Diễn đàn của người dân Quảng Ngãi
giới thiệu | liên lạc | lưu niệm

 April 09, 2025
Trang đầu Hình ảnh, sinh hoạt QN:Đất nước/con người Liên trường Quảng Ngãi Biên khảo Hải Quân HQ.VNCH HQ.Thế giới Kiến thức, tài liệu Y học & đời sống Phiếm luận Văn học Tạp văn, tùy bút Cổ văn thơ văn Kim văn thơ văn Giải trí Nhạc Trang Anh ngữ Trang thanh niên Linh tinh Tác giả Nhắn tin, tìm người

  Văn (Kim văn)
TUẤN CHÀNG TRAI NƯỚC VIỆT (Ch 26-30)
NGUYỄN VỸ
Các bài liên quan:
    TUẤN CHÀNG TRAI NƯỚC VIỆT (Ch.36-40)
    TUẤN CHÀNG TRAI NƯỚC VIỆT (Ch.31-35)
    TUẤN CHÀNG TRAI NƯỚC VIỆT (Ch.21-25)
    TUẤN CHÀNG TRAI NƯỚC VIỆT (Ch.16-20)
    TUẤN, CHÀNG TRAI NƯỚC VIỆT (Ch.11-15)
    TUẤN CHÀNG TRAI NƯỚC VIỆT (Ch.6-10)
    TUẤN, CHÀNG TRAI NƯỚC VIỆT (Ch.1-5)
    TUẤN, CHÀNG TRAI NƯỚC VIỆT (Tựa)
    NGUYỄN VỸ, NHÀ VĂN NƯỚC VIỆT

TUẤN CHÀNG TRAI NƯỚC VIỆT
Nguyễn Vỹ.

Chương 26.

1924

- Một cuộc viễn hành xe đò từ sáng sớm đến khuya trên đường cái quan dài 150 cây số.

- Ông Tú-tài nhà nho, đầu “cúp carré“ đội mũ trắng làm thơ ca-ngợi chiếc xe hơi.

- Cuộc chiến tranh cân-não giữa chiếc xe đò và con cọp ngồi giữa đèo.

- Cách biệt giữa Tây và Ta trong xã hội.

- Giáo sư Pháp với học trò Việt.

- Hai tờ báo “Việt-Nam Hồn“ và “Le Paria” lén lút đầu tiên đến tay học sinh 14 tuổi.

- Một bài thơ trong “Việt Nam Hồn”.

- Ảnh hưởng của tờ báo “Việt Nam Hồn“ trong đầu óc học sinh.

- Lưu-cầu Huyết-Lệ Thơ, Việt Nam Vong Quốc Sử, Hải Ngoại Huyết-Thư (từ Nhật Bổn đưa về, tới tay học sinh).

- Học trò tổ chức đánh phá một tiệm Hoa-kiều bốc lột.

Giấy xe “cam nhông” ghi bảy giờ sáng khởi hành đi Qui-nhơn. Thím Ba, mẹ của Tuấn, đã lo dậy từ hồi gà gáy đầu, để làm thịt hai con gà nấu cháo. Tuấn-em cũng giật mình tỉnh dậy, coi lại mấy bộ quần áo, toàn là mới may, và các dụng cụ học sinh, sắp xếp thứ tự trong chiếc “va-li“ mây. Lần lượt Phán Tuấn và chú Ba cũng thức dậy, thắp đèn trong nhà sáng trưng, và dặn dò Tuấn-em cặn kẽ từng mỗi chi tiết về mọi sự. Tuấn-em chăm chỉ ngồi nghe, ghi nhớ những lời chỉ bảo và hồi hộp lo sợ, vì là lấn đầu tiên Tuấn sẽ lìa cha mẹ, lìa anh, từ biệt quê nhà, để một mình đi học tỉnh xa, bơ vơ còn nhỏ dại .

Thím Ba dọn mâm cháo gà lên cúng Ông Bà. Phán Tuấn thắp đèn, đốt nhang trên bàn thờ . Chú Ba, khăn đen áo dài, khấn vái cho Tuấn-em đi đường bình an vô sự, và được thi đậu vào lớp Đệ Nhất niên trường Qui-nhơn. Chú cúng xong, Tuấn-em cũng mặc áo dài, cúng kính lạy bốn lạy để xin Ông Bà chứng giám, phù hộ cho đứa cháu út trong gia đình được mạnh khỏe và đi học được đỗ đạt thành tài. Trước khi dọn cháo xuống, chú Ba còn lấy giò gà xem quẻ có tốt không. Chú ngồi ghế tràng kỷ, long trọng đưa hai gìo gà dưới ánh sáng đèn dầu hỏa, xem xét tỷ mỉ mỗi mống chân đã luộc chín quặp lại như thế nào, lớp da teo lại như thế nào, và những đường gân nhỏ trên cẳng, móng cẳng, được sắp xếp như thế nào. Chú Ba trở qua trở lại xem xét hai giò gà, và mỉm cười bảo:

- Quẻ tốt quá! ông bà phù hộ cho