻ ngà tòn ten trước ngực lại bị sắp ngồi nơi hàng ghế thứ ba, chung với ông quan Một, Tấy Xếp Ngục (nhà lao), mấy ông Tây nhỏ, sau lưng cả mấy ông giáo sư Pháp … Trò Tuấn quen tánh tò mò con nít, tuy không có phận sự gì trong rạp hát cải lương, nhưng cũng len lỏi cho được vào hậu trường sân khấu để coi …Trò thấy ông Đốc Tr. cùng mấy ông khác, mấy thầy Thông, thầy Phán, và vài anh học trò lớn ở lớp Đệ Tam niên sửa soạn y phục cải lương và phấn son, áo mão hia, không kém gì các đào kép thật của một gánh hát cải lương. Không có cô nào bà nào chịu đóng tuồng, nên trò Hòang ở Đệ Nhị niên phải cải trang giả làm con gái để đóng vai Công chúa.Theo chương trình viết bằng đũ thứ mực màu, trên một tờ giấy croquis lớn, một nửa Pháp ngữ, một nửa Quốc ngữ, dán trước cổng Công quán, thì tuồng cải lương bắt đầu mở màn lúc 9 giờ. Đáng lẽ phải hát sớm hơn, nhưng theo lời ông Đốc Tr. nói thì phải đợi các quan Tây ăn bữa tối thường lệ lúc 8 giờ, đến 9 giờ các quan mới đi coi hát được.

Khán đài đã chật ních công chúng An Nam từ lúc 8 giờ ngay sau khi coi rước đèn về. Công chúng được hân hạnh ngồi khán đài toàn là các Thầy. Dân thành phố và học trò thì đứng chung quanh, vì sân Công quán thật rộng chứa vài ngàn người.

Đám đông người chật ép ấy đang nô nức đợi chờ, nói cười ầm ĩ, thì có ba tiếng chuông dóng lên, báo tin quan Sứ và bà Đầm đến. Ông Đốc Tr. khăn đen áo dài, trịnh trọng chạy ra đón rước, mời quan Tây và bà Đầm vào ngồi hai ghế danh dự.Tòan thể khan giả đều đứng dậy chào.

Các quan kế tiếp đến đông đủ. Trên sân khấu cải lương màn chưa mở. Hai giòng chữ lớn cắt trên giấy kim nhũ rực rỡ màu vàng và dán trên tấm màn đỏ, nổi bật lên như sau đây:

Tuồng cải lương Gia Long Phục Quốc mừng lễ Quốc – Khánh An nam Khi các quan Tây an tọa, một hồi chuông vang dậy rồi tấm màn từ từ được ven ra. Trên sân khấu, toàn thể quí ông qúi thầy, y phục như đào kép cải lương, và độ hai chục đứa học trò đứng sắp hàng hai bên, đồng thanh ca lên bài hát sau đây:

- Âu – Á xum vầy Mừng nay Âu – Á xum vầy:

Pháp Nam liền lạc một dây vững bền Sực nhớ truyền Sử Ký Trước trăm năm từng bị gian nan Vua, tôi, lao khổ muôn vàn Nhân dân đồ thán giang san tiêu điều.

Đức Thế tổ (vua Gia Long) trăm chiều chóng chỏi, Giốc một lòng đánh đuổi cường hung Xiết bao kể nổi khốn cùng Thế nguy tận lực hãi hùng lắm phen Lòng trời khéo xui nên gặp gỡ:

Bạn Lang sa (Pháp) giúp đỡ mọi đàng Một tay khôi phục Nam bang:

Tam kỳ thống nhất rõ ràng anh quân Trên Mẫu quốc trăm phần mến phục Ngoài lân bang cùng nức tiếng khen Cơ đồ gầy dựng đã nên Bình thành công đức lưu truyền muôn năm Thầy Đại Pháp nhất tâm khai hóa Đạo làm dân tiến bước theo sau, Non nước một bâù Mừng nay non nước một bầu , Mùng 2 tháng Ngọ (tháng Năm) cùng nhau nhớ ngày.

(Theo tài liệu của một bạn độc giả, Phạm văn Vinh, có nhã ý gửi cho chúng tôi, thì năm 1925, lúc ông học lớp Nhất ở trường Tiểu Học Sơn Tây, Bắc kỳ, học trò cũng bị bắt buộc học thuộc lòng bài hát trên đây để hát trong ngày lễ Quốc Khánh mồng 2 tháng 5 Ất Sửu (1925). Bài hát này được gởi đi các trường Trung kỳ và Bắc kỳ, trong dịp lễ Quốc Khánh lần đầu tiên). Sau bài hát là đến tuồng cải lương.Trò Tuấn không thích coi tuồng, chỉ quanh quẩn nơi hậu trường để xem mấy ông, mấy thầy thay đổi áo quần đào kép và vẽ mặt vẽ mày như hát bội.

Tuấn không dám chơi lâu, vào khoảng 11 giờ đã vội vàng chạy về vì nhà trọ của cậu ở hơi xa, phải đi ngang qua cây vông Ma Đầm, nơi đây có một con ma Đầm mà ai cũng sợ. Lại có một con ma nhỏ ở ngọn cây đa gốc vườn tòa Sứ, gần đây Con Ma Đầm thì Tuấn chưa gặp lần nào, nhưng theo lời tất cả học trò và dân chúng trong xóm thì nó ghê lắm. Nhiều người quả quyết đã gặp nó và đã bị nó chụp, sợ chạy hết hơi!

Cây vông đứng ngay trên lề đường. Tục truyền rằng hôì xưa có một cô Đầm chết chìm trên sông gần đó. Cô biến ra ma, cứ đêm tối trời, hễ có ai đi ngang qua đấy thì cô hiện ra y hệt như một cô Đầm thật trẻ, đẹp lắm và đưa tay ra chào:

- Bonjour!

Đặng văn Chí, một học trò lớp Đệ Tam Niên, quả quyết rằng có lần anh đã gặp con ma Đầm bắt tay anh và “Bonjour“, đến khi anh ngó lại kỹ thì cái mặt trắng phết, mà không có mắt. Con ma Đầm níu anh, anh hoảng hốt chạy té đái trong quần.

Con ma chó thì ở trên ngọn cây đa gốc thành Toà Sứ. Bên cây đa có cái miếu thờ một viên Tướng quân Tây Sơn hồi trước. Vị tướng Tây-Sơn bị quân Nguyễn Ánh giết tại đây trong một trận đánh xáp lá cà giữa hai quân đội Chúa Nguyễn và Tây-Sơn.

Không hiểu sao có nhiều xác chết mà chỉ xác vị Tướng này là linh thiêng, và hóa ra ma. Lại là ma chó. Những đêm tối trời, người yếu bóng vía đi ngang qua đây thường thấy một cái đầu chó từ trên ngọn cây đa rớt xuống đất, rồi lần lượt một khúc mình, hai cẳng trước, hai cẳng sau và sau cùng là cái đuôi. Những mãnh rời ấy tự nhiên chấp lại thành ra con chó đen, đứng sủa vang lên và vồ lấy người ta. Ai bị nó “cắn” là chết ngay.

Trò Tuấn chưa chính mắt trông thấy con ma Chó và con ma Đầm lần nào. Nhưng mỗi khi đi qua hai nơi ấy, là trò nhắm mắt cắm đầu cắm cổ chạy một mạch, chạy khỏi vài trăm thước mới dám đứng lại, quay lại ngó lại đằng sau xem có Ma đuổi theo không.
Tuấn nghĩ rằng, nếu gặp phải Ma, thì trò thích gặp con ma Đầm trẻ đẹp hơn là con ma Chó.

Một đêm, vào khoảng tám giờ, Tuấn đi chơi lang thang một mình dọc đường bờ sông thật vắng vẻ. Bổng Tuấn trông thấy nơi góc cột đèn hơi đá (đèn thắp đá carbure) một tấm giấy nằm trên cỏ, với một cục đá nhỏ đè lên. Nghĩ chắc tấm giấy này không phải là ma, Tuấn tò mò lượm lên xem. Tờ giấy lớn bằng một trang vở học trò, in đông sương (thạch) mấy câu viết tay bằng mực tím như sau:

Hỡi Đồng Bào, Bọn đế quốc Pháp đem xiềng xích nô lệ tròng lên đầu dân An nam, để dể bóc lột. Chúng thu thuế thân của người An nam để đem tiền về Pháp, trong khi quốc dân đồng bào không đủ áo mặc cơm ăn. Chúng ta phải tranh đấu đừng nộp thuế và cương quyết dành cho được cơm áo, tự do. Đả đảo đế quốc Pháp bốc lột!

Tân Việt Cách Mạng Đảng.

Tuấn chưa hiểu gì hết, nhưng lo sợ. Không phải lo sợ vì truyền đơn chống Pháp, mà lo sợ vì đang đứng trước một bí mật ghê gớm. Tuấn suy nghĩ: Ai để truyền đơn nguy hiểm này ở chỗ nầy? Có ai đang rình Tuấn trong bóng tôí chung quanh không? Nếu mình lượm, có sao không? Mình bỏ trong túi đem về nhà có được không? Có ai trông thấy không? Có ai bắt mình không?

Tuấn thắc mắc, do dự một lúc, nhình quanh quẩn không thấy bóng người, rồi cúi xuống đặt tờ truyền đơn vào chỗ cũ, lấy hòn đá đè lên y như lúc nãy. Xong Tuấn vội vàng đi nhanh. Nhưng Tuấn không an tâm, đầu óc cứ lẩn vẩn những câu hỏi: Ai để tờ truyền đơn ở gốc đèn? Họ để đấy từ hồi nào mà lại đè hòn đá lên cẩn thận như thế? Mình lượm coi như thế có sao không? Có ai theo dõi mình không?

Tuấn liếc mắt nhìn kỹ lại một lần nữa trong các bóng tối chung quanh, không thấy một bóng người. Tuấn có cảm giác như đang đi trong một thế giới bí mật rùng rợn. Tuấn ráng đọc lại trong trí nhớ mấy câu trên tờ truyền đơn, nhưng vì lúc xem vội vàng nên Tuấn quên mất một vài đoạn. Tuấn cố nhớ lại mà vẫn không nhớ hết được. Tức mình, Tuấn quay trở lại để xem tờ truyền đơn. Nhìn cột đèn bằng sắt sơn đen đứng sừng sững bên lề đường, trên ngọn cột có một cái đèn đá lồng kính, tỏa xuống đường một vùng ánh sáng lờ mờ nhợt nhạt, giữa cảnh đêm hôm hoang vắng. Tuấn còn trông thấy tờ truyền đơn phất phơ trong gió. Tuấn mang quốc, nhưng bước rất khẽ, đến gần cúi xuống lấy nhanh tờ giấy in mực tím lờ mờ, đưa ra ánh đèn xem lại thật kỹ một lần để nhớ cho hết từng chữ. Xong, Tuấn để tấm giấy lại chỗ cũ, đè cục đá lên rồi đi thẳng.

Dọc đường, Tuấn đọc thầm lại, và lần nầy Tuấn không quên một chữ, nhớ không sót một dấu phết. Tuấn định đến nhà Anh và Trâm cho hai cô bạn gái này biết. Hai cô đang học bài, ngồi thên ghế tràng kỹ. Giữa bàn chong một cây đèn “măng xông”l ớn, ánh sáng xanh dịu.

Thấy Tuấn vào, Anh nở nụ cười duyên, Trâm đang tra tự điển cũng ngước mắt lên ngó Tuấn với lời chào thân ái. Trông thấy nét mặt của Tuấn hơi khác, Anh hỏi:

- Hôm nay anh Tuấn sao buồn vậy, anh Tuấn?

Trâm và Anh chờ Tuấn trả lời. Nhưng Tuấn trông thấy một ông “Nhà quê” ngồi đối diện với hai cô bạn, đang xem hai cô học. Tuấn không biết ai, cũng lễ phép cúi đầu:

- Chào bác.

Anh cười bảo:

- Chú của em đấy.

Tuấn vô tình chào lại:

- Chào chú.

Sự ngớ ngẩn của Tuấn khiến cho Anh và Trâm, cả ông “Nhà quê” cười xòa. Anh giới thiệu tiếp:

- Chú của em làm lý trưởng ở làng, hôm nay ra Kho Bạc để nộp thuế.

Tuấn sực nhớ mấy lời trong tờ truyền đơn, liền hỏi ông lý trưởng:

- Thưa chú, chú đi nộp thuế thân, phải không?

Ông lý-trưởng cười:

- Thuế thân, chớ còn thuế gì nữa.

- Thưa chú, hôm nay làng nào cũng phải ra Kho Bạc nộp thuế thân sao?

- Ừ, đến mùa thuế các làng phải thâu thuế đem ra nộp cho sở Kho Bạc Nhà nước.

Anh giới thiệu với ông lý-trưởng:

- Thưa chú, đây là anh Tuấn, học lớp Đệ Nhị Niên đó. Ảnh thường tơí đây chơi để chỉ tụi con làm bài luận Quốc văn và Pháp văn.

Ảnh làm thơ hay lắm, chú à.

Ông lý-trưởng gật đầu cười:

- Cậu làm thơ hay thì làm thử một bài đọc nghe chơi.

Tuấn tủm tỉm cười, bảo Anh đưa mượn cây bút chì và xin một tờ giấy trắng.

Tuấn lui cui viết, một tay làm bộ che lại không cho Anh và Trâm xem. Viết xong, bỏ bút chì xuống. Tuấn còn hơi do dự chưa muốn đưa tờ giấy ra. Anh cười:

- Anh làm bài thơ gì mà mau thế? Cho em xem!

Tuấn vẫn cứ do dự nắm tờ giấy trong tay.

Trâm cười:

- Anh không cho thì tuị em giựt lấy xem đại.

Mọi khi ngồi chơi với Anh và Trâm, Tuấn vui vẻ và tự nhiên lắm, sao hôm nay Tuấn có nét mặt sượng sùng, coi bộ sợ sệt…

Nhưng rồi Tuấn cười đưa tấm giấy vừa chép xong cho Anh. Anh và Trâm xúm nhau xem:

Hỡi đồng bào Bọn đế quốc Pháp đem xiềng xích nô lệ tròng lên đầu dân An nam, để bốc lột. Chúng thu thuế thân của người dân An nam, để đem tiền về Pháp, trong khi Quốc Dân đồng bào không đủ áo mặc cơm ăn. Chúng ta phải tranh đấu đừng nộp thuế cho Đế Quốc và cương quyết dành cho được cơm áo, tự do. Đả đảo Đế Quốc Pháp bốc lột.

Tân Việt Cách Mạng Đảng.

Anh và Trâm hoảng hốt, cứng họng nói không ra lời. Ông lý-trưởng cười bảo:

- Bài thơ ra sao, đưa chú coi thử, con!

Anh ngó Tuấn, không dám đưa, Tuấn bảo:

- Nếu Anh và Trâm thấy bài Thơ coi được, thì đưa chú Xã coi chơi. Nếu thấy dở, thì xé đi .

Anh hiểu ý, liền đưa “bài thơ” cho chú Xã. Ông Xã mới đọc mấy câu đầu đã chố mắt ngó Anh. Anh cười:

- Thì Chú Xã cứ coi hết đi. Hay lắm mà!

Ông Xã bây giờ không yên lòng, tay cầm tờ giấy mà cứ run lên, ông vừa trố mắt xem, vừa lắc đầu lia liạ. Ông mới đọc được nửa tờ đã hoảng hồn bỏ giấy xuống, miệng lẩm bẩm:

- Các trò nói bá láp …bá xàm… Nhà nước bỏ tù chết cha!

Anh vẫn cười:

- Chú đọc hết đi!

- Thôi mầy! Tao không dám đọc hết đâu. Nhà nước bắt được thì ở nhà lao, chết ông cố nội! Tao hổng dám đọc nữa đâu.

Sự thật thì Trâm và Anh cũng lạnh cả xương sống, nhưng vì tình bạn thân yêu nhau từ lâu, mỗi hành động hay ngôn ngữ gì của trò Tuấn đều được hai cô bạn tán thành và nghe theo triệt để, dù biết là nguy hiểm, nhưng Tuấn điềm tỉnh nói:

- Không phải tôi đặt ra “Bài Thơ” ấy đâu.

Trâm cười:

- Chứ anh học ở đâu mà viết như thuộc lòng vậy?

- Ở ngoaì cột đèn bờ sông. Không biết bàn tay bí mật nào đã viết bài đó bằng mực tím, in đông sương trên một tờ giấy, rôì để tờ giấy ở gốc cột đèn, lấy cục đá đè lên cho khỏi bị gió lùa. Lúc nãy tôi đi hóng mát trên bờ sông trông thấy và lấy xem.

Ai nấy đều im lặng, sợ sệt. Tuấn đã vô tình tạo ra một không khí bí mật ghê gớm bao trùm cả gian nhà vắng lặng. Bốn người đều nín thinh. Nhưng Tuấn buồn bã nói tiếp:

- Tây qua đây đè đầu đè cổ dân An nam. Cho nên cụ Phan Chu Trinh và cụ Phan Bội Châu mới làm cách mạng. Cụ Phan Tây Hồ đã qua đời thì còn cụ Phan Sào Nam. Tuị mình là thanh niên, con trai con gái đều là thanh niên, con của Tổ Quốc, cũng phải làm sao chứ Dân An Nam bị xiềng xích gông cùm, bị Tây hiếp đáp cho đến đổi mình để tang cho cụ Tây Hồ mà cũng bị đánh đập tàn nhẫn. Mỗi năm dân mình còn phải nộp thuế thân cho họ nữa là nghĩa lý gì?

Tuấn rưng rưng nước mắt, nói tiếp:

- Trâm và Anh có thấy không? Ông Gabriel, Giáo sư Toán của tôi, chửi dân An Nam là mọi rợ, là giống dân bẩn thỉu, sao ông dám chửi dân An nam mình là mọi rợ, bẩn thỉu?

Tuấn khóc thực sự, đưa tay áo lên chùi nước mắt. Anh vội vàng lấy khăn mu soa đưa Tuấn. Anh và Trâm cũng bị rung cảm bỡi những lời của Tuấn, ngôì cúi mặt xuống bàn, buồn bã.

Ông Xã quấn điếu thuốc quẹt lửa châm hút rồi bảo:

- Nhà nước Đại Pháp văn minh, dạy bảo ta, ta phải tôn kính. Trò có học mà trò nói như vậy, nghe sao được?

Anh bèn ngước mắt lên ngó Ông Xã, với vẻ mặt giận dỗi:

- Xí! Chú sợ Tây, chớ tụi này không sợ đâu.

Tuấn tiếp lời:

- Nếu chú Xã nộp thuế không đủ, thiếu vài chục bạc xem ông Sứ có bỏ tù chú không?

Ông Xã cười:

- Nộp thuế thì phải nộp đủ chứ! Tôi làm lý-trưởng ba năm nay, năm nào tới mùa thuế cũng nộp đủ, không thiếu một xu. Các quan Tây chưa quở tôi lần nào.

Tuấn hỏi:

- Dân trong làng chú, những người nghèo, làm không đủ ăn lấy tiền đâu nộp thuế?

- Đứa nào không có tiền nộp thuế thì phải bán nhà bán cửa mà nộp. Bổn phận làm dân thì phải … Anh ngắt lời:

- Hèn chi hồi chiều chú nói trong làng mình có anh Thập Ba không có tiền nộp thuế, chú hăm trình quan Huyện bỏ tù, anh Thập Ba sợ quýnh, phải bán miếng đất hương hoả cho chú. Chú làm như thế là ác đức.

Ông Xã cười:

- Mày là con gái, biết gì. Tao làm Xã, lịnh quan trên đưa xuống sao thì tao làm như thế. Dân nó nghèo thì kệ cha nó, mình làm việc cho quan. Trên dân có quan, trên quan có Vua. Các trò đi học sao không biết câu của Đức Thánh ngài dạy là Quân-Sư-Phụ. Có vua rồi mới có thầy rồi mới đến cha. Nước ta có Thầy Đại Pháp, còn vua là Đức Hoàng Thượng. Còn dân đen là đồ tôi tớ, kể chi.

Trò Tuấn cãi lại:

- Chú Xã có coi quyển sách đăng bài diễn thuyết của cụ Phan Chu Trinh ở Saigon không ? Cụ Phan nói: Thầy Mạnh Tử dạy rằng dân vi qúy, xã tắc thứ chi, quân vi khinh. Dân là qúy, rôì mới đến nước nhà, còn Vua thì đáng khinh.

Ông Xã lắc đầu:

- Phan Chu Trinh là kẻ loạn thần nói tầm bậy mà ai nghe?

Trâm từ nãy giờ làm thinh, bây giờ cất tiếng thỏ thẻ:

- Tuị con tôn cụ Phan Chu Trinh là bậc anh hùng ái quốc. Cụ nói cái gì là tụi con nghe hết.

Anh tiếp lời Trâm:

- Cụ là một bậc đại Chí Sĩ, Cụ chết cả nước để tang, chú thấy không?

Ông Xã trợn mắt hỏi Anh.

- Mày cũng để tang cho hắn à?

- Ba đứa con đều để tang cho cụ.

- Mày muốn ở tù hả?

- Ở tù thì sợ gì.

Ông Xã quay lại ngó Tuấn:

- Trò này xúi con Anh để tang cho Phan Chu Trinh phải không?

Anh vội trả lời:

- Không phải anh Tuấn xúi. Tụi con ba đứa đồng lòng để tang cho cụ đấy.

Ông Xã tức giận chửi Anh:

- Mẹ…Cha…mầy, đồ con gái bất hiếu! Phan Chu Trinh là ông nội mầy hay sao mà mày để tang cho hắn?

Anh và Trâm nét mặt hầm hầm ngó ông Xã. Anh chống trả lại:

- Sao chú dám gọi cụ Phan bằng hắn? Chú nịnh bọn Quan lại quen rồi, Chú dám mở miệng kích bác nhà Chí Sĩ An Nam phải không?

Anh tức quá nói không được nữa, gục đầu xuống bàn khóc. Trâm cũng khóc nức nở, Tuấn tức lắm. Nhưng không biết làm sao, vì Ông Xã là chú ruột của Anh, Tuấn không dám nói câu gì xúc phạm, đành làm thinh. Tuấn nhét vào tay Anh chiếc khăn mù soa của Anh trao Tuấn lúc nãy để lau nước mắt, rồi bảo:

- Anh, Trâm, tụi mình ra ngoài hè ngồi chơi cho mát chút đi. Ở trong nhà nực quá.

Tuấn đi ra. Anh và Trâm đứng dậy đi theo. Đứng ngoài sân, Tuấn khẽ bảo:

- Thôi, Anh và Trâm đừng cãi với ổng nữa, rồi sinh chuyện.

Anh cũng nói khẽ:

- Em ghét ổng quá.

Anh sực nhớ tờ giấy do Tuấn viết lúc nãy, khẽ bảo:

- Chết cha! Tờ giấy anh viết lúc nãy còn để trong bàn. Anh chạy vào nhà, lấy tờ giấy. Ông Xã chụp lại và hăm doạ:

- Đưa tờ giấy đó cho tao. Ngày mai tao đem lên trình Quan Sứ.

Ông Xã giành giựt với Anh, Anh la lên:

- Anh Tuấn ơi! anh Tuấn!

Tuấn chạy vào, liền nhảy lại cắn tay ông Xã, ông Xã đau quá phải buông tay Anh ra lập tức. Trâm cũng chạy vào một lượt với Tuấn, liền chụp tờ giấy bỏ vào miệng nhai và nuốt luôn. Tuấn sợ ông Xã đánh Anh, liền nắm tay Anh và tay Trâm chạy ra sân.

Nhưng ông Xã ngồi bóp cái tay đau lẩm bẩm một mình:

- Mấy đứa học trò nầy dữ quá!

Đường phố khuya vắng teo, không một bóng người. Tuấn rũ Anh và Trâm đi dạo mát ngoài bờ sông. Hai cô học trò lớp Nhất vui vẻ nhận lời đi chơi với người bạn trai của họ.

CHƯƠNG 32.

1926

- Đồng sĩ Bình bị bắt, đày đi Ban mê Thuột

- Thanh niên các mạng chống Pháp đều bị bắt

- Phong trào cách mạng tràn lan khắp các học đường.

Một buổi tối trò Tuấn đang ngồi làm bài ở nhà thì trò Quỳnh đến, mặt tái mét, bảo thầm Tuấn:

- Mầy có nghe tin thầy Đổng sĩ Bình bị bắt không?

Tuấn ngơ ngác lắc đầu:

- Tao không nghe gì hết. Thầy bị bắt hồi nào? Thật không?

- Ba ngày nay rôì. Nghe nói thầy đã bị giải đi ở tù nhà lao Ban mê Thuột.

- Ai nói với mầy thế?

- Một thầy làm sở Mật Thám, ở trọ nhà thằng Quý trên Lò Vôi.

Thầy nói với thằng Quý nói lại với tao, mới lúc nãy đây. Tao đến cho mầy mày biết tin. Mày coi có những bài thơ và tờ báo nào của Thầy Đồng sĩ Bình cho mày thì phải đốt đi, nghe không?

- Tao có mấy tờ báo “Tiếng Dân” ở Huế, mấy tờ L’Écho Annamite ở Saigon và 1 tờ L’ Argus Indochinois ở Hanoi.

- Mầy cất ở đâu, lấy đốt đi! Hay gởi nơi khác cho chắc chắn.

-Tao dấu dưới chiếc chiếu chỗ giường tao nằm. Rệp nó làm ổ đầy ở trong, tao không dám lấy ra.

Trò Quỳnh ngó trước ngó sau, trong nhà không có ai lẩn quẩn ở đấy, liền chỉ cái bếp đang cháy (bà chủ nhà đang nấu cháo đậu xanh) và bảo thầm Tuấn:

- Mau mau lấy mấy tờ báo đó bỏ vô bếp đốt liền đi bây giờ, nếu mày không muốn đi ở tù Ban mê Thuột.

- Mà tại sao thầy Bình bị bắt đi ở tù?

- Nghe nói mật thám khám nhà thầy, bắt được truyền đơn của “Tân Việt Cách Mạng Đảng” in bằng đông sương với mấy bài thơ cách mạng.

Nói xong Quỳnh lật đật đi ra ngay.

Tuấn ngồi im lặng một phút cũng sợ …sợ, lo… lo…, liền đứng dậy đi cuốn chiếc chiếu trên giường nằm, lấy ra tất cả chín mười tờ báo đem bỏ vô bếp. Cả đống báo vừa cháy thiêu hết ra tro thì O Vui, em gái của thầy Bửu Vinh chủ nhà, từ trên nhà mang quốc lẹp kẹp đi xuống bếp để xem chừng nồi cháo đậu xanh. O Vui, một thiếu nữ Huế trẻ đẹp độ 20 tuổi, ngôì chỗ bếp lửa quay lại hỏi trò Tuấn:

- Cậu Tuấn có đốt cái chi trong ni mà có mùi rệp khét dữ rứa?

Tuấn làm bộ ngạc nhiên, bắt chước giọng Huế của O Vui, trả lời:

- Tôi có đốt chi mô.

O Vui cứ hỏi mãi:

- Chớ răng có mùi rệp khét dữ ri?

- Mô?

O Vui cười ngất vì giọng khôi hài của Tuấn, nhưng lúc lên nhà trên, cô ả bép xép học lại với chị dâu là cô Thông Vinh. Cô này lại mét với chồng là thầy Bửu Vinh đang đánh tổ tôm trên gác với mấy thầy nào đó. Trò Tuấn lắng nghe được, sợ quá vội vàng xếp sách vở, tắt đèn, lẻn đi ra đường không dám ở nhà.

Sực nhớ vụ thầy Đồng sĩ Bình bị bắt, Tuấn chạy đến nhà trọ của Trâm và Anh.

Tuấn bảo thầm hai cô bạn lớp Nhất:

- Mấy bài thơ cách mạng Trâm và Anh chép từ trước đến giờ để đâu?

Anh hỏi:

- Chi vậy anh?

- Đốt hết đi.

Trâm hỏi:

- Sao phải đốt hả anh?

- Thầy Đổng sĩ Bình bị bắt ba bốn hôm rồi, đã bị đưa đi ở tù trên Ban Mê Thuột. Họ có khám nhà thầy, tìm được một đống báo và mấy bài thơ cách mạng. Có cả truyền đơn củaTân Việt Cách Mạng Đảng. Chỉ có thế mà thầy bị bắt. Tụi mình dạo nọ có để tang cho cụ Phan chu Trinh chắc mật thám cũng để ý. Sợ họ đến khám nhà bất tử thì nguy. Đốt hết các bài thơ cách mạng đi thì hơn.

Anh khẽ cười:

- Đốt thì đốt, tụi mình thuộc lòng hết mấy bài thơ đó rồi cóc cần gì anh hí?

- Ừ, Anh và Trâm còn cất tờ báo cách mạng nào ở trong rương không?

- Có mấy tờ Việt Nam Hồn và tờ báo Tiếng Dân tụi em coi xong đã trả lại anh lâu rồi. Ở đây tụi em không còn giữ lại tờ nào. Anh đốt hết chưa?

- Rôì.

- Tội nghiệp thầy Đổng sĩ Bình! Ở tù, chắc chết qúa … Anh, Trâm và Tuấn ngồi cúi đầu làm thinh. Một lúc lâu .Tuấn đưa ngón tay chỉ cây bút vaò quyển vở của Anh và lấy bàn tay làm dâú hiệu muốn viết …Anh lặng lẽ đưa bút chì và vở cho Tuấn. Tuấn nghĩ một lúc nữa rôì viết:

XUÂN MỘNG

Dẫu ta là gái hay là trai
Ái quốc lòng ta quyết chẳng phai
Nô lệ lẽ nào nô lệ mãi ?
Sơn-Hà chung gánh nhẹ hai vai.


T.A.T

Tuấn trao bài thơ ấy cho Anh và Trâm coi. Trâm coi xong lấy bút chì gạch hai cái ngang và một dấu hỏi sau chữ T.A.T và ngó Tuấn. Tuấn cười làm thinh, đứng dậy nói:

- Thôi mình về học bài… Bonne nuit, mes amies!

Tuấn đã biến ra ngoài đường. Còn lại nơi bàn Trâm và Anh nhìn nhau mĩm cười. Trâm khẽ hỏi:

- Ảnh ký T. A. T là gì nhỉ?
Anh tủm tỉm cười, bẻn lẽn, lấy bút chì viết:

- T = Tuấn, A = Anh, T = Trâm .

Hai cô gái mắc cỡ cười khúc khích với nhau và đọc lại bài thơ để cho nhớ, rôì Anh xé tờ giấy chép thơ trong quyển tập. Trâm mở bóng đèn manchon để Anh đốt bài thơ, không dám giữ bút tích lại.
Một tháng sau, bà mẹ già và đứa em trai nhỏ của thầy Đổng sĩ Bình là Đổng sĩ Hứa vào Qui-nhơn định đi Ban Mê Thuột để thăm thầy. Được tin ấy một nhóm học trò các lớp lớn, từ Đệ Tam đến Đệ Nhất niên, do anh Trọng đề xướng, bảo lén với nhau hùn được một số bạc khá nhiều để gởi giúp thầy ở nơi lao tù. Riêng Tuấn và Trâm, Anh, chung tiền để may gởi cho thầy 2 áo cụt và 1 chiếc quần bằng vải ta. Tuấn chép bài thơ "Mộng Xuân“ trên kia bằng mực tím, và cũng ký tên T. A. T. trên một mảnh giấy trắng, bảo Anh xếp lại thật nhỏ nhét trong áo ở vạt trước rồi khâu lại, để lỡ lính gác lao có xét cũng không thấy được. Tuấn bảo:

- Mình muốn gởi lén bài thơ đó cho thầy Bình bằng cách bí mật này, mà không biết thầy sẽ thấy bài đó không? Chỉ sợ thầy không để ý chỗ lai áo này.

Trâm bảo:

- Chừng nào thầy giặt áo, thì mực tím nhòe ra, thầy sẽ biết chứ.

Anh bảo:

- Nhưng sợ thầy nhúng nước rồi vò áo, vô tình vò nát luôn cả bài thơ, thầy chỉ thấy dấu vết mực tím thôi.

Ba người học trò ngồi suy nghĩ một lúc. Rồi Trâm bảo Tuấn:

- Nè anh à, hay là mình chép lại bài thơ trên mảnh giấy dày hơn, thứ giấy carreaux? Thầy Bình mặc áo sẽ thấy riêng chỗ đó cộm lên và sẽ biết ngay.

Anh cũng bảo:

- Ừ phải đấ. Nếu thí dụ thầy không để ý đi nữa, thì đến khi thầy giặt áo, sẽ thấy vết mực tím ở chỗ lai áo, thầy sẽ hiểu. Thầy sẽ tháo chỗ đó ra, và sẽ còn đọc được bài thơ vì giấy dầy không bị vò nát vụn như giấy mỏng. Phải không anh?

- Ừ, đúng đấy…Hay là riêng chỗ đó mình may bằng chỉ đen vậy, để cho thầy chú ý?

- Nhưng nếu may bằng chỉ đen thì sợ lúc bà già đưa áo quần vào, lính gác nhà Lao xét kỹ sẽ để ý và sẽ khám phá ra mưu mô của mình, phải không anh?

- Cũng có lý … Thôi theo cái ý cũa Trâm, viết trên giấy carreaux là được.

Trâm, Anh và Tuấn tủm tỉm cười. Nụ cười bí mật lý thú chỉ riêng có ba người này hiểu thôi, khi họ trao bộ áo quần bằng vải ra cho mẹ thầy Đổng sĩ Bình để nhờ bà già đưa lại cho thầy ở Lao Ban Mê Thuột.

Hai tháng sau, trò Tuấn được bức thư đóng dấu nhà giây thép Ban Mê Thuột cũng viết bằng mực tím, gởi ngay đến địa chỉ nhà trường. Tuấn hồi hộp mở thư ra xem. Thư như sau đây:

XUÂN MỘNG

Hai cô bạn gái một chàng trai
Nét đậm ân tình mực khó phai
Khát Nước cổ khô thèm thấy Nước
Mong người chung sức đỡ đôi vai.


ĐỒ SĨ

Tuấn mừng quýnh, tối chạy đến đưa cho Trâm và Anh xem bài thơ. Thoạt tiên hai cô học trò không hiêủ. Trò Tuấn bảo:

- Bài thơ này họa lại đúng ba vần của bài thơ tụi mình đã nhét trong lai aó cho thầy Đổng sĩ Bình và mượn cả đề thơ giấc mộng mùa Xuân …

- Sao thầy hiểu được là “hai cô bạn gái một chàng trai”?

- Lúc thầy còn ở đây, tôi thường nói chuyện Trâm và Anh cho thầy nghe, thầy biết ba đứa mình là bạn thân với nhau. Bây giờ xem chữ T.A. T chắc thầy đã đoán ra được. Tôi đố Trâm và Anh taị sao thầy ký Đồ Sĩ?

- Em chịu thua.

- Em cũng chịu thua.

- Nghĩ một chút xíu thì thấy liền.

- Đồ Sĩ là Đổng sĩ Bình, phải không anh?

- Trâm đoán giỏi qúa.

- Em cũng hiểu rôì . Đồ là viết tắt chữ Đồng, Sĩ là Sĩ.

- Ừ có gì khó đâu.

- Thế là thầy đã lấy được bài thơ của tụi mình nhét trong lai áo! Ồ thích quá, anh hỉ! Thích quá hỉ!

- Tuị em không ngờ bài thơ đó lọt được tới tay thầy! Vui ghê!

- Bài thơ thầy trả lời vừa để cảm ơn tụi mình, vừa nói thầy đau khổ vì Khát Nước …nghĩa là Mất Nước …và mong cho tụi mình ngày sao lớn lên phải chung sức nhau mà gánh nước …nghĩa là phải lo gánh việc Nước đó!

Trâm và Anh không biết tỏ nổi mừng hào hứng và nồng nhiệt bằng cách nào hơn là lấy 5 xu chạy đi mua kẹo thèo lèo và chè hột sen về ăn khao với Tuấn.

Đêm ấy, Anh và Trâm bắt Tuấn ở lại suốt đêm để chỉ cho hai cô cách làm thơ Đường Luật bát cú và tứ tuyệt theo những bài Tuấn đã học trong quyển “Quốc văn trích diễn” sách giáo khoa dạy Quốc văn ở các lớp trên.

Cùng một lúc thầy Đồng sĩ Bình bị bắt ở Qui-nhơn và bị đày đi Ban Mê Thuột thì một số đông trí thức cách mạng khắp ba kỳ Trung-Nam-Bắc, hầu hết là lớp thanh niên đàn anh cùng lưa với thầy Bình, cũng bị bắt và lưu đày đi khắp nơi: Côn Lôn (Nam Kỳ), Lao Bảo, Ban Mê Thuột (Trung Kỳ), Sơn La (Bắc Kỳ). Ba lao xá sau đây đều ở nơi rừng thiêng nước độc, với đảo Côn Lôn là bốn địa ngục trần gian ghê gớm nhất, đặc biệt để giam tù chính trị, mà lúc bấy giờ gọi là “Tù Quốc Sự”. Ngay tiếng Pháp cũng chỉ riêng bốn nơi ấy là Bagnes không gọi là Prisons, và những người bị tù ở đây là bagnards, một danh từ ghê tởm, bỉ ổi, đúng lý ra là để cho bọn du côn cướp của giết người.

Giòng họ nhà vua ở Huế cũng có một người theo phong trào cách mạng. Chàng vào Saigon viết báo đả-kích chế độ quân chủ, về Trung Kỳ thì đi tuyên truyền tư tưởng dân chủ. Tên chàng là Bửu-Đình. Bị bắt một lượt với Đổng sĩ Bình, bị người Pháp trao trả cho Hoàng-phái (giòng họ Vua), Bửu-Đình không những bị Nam-triều kết án lưu đồ, mà còn bị Tôn nhân phủ (Hội đồng Hoàng gia) truất quyền mang họ Vua (họ Bửu), bắt phải tay thế bằng họ Tạ: Tạ Đình, theo tên họ của Tạ ôn Đình. Anh ruột của Tuấn ở tỉnh nhà là Trần Anh Tuấn, Phán Sự Toà Sứ cũng bị bắt đày đi Ban Mê Thuột, vì bí mật liên kết với các thanh niên hoạt động chống Pháp .
Được tin, trò Tuấn khóc nức nở, bỏ ăn, bỏ học cả tuần lễ, căm hờn người Pháp hơn bao giờ hết. Vụ nắt bớ này xẩy ra khắp nước nhằm mục đích bỏ tù hết những phần tử trí thức chống Pháp, tưởng như thế là không còn ai chống Pháp nữa. Nhưng hậu quả trái ngược lại không ngờ: nó càng làm sôi nổi lòng công phẩn của đám nam nữ thanh niên học sinh mà đại đa số đều cảm phục và trìu mến các bậc trí thức đàn anh do ảnh hưởng còn sâu đậm của hai nhà chí sĩ Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh. Hai cụ là hai bậc Thuỷ Tổ Cách Mạng của thế hệ 1925.

Những người làm “quốc sự”chống Pháp và chống Vua An nam đều bị đày đi đến nơi ngục thất nguy hiểm đã kể trên hoặc bị gông cùm tại các lao tỉnh, bị tra tấn đánh đập tàn nhẫn do lũ “Thanh Tra Mật Thám” An Nam. Hâù hết là những trí thức trung lưu, tuổi từ 20 đến 30, họ thuộc về các thành phần dưới đây:

Một số là Thông Phán các Toà Sứ và các sở Nhà Nước Bảo Hộ. Họ là những công chức giúp việc cho Hành Chánh Pháp đắc lực nhất.

Đồng sĩ Bình ờ Trung kỳ, Ký Con ở Bắc Kỳ, là những nhân vật điển hình cho lớp người này .

Các thầy Trợ giáo (nay là giáo sư Trung học) đã đỗ Diplôme d’ Etudes Primaires Supérieures Franco Indigènes (Cao đẳng Tiêủ học Pháp Việt), hoặc học lực tương đương. Số này rất đông, và là những phần tử ưu tú nhất trong giáo giới An nam lúc bấy giờ. Một vài nhân vật điển hình như: Đào Duy Anh, Tôn Quang Phiệt (Trung Kỳ), nhà văn Lan Khai, Nhượng Tống (Bắc Kỳ), Lê Văn Huấn (Nam Kỳ) v..v…Một thiểu số, tối thiểu, sinh viên Trường Cao Đẳng Đại Học Đông Dương, Hà Nội, là nơi đào tạo các lớp gọi là Thượng lưu trí thức: y sĩ, đốc học, cử nhân Luật, cao đẳng Thương Mãi, v.v…, như: Nguyễn Thái Học, Hồ Văn Mịch, Đặng Thái Mai v.v… Những thanh niên trí thức làm những nghề nghiệp tự do, phần nhiều là giáo sư tư thục, viết báo, viết văn, như Vũ Đình Duy (Hà Nội), Nguyễn An Ninh, Tạ Thu Thâu, Trần Văn Thạch, Phan Văn Hùm (Saigon), Bửu Đình (Huế).

Sau cùng hết là nam nữ học sinh các trường Collèges (Trung Học Pháp Việt) ở Hà nội, Nam Định, Vinh, Huế, Qui Nhơn, Saigon, Cần Thơ.

Các thành phần học sinh ưu tú từ 16 đến 20 đều tập trung ở trường Trung Học Hà nội, gọi là Trường Bưởi (ở làng Bưởi) – danh từ chính thức là Collège du Protectorat (Trường Trung Học bảo hộ), và hai trường Trung Học Nam Định, Hải Phòng. Hầu hết những thanh niên cách mạng Bắc Kỳ sẽ hoạt động hăng hái nhất sau này đều ở ba học đường ấy mà ra.

Ở Trung Kỳ, Trường Collège de Vinh, là nơi tập trung các thanh niên học sinh ưu tú nhất của ba tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tỉnh. Đây là một ở cách mạng theo truyền thống của Phan Bội Châu và Nguyễn Ái Quốc mà lúc bấy giờ chưa ai biết là cộng sản .
Trường Collège Quốc Học Huế, và đứng cặp kè ngay một bên, nhưng yêu kiều duyên dáng hơn, là Trường Nữ Trung học Collège Đồng Khánh, là hai lò hun đúc các lớp thanh niên nam nữ học sinh hăng hái nhất ở Trung Kỳ - có thể nói là ở khắp ba kỳ. Học sinh ở đó hầu hết là quê quán ở Thanh, Nghệ, Tỉnh, và Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam, Quảng Ngãi.

Ở trường Collège de Qui Nhơn, thì 80% học sinh quê quán ở Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định.

Ở Trung Kỳ có một cầu truyền khẩu rất thông thường gồm 4 “Nam Nghĩa Nghệ Tỉnh” chữ, không biết do ai đặt ra từ hồi nào, nhưng thường xuyên được nhắc nhở trong các câu chuyện thời sự cách mạng, để chứng minh rằng bốn tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Nghệ An, Hà Tỉnh, là bốn nơi mà dân chúng có tinh thần cách mạng cao nhất, mạnh nhất, mà chánh quyền Bảo Hộ Pháp cũng như Triều Đình Huế lo ngại nhất.

Thanh niên học sinh, cả nam lẫn nữ, ở bốn tỉnh ấy cũng là kỳ khôi và “ba gai” không đâu bằng. Các biến cố gọi là “quốc sự”ở Trung Kỳ trong thời gian 1925–1932 đều được học sinh ba trường Collèges Huế, Vinh, Qui Nhơn, nhiệt liệt ủng hộ, và chính họ cũng tự động gây ra những phong trào bãi khóa vô cùng sôi nổi mà mà tôi sẽ thuật trong các chương sau.

Học sinh Saigon thì chịu ảnh hưởng trực tiếp của các nhóm cách mạng Nguyễn An Ninh và Tạ thu Thâu. Nhưng họ hoạt động yếu ớt, rụt rè với sự hướng dẫn bí mật của các đảng viên cách mạng, rất tiếc là rời rạc và thiếu tổ chức.

Các nhóm chính trị “cấp tiến” ở Saigon chú trọng về tổ chức lao động nhiều hơn, trong lúc vài đảng phái trưởng giả hay tiểu tư sản lại thiên hẵn về các giới trí thức trung lưu, và thượng lưu. Thanh niên học sinh không phải bị bỏ rơi, nhưng không được lãnh đạo thường xuyên và thiếu tổ chức chặt chẽ. Họ không có các động cơ thúc đẩy hăng hái như học sinh ở các Collèges Bắc Kỳ và Trung Kỳ.

Phong trào bắt bớ và lưu đày các nhà cách mạng đàn anh xẩy ra khắp ba kỳ Trung, Nam, Bắc, đã gây ra môt lòng căm phẩn ngấm ngầm trong giới học sinh Trung học của Niên Khóa 1926-27. Sự bảo nhau góp tiền may quần áo, mua các đồ vật dụng để gởi lén lút giúp các thanh niên đàn anh bị xiềng xích gông cùm trong các lao xá, chính là sự biểu lộ kín đáo lòng công phẩn của học sinh toàn quốc.

Học trò làm gì có dư tiền, thế mà ai nấy cũng tự ý sốt sắng nhịn quà bánh, hà tiện từng cắc, từng xu, để góp vào cuộc lạc quyên được số tiền khá lớn. Ở Qui Nhơn, học trò góp được 100 đồng (năm 1926) trao cho mẹ của thầy Đồng sĩ Bình ở Huế vào ghé Qui Nhơn để đi Ban mê Thuột thăm con. Tuấn, Trâm, Anh có dự cuộc “hội họp” của một nhóm đại diện học sinh với mẹ thầy Bình tại nhà anh Phạm Đào Nguyên, thư ký kế toán hang Descours et Cabaud của Pháp, ở ngay Công quán Qui Nhơn. Anh này, người Bình Định, có thể là tiêu biểu cho hạng thanh niên tư chức, giúp việc cho Pháp, có lương tháng khá giả để sống cuộc đời đầy đủ và an nhàn, nhưng cũng có “đầu óc”.

Các tư tưởng ái quốc nồng nhiệt của anh và cảm tình đặc biệt của anh đôi với cách mạng, thường được thổ lộ ra nhiều lần trong nhiều trường hợp nguy hiểm.

Nhờ sự giúp việc tận tụy của anh với người chủ Pháp, nhờ sự giao thiệp rộng rãi của anh về nghề nghiệp với rất nhiêu người Pháp khác ở thành phố, và cũng nhờ tính điềm đạm, bình tỉnh khôn ngoan của anh mà các cuộc hộp họp bí mật ở ngay trong nhà anh, không hề bị Mật Thám Tây để ý dò xét. Muốn được kín đáo hơn, hai cô nữ sinh Trâm và Anh được chỉ định ngồi trước hè nhà ngoài với cô em gái của anh Nguyên. Ba cô gái vừa ăn bắp vừa nói chuyện cười ầm ĩ, rất là vui vẻ ngây thơ, trong lúc có họp kín ở nhà sau.

Hơn 11 giờ đêm bọn Tuấn mới lần lượt ra về trong lúc thành phố đã ngủ hết. Hai trò con gái mắc cở không dám về (thời bấy giờ con gái đứng đắn đâu có dám đi chơi khuya như thế) phần thì sợ ma, vì thành phố chưa có đèn điện, lại có nhiêù chỗ vắng vẻ tối tăm và nhiều khoảng đất trống đầy những mả mồ.

Tuấn cũng không thể đưa hai cô bạn thân về nhà, sợ rằng lỡ có ai gặp, họ sẽ nghi ngờ và đồn bậy bạ. Hai cô sẽ mang tiếng thì sao? Cả thành phố ai còn lạ gì mặt mũi cái cậu học trò nổi tiếng là nghịch ngợm kia và không ai là không biết hai trò con gái thuỳ mị ở lớp Nhất. Vả lại ban ngày, trai và gái không dám đi chung với nhau nữa là ban đêm.

Sau cùng, tụi bạn phải nhờ mẹ thầy Bình và cô em gái của anh Nguyên đưa Trâm và Anh về ở xóm Bờ Sông. Tuấn mang đôi guốc cùn lẽo-đẽo theo sau làm “gạc đờ co”.

Khi bà cụ và cô em gái của anh Nguyên đưa Trâm và Anh về đến nhà rồi, thì cả bà già lẫn cô gái đều sợ ma không dám trở về Công quán. Trò Tuấn phải đi hộ tống hai người trở lại nhà.

Anh Nguyên bảo Tuấn ở lại ngủ với anh. Anh pha cà phê của Tây cho uống. Nhưng trò Tuấn mới nằm xuống giường chưa nóng lưng đã lóp ngóp bò dậy, bảo anh Nguyên mở cửa để cho trò đi về:

- 12 giờ khuya còn đi về à?

- Đi về ! Tuấn chỉ bảo thế.

Ra đường, Tuấn lê đôi guốc cùn đến xóm Bờ Sông đi ngang qua trước cổng nhà trọ của Trâm và Anh. Hai cô nữ sinh còn thức, ngôì trên sân dưới ánh trăng sáng dịu, ngó ra ngoài cổng. Trông thấy Tuấn đi ngang qua, Trâm và Anh chạy ra, khẽ gọi:

- Anh Tuấn!

Tuấn quay lại, Trâm bảo:

- Tụi em thức đợi anh, biết thế nào anh cũng trở lại.

Anh bảo:

- Đi vào sân ngồi dưới ánh trăng nói chuyện chơi anh Tuấn.

- Trâm và Anh chưa đi ngủ à?

- Sao đêm nay tụi em không buồn ngủ. Anh buồn ngủ chưa?

- Chưa.

- Đi vô sân nói chuyện chơi, anh.

Tuấn khẻ bảo:

- Tụi mình đi vô nhà, đóng kín cửa lại.

Trâm và Anh cười hồn nhiên, lật đật chạy vào nhà với Tuấn. Ánh trăng rọi xuyên qua các song cửa, như lọc những tia sáng lờ mờ xanh dịu. Trâm đóng cửa giữa. Tuấn bảo Anh đóng luôn cả hai bên. Trong nhà tối đen, không có gì nữa cả. Giả sử lúc bấy giờ có ai đứng bên ngoài rình xem, họ cũng khó được biết cậu học trò con trai và hai cô bạn gái nói chuyện gì trong căn nhà tôí đen ấy?
Tuấn nói rất khẽ:

- Anh thắp đèn dầu hỏa lên. Đừng thắp đèn măng-sông (manchon ) sáng lắm.

Anh và Trâm di sờ soạng tìm hộp quẹt “Bến Thủy”. Đó là loại hộp quẹt duy nhất của một hãng Tây chế tạo ở Bến Thuỷ, gần thành phố Vinh, được thông dụng khắp xứ Trung Kỳ lúc bấy giờ. Hai phút sau, một ngọn lửa vàng khè cháy trên đỉnh một chiếc đèn gọi là đèn Huê Kỳ.

Trâm và Anh cứ tủm tỉm cười, không nói gì cả. Hai cô chưa biết Tuấn định làm gì.

Tuấn khẽ kép ghế ngồi ngay trước ngọn đèn, thò tay dưới lớp áo dài trắng của Tuấn đang mặc, rút trong lưng quần ra: hai tờ báo. Anh và Trâm thoạt tiên rất kinh ngạc và sợ hãi nhưng rôì trở lại vui mừng, kéo ghế ngôì hai bên Tuấn, sát ngay vào cạnh Tuấn. Ba cái đầu xanh ngây thơ âu yếm kề vào nhau dưới ánh đèn, trố mắt xem chung tờ báo:

Việt Nam Hồn Cơ quan của Đảng Việt Nam Độc Lập ở Paris Chủ Nhiệm: Nguyễn Thế Truyền Và tờ báo Tây:

L’ Argus Indochinois Organe de combat l’injustice et l’oppression .
(Cơ quan chiến đấu chống bất công và áp chế Directeur-gérant: Amédée Clémenti (Chủ nhiệm, Quản lý: Amédée Clémenti) 14 Bd Doudart-de-Lagré Hanoi và giòng chữ lớn đăng hết cả bề ngang trên trang nhất:

Le Parti de L’Indépendance Annamite (Đảng An nam Độc Lập) Anh nét mặt hớn hở, hỏi thăm Tuấn:

- Anh được hai tờ này hồi nào vậy, anh?

- Lúc nãy. Sau khi nhóm ở nhà anh Phạm Đào Nguyên. Chính anh Nguyên trao tôi hai tờ báo này. Tôi cũng chưa xem .

Trâm mừng rỡ lấy tay chỉ một câu in nét đậm ba cột trên tờ Việt Nam Hồn và reo thầm lên:

- Bài này hay quá, anh ơi … Ồ thích quá, anh!

Tuấn gấp tờ L’Argus Indochinois lại để xem tờ Việt Nam Hồn trước.

Vai sát vai, ba đầu xanh kề nhau trìu mến, cúi xuống tờ báo in toàn chữ đỏ trên giấy trắng . Hai cặp mắt huyền lónh lánh, mê nhìn theo ngón tay của Tuấn chỉ từng giòng từng chữ bài thơ sau đây trong lúc miệng của Tuấn đọc rất khẽ, chỉ đủ cho ba người nghe với nhau:

Cảnh Tỉnh

Hãy thức dậy, hởi người say ngủ,
Chuông Tự Do rền ngũ đại châu
Xôn xao khắp cả hoàn cầu
Sao ta cứ chịu vùi đầu giấc mê?
Chân ta cứ kéo lê xiềng xích?
Cổ ta mang nặng chịch gông cùm?
Nào ta trổi dậy vẫy vùng,
Sao cho xứng đáng con Rồng cháu Tiên.

. . . . . . . . . . . . . . . .
Đọc hết tờ báo Việt Nam Hồn, Tuấn và Trâm, Anh, đều rạo rực vui sướng vì những bài kịch liệt chửi Tây, hô hào cách mạng, đả đảo chế độ thuộc địa, đòi Độc Lập Tự Do. Trời ơi! Sao ở bên Tây, người An nam mình viết báo chửi Tây sướng quá vậy hỉ! Tuấn nhảy nhổm lên. Tuấn reo cười thoải mái. Tuấn đi qua đi lại. Tuấn đứng một chỗ không yên. Tuấn ngồi xuống.

Tuấn điên mất rồi! Hai trang báo in toàn chữ đỏ như làm phừng lên những ngọn lửa huyền diệu trong lòng cậu học trò 16 tuổi, mà trái tim bổng dưng sùng sục sôi lên.

Trâm và Anh thì ngồi yên lặng dưới ánh đèn, cúi đầu xuống chép trong quyển vở những đoạn văn và những bài thơ mà hai cô nữ sinh 14 và 15 tuổi đang say sưa trích trong "Việt Nam Hồn”. Tên tờ báo đúng làm sao! Đêm nay thật như có Hồn Thiêng của Nước Mẹ Việt Nam nhập vào ba linh hồn ngây thơ của ba đứa trẻ, khiến chúng rạo rực lên, say mê lên, hăng hái lên, cười lên, reo lên!… Trâm và Anh ngồi chép mấy bài thơ trong Việt Nam Hồn, và những giọt nước mắt êm đềm lặng lẽ từ trên hai cặp mắt huyền mơ diễm lệ rơi từ từ xuống hai trang giấy, đọng trên những vần thơ, nhòa ra nét mực. Thơ của Việt Nam Hồn có thần lực gì mà một đứa con trai khờ khạo, và hai cô gái mảnh khảnh nhu mì, đang bị rung cảm mảnh liệt đến trào ra những ngấn lệ? Họ khẽ hỏi nhau: ông Nguyễn Thế Truyền là ai vậy? Các nhà ái quốc cách mạng khác làm thơ và viết trong tờ Việt Nam Hồn là ai? Ba trò còn nhỏ tuổi qúa, làm sao biết được! Nhưng Tuấn nghĩ rằng các ông có ngờ đâu những tư tưởng cách mạng Tự Do, Độc Lập in trên hai trang báo nhàu nát của các ông từ bên Tây gởi lén về, đã lọt vào ba mái tóc xanh khắn khít bên ngọn đèn leo lét, trong một thành phố nhỏ ở Trung Kỳ. Đối với Tuấn cũng như với Trâm, Anh, tên Nguyễn Thế Truyền là một thần tượng, như Phan Chu Trinh và Phan Bội Châu vậy.

Đến khi đọc qua tờ báo tây L’ Argus Indochinois, Tuấn kinh ngạc vô cùng. Đây cũng là tờ báo cách mạng nhưng viết bằng chữ Tây, xuất bản tại Hà nội, mà chủ nhiệm kiêm chủ bút là người Tây, ông Amédée Clémenti. Trâm hỏi Tuấn:

- Tây mà sao cũng viết báo chửi Tây, hả anh?

Tuấn không trả lời được. Tuấn đã biết gì đâu việc làm báo và làm “quốc sự”. Thấy thế chỉ biết thế thôi, L’Argus Indochinois in trên giấy xanh, bốn trang rộng lớn đăng toàn những bài đả kích kịch liệt chế độ thuộc địa (le régime colonial) - danh từ thường dùng nhất trong tờ báo này và rất hăng hái bênh vực người An nam được tự do, nước An nam được độc lập. Trên đầu tờ báo này bên cạnh tên báo, có vẻ một con chim Minh Trĩ (L’Argus) với hai chữ la-tinh: unguibus et rostro (dùng mỏ và móng).

Ý hẳn ông Amédée Clémenti mượn con Minh Trĩ làm tượng trưng cho cuộc tranh đấu cách mạng của ông để binh vực quyền lợi của dân tộc An nam và nước An nam. Cuộc tranh đấu dai dẳng dùng mỏ để cắn, dùng móng chân để đá, nghĩa là quyết liệt, không bao giờ nhượng bộ.

Có điều Tuấn và hai cô bạn học trò lớp Nhất cứ thắc mắc mãi là sao lại có một ông Tây ở Hà nội viết báo chửi Tây còn hơn An nam nữa?

Những bài báo L’Argus Indochinois ở Hà nội và các bài trong Việt Nam Hồn ở Paris đã gieo thẳng vào óc của Tuấn cũng như Trâm, Anh, một tinh thần cách mạng mãnh liệt hơn bao giờ hết.

Sau khi họ xem xong hai tờ báo không sót một câu một chữ, và chép hết những bài văn bài thơ cảm động nhất thì trời đã sáng. Hai cô học trò vội vàng tìm chỗ kín đáo để dấu cất những giai phẩm văn chương cách mạng ấy.

CHƯƠNG 33.

1926

- Nghỉ Hè, học sinh góp tiền, nhờ giáo sư đem ra Huế tặng cụ Phan bội Châu.

- Một bà vợ Thành Thái bị Vua chém sứt mất vú.

Với mặt trời đã mọc lên cao trên mặt biển, chiếu ánh sáng ấm áp trên thành phố, đời sống rộn rịp lại tiếp tục như mọi ngày, không có gì thay đổi.

Ông Cò Tây với bộ râu cá trê, và một người lính “phú lít” An nam cỡi xe máy đi chầm chậm trên con đường lớn, mắt tròn xoe ngó hai bên hàng phố. Nhiều người đi đường cất nón hoặc dở mũ chào. Sáng nay là Chủ Nhật, trò Tuấn đi về nhà, lê đôi guốc cùn kêu lẹp kẹp…lẹp kẹp…, vừa đi vừa huýt gió. Trò dâú hai tờ báo trong lưng quần, dưới lớp áo trắng dài quá đầu gối độ 10 phân. Ông Cò râu cá trê xoe tròn hai con mắt nhình trò. Trò làm bộ cười và chào bằng tiếng Tây:

- Bonjour Monsieur le Commissaire de police! (Chào ông Cò).

Ông Tây gật đầu cười:

- Bonjour, jeune home! (chào cậu bé!) Tuấn mang lén hai tờ báo về nhà trọ, định xem lại một lần nữa rôì đem đến cho trò Quỳnh trò Tố xem.

Muà hè 1925, học trò trường Qui-Nhơn xôn xao vì một cái tin đã gây ra nhiều tai tiếng cho một ông Đốc (Giáo sư An nam) chung quanh một số tiền đóng góp gởi ra tặng cụ Phan Bội Châu ở Huế. Vụ góp tiền không hiểu do ai đề xướng ra, nhưng một tháng trước ngày nghỉ Hè, học trò các lớp lớn, nghĩa là Đệ Nhất, Đệ Nhị, Đệ Tam niên, bảo nhau đem tiền đến góp tại nhà ông đốc Bính, người Bắc Kỳ.

Ông này, như đã có nhắc đến nhiêù lần ở mấy chương trước, vì có đầu óc cách mạng và đã nhiều lần tuyên truyền tư tưởng ái quốc trong đám học trò, nên rất được học trò tín cẩn và kính phục hơn hết các ông đốc khác. Học trò các lớp lớn cho rằng sự đóng góp tiền để giúp thầy Đổng sĩ Bình bị tù ở ngục thất Ban Mê Thuột và để gơỉ tặng cụ Phan Bội Châu ở Bến Ngự, Huế, đều là một bổn phận mà học trò phải hăng hái làm tròn.

Ai cũng biết rằng cụ Phan Bội Châu ở Bến Ngự là do tiền của đồng bào nuôi, tiền của những người ở khắp các tầng lớp xã hội, từ Bắc chí Nam, ai có tính yêu nước và có lòng sùng bái bậc anh hùng chí sĩ đều tự động gởi đến tặng cụ. Việc ấy dĩ nhiên, vì cụ Phan Bội Châu làm cách mạng ở hải ngoại về, làm gì có tiền.
Tuấn có nói việc ấy cho Trâm và Anh nghe, hai cô bạn lớp Nhất cũng tán thành: “Phải chớ! Cụ làm cách mạng cho ai! Cho Quốc Dân đồng bào, (những danh từ này thường đúng nhất lúc bấy giờ). Cụ là bậc cha già của Quốc Dân phải có bổn phận phụng dưỡng cụ”.

Nghe nói đồng bào ở tỉnh nào cũng có gởi tiền về tặng cụ. Thành phố Qui-Nhơn cũng đã có nhiều người góp tiền đem ra Huế tặng tận tay cụ, vì không dám gởi măng đa, sợ các quan Tây hay được sẽ bỏ tù.

Về phần trường Qui-Nhơn thì học trò biết rằng đến kỳ nghỉ hè có ông Đốc Bính về thăm quê nhà ở Bắc kỳ, sẽ Huế thăm cụ Phan. Đó là cơ hội rất tốt để học trò góp tiền nhờ ông Đốc trao tận tay cụ. Bọn học trò con nhà giàu thì sẵn tiền, còn tụi nhà nghèo lo nghĩ ngày đêm không biết làm cách nào có tiền để tặng cụ Phan? Tuy là người nào tuỳ tiện góp riêng người đó, chứ không phải góp chung và không ai bắt buộc ai cả, nhưng trò nào không có tiền thật là đau khổ, lương tâm cắn rứt, tự coi như là chính mình trốn tránh bổn phận đối với “Quốc Dân Đồng Bào”!

Còn 7 ngày nữa, thì đến nghỉ Hè, mà trò Tuấn không có một xu trong túi, măng đa ở nhà cha mẹ gửi cho trước đó nửa tháng, trò đã lấy trả tiền cơm, và các món nợ vặt vãnh còn dư được một vài đồng trò mua kẹo thèo lèo đãi Trâm và Anh, hai cô bạn lớp Nhất cuối niên khóa đã thi đỗ “ri-me”. Chợt đến vụ góp tiền tặng cụ Phan Bội Châu, Tuấn không còn một đồng xu. Tuấn nằm khóc thút thít một mình.

Bảy ngày liên tiếp, Tuấn tự lấy làm hổ thẹn, biệt có dám bước chân đến nhà hai cô bạn Trâm, Anh. Chờ mãi Tuấn không được, hai cô đến nhà trọ tìm Tuấn, nhưng Tuấn lánh mặt.

Đến ngày phát phần thưởng cuối niên khóa, trò Tuấn vui mừng được lãnh thưởng 3 quyển sách mới thật đẹp. Tan buổi, Tuấn ôm sách đi gạ bán cho mấy thằng bạn nhà giàu. Trong số đó có thằng Nguyễn văn X., con nhà bá hộ nhưng học kém, không được phần thưởng, Tuấn đến gạ nó:

- Tao bán cho mầy ba quyển sách này có đóng dấu của ông Đìa-réc-tơ tặng thưởng. Mầy đem về khoe với cha mẹ mầy là chính sách phần thưởng của mầy, chắc ổng bả mừng lắm và cưng mầy lắm.

Con nhà bá hộ nghe bùi tai, bằng lòng lập tức. Tuấn theo giá sách đòi 10 đồng bạc, thằng bạn lấy trao Tuấn đủ số, không mặc cả. Tuấn mừng quýnh, chạy đến nhà ông Đốc Bính, góp 9 đồng vào số tiền tặng cụ Phan Bôị Châu. Còn dư 1 đồng, Tuấn mua kẹo thèo lèo đãi Trâm và Anh. Hai cô cũng đã góp mỗi cô 4 đồng nhờ Tuấn trao lại ông Đốc Bính.

Sau kỳ nghỉ Hè, xẩy ra chuyện tai tiếng rùm beng cả thành phố. Thầy trợ giáo lớp Ba cũng có đi Huế thăm cụ Phan. Khi trở về Qui-nhơn, thầy mét với học trò rằng ra Huế ông Đốc Bính đã ăn xén bớt một nửa số tiền của học trò đóng góp, chỉ trao tặng cụ Phan một nửa số thôi. Mặc dầu Tuấn và đa số học trò không tin hành động bất lương ấy của ông Đốc Bính, nhưng một số khác vẫn tin và nhất là mấy ông Đốc và mấy thầy Trợ giáo không có cảm tình với ông Đốc Bính.

Việc thứ hai là một thằng bạn xỏ-lá ở cùng làng với con nhà bá hộ, và cũng không được phần thưởng, đã mét với ông bá hộ là thằng con ông đã mua lại sách thưởng của thằng Tuấn. Ông bá hộ nghe lời trò kia, liền đè con xuống đánh một trận nên thân. Gần ngày tựu trường, trò Nguyễn văn X. trả ba quyển sách lại cho Tuấn và đòi lại số tiền 10 đồng …Tuấn phải bán sách cho đứa khác mới có tiền trả lại cho nó.

1924-1927, ba năm…Biết bao nhiêu là thay đổi trong đầu óc người thanh niên Việt Nam! Cũng như đại đa số, có thể nói là hầu hết thanh niên học sinh Trung kỳ, Bắc kỳ và Nam kỳ, Tuấn năm 1927 đã khác hẳn Tuấn 1924.

Chàng trai nước Việt 1927 không còn vô tư, ngớ ngẩn, khờ khạo, như chàng trai 1924. Hắn không còn say mê điệu quốc ca La Marseillaise của Pháp nữa. Hắn đã ghét lá cờ tam tài xanh-trắng-đỏ. Hắn đã hết sợ ông Tây bà Đầm, và đã tức giận Tây là kẻ lấy quyền thế, ỷ văn minh, ỷ mạnh, dày xéo trên đất nước An nam, bốc lột dân An nam, khinh khi nòi giống An nam.

Tuy vậy, tâm hồn các bạn trẻ này hãy còn chất phác, ngây thơ chưa hiểu biết gì nhiều về chính trị trong nước cũng như chưa có ý thức rõ rệt về vai trò của thanh niên đối với chế độ thuộc địa. Đại khái là thù Tây, ghét Tây! Nhưng vẫn thích học và thích nói tiếng Tây, viết chữ Tây. Ghét chế độ quân chủ, nhưng lại vẫn tôn sùng các ông Vua ghét Tây và đã chống lại Tây. Những vị Hoàng đế như Hàm Nghi, Thành Thái, Duy Tân đều được bọn học trò và toàn thể thanh niên chiêm ngưỡng. Những chuyện gì dính líu đến các vì Vua ấy đều được kể cho nhau nghe, và ai nấy đều tin, nhất là những chuyện hoang đường để chứng minh rằng các vua ấy là minh quân, quả có cái mạng “Đế vương của Trời ban cho để cứu nước An nam”.

Một ông tú tài Nho học kể cho Tuấn nghe rằng vua Tự Đức đi tiêu, ể ra cục c... vuông, chứ không phải cục tròn như người phàm tục. Tuấn tin ngay và vội vàng đi kể lại cho nhiều người nghe. Học trò đứa nào cũng tin. Nhiều thầy Trợ giáo cũng tin. Dân chúng thành phố thì ai cũng tin cả. Tất cả đều tin. Chẳng ai cần biết rằng lính vua Tự Đức đánh Tây ở cửa Hàng, ở Hà Nội, ở Lục Tỉnh trận nào trận nấy đều thua liểng xiểng, rốt cuộc để Tây lấy mất cả nước An nam. Nhưng điều đó không quan hệ. Chỉ một việc đánh Tây, cũng đã là một hành động minh quân rồi, có mạng Đế vương, đáng “vì thiên tử”.

Tuấn khoái đem câu chuyện cục c…vuông của vua Tự Đức đi nói cùng cả cho mọi người nghe. Ai cũng cười xòa lên cho đến anh “cu li” xe kéo và chú thợ nề cũng biết và trầm trồ kính phục vua Tự Đức.

Một hôm, ở trường, trong giờ ra chơi, ông giáo sư Pháp văn, tên là Arago, tính ưa khôi hài và thích chọc trò Tuấn, vừa cười vừa hỏi Tuấn:

-Có phải ông Vua An nam ể cục c..vuông không Tuấn?

Tuấn hết sức ngạc nhiên, không dè các ông giáo sư Pháp cũng nghe chuyện đó, và Tuấn tự thấy hơi lố bịch đối với người Pháp, nên Tuấn trả lời:

- Ai bảo với ông thế? Những ông vua nước Pháp hồi trước như Louis XIV, có ể cục c… vuông không?

Ông giáo sư cười hà hà, cú nhẹ trên đầu Tuấn một cái.

Đaị khái có một chuyện lạ nữa mà ai cũng tin, là chuyện Vua Thành Thái ra thăm núi Ngũ Hành Sơn ở Đà Nẵng. Nơi đây, trong một động núi có hai cái vú đá thiên nhiên rất đẹp, giống hệt như đôi vú vun vén đầy đặn của đàn bà. Nguồn nước trong veo từ đôi vú ấy chảy ra thường xuyên từng giọt, nhỏ xuống hai chậu đá cũng thiên nhiên đặt ngay dưới vú. Các vị tu sĩ ở Ngũ Hành Sơn thay phiên nhau ra múc nước thiêng âý đem vào cúng Phật. Bỗng một hôm đức Vua Thành Thái ngự du ra xem thắng cảnh, trông thấy đôi “vú thần” đẹp quá. Ngài tinh nghịch đưa tay ra bóp một cái, tự nhiên vú tịt ngòi không chảy nữa. Mãi cho đến sau này, cái vú ấy vẫn cứ câm luôn. Chỉ còn một cái tiếp tục thường xuyên chảy nước là cái vú vô duyên không có vinh hạnh được bàn tay đế vương rờ bóp. Lúc mới nghe, Tuấn cho câu chuyện ấy là hoang đường, phi lý, nhưng mấy cậu học trò quê ở Quảng Nam, đều quả quyết là chuyện thật 100 phần 100. Hâù hết, những bạn này đều nói có đi xem núi Ngũ Hành Sơn và xác nhận sự kiện lịch sử ấy. Việc Vua Thành Thái bóp vú đá ở Ngũ Hành Sơn cũng được truyền tụng khắp cả thành phố, và cũng do đám học sinh Đệ Nhất, Đệ Nhị, và Đệ Tam niên loan ra.

Một hôm anh Phạm Đào Nguyên, thư ký hãng Descours et Cabaud, mét riêng cho trò Tuấn biết rằng người vợ An nam hiện tại của ông Tây Delorme, ở cạnh nhà thờ Thiên chúa, trước kia chính là một trong những bà vợ của Vua Thành Thái, và bà này hiện chỉ có một cái vú độc nhất ở bên trái, vì cái vú bên phải đã bị Vua Thành Thái cầm gươm chém đứt, Phạm Đào Nguyên nói và cười, nhưng quả quyết là đúng sự thật. Thấy Tuấn lắc đầu không tin, thầy thư ký hãng Descours et Cabaud bảo Tuấn:

- Nếu anh không tin, cứ việc đến hỏi thẳng bà Delorme, Bả sẽ nói chuyện cho nghe.

Tuấn cho là một chuyện khôi hài, nhưng nó vẫn bị ám ảnh kinh khủng bở cái vú “lịch sử” của bà vợ Tây mà Phạm Đào Nguyên qủa quyết bảo trước kia là vợ của Vua Thành Thái. Óc tưởng tượng của tuổi thanh niên, và thêm vào đấy cái tính tò mò học hỏi sẵn có của Tuấn, bị căng thẳng đến tột độ, khiến Tuấn cả đêm không sao ngủ được. Đến khi ngủ mê, Tuấn chiêm bao thấy cái vú của bà vợ Tây bị Vua Thành Thái cầm gươm chém một nhát phun cả máu ra. Tuấn ú ớ hét lên một tiếng kinh khủng rồi giật mình thức giấc. Cả nhà trọ đều hoảng hốt thức dậy hết. Họ thắp đèn lên và hỏi Tuấn. Cậu học trò ướt đẩm mồ hôi điềm nhiên kể lại:

- Tui thấy bà Delorme có hai cái vú thiệt đẹp, bị vua Thành Thái cầm gươm chém một cái đứt ra chảy đẩm cả máu me. Tui sợ quá hồn vía bay đâu mất!

Cả nhà đều cười xòa mà chế nhạo trò Tuấn là mê đôi vú của bà me Tây. Mắc cỡ, nhưng muốn biết rỏ sự thật, sáng Chủ Nhật, mặc áo dài trắng của học trò, đội mũ trắng, lê đôi guốc cùn đến nhà bà Dolerme. Ông Tây chồng bà đi Saigon, bà đang dạo vườn bắt sâu cho mấy khóm hoa. Cái cổng bằng gỗ mở một cánh. Tuấn đi qua đi lại hai ba vòng, mắt cứ lấm lét ngó vào vườn hoa nhưng không dám vào. May thay bà vợ Tây dừng lại nhìn trò Tuấn rồi mĩm cười nói bằng tiếng Huế:

- Câu kia đi mô rứa? Ngó chi rứa? Muốn xin bông hỉ?

Tuấn cười:

- Dạ, bông gì đẹp quá, bà cho tui một cành được không?

- Được, vô trong ni tui cho.

Thế là Tuấn vào. Đôi mắt tò mò của Tuấn cứ ngó ngay lên bộ ngực bà, vun vèn đầy đặn cả đôi dưới lờp sơ mi mỏng bằng hàng ngoại quốc. Bà trạc độ 40 tuổi, rất đẹp. Tuấn hồi đó 16 tuổi thôi.

Bà cười rất tự nhiên hỏi:

- Răng cậu cứ nhìn cái ngực của tui dữ rứa?

Tuấn bẽn-lẽn hỏi:

- Thưa bà, phải hồi trước bà là vợ vua Thành Thái không?

- Phải, trước tê tui là cung phi của đức ngài Thành Thái.

- Tui nghe họ đồn là nhà Vua chặt mất một cái vú của Bà, có đúng không Bà?

- Đúng như rứa đó.

Xong, bà vui vẻ cởi nút áo ra, phanh một nửa chiếc áo sơ mi để hở một nửa ngực cho Tuấn xem. Bà chỉ cái chỗ vú bên phải:

- Cái ni này.

Tuấn thấy không có cái vú ở chỗ đó nữa, da ngực bằng phẳng chỉ còn một vết thẹo lớn mà thôi. Vú bên trái còn nguyên vẹn thì bà vẫn cầm nữa áo che kín, không cho Tuấn xem. Vã lạ, trò Tuấn đâu có đòi xem cái vú còn nguyên vẹn. Xong, bà cựu Cung Phi cài khuy áo lại. Tuấn hỏi:

- Sao Vua Thành Thái lại chém cái vú của bà chi rứa?

- Tại ri nè. Ngài lo việc đánh Tây. Cho nên sáng mô Ngài cũng bắt Cung Phi Cung Nữ ra vườn tập trận. Ngài ra lịnh trồng chuối chung quanh vườn, cứ cách một khoảng trồng một cây chuối. Ngài truyền Cung phi cưỡi ngựa, cầm gươm, rôì phi ngựa chạy ngang qua giây chuối. Ngài Ngự ngồi ghế truyền lịnh chém cây mô thì phải chém cây nớ. Taị con ngựa của tui nó sợ quá, đến gần chỗ Ngài ngôì là nó nhảy vồ lên, làm tui cũng thiếu điều bổ xuống đất, tui đưa gươm ra chém cây chuối mà không trúng. Ngài Ngự nổi giận liền chạy tới đưa gươm chém vô người tui một phát lại trúng cái ngực, đứt cái vú. Tui bổ xuống đất, máu chảy ra lai láng mà tui không dám kêu. Rôì tui chết giấc luôn. Sau đó nhờ dán thuốc dán lâu ngày cũng khỏi, bây giờ thành thẹo như rứa đó.
Tuấn đứng nghe choáng váng cả mặt mày, muốn té xỉu luôn bên bồn hoa của bà Cựu Cung phi …Bà bẻ cho Tuấn một cành hoa, bảo Tuấn vô nhà chơi, bà cho coi nhiều đồ Tây đẹp lắm. Nhưng Tuấn mắc cỡ, cất mũ chào bà rôì chạy biến ra đường.

CHƯƠNG 34.

1926

- Phong trào học trò mặc Âu Phục bằng vải nội hoá.

- Phản ứng của các giáo sư Pháp.

- Phản ứng của giới thủ-cựu An-nam.

Một buổi sáng thứ Hai, trống đánh tựu trường được một lúc, thì ông “Đìa” (học trò gọi tắt ông Đìa-réc-tơ Deydier) và các giáo sư Pháp, Nam đều hết sức ngạc nhiên thấy đa số học rò các lớp lớn từ Đệ Nhất niên lên Đệ Tứ niên, đi học đều mặc âu phục. Ông Đìa và các giáo sư đều gọi đó là “một cuộc cách mạng”! Vì lần đâù tiên học sinh Qui-nhơn, và cùng một lúc cả học sinh toàn quốc, đi học mặc đồ Tây!

Trước đó, từ Bắc chí Nam, học trò chỉ mặc áo dài An nam, và mang guốc, hoặc đi chưn không. Học trò Bắc kỳ mặc áo the thâm hoặc áo vải quyến trắng. Học trò Trung kỳ mặc áo trăng đầm đen, và quần vải quyến trắng. Học trò Nam kỳ mặc đồ bà ba trắng, chỉ có con nhà giàu sang mới mặc đồ Tây, mang giày tây. Ở Trung kỳ và Bắc kỳ, học trò mặc đồ Tây là việc hy hữu, dù là con nhà giàu hay con nhà quan.

Bỗng dưng, sau vụ Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh 1925-1926, học sinh Trung học cả ba Kỳ đều bảo nhau mặc đồ Tây hết, và đồ Tây may bằng vải nội hóa.

Khởi điểm phong trào đi học mặc đồ Tây là học sinh Quốc Học Huế. Còn cuộc vận động may đồ Tây bằng vải nôị hóa lại là do học sinh trường Qui-nhơn. Nói cho đúng với sự kiện lịch sử và xã hội, thì hai phong trào kia đều do ảnh hưởng đời sống “Âu hóa “đã bắt đầu phát triển mạnh mẽ ở Saigon trước tiên, từ ngày cụ Phan Chu Trinh bị Tây bắt ở Thượng Hải đưa về Hà nội. Do cuộc tuyên truyền miệng, vì hầu hết những phong trào toàn quốc lúc bấy giờ đều do khẩu truyền mà ra, chứ không phải do nơi cổ động trên báo chí An nam. Suốt cả thời kỳ cách mạng tiền chiến, báo chí đều chỉ đóng vai trò thụ động. Hoặc họ phê bình đả phá các phong trào ái quốc theo mệnh lệnh của Tây. Chưa bao giờ trong thời kỳ sôi nổi 1925-1927, báo chí An nam đóng vai tiền phong hay chủ động, dẫn dắt quần chúng. La Cloche Félée của Nguyễn An Ninh, và La Jeune Indochine của Vũ Đình Di ở Saigon, Tiếng Dân của cụ Huỳnh Thúc Kháng ở Huế, L’Argus Indochinois của Amédée Clémenti ở Hà nội là những cơ quan tranh đấu độc lập của những nhà trí thức cách mạng An nam và Tây.

Phong trào học trò đi học mặc đồ Tây bằng vải nội hóa, năm 1927, cũng không phải do báo chí cách mạng phát động. Trái lại, có nhiều tờ báo lại còn làm thơ con cóc và đem những triết lý đạo đức vụn ra mà chế nhạo nữa là khác. Mặc kệ, bọn học trò bảo nhau: Tây họ thấy tụi mình mặc áo quần An nam, họ khinh mình là nhà quê, họ chửi mình là “ sale race” (nòi giống nhơ bẩn), thì từ nay tụi mình mặc đồ Tây đi học để có ý như khiêu khích, trò Ứng, ngôì bàn chuyện tại nhà thầy Phạm đào Nguyên về vấn đề mặc đồ Tây, do mấy anh Quốc Học ở Huế vô đề xướng hôm trước. Lần đầu, trò Hảo còn e ngại:

- Tuị mình mặc đồ Tây, sợ ông Đìa với các ông giáo sư cho tụi mình là vô lễ, hay làm phách thì sao?

Trò Thu chuyên môn giọng cười hài hước:

- Mõa mặc đồ Tây mà mõa cứ học thuộc bài, khỏi ăn hột vịt là mõa “măng phú”. Mấy ông giáo sư mặc đồ Tây có làm phách và vô lễ với ông Đìa không?

Quỳnh:

- Tao chỉ sợ xin tiền may đồ Tây, cha tao hổng cho.

Tuấn:

- Tao thì tao năn nỉ anh thợ may cho tao may chịu, rôì nghỉ hè vô sẽ trả tiền.

Hảo cười hì hì:

- Nghỉ hè vô, mày bán bộ đồ Tây đó để trả tiền cho thợ may hả?

- Nghỉ hè về quê, tao diện đồ Tây, đeo cờ-ra-oách cho oai thì cha mẹ tao khóai mắt, nhứt định là cho tao tiền.

Hảo:

- Ông già bà già tao thì dễ lắm. Ổng mặc đồ Tây, thì ổng cũng thích tao mặc đồ Tây cho giống ổng. Nhưng tao sợ tụi mình mặc đồ Tây đi học thì ông Đìa cấm, không cho mặc.

Nghĩ đến trường hợp có thể ông Đìa cấm học trò đi học mặc đồ Tây, trò nào cũng ái ngại. Nhưng Tuấn bảo:

- Tao thì tao hổng sợ ông Đìa cấm. Cấm là vô lý. Tao chỉ sợ lão Gabriel càng ghét tao và suốt năm cứ cho tao ăn trứng vịt. Nhưng tao đếch cần!

- Mầy có lão Arago với lão Antomachi thương mày. Hễ giờ Toán, Gabriel cho mày zéro thì qua giờ Luận Pháp văn ông Antomachi cho mầy 9 sur 10. Ông Arago cho mầy Lecture cũng 9 sur 10. Cái này bù qua cái kia.

- Ừ, vậy cho nên tao đâu có sợ lão Gabriel!

Rốt cuộc rồi ai cũng tán thành mặc đồ Tây đi học. Nếu xẩy ra chuyện gì, sẽ liệu sau. Nhưng Tuấn đề nghị may bằng vải nội hóa, đừng thèm may vải tây. Cãi nhau một hồi lâu rồi tất cả chịu may bằng vải nội hóa Quảng Nam. Vải dệt ở Qui-nhơn và Quảng Ngãi không đẹp bằng dệt ở Quảng Nam, mấy anh thợ may bảo thế.
Phong trào vận động may đồ Tây được tuyên truyền miệng khắp giới học sinh các lớp Trung học. Học sinh Tiểu học còn nhỏ tuổi, hầu hết các bậc phụ huynh các em không cho mặc đồ Tây. Thế là nửa tháng sau, hai phần ba số học trò lớn đều có mỗi trò một bộ đồ Âu phục bằng vải nội hóa. Họ gọi là là “Nhứt bộ” vì trò nào cũng chỉ kiếm tiền may được một bộ mà thôi. Còn một phần ba, tụi nhát gan nhất, sợ mặc đồ Tây sẽ bị ông Đìa phạt và giáo sư ghét, thì nhất định tiếp tục áo dài đen, quần trắng, mang guốc.
Sáng thứ Hai ấy, Tuấn dậy thật sớm, tắm rửa sạch sẽ để làm lễ khánh thành bộ đồ tây đầu tiên của trò. Sau khi chãi tóc rẽ trois quarts thật bảnh bao, Tuấn trịnh trọng mặc sơ mi trắng tinh, chiếc sơ mi mới may duy nhất và cẩn thận cài từng nút xa cừ. Thắt cà-ra-óach, thì đã nhờ anh thợ may bày cho, và Tuấn đã tập mãi ngày Chủ Nhật để thắt cho đẹp và cho ngay thẳng giữa cổ.
Xong, không mặc quần đùi vì Tuấn ghét mặc quần đùi, cứ ở truồng như thế Tuấn lấy nhè nhẹ cái quần tây, xỏ nhè nhẹ vào hai ống chân, sợ nó mất plis. Hai tay cầm hai bên lưng quần. Tuấn cúi xuống ngó từ dưới ngó lên xem có ngay thẳng không, rồi mới cài nút. Thắt dây lưng vải, vì hồi đó chưa có tiệm nào bán thắt lưng da (Anh thợ may dùm cái thắt lưng vải, Tuấn phải trả thêm hai đồng bạc). Tuấn tròng vô nhè nhẹ cái áo veste…Theo thời trang đời bấy giờ mặc đồ Tây phải mặc complet đủ bộ quần và áo, chứ không ai mặc sơ mi trần. Học trò cũng mặc “đồ lớn” như người lớn vậy. Đến việc mang giầy mà không có vớ. Vì mua vớ tốn tiền thêm và chủ tiệm không bán chịu. Chỉ có anh thợ may là bằng lòng may chịu mà thôi. Dĩ nhiên là trò Tuấn may chịu cả cái cà-la-oách gía tiền thêm hai đồng nữa, vì chưa có tiệm nào bán cà-la-oách cả.

Xong đâu vào đấy trò Tuấn ngắm nghía trong tủ kiếng của ông chủ nhà, tự thấy ngượng ngùng mắc cỡ, muốn cởi ra xếp cất trở vào va li. Người đầu tiên trông thấy Tuấn mặc đồ Tây là cô con gái ông chủ nhà, 14 tuổi, học lớp Nhì. Cô Công Tôn Nữ Thị Linh khen: “Anh Tuấn mặc đồ tây đẹp quá!” và cứ đứng đó trầm trồ khen mãi. Cô còn chạy xuống bếp gọi: “Mạ ơi, lên coi anh Tuấn mặc đồ tây đẹp quá, nè Mạ!”. Tuấn mắc cỡ, hoảng hồn chạy vô buồng trốn mất, không dám thò đầu ra… Thấy Tuấn lần đầu tiên mặc đồ Tây bẽn lẽn, bà chủ nhà và cô con gái cười rồ lên rồi đi tránh xuống bếp. Đợi một lúc lâu, trong nhà lặng lẽ, Tuấn mở khẽ cửa buồng và chạy phóng ra ngoài đường. Tuấn rất khổ sở, còn phải ráng chịu ái cực hình bị hai bên hàng phố dòm ngó cậu. Phần nhiều dân thành phố tủm tỉm cười và trầm trồ khen ngợi thấy các cậu mặc bộ quần áo tây đi học, như hầu hết học trò lớn trường Qui-nhơn sáng hôm ấy.

Các ông giáo sư Pháp nhìn sự thay đổi đồng phục đột ngột ấy với cặp mắt tò mò đầy cảm tình. Nhưng đa số các ông Đốc, và giáo sư An nam, thì, trái lại, hình như không tán thành. Vài ông, như ông đốc Th. dạy môn Luân Lý, ông đốc V. dạy Quốc văn, còn có vẻ ác cảm rõ rệt. Ngay trong giờ Luân Lý buổi chiều ở lớp Đệ Tam niên, ông Th. giảng về “Le respect de soi” (sự tự trọng) đã nói bằng giọng mĩa mai: “Thí dụ như người học trò còn đi học mà bắt chước mặc y phục như người lớn, cũng mang giày tây, mặc quần áo tây, chỉ tỏ ra thiếu sự tự trọng, và chỉ đáng khinh khi”.
Toàn thể học trò trong lớp đều hiểu rằng ông giáo sư mượn bài học luân lý để công kích những trò mặc đồ Tây, mang giầy Tây – nghĩa là gần hết cả lớp, trừ năm ba đứa mà thôi, những đứa nhút nhát còn mang guốc, mặc áo dài đen.

Ông đốc Tr., giáo sư Lý hoá, không nói gì, nhưng hôm ấy ông cho điểm gắt gao hơn thường lệ. Trò Tuấn được gọi lên bảng trả bài. Trò thuộc bài vanh vách, trả lời không vấp một câu một chữ, đáng lẽ như mọi khi trò được 9 điểm, hôm ấy chỉ được ông cho 6 điểm mà thôi. Tuấn đoán chừng tại vì ông ghét bộ đồ tây của Tuấn nên ông trừ mất 3 điểm. Tất cả các trò mặc đồ tây được gọi lên trả bài đều bị sụt điểm như thế.

Trái lại, trò Trân, lên bảng trả lời ấp úng, lại được ông giáo sư cho 8 điểm – chắc chắn tại vì trò vẫn bảo thủ cái áo dài “trăng đầm”đen, và đi chân không.

Đại khái phản ứng của một số giáo sư An nam là thế trong lúc chính họ vẫn mặc âu phục, may bằng vải serge bleu marine, hoặc bằng các tissus khác, toàn vải của Tây.

Giáo sư Pháp có những nhận xét công bằng và hợp lý hơn. Chính ông Gabriel, giáo sư Kỷ hà học, là người khó chịu nhất, hay quạu nhất, thực dân hạng nặng, mà vẫn tỏ ý tán thành học trò mặc đồ Tây.

Ông ghét trò Tuấn hơn ai hết, lúc nào cũng gườm gườm gọi Tuấn lên bảng để hỏi những câu bắt bí về Géometrie plane, để rồi thưởng cho trò những con zéro liên tiếp trong các giờ toán. Thế mà hôm đầu tiên Tuấn mặc đồ Tây đi học, ông khen Tuấn một câu: "Hôm nay mầy mặc đồ âu phục, coi cái mặt mày dễ thương hơn”. Ông chỉ hỏi Tuấn sơ sài về một định lý, rồi cho Tuấn 8 điểm.
Nhưng quan trọng hơn cả là những nhận xét của ông Đìa-réc-tơ Henri Deydier. Ông không phản đối sự học trò mặc âu phục đi học, nhưng theo một thông cáo bí mật của Toà Khâm Sứ Huế gửi cho ông Công Sứ Qui Nhơn và chuyển đạt qua ông Đìa thì sự học trò mặc Âu phục đồng loạt như thế là một cuộc biều tình có tính cách chính trị. Ông Đià đưa ra những lý do sau đây:

- Không phải riêng học trò Qui Nhơn mà đây là một phong trào chung ở tất cả các Trung học Bắc kỳ, Trung kỳ, Nam kỳ.

- Cuộc “biểu tình bằng Âu phục” này xẩy ra ngay sau những cuộc xin ân xá Phan Bội Châu và truy điệu Phan Chu Trinh.

- Học trò mặc Âu phục toàn bằng vải nội hóa.

Tuy nhiên những nhận xét của Chính Quyền Thuộc Địa Đông Dương về cuộc “cách mạng quần áo”, danh từ chính thức thông dụng là “revolution vestimentaire” của học trò Trung học toàn quốc, không có hậu quả gì về thực tế. Ông Đià có cho gọi mấy trò ở các lớp lớn Đệ Tứ và Đệ Tam niên hỏi: “Taị sao tự nhiên cả trường rũ nhau mặc đồ Tây?” tất cả đều trả lời: “taị vì mặc Âu phục rất tiện lợi ngoài ra không có mục đích gì về quốc sự cả“. Ông Đìa có hỏi trò Tuấn:

- Tại sao mầy không may đồ Tây bằng vải Tây mà lại may bằng vải An nam?

Tuấn trả lời:

- Thưa ông Đốc, tại vì vải An nam rẻ tiền hơn. Tuị tui nghèo, đâu có tiền may vải tây.

Mặc dầu ông Đià tỏ vẻ hoài nghi nhưng không rầy la, không hăm doạ, không cấm, như nhiều trò đã lo sợ lúc đầu. Rồi từ đấy, các trò mặc Âu phục tiếp tục mặc âu phục mãi, còn các trò nhút nhát dần dần cũng bắt chước theo. Qua năm 1927, sau kỳ nghỉ Hè, toàn thể học trò Trung học trong nước đều mặc Âu phục, trong lúc đi học cũng như đi chơi.

Ở thành phố, các giới đồng bào phản ứng khác nhau.

Đa số tán thành, nhất là giới nhà buôn, công chức và phụ nữ, các cô gái đều nhiệt liệt hoan nghênh, khen “mấy anh học trò mặc đồ tây coi đẹp quá”.

Trò Tuấn mấy ngày đầu còn hơi mắc cỡ, nhưng sau đó trò thích chí cứ mặc đồ Tây suốt ngày. Cho đến lúc đi ngủ mới cởi thay. Chủ nhật và chiều thứ Năm được nghỉ, Tuấn với vài ba thằng bạn diện đồ Tây nội hóa, nhất bộ, đi chơi rong khắp phố. Được mấy cô gái đứng trong cửa sổ nhìn ra, các trò khoái lắm. Hai cô bạn Trâm và Anh vừa thi đậu “xẹc-ti-phi-ca“ có làm một bài thơ bát cú tặng Tuấn như sau đây:

Anh mặc đồ tây, coi bảnh trai
Cổ đeo cà-vạt, chân mang giầy,
Văn minh thế giới đều khai hóa
Học thức An Nam cũng hữu tài
Kinh sử văn chương không kém bạn
Tinh thần vật chất có thua ai?
Mong anh giữ trọn tình yêu Nước,
Hồ thỉ tang bồng thõa chí trai.


Phạm thị Trâm - Nguyễn thị Ngọc-Anh
(Lớp Nhất, Collège Qui-Nhơn - 12-6-1926)

Trò Tuấn xem thơ, cảm động, có họa lại như sau:

Nhìn gương hổ thẹn kẻ làm trai ,
Đầu đội mũ tây, gót nện giày
Đèn sách mỗi ngày lo luyện chí
Văn minh bốn bể ráng đua tài
Gái trai Hồng Lạc cùng chung sức
Con cháu Tiên Rồng há kém ai
Quần áo đổi thay, lòng chẳng đổi
Bao giờ quên được phận làm trai!


Trần Tuấn
(Đệ Nhị Niên, Collège Qui-Nhơn - 13-6-1926)

Hai bài thơ học trò còn vụng về nhưng có một số người truyền nhau chép và đọc đang lúc phong trào mặc đồ Tây thịnh hành.
Nhân kỳ thi “xéc-ti-phi-ca” qui tụ tại Qui-nhơn tất cả học sinh tiểu học toàn tỉnh (Phù Cát, Phù Mỹ, Bình Định, Bồng Sơn) có rất đông các nhà Nho, các ông Tú, ông Cử, đem con đi thi, thành phố Qui-Nhơn rộn rịp lạ thường. Hai bài thơ trên kia cũng đến tai các phụ huynh học sinh Tiểu học. Một ông Tú, tên là Tú Tuyển, ở Gò-Bồi, có họa lại như sau đây :

Đã được danh gì, các cậu trai?
Cũng chưng Tây phục, cũng mang giầy?
Văn minh Đại Pháp cao vô lượng,
Y phục An Nam khéo đọ tài!
Cà vạt mũ tây coi có vẻ
Xôi kinh nếp sử chửa bằng ai ,
Đua nhau ăn diện làm chi rứa?
Chỉ khéo trò cười, các cậu trai!


Tú Tài Trần Tuyển.

Bài thơ này khiến cho một số đông học trò dĩ nhiên phẫn uất. Trò Quỳnh chạy đến nhà trò Tuấn, đọc cho Tuấn nghe, rôì đọc luôn cả bài của Quỳnh đáp lại (Phan Quỳnh và Trần Tuấn là hai trò có tiếng giỏi Quốc Văn trong lớp). Quỳnh đã thức nửa đêm bỏ bài học Sử Ký, để họa bài thơ của Ông Tú Tuyển:

Đến trường mang guốc thẹn chân trai
Theo bước văn minh nện gót giầy
Hán tự cùn mòn , quăng vứt xó
Pháp văn mới mẻ chạy đua tài.


Quỳnh cười đắc chí, ngó Tuấn:

- Mày coi tao ngạo ông Tú nhà Nho đó như chiếc guốc cùn!

Xong Quỳnh đọc tiếp:

Há giòng giống mọi, không hơn nó?
Phải áo quần tây chẳng kém ai!
Nô lệ cựu trào sao giữ mãi?
Tương lai hoài bão mấy thằng trai!


Phan Quỳnh
(Đệ Nhị Niên , Collège Qui-Nhơn)

Phan Quỳnh tính rất nóng nảy. Đọc xong bài của mình, Quỳnh hỏi Tuấn:

- Được không, mày?

- Hay lắm rồi mầy ơi! Nhưng liệu mày ngạo ổng rồi mày có dám đến đọc cho ổng nghe không?

- Tao sợ gì! Nhưng mày cũng phải làm một bài trả lời ổng, rôì hai đứa mình đến đọc cho ổng nghe.

- Tao đã làm rồi. Chính là bài của tao đầu tiên họa lại bài của Trâm và Anh, rồi ông Tú họa theo đó chứ.

Phan Quỳnh nổi quạu liền:

- Mâỳ họa bài của con Trâm con Anh tụi nó vuốt ve mầy thì được, còn ông Tú Tuyển họa lại mắng vào mặt mày, mầy làm thinh không trả lời, ốt dột quá!

- Thì đã có bài của mầy trả lời cho ổng rồi, không đủ sao?

- Nhưng tao muốn có thêm một bài của mầy nữa. Mày làm liền đây cho tao coi. Rồi tụi mình đem ngay sáng nay lên cho ông Tú, chứ tao nghe nói trưa nay ổng về Gò Bồi đấy. Không trả lời được ổng, tao tức lắm. Phải có hai đứa mình trả lời cho ổng cứng họng.
Trò Tuấn băn khoăn hết sức …Phần thì O-Vui em gái ông chủ nhà, đang nấu chè hột sen ở bếp, mùi thơm bay lên ngào ngạt, Tuấn chỉ ngửi mùi thơm ấy mà không muốn làm thơ…Nhưng Quỳnh cứ giục mãi, Tuấn bảo:

- Thôi mày đi ra bờ biển chơi một lát, rôì trở lại đây.

- Tao trở lại, mày phải làm xong bài thơ hỉ?

- Mầy phải đi lâu lâu mới được. Bây giờ là 8 giờ, 12 giờ mày hãy trở lại.

- Ừ, 11 giờ tao trở lại.

Phan Quỳnh đi xong, Tuấn leo lên cái gác xếp, không ai ở, nằm sấp xuống chiếu để viết. 11 giờ, Quỳnh trở lại Tuấn mới được 6 câu, đọc cho Quỳnh nghe:

Há phải danh gì, một lũ trai,
Vì mang âu phục, phải mang giầy,
Văn minh rực rỡ ông thầy Pháp,
Hủ lậu co ro bác Tú Tài,
Nhục trước ông cha thua kém họ
Mong sau con cháu kịp bằng ai.


- Được đấy, còn hai câu nữa, làm luôn đi .

- Mày đi ra chơi ngoài chợ một lát, để một mình tao mới làm được.

Nhưng Quỳnh ra cửa còn đứng đấy, thì Tuấn gọi:

- Rồi rồi , Quỳnh ơi, vô đây!

Tuấn đọc nốt hai câu chót:

Nước nhà nô lệ không mong tiến
Mai mỉa làm chi mấy đứa trai?


12 giờ trưa, Quỳnh và Tuấn đến nhà thầy Phạm Đào Nguyên, nơi trọ của ông tú tài Trần Tuyển: Ông đang ngồi ghế tràng kỷ, rung đùi ngâm bài thơ của ông ra vẻ khoái trá lắm. Quỳnh tiến tới, lễ phép chào rồi trao tận tay ông hai bài thơ họa của hai đứa học trò…Tuấn sợ ông Tú, đứng ở ngoài không dám vào, ông Tú đọc xong, chỉ đưa tay vuốt râu cười.

CHƯƠNG 35.

1927

Phong trào Học sinh toàn quốc bãi khóa chống Tây.

Lễ Pâques (Phục Sinh) năm 1927 đánh dấu môt giai đoạn quyết liệt nhất trong đời sống của toàn thể sinh viên học sinh An Nam từ Bắc chí Nam. Lần đầu tiên, một phong trào vận động bãi khóa khởi xướng từ Trường Cao Đẳng Hà Nội và Trường Trung Học Bảo Hộ (trường Bưởi) đã lan tràn khắp cả các Trường Trung Học trong nước: Hải Phòng, Nam Định, Vinh, Huế, Qui Nhơn, Saigon, Mỹ Tho, Cần Thơ.

Tôi nói: Vận Động Bãi Khóa, vì học sinh lợi dụng 7 ngày nghỉ lễ Pâques để vận động ráo riết trong các giới học sinh, đưa các nghuyện vọng lên Nha Học Chính để rồi nếu nguyện vọng không được thỏa mãn, sẽ không đi học sau khi hết lễ Pâques.

Và cuộc bãi khóa toàn quốc đã bắt đầu thật sự, như đã dự định, gây ra lần đâù tiên từ khi người Pháp đô hộ, một phong trào học sinh bãi khóa sôi nổi lớn lao từ Bắc chí Nam.

Tuy cuộc bãi khóa không có mục đích chính trị, nhưng thực ra là do phong trào chính trị mà thành, để tỏ cho nước Pháp và cả thế giới biết rằng toàn thể sinh viên và học sinh An Nam chống lại chánh sách giáo dục của chính phủ thuộc địa và chống lại một nhóm giáo sư Pháp đã miệt thị người An Nam.

Sau buổi học chiều Thứ Bảy 16-7-1927 (Hồi đó chưa có lệ nghỉ chiều Thứ Bảy theo "semaine anglaise”), và bắt đầu nghỉ lễ Pâques 7 ngày, trò Tuấn cắp sách vở ra về như những ngày thường. Xong bữa cơm tối, trò sửa soạn ra bờ biển bắt còng chơi với mấy đứa bạn cùng ở nhà trọ, bỗng có trò Quỳnh đến bảo thầm:

- Có mấy anh ở trường Quốc Học Huế, vào kiếm tụi mình.

Tuấn ngạc nhiên hỏi:

- Có chuyện chi vậy, hỉ?

- Mầy đi với tao lên nhà thầy Phạm Đào Nguyên, sẽ biết.

Tôi đã nói nhà Phạm Đào Nguyên, thư ký hãng buôn Pháp Descours et Cabaud, một bạn trẻ, là nơi tụ họp bí mật của bọn học trò làm "quốc sự" ở Qui-nhơn. Nơi đây có 4 điều rất tiện lợi:

1. nhà thầy Nguyên có một căn nhà sau thật kín đáo, nhóm họp ở đây không ai biết.

2. thầy có nâú cơm tháng cho mấy đưá học trò, cho nên học trò thường ra vào luôn, không ai để ý.

3. thầy không làm cách mạng, nhưng lại thích những chuyện cách mạng và rất vui lòng để cho tụi học trò làm cách mạng ở nhà thầy.

4. thầy được chủ Tây trong thành phố tin cậy hoàn toàn, cho là một người An-nam-mít đứng đắn, ngoan ngoãn, dễ thương.

Tuấn đi theo Quỳnh đến nhà thầy Phạm Đào Nguyên vào lúc 7 giờ tối. Thầy đang nằm trên ghế xích đu ngoài hè. Tuấn và Quỳnh chào, thầy gật đầu cười làm dấu hiệu bảo đi vào nhà trong.

Ba anh học trò lạ ở trường Quốc Học Huế, mới vào hồi chiều, đã ngồi nơi bàn với mấy cậu học trò Qui-nhơn: Hảo (lớp Đệ Tam niên), Tố (Đệ Tam niên) và 3 anh (Đệ Tứ niên), vời Quỳnh, Tuấn (Đệ Tam niên) là tất cả 10 người. Ba cậu Quốc Học (cũng Đệ Tứ và Đệ Tam niên), thay phiên nhau nói cho 7 cậu Qui-nhơn nghe vì sao học trò toàn quốc phải bãi khóa để chứng tỏ rằng thanh niên An Nam năm 1927, đã giác ngộ rồi, đã biết nêu cao tinh thần ái quốc, không chịu để cho Tây hà hiếp, khinh miệt dưới chế độ thuộc địa, và nhất là để thắt chặt tinh thần đoàn kết của thanh niên nam nữ học sinh cả ba kỳ Trung, Nam, Bắc, trong cuộc Tổng Bãi Khóa nhân dịp lễ Pâques 1927.

Cuộc trao đổi ý kiến giữa ba phái viên Quốc Học Huế và 7 đại diện học sinh Qui-nhơn, rất nồng nhiệt và thân ái. Tất cả đều đồng tâm nhất trí, cương quyết thắt chặt tình đoàn kết của học sinh toàn quốc.

Quỳnh, một đại diện hăng hái nhất của Collège Qui Nhơn, với nét mặt gân guốc, giọng nói cứng rắn và mạnh dạn, bảo:

- Các anh cứ tin nơi tụi tui. Ở Huế, các anh các chị được gần gũi cụ Phan Bội Châu, được nhờ sự hướng dẫn của Cụ, còn tụi tui ở đây vì xa xôi, đơn độc càng thấy đau khổ hơn, càng bị áp chế hơn. Một viên giáo sư Pháp là Gabriel, dậy Toán, cứ chửi "nòi giống An nam là mọi rợ, nước An nam là dã man". Tụi tui tức lắm, nhưng cứ ngậm câm mà nuốt hận, chưa biết làm cách nào để trả thù. Lần này thì tuị tui phải quyết liệt hưởng ứng phong trào bãi khóa ở đây cho đến thắng lợi mới thôi.

Quỳnh quay sang hỏi Tuấn:

- Mày nghĩ sao, Tuấn? Mầy có ý kiến gì, nói đi.

Tuấn cưiời:

- Tao cũng nghĩ như mầy. Tao còn muốn chờ đến khuya, rình lão Gabriel đi đánh bạc ở cercle về, mình nấp ở gốc cây phi-lao và ném đá granit vào đầu lão cho bể đầu lão, thì tao mới khoái. Còn bây giờ tính làm grève, thì làm! Sợ cóc gì!

Hảo, Tố, và ba anh Đệ Tứ niên đều hoàn toàn tán thành tham gia cuộc bãi khóa toàn quốc và còn muốn làm hăng hái hơn ở Saigon và Hà nội nữa. Ba anh Quốc Học Huế cười:

- Dân Trung kỳ tụi mình không bao giờ chịu kém Bắc kỳ và Nam kỳ. Lần này mấy anh ở Cao đẳng Hà nội khởi xướng ra trước, thì tụi mình nhất định hưởng ứng theo và cương quyết không bỏ rơi nửa chừng. Làm thì phải làm cho đến nơi đến chốn. Bị tù cũng không cần.

Toàn thể đều hăng hái reo lên:

- Tù thì tù chứ, sợ gì!

Một anh Đệ Tứ niên Qui-nhơn bảo:

- Tụi mình đâu phải đồ vá áo túi cơm. Tụi mình đi học đâu phải để sau ra làm quan cho Tây. Học là để giúp dân giúp nước chớ. Học để đem tài năng ra phụng sự Đồng Bào Tổ Quốc, cho xứng đáng là thanh niên nước Việt chứ. Bây giờ anh chị em ở Hà nội, Huế, Saigon, các nơi đều làm grève, hổng lẽ tụi Qui Nhơn cứ cắp sách đi học sao? Nhất định làm "reo"! Hoan nghênh làm "reo"!

Cuộc hội họp bí mật rất là ồn ào trong căn phòng kín bên cạnh nhà bếp của thầy Phạm Đào Nguyên. Mãi đến 1 giờ sáng cuộc hội họp bí mật mới xong, bảy học sinh Qui-nhơn đều tiễn ba phái viên học sinh Quốc học ra bến xe đò để ba anh này còn đi Saigon, cổ động các trường trong Nam.

5giờ sáng ba anh lên xe đò "Bạch Hổ" đi rồi, tụi Qui-nhơn kéo nhau ra bãi biển ngồi hóng gió và thầm thì bàn luận về cách tổ chức cuộc Bãi Khóa, bắt đầu ngay từ ngày hôm ấy.

Tất cả đều đồng ý theo kế hoạch sau đây:

Ba anh Đệ Tứ Niên: thảo bản yêu-sách bằng Pháp văn để gửi lên ông Đìa-réc-tơ.

Tối họp tại nhà trò Hảo để coi lại bản yêu-sách, thêm bớt.

Bản yêu sách đòi bốn điều:

- Thêm trong chương trình Trung học mỗi tuần một giờ Sử Ký An Nam (trước, Sử Việt chỉ có một giờ, Sử Pháp hai giờ. Nay xin hai giờ Sử Việt, một giờ Sử Pháp).

- Đuổi ông giáo sư Gabriel, thay thế giáo sư khác biết kính trọng Dân Tộc An Nam.

- Mở thêm các lớp Trung học. Cho phép một phái đoàn học sinh Qui-Nhơn ra Huế thăm Cụ Phan Bội Châu.

Tuấn không chịu để điều bốn:

- Trong tụi mình những đứa nào xin được tiền cha mẹ thì cứ đi. Hoặc kêu anh em góp tiền lại cho năm, sáu đứa đại diện rồi sẵn dịp nghỉ hè sắp tới đây, cứ việc mua giấy xe đò đi Huế thăm cụ chớ cần gì phải xin phép ông Đìa-réc-tơ?

Điều khoản bốn này được bàn cãi rất gắt gao và rất lâu. Rốt cuộc được bỏ, và giữ nguyên vẹn ba điều khoản trên.

Bản yêu sách bằng Pháp văn của học trò trường Qui Nhơn, sau khi cùng nhau sửa chữa thêm bớt, còn lại đúng nguyên văn như sau:

A Monsieur le Chef du service de l Enseignement en Annam, Huế, Sous couvert de Monsieur le Directeur de collège de Qui Nhơn.

Nous, soussignés, Elèves de Collège Primaire Supérieur de Qui Nhơn, avons l’honneur de vous addresser respectueusement la présente requête, tendant à obtenir les faveurs suivantes:

- Augmenter une heure d’Histoire d’Annam par semaine, et supprimer une heure d’ Histoire de France, dans les programmes des cours primaries supérieurs.

- Remplacer immédiatement M. Gabriel, Professeur de Mathématiques par un autre professeur qui n’insulte pas le peuple d’ Annam.

- Ouvrir de nouvelles classes Primaires-Supérieures au Collège de Qui Nhơn.

Nous espérons que notre requête sera prise en considération pendant les vacances de Pâques. Dans le cas contraire, nous regrettons de vous informer que nous serions obligés de nous mettre en grève afin d’obtenir satisfaction.

Veuillez agréer, Monsieur le Chef de service de l’Enseignement, l’expression de notre humble reconnaissance.

Les élèves de Collège Primaire Supérieur de Qui Nhơn. Cái đơn viết hăng như thế, nhưng không trò nào ký tên cả. Toàn thể đồng ý ký chung là "Học sinh trường Cao đẳng Tiểu Học Qui-Nhơn".
Thế là bắt đầu ngày lễ Pâques, nhóm Đệ Tam Niên Quỳnh, Tuấn, Hảo, Tố, được giao phó cho công việc đi tuyên truyền bãi khóa trong giờ học sinh, còn nhóm Đệ Tứ Niên thì họp tại nhà thầy Phạm Đào Nguyên là nơi tập trung tin tức và liên lạc với các Trường Phủ-Huyện. Học sinh ở rải rác các nhà trong thành phố và các xóm ngoại ô. Hảo và Tố đi từng nhà, rủ từng người đến họp một nơi vắng vẻ nào đó, hoặc là nhà một phụ huynh học sinh có thiện cảm với phong trào bãi khóa hoặc ra bãi biển, hoặc lên sườn núi. Đến đây đã có Quỳnh và Tuấn, được trao phó trách nhiệm diễn thuyết hô hào bãi khóa.

Một buổi chiều Tuấn phải đi cổ động một nhóm học trò Đệ Nhất Niên gần năm mươi người họp trên một gò đất trống ở bìa núi Xuân Quang. Tuị này nhát lắm, đa số sợ ở tù. Tuấn phải cổ động cho họ hưởng ứng phong trào bãi khóa, cho họ phấn khởi, hăng hái đừng rụt rè do dự nữa.

Trời nắng chang chang như lửa đốt. Trên gò chỉ có và cây cao, bóng mát không đủ che cho một số đông gần 50 thiếu niên. Tuấn không đội mũ, cứ để đầu trần như thế mà ngồi "diễn thuyết" trong đám học trò mồ hôi ướt nhẹp cả áo. Tuấn bị nhiều câu hỏi rắc rối mà Tuấn tìm cách trả lời cho xuôi tai, nhưng đến khi có một câu hỏi:"Bãi khóa, lỡ bị bắt bỏ tù thì sao, anh?" Tuấn phải trả lời: "Học sinh toàn nước An nam bãi khóa, chớ không riêng gì ở trường mình. Toàn thể học sinh trường Qui Nhơn Bãi khóa, chứ không riêng gì một hai lớp. Không lẽ cả nước ở tù sao?". Sau cùng, hầu hết học trò đồng thanh bãi khóa, trừ một cậu: "Tui thì tui cứ đi học như thường. Tui ở nhà thì cha tui đánh tui chết". Tức thì có mấy người bạn của cậu xừng xộ: "Mày đi học thì tụi tao đánh mầy chết!". Cậu kia ngồi im.

Công cuộc vận động bãi khóa hồi 1927 kể ra thật là gay go. Vì là lần đầu tiên trong Lịch sử, học sinh An nam bãi khóa chống lại Chính phủ thuộc địa Pháp. Tuy nói là phong trào toàn quốc, nhưng chỉ có một thiểu số bảy tám học trò ở lớp Đệ Tam, Đệ Tứ niên biết mà thôi. Đó là các trò lớn được liên lạc với phong trào ở Huế, còn toàn thể học sinh các lớp Tiểu học và Đệ Nhất Đệ Nhị Trung học thì có biết rõ gì đâu. Do đó, cuộc vận động bãi khóa thường gặp nhiều trở lực, nhất là trong đám phụ huynh học sinh ở ngay thành phố.

Buổi chiều, Tuấn bị giải nắng trên gò núi, lúc về bị cơn mưa to. Tuấn nóng lạnh nằm trùm mề . Đồng hồ điểm 8 giờ, Quỳnh đội nón, mang tơi (loại áo mưa chằm bằng lá tơi) đến. Thấy trong nhà có đông người, Quỳnh đứng ngoài hè không dám vào. Tuấn tung chăn chạy ra. Quỳnh bảo: “Có một đám học trò Phù Cát, Phù Mỹ gần 100 đứa ở nhà thằng Thọ trên Lò Vôi. Chúng nó vô đây để thi primaire, hai đứa mình phải tới đó để diễn thuyết cổ động”. Tuấn hỏi: “Có phụ huynh không?”. “Có”, Tuấn ngán có phụ huynh, vì thế nào cũng bị mấy ông bắt bẻ chuyện này, chuyện nọ.

Nhưng Quỳnh bảo: "Tụi mình diễn thuyết luôn cả cho mấy ông phụ huynh nghe, chứ sợ gì?". Tuấn ngại, phần thì trời mưa dầm dề, mỗi lúc mỗi to, nhưng Quỳnh cứ giục Tuấn đi. Tuấn mượn chiếc áo tơi và cái nón của chị ở nhà trọ, rồi ra đi với Quỳnh. Trong đêm mưa tầm tã, giữa một thành phố vắng tanh vắng teo, hai cậu học trò vừa bước đi vội vàng, vừa thầm thì với nhau. Quỳnh căn dặn Tuấn:

- Vô đó mầy đừng sợ, nghe không! Mầy nói trước, tao nói sau.

- Mày biểu tao nói gì bây giờ trước 100 thằng học trò lạ, với cha mẹ của tụi nó? Nhứt là nếu gặp mấy ông Tú nhà nho, họ xổ Khổng Tử, Mạnh Tử ra, thì tụi mình cứng họng.

- Lo gì, mầy ! Họ xổ ông Khổng ông Mạnh, thì mình cũng xổ ra J. J Rousseau, Voltaire, xem họ có ngán không?

- Thôi, mày nói trước tao nói sau, tao mới chịu. Chứ cái tánh tao sợ, tao hay nói cà lăm.

- Thì mày đừng sợ. Việc gì mà sợ?

- Tao nói cho mày biết trước, hễ tao cà lăm nói không xuôi thì tao bỏ chạy hỉ? Mầy ở lại làm sao thì làm, hỉ?

Hai đứa nói chuyện vừa đi trong cái ngõ hẻm quanh co, hai bên hàng xóm chó sủa vang lên. Qua hai cái lò vôi, mùi vôi khét nghẹt.

Tuấn bị nghẹt mũi.

Tuấn bảo Quỳnh:

- Chết cha rồi mày ơi, tao bị nghẹt mũi, chút nữa làm sao tao nói?

Quỳnh cười hăng hắc:

- Mày nói bằng miệng, chứ nói bằng mũi sao mầy?

Quẹo mấy đường hẻm nữa thì đến căn nhà của tụi học trò Phù Mỹ, Phù Cát. Tuấn đứng lại, vạch hàng rào dòm vô thấy đông nghẹt những người và tiếng ồn ào. Giữa nhà treo ngọn đèn "măng sông" sáng rực. Tuấn do dự chưa dám vào nhưng Quỳnh nắm tay lôi đi. Vì đã được báo trước, nên tụi học trò đang chờ đợi và xôn xao. Quỳnh và Tuấn bẽn lẽn bước vô. Đi ngoài đường, Quỳnh nói bạo dạn bao nhiêu thì tới đây Quỳnh lại sợ bấy nhiêu. Trên hai chiếc ghế tràng kỹ kê hai bên một cái bàn, có năm sáu ông cụ Nho đang ngồi ăn trầu, hút thuốc. Quỳnh và Tuấn bỏ nón và áo tơi ngoài hè, đủng đỉnh bước tới và lễ phép cúi đầu chào. Một ông cụ thung dung bảo:

- Mời hai cậu ngồi chơi.

Trên một trăm học trò ngồi chật hai căn nhà lớn, ngong ngóng chờ xem hai anh Đệ Tam Niên sắp sửa nói gì.

Trong mấy ngày lễ Pâques vận động bãi khóa, các giới học sinh đã đồn với nhau về "tài diễn thuyết" của hai anh Đệ Tam Niên, nên lần này đám học trò Phù Mỹ, Phù Cát tiếp đón hai cậu với những cảm tình đặc biệt đã sẵn có. Nhưng mấy ông phụ huynh nhà Nho coi bộ không bằng lòng, cho rằng: Bãi khóa là muốn làm loạn chống lại Nhà Nước. Tuấn ngôì làm thinh, vì Tuấn có thói quen mỗi khi ai cãi với Tuấn, Tuấn để cho họ nói hết, dù họ công kích kịch liệt đến đâu Tuấn cũng bình tỉnh và im lặng ngồi nghe. Xong rôì Tuấn mới trả lời một lần, đả phá hết những lập luận của đối thủ. Quỳnh thì trái lại, rất nóng nẩy, và cãi một lúc thì thế nào cũng đổ quạu.

Mở đầu, Quỳnh kể những lý do tại sao có cuộc vận động bãi khóa toàn quốc. Quỳnh công kích người Pháp, theo những lý luận của những tờ báo cách mạng đã đọc được lén lút từ khi có phong trào ái quốc nổi dậy trong nước. Sau vụ án Phan Bội Châu và bài diễn thuyết của cụ Phan Chu Trinh. Để chận các ông phụ huynh nhà Nho bắt bẻ, Quỳnh khôn khéo đưa ra những danh ngôn của các triết học Pháp thế kỷ XVIII, chủ trương Nhân Quyền, Dân Quyền như Diderot, JJ. Rousseau, Voltaire, và các nhà văn cách mạng Pháp thế kỷ XIX. Cậu học trò Đệ Tam Niên đã loè được các cụ nhà Nho bằng những câu tiếng Pháp mà các cụ nghe choáng váng, không hiểu gì cả và không dám cãi. Các cậu học trò primaire thì phục Quỳnh như một nhà hùng biện thông thái nhất trên đời.
Nhưng Phan Quỳnh nói xong, không ngờ bị ông Xã mặt rỗ, có bộ râu cá trê và có một cái thẹo lớn trên trán, hỏi:

- Các cậu xúi học trò bãi khóa, vậy tui xin hỏi tại sao các cậu không lên thẳng cụ Sứ, biểu Cụ đóng luôn cửa trường có hơn không? Cần chi bãi khóa để ở tù, hỉ?

Rồi ông Xã vuốt râu cười đắc chí. Mấy ông phụ huynh cũng cười và một học sinh cười theo. Quỳnh nói nhỏ với Tuấn: "Trả lời đi mày".

Tuấn đã chờ đợi những phút gay cấn ấy, biết trước thế nào cũng có, và cũng đã sẵn sàng câu trả lời, rút kinh nghiệm trong lúc đi vận động mấy ngày trước, đã bị nhiều người hỏi câu đó.

Tuấn vẫn ngồi nơi bộ ván kê ngoài hè, trước mặt cử tọa đông đủ. Tuấn nhoẻn một nụ cười điềm nhiên, và chậm rãi nói:

- “Dạ thưa Bác, nếu ở tù thì anh em chúng tôi xin tình nguyện ở tù thay cho 600 học trò trường Qui Nhơn và 2000 học trò Phủ Huyện. Chúng tôi, 8 đứa, đã sẵn sàng chịu tất cả trách nhiệm. Vả lại, không có lý toàn thể học trò đều bị bắt ở tù hay sao? Nhà tù đâu cho đủ để chứa ba ngàn học trò trai và gái? Mấy vạn sĩ tử ở khắp xứ Annam, ở khắp các trường Bắc kỳ, Trung, Nam kỳ, đồng bãi khóa một lượt, không có lý riêng học trò tỉnh Bình Định và Qui nhơn lại lui cui đi học? Bình Định là một tỉnh lớn, học trò Bình Định đâu có hèn như vậy? Toàn thể học trò Bình Định và Qui Nhơn bãi khóa, không có lý riêng học trò hai huyện Phù Mỹ, Phù Cát là không tham gia bãi khóa? Học trò Phù Mỹ, Phù Cát đâu có hèn như vậy?

Nhưng tại sao bãi khóa? Dạ thưa vì có một ông giáo Tây cứ chửi nòi giống ông cha mình là mọi rợ, là bẩn thỉu, là ngu ngốc. Thí dụ có một người nào chửi ông bà cha mẹ ta là mọi rợ là ngu ngốc, thử hỏi các Bác các Chú có chịu được không? Huống hồ chúng tôi là đám con cháu! Bị chửi như thế chúng tôi tức lắm, nếu cúi đầu làm thinh để nghe chửi mãi thì chúng tôi là lũ con bất hiếu, cho nên học trò bãi khóa là để xin nhà nước Đại pháp đuổi ông Tây đó đi. Có vậy thôi, thì không lý nhà nước Đại Pháp bỏ tù bọn học trò An Nam có hiếu với ông bà cha mẹ hay sao?”

Các cụ nhà nho nghe đến việc hiếu nghĩa thì đồng lòng hơn là việc chính trị, cho nên sau khi Tuấn nói một hồi lâu, các cụ cũng đồng ý về nguyên tắc bãi khóa “để xin Nhà Nước Đại Pháp đổi người thầy giáo Tây thường chữi ông cha người An Nam là mọi rợ, ngu ngốc”.

Sự thật, như các bạn đã biết, cuộc bãi khóa năm 1927 của học sinh toàn quốc, là có mục đích chính trị hơn là luân lý. Đề tài luân lý chỉ dùng để thuyết phục các nhà Nho, và các phụ huynh học sinh mà thôi.

Quỳnh và Tuấn ra về giữa lúc trời còn đổ mưa như nước lũ. Hai đứa mang áo tơi đội nón đi đủng đỉnh nói chuyện và cười, phê bình mấy ông “Khổng Tử viết…”.

Đi khỏi lò vôi, Quỳnh và Tuấn nghe có tiếng ai chạy thùi thụi phía sau, rồi kế tiếp một bóng trắng xô mạnh Quỳnh và Tuấn ra hai bên để nó vượt tới, và biến mất, Quỳnh và Tuấn sợ điếng người, khẻ bảo nhau: “Ma! Ma!” Hai đứa cắm đầu chạy một mạch ra đưòng cái quan rồi mạnh đứa nào đứa nấy chạy tuốt về nhà.

Hôm sau, cuộc vận động cho phong trào bãi khóa tiếp tục.

Sau mấy ngày đêm liên tiếp đi từng nhóm, từng nhà học sinh, để cổ động lén lút cho cuộc bãi khóa thực hiện ngay sau ngày lễ Pâques, Quỳnh, Hảo, Tố, Tuấn hết sức kinh ngạc gặp mặt bốn vị Đốc học (giáo sư) An Nam tại nhà thầy Phạm Đào Nguyên một buổi sáng, vào lúc 9 giờ.

Bọn học trò đánh bao nhiêu dấu hỏi về sự hiện diện bật ngờ của ông Đốc Th., ông đốc Tr. và ông đốc Bính. Bốn ông cùng đến đây một lúc với mục đích gì? Các trò đoán ngay là vụ vận động bãi khóa đã bị tố giác lên ông Đìa-réc-tơ Henry Deydier và có lẽ ông sai bốn ông giáo sư Annam đi ngăn cản cuộc bãi khóa.

Đúng thế. Nhưng ai tố giác?

Ban vận động bãi khóa nhất định nghi cho trò Th. (Đệ tứ niên) và trò Tr. (Đệ tam niên). Hai con chiên ghẻ của nhà trường. Nhưng chuyện ấy được gát một bên, vì các trò cương quyết đeo đuổi cuộc hoạt động bãi khóa cho đến cùng. Một là vì đã cam kết với anh em Quốc học Huế, hưởng ứng cuộc bãi khóa Toàn quốc, hai là vì cuộc vận động ở Qui-nhơn cũng đã có hiệu quả: toàn thể các lớp đều nhất luật nghe theo lời hiệu triệu bí mật của “mấy anh lớn”. Bây giờ phải làm cách nào để đối phó với bốn ông Đốc An nam đã tuân mệnh lệnh của ông Đìa để đi phá hoại cuộc bãi khóa?
Bốn ông ngồi đạo mạo nơi bàn khách giữa nhà. Học trò lễ phép pha trà mời các ông và nghe các ông khuyến dụ. Dĩ nhiên, luận điệu của các ông rất là yếu ớt, không đứng vững, bởi không ngoài những lời dọa dẫm bị bắt, bị đuổi, bị ghi tên vào sổ đen, bị tù tội, nhất là bị gán cho một danh từ bằng Pháp ngữ rất nguy hiểm ở thời bấy giờ “mauvais esprit“ (đầu óc xấu xa). Trò nào bị hai chữ “mauvais esprit” ghi vào học bạ, thì chắc chắn là sẽ bị Mật Thám chú ý và theo dõi.

Bốn ông Đốc dùng bốn luận điệu khác nhau. Ông Đốc Th. Giáo sư Luân lý, khuyên học trò chăm học để vui lòng mẹ cha, đừng làm tầm bậy mà gây họa cho cả Phụ Huynh và Gia Đình. Ông bảo: “Con dại cái mang, lời tục ngữ đã nói thế. Các trò làm việc phi pháp thì cha mẹ sẽ bị tù tội.” Ông Đốc Tr. giáo sư Lý-hoá, bảo các trò đến lớp Đệ Tam, Đệ Tứ Niên, chỉ còn vài tháng nữa, hoặc một năm nữa là đi thi, đỗ bằng diplôme rồi ra đi làm việc Nhà Nuớc. Bây giờ bãi khóa, có phải uổng cái công đèn sách mấy năm không?

Ông Đốc Bính “nhà ái quốc” thì khuyên: “Các anh nên ôn hòa, đừng nóng nẩy làm bậy mà sau ăn năn không kịp”.

Còn ông Đốc V., giáo sư Quốc văn, thì trổ hết tài hùng biện để đe dọa học trò “Các câụ còn nhỏ tuổi, đầu óc chưa suy nghĩ cao xa, cho nên hay bồng bột, nghe lời xúi dại, làm việc ngu xuẩn, để rồi mang họa vào thân. Các cậu hãy liệu hồn, nếu không nghe lời chúng tôi, mà gây ra cuộc bãi khóa, thì Quan Sứ sẽ bỏ tù hết, và đóng cửa trường”.

Bốn ông Đốc An nam khủng bố tinh thần học sinh cả một buổi sáng, đến 11 giờ các ông ra về. Sự can thiệp của các ông đã gây hoang mang lo sợ trong đầu óc của đa số học sinh. Ban vận động bãi khóa phải tăng gia việc tuyên truyền chống lại, để cuộc Bãi khóa nhất định phải được thực hiện theo trào lưu Quốc gia, vì dù muốn dù không nó cũng đã có một mục tiêu chính trị Toàn Quốc mà lớp học sinh lớn đã có ý thức rõ rệt.

Còn hai ngày nữa, ngày thứ Bảy và Chủ Nhật, thì hết nghỉ lễ Pâques. Ban Vận Động phải hoạt động ráo riết để làm sao ngày thứ Hai là ngày tựu trường, đừng có một học sinh nào đi học.
Sáng Thứ Bảy có yết thị dán ở cổng trường, do ông Đìa-réc-tơ ký tên và đóng dấu đỏ. Yết thị bằng tiếng Pháp đánh máy trên một tờ giấy pelure mỏng đại ý nói:

“Ông Hiệu trưởng thông cáo cho toàn thể học sinh nhớ rằng ngày tựu trường sau lễ Pâques là thứ Hai 11-4-1927, đúng 8 giờ sáng như thường lệ. Trò nào không đi học sẽ bị đuổi.” Ban vận động hồi hộp lo ngại nếu sáng thứ Hai đa số học sinh đi học thì…cuộc Bãi khóa sẽ coi như bị thất bại thê thảm. Vì thế, ngày Thứ Bảy và Chủ Nhật, Ban Vận động phải tức tốc tăng cường: thay vì 8 người lúc đầu, thêm hai người ở hai lớp Đệ Tam và Đệ Tứ Niên. Cuộc vận động đã đến lúc sôi nổi nhất, tuy vẫn giữ được âm thầm, lén lút, không có lúc nào công khai. Trời lại cứ mưa gió liên miên, các cậu học trò phải mang áo tơi và đội nón lá suốt ngày chia nhau chạy các xóm và các nhà có học sinh cư ngụ, để hô hào căn dặn giữ vững lập trường. Đây là cả một âm mưu khá …nguy hiểm vì trong việc hô hào khuyến khích các anh em đã tán thành, còn có những lời hăm dọa các phần tử nhu nhược, lừng khừng.

Mấy ngày mấy đêm ấy, Tuấn chỉ về thoáng qua nhà trọ 5, 10 phút để ăn cơm, rồi chạy đến các nhà bạn bè để bàn tán công chuyện.
Thế rồi ngày “đại sự” đã đến… Theo thường lệ, 7 giờ rưỡi sáng, trống trường đánh ba hồi ba tiếng. Riêng sáng này, tiếng trống thật to, đánh thật chậm vang khắp cả thành phố.

Quỳnh, Tố, Hảo, Tuấn v.v…rủ nhau đến các ngã ba, ngã tư, gần trường để xem xét tình hình. Mọi khi đến giờ này, học trò đã rải rác đi học, từ các ngã đường kéo đến từng đàn, từng lũ, trò chuyện vui đùa, nói la ầm ĩ. Hôm nay, trời lại hết mưa, sáng chói, nắng chói trên động đá chung quanh, Quỳnh và Tuấn đến ngã sau cái miếu cây đa, gần nhà ông Đốc Deydier. Tố, Hảo đứng thập thò nơi góc tường bếp sau nhà buôn Huê kiều Hiệp-Lợi, ngó thẳng đến cổng trường. Các trò khác đứng nơi ngã đường lên Xuân Quang.

Trống đánh đã được 15 phút mà chỉ có vài bọn học trò con nít lớp Năm, lớp Tư, đi học. Nhưng các em vẫn rụt rè sợ sệt, đến gần trường thấy vắng qúa, không dám đi nữa, Chúng bảo nhau ngồi bên lề đường, và bên các ngôi mả đá có ý chờ đợi. Rải rác đó đây có độ bốn năm học trò khác cũng toàn các lớp Tiểu học từ 7 đến 10 tuổi. Học trò lờp Nhì Nhất và các lớp lớn đều không đến.
Cuộc Bãi khóa đã thành công.

Cổng trường mở rộng, nhưng sân trường vắng tanh không có bóng học trò. Trước hè Văn phòng Hiệu trưởng, tề tựu đông đủ các giáo sư Pháp và An nam. Hảo và Tố đứng sau nhà Hiệp Lợi, trông thấy rõ bộ mặt các ông lộ vẻ băn khoăn lo ngại. Mấy ông giáo sư Pháp đứng trò chuyện với vài giáo sư An nam rất là xôn xao.

Đúng 8 giờ, như thường lệ, ba tiếng trống đánh vào lớp, nhưng hôm nay không có học trò… Cuộc Bãi khóa đã thực hiện được 100%. Mấy cậu cầm đầu khoái lắm. Về nhà các cậu reo mừng nhảy múa, tha hồ cười to nói lớn, được bạn bè mến phục. Nhưng sự thật trong lòng cậu nào cũng áy náy lo ngại không biết rồi đây tình hình sẽ biến chuyển như thế nào. Đây là cuộc Bãi khóa lần đầu tiên, có tính cách bồng bột, hơi liều lĩnh, vì ngoại trừ sự liên lạc quá xa xôi với hai trường Quốc Học và Đồng Khánh ở Huế, tại thành phố địa phương không có một hậu thuẫn nào hay một sự giúp đỡ của ai cả.

Dư luận thành phố rất phân vân, vì đây là lần đầu tiên học trò công khai chống đối lại Nhà Nước. Trong dân chúng một số ít người tán thành cuộc bãi khóa, nhưng chỉ tán thành suông, không triệt để ủng hộ. Còn đại đa số đều cho rằng tụi học trò làm chuyện bậy bạ, và họ chờ xem Nhà Nước sẽ trừng phạt cách nào.

Học trò cũng xôn xao đợi chờ.

8 giờ, trống đánh vào lớp trong phong cảnh học đường vắng teo, thì 8 giờ 30, bốn ông Đốc An nam cùng đi một lượt đến nhà thầy Phạm Đào Nguyên. Ông đốc Th. và ông Đổ V. giáo sư Luân lý và Quốc Văn, ngồi chểm chệ trong hai chiếc xe kéo. Ông đốc Tr. giáo sư Lý Hoá thì cỡi chiếc xe máy thường nhật của ông. Ông đốc B. vẫn đủng đỉnh, đi bộ như thói quen hàng ngày.

Học trò biết ngay đấy là bốn sứ giả của Ông Đìa-réc-tơ.

Tại nhà thầy Phạm Đào Nguyên có học trò ra vào thường xuyên, nhưng mấy cậu cầm đầu cuộc bãi khóa thì sáng nay không có. Họ đi tản mạn các nơi để xem xét tình hình và nhất là để phòng hờ ngăn cản những học trò đi học. Bốn ông Đốc đều có vẻ mặt hơi ngượng ngùng và tức giận. Ngồi một lúc, thấy xung quanh mình chỉ có mấy đứa học trò con nít, ông đốc Th. hỏi:

- Tụi Quỳnh, Tuấn, Tố ở đâu?

Mấy trò lễ phép trả lời:

- Dạ, thưa ông, mấy anh đó không có đến đây.

Ông đốc V. bảo:

- Đi gọi tụi nó tới ngay. Nói có các ông Đốc ngồi chờ ở đây.

Mấy em học trò sợ sệt, tuân lệnh chạy đi kiếm tụi Quỳnh, Hảo, Tuấn…Tố nơi mấy nhà quen.

Được tin bọn này kéo nhau đến nhà thầy Nguyên, với ý định tuỳ cơ ứng biến. Bốn ông Đốc An nam thay phiên nhau mà thuyết phục các trò, lấy tình thầy trò mà khuyên bảo. Các ông rầy la giận dữ, nhưng vẫn dỗ dành ngon ngọt, mục đích cuối cùng là khuyên học trò chấm dứt cuộc bãi khóa, và chiều nay nên đi học đông đủ. Các điều học trò yêu cầu, thì ông Sứ và ông Đìa-réc-tơ sẽ cứu xét sau.

Các ông Đốc đảm bảo với học trò rằng nếu chiều nay toàn thể học sinh đi học lại, thì sẽ không có sự trừng phạt nào cả. Ông Deydier sẽ khoan dung tha thứ hết.

Trong số 12 trò tham gia chỉ huy cuộc bãi khóa, 8 trò trốn tránh không dám đến nhà thầy Nguyên khi nghe tin các ông Đốc An nam đến đấy. Chỉ có Quỳnh, Tuấn, Hảo và một anh Đệ Tứ Niên là nhất định đi thử xem ra sao. Thấy thái độ của bốn ông Đốc đều hòa nhã, và lời lẽ dịu ngọt, cả bốn cậu đại diện đều có vẻ sẵn sàng nghe lời thầy, tuy vẫn hăng hái giữ lập trường ái-quốc theo luận điệu của anh chị em học sinh Quốc học và Đồng khánh ở Huế.

Bốn ông Đốc cố gắng thuyết phục bốn cậu học trò cầm đầu cuộc bãi khóa của toàn thể học sinh cả một buổi sáng. Riêng ông Đốc Bính đã được sự tín nhiệm và mến phục nhiều nhứt của học trò, gọi riêng Quỳnh và Tuấn ra hè, bảo với giọng thân mật nhỏ nhẹ, bằng tiếng Pháp, đại khái: “Các anh bãi khóa một buổi thế cũng là đủ rôì. Đối với nhà cai trị Pháp và giáo sư Pháp, thế cũng đã cho họ thấy rằng học sinh An nam đã tỉnh ngộ nhiều rồi…Chiều nay các anh nên bảo nhau đi đến trường, tiếp tục học như không có xảy ra việc gì cả. Nếu có điều chi nguy hại đến các anh, thì tôi sẽ can thiệp cho, tôi sẽ bảo đảm cho…” Cuộc điều đình giữa bốn giáo sư đặc phái viên của ông Đốc học Deydier, và bốn cậu học trò đại diên cho học sinh bãi khóa, kéo dài cho đến 11 giờ trưa, suốt 3 tiếng đồng hồ. Rốt cuộc học trò phải nhượng bộ, vì dù sao, học trò không có hậu thuẫn trong các giới, và sĩ số không đông đảo như hai trường Quốc Học và Đồng Khánh, Huế.

Những nguời ở Huế về cho biết phong trào bãi khóa ở Huế mạnh lắm vì anh chị em ở Đế-Đô dựa vào uy tín của cụ Phan Bội Châu, và của một số giáo sư An nam triệt để ủng hộ Phong trào. Cuộc bãi khóa ở Huế rất sôi nổi, ồn ào, làm náo động cả Kinh đô, chứ không phải lặng lẽ đơn độc như ở Qui nhơn.

Phong trào bãi khóa ở Vinh, tỉnh lỵ Nghệ An, cũng sôi nổi lắm.

Nghe nói ở đây đa số phụ huynh học sinh khuyến khích cuộc bãi khóa.

Ở Hà nội, phong trào bãi khóa ở trường Bưởi và trường Cao Đẳng Đại Học cũng làm xôn xao dư luận không ít, nhờ có các nhà cách mạng, lớp lão thành như cụ Nghè Ngô Đức Kế, cụ Cử Dương Bá Trạc, lớp thanh niên như Nhượng Tống, Hồ văn Mịch đều cổ võ triệt để ủng hộ học sinh bãi khóa.

Trái lại, ở Saigon và Cần Thơ, số học sinh đông hơn ở Huế và Hà nội, nhưng một vài trường đề xướng bãi khóa không được đa số hưởng ứng và phong trào không có tiếng vang.

Phải nhìn nhận rằng cuộc vận động bãi khóa ở Huế là mạnh hơn cả, và có kết qủa nhiều hơn. Chính trong những dịp bãi khóa này mà học sinh các nơi đầu tiên nghe tên thầy Trợ giáo Đào Duy Anh và cô Như Mân. Đôi bạn trẻ này rất hăng hái và Như Mân cầm đầu cuộc bãi khóa ở trường nữ học Đồng Khánh đã khiến cho giới An nam và cả Bảo Hộ đều thán phục. Do cuộc bãi khóa, hai người bạn trẻ quen biết nhau rồi yêu nhau. Đào Duy Anh đã từ bỏ nghề gõ đầu trẻ để nghiên cứu các sách về Sử Học, và viết bài trong báo Tiếng Dân của cụ Huỳnh Thúc Kháng mới mở. Sau đó ít lâu, Đào duy Anh và Như Mân thành hôn, và loại sách “Quan Hải Tùng Thư” ra đời, được dân chúng, và nhất là trí thức, học sinh, nhiệt liệt hoan nghênh.

Cuộc bãi khóa trường Qui nhơn chỉ thành công được một nửa, nhưng ảnh hưởng của nó rất sâu rộng, và không ai chối cãi rằng phong trào ái quốc và cách mạng ở thành phố lớn này chính là do bọn học sinh ở đấy gây ra đầu tiên, từ vụ vận động ân xá cụ Phan Bội Châu, vụ để tang cụ Phan Chu Trinh cho đến vụ bãi khóa 1927.
Cuộc bãi khóa chấm dứt ngay buổi trưa ngày thứ Hai 11-4 và mấy trò cầm đầu Quỳnh, Tuấn, Hảo, Tố v.v…lại phải chạy đi từng nhà, từng xóm, để kêu gọi học trò buổi chiều đi học.

2 giờ chiều, ba hồi trống đánh tựu trường như thường lệ. Cả thành phố đều vui vẻ thất từng đàn học sinh lũ lượt kéo nhau đi học như mỗi ngày, không có triệu chứng gì khác cả. Một anh thợ cúp tóc, vắng khách, ngôì trong tiệm ngó ra cười và hỏi to mấy cậu đi ngang qua trước tiệm anh:

- Sao, hết bãi khóa rồi hỉ?

Bọn học trò gật đầu cười:

- Ông Đốc năn nỉ hết hơi, tụi tui mới chịu đi học chớ dễ gì!

Đó chỉ là một câu nói dốc cho vui, chứ sự thật cậu nào cũng lo ngại, đợi đến trường mới biết được thái độ của ông Deydier… Vào cổng trường, Tuấn thấy ông Đìa-réc-tơ và đông đủ các ông giáo sư Tây và An nam, cả ông Tổng giám thị (surveillant général), ông Đốc Gi, đứng trước hè văn phòng hiệu trưởng, lặng lẽ dòm ngó học trò lần lượt đến trường. Tuấn hơi bẽn lẽn, rụt rè, dở mũ chào các ông trong lúc đi ngang qua, và liếc thấy ông Deydier gật đầu chào lại. Vài ông giáo sư Pháp mĩm cười hóm hỉnh, ông giáo sư Toán Gabriel ngó trân trân với nét mặt giận dữ. Mấy ông giáo sư khác làm nghiêm.

Câu chuyện xôn xao khi học trò đến đã đông đủ ở préau (gian nhà trống để học trò chơi trong giờ nghỉ học), không phải là sợ sẽ có sự trừng phạt, mà là bàn tán về hai tên “điềm chỉ” đã tố cáo bí mật với ông directeur về cuộc vận động bãi khóa. Hai trò ấy chiều nay lại không đi học: Th. ở lớp Đệ Tứ Niên và Tr. ở lớp Đệ Tam Niên, hai trò giỏi toán nhất ở hai lớp.

Hai giờ rưỡi, ba tiếng trống đánh vô lớp. Ai nấy đều hồi hộp… chờ đợi trận tấn công chửi mắng của Ông Deydier và các giáo sư.
Nhưng lạ thay, chẳng có chuyện gì xẩy ra cả. Giáo sư dạy học như thường lệ. Ở lớp Đệ Tam Niên của Tuấn, giờ đầu là môn Hóa-Học của ông Đốc Trừng, một ông giáo sư nghiêm khắc nhất. Ông Trừng vào lớp, đến bàn ngồi, dở sổ điểm ra, điềm nhiên gọi:

- Đinh tấn Hường!

Đây là một cậu nghịch ngợm nhất, chuyên môn đập vỡ những chai acide và những ống thủy tinh của phòng thí nghiệm Lý Hóa. Hường đứng dậy, lên bảng đen trả bài. Hường thuộc bài làu làu, chiều ấy hãnh diện được ông Đốc cho 8 điểm (trên 10). Hường tủm tỉm cười xuống bàn. Kế đến một trò khác được gọi lên … rồi vài trò nữa, rồi ông đốc dạy bài mới.

Hết giờ, một tiếng trống đánh, đổi thầy. Ông Gabriel giáo sư Kỷ hà học bước vào. Mặt ông đỏ hơn mọi khi. Nhưng ông cũng chẳng làm gì khác hơn là gọi vài trò lên bảng đen trả bài, như thường lệ. Chính ông là một cái đích của cuộc bãi khóa. Học trò bãi khóa tố cáo ông chửi người An nam là mọi rợ, “An-na-mít” là giống dân “bẩn thỉu” và yêu cầu Nhà Nước đổi ông giáo sư khác. Nhưng Nhà Nước không đổi ông, học trò bãi khóa đã đi học, ông vẫn đi dạy, như không có chuyện gì xẩy ra. Riêng Tuấn đã bị ông ghét nhất từ trước (vì dở Toán nhất), lần này Tuấn tin chắc sẽ bị ông trả thù. Nhưng ông vẫn thản nhiên. Có lẽ ông khinh Tuấn, cho là trẻ con, không làm gì được ông! Cũng có lẽ ông xấu hổ, làm ngơ chuyện bãi khóa, cho êm. Hoặc giả ông gượng làm lành để gây cảm tình với học trò An-na-mít, và không muốn gây sự với chúng nó. Nhiều trò đoán chừng rằng ông Gabriel bị ông Đốc trường Henri Deydier rầy la, nên ông không dám trả thù, và cũng không dám chửi mắng người An-na-mít như trước nữa.

Tình hình nhà trường yên ổn, trái hẳn với những lo ngại và dự đoán của học sinh.

Nhưng nửa tháng sau, Tuấn nhận được thư của cha (lúc bấy giờ ông phán Tuấn, anh ruột của Tuấn em, đã bị tù vì hoạt động chống Pháp, như thầy Đổng Sĩ Bình). Thư của ông thân sinh viết cho
Tuấn như sau đây:

“Con, Sao con nghe lời người ta xúi giục bãi khóa chi vậy? Quan Đốc Học viết thư về trách cha mẹ không dạy bảo con… Quan Đốc học biểu cha phải đánh con 100 roi khi con về nghỉ Hè, để từ nay con đừng làm chuyện bậy bạ nữa. Cha mẹ lo cho con ăn học, mong sau này con thi đỗ, đề công thành danh toại thì cha mẹ vui mừng. Sao con không biết thương cha mẹ, vô trong trường làm việc phi pháp, nếu như Nhà Nước bắt bỏ tù con thì khổ cho cha mẹ biết bao. Mẹ con nghe cha đọc bức thư của Quan Đốc học, thì mẹ con khóc lóc và giục cha phải vô Qui Nhơn mau mau đi xin Quan đốc tha tội cho con. Chắc là tháng sau cha phải vô, cha sẽ đem một quả đường bông, một quả gạo nếp, hai chai mật ong và hai miếng quế Thanh quí giá, để kỉnh Quan đốc học, và xin cho con khỏi bị đuổi.

Mẹ con lo lắm vì mẹ con đi chợ nghe bác Phán Đông cho biết là Quan đốc học Qui Nhơn có viết thư cho quan Sứ ở đây nói về mấy đứa học trò quê tỉnh mình xúi học trò Qui Nhơn bãi khóa, sẽ bị đuổi hết. Mẹ con buồn lắm, ngày đêm cứ thúc giục cha phải đem lễ lộc vô lo lót quan Đốc. Vậy chắc là tháng sau, cha khỏe mạnh sẽ vô Qui Nhơn, chớ tháng này bị đau yếu, chưa đi được đâu.

Cha gởi lởi thăm con, cha khuyên răn con cố lo học hành, đừng làm chuyện chi sái phép, thì cha buồn rầu.

Thơ bất tận ngôn. Ký Tên”.

Tuấn xem thư cha, lòng cảm xúc, đau khổ. Trưa, cậu học trò ở trường về không ăn cơm, thui thủi đi ra bãi biển một mình, ngồi khóc nức nở.

Đã qua, sự hăng hái bồng bột của một cậu học trò! Bây giờ là sự hối hận đau khổ của một đứa con bị cha mẹ rầy la, thấy cha mẹ buồn rầu lo nghĩ. Nhưng biết làm sao được? Cùng một lúc, Quỳnh và Tố, người đồng tỉnh với Tuấn, cũng cho biết là có nhận thơ của cha mẹ la mắng về vụ bãi khóa… Ông Đốc học cũng có viết thư về cho cha mẹ Quỳnh và Tố, bảo phải đánh đòn khi hai trò về quê nghỉ hè.

Thì ra, hầu hết phụ huynh học sinh bốn lớp lớn đều được thư báo cáo và khiển trách của ông Đìa-réc-tơ. Mấy kẻ khởi xướng phong trào đều nhận tội với cha mẹ, điều đó đã đành. Chỉ oan ức cho đa số nghe theo lời bạn bè mà bãi khóa, bây giờ cũng chịu hậu qủa chua cay. Có điều đáng khen là các cậu này bị mắng oan, nhưng không hề thù hận tụi khởi xướng, và gặp nhau, trao đổi cho nhau xem thư của cha mẹ, chỉ cười khúc khích với nhau, như đã cùng nhau thông cảm trong cơn nguy biến.

Tuy nhiên, ngoài mặt các trò cố giữ vẻ điềm tỉnh, không sợ sệt, Ông Đốc và các giáo sư Pháp Nam cũng không tỏ ra triệu chứng gì khác thường, không khí học đường hai tháng sau buổi bãi khóa vẫn yên tỉnh, không chút xao động. Nhưng trong lòng các học sinh - nhất là mấy cậu thủ phạm cuộc bãi khóa - đều áy náy không yên.

Ngày cuối niên khóa 30-6-1927 bỗng dưng có một chuyện xôn xao kinh hãi: 12 cậu khởi xướng hăng hái nhất cuộc bãi khóa, bị gọi từng người lên văn phòng ông Đốc học. Quỳnh và Tuấn bị gọi lên trước tiên. Ông Tổng giám thị đưa cho coi biên bản của Conseil de Discipline (Hội Đồng Kỷ Luật) quyết định đuổi các trò. Tuấn được hai ông giáo sư Pháp và một giáo sư An nam bênh vực xin cho ở lại, nhưng những ông khác nhất thiết đòi đuổi ra khỏi trường. Mặc dù kỳ thi lục cá nguyệt, Tuấn được điểm tốt và được sắp hạng 6 trên 40 học trò, Quỳnh được sắp hạng 5, Tố thứ 12, nhưng cả ba đều bị ghi vào học bạ: “Mauvais esprit. Renvoyé de l’ école par le Conseil de Discipline, pour avoir formenté la grève scolaire en Avril 1924” (Đầu óc xấu. Bị đuổi khỏi học đường do quyết định của Hội Đồng Kỷ Luật, vì đã khởi xướng cuộc bãi khóa tháng tư năm 1927).

Chữ ký của ông Đốc học Henri Deydier bên cạnh con dấu xanh tròn to tướng nằm dưới trang chót quyển học bạ không khác nào vòng xích sắt trói chặt tương lai của đời học sinh, khó vẫy vùng ra được.

Đêm ấy, Tuấn về nhà bỏ ăn, đi lang thang ra bãi bể, chàng ngồi dưới gốc cây phi lao, nghe gió rì rào trên cành cây và sóng biển ào ạt vào bờ, như vang dội triền miên của tiếng lòng nức nở…

(Còn tiếp).


Nếu độc giả, đồng hương, thân hữu muốn: 

* Liên-lạc với Ban Điều Hành hay webmaster 
* Gởi các sáng tác, tài liệu, hình-ảnh... để đăng 
* Cần bản copy tài liệu, hình, bài...trên trang web:

Xin gởi email về: quangngai@nuiansongtra.net 
hay: nuiansongtra1941@gmail.com

*  *  *

Copyright by authors & Website Nui An Song Tra - 2006


Created by Hiep Nguyen
log in | ghi danh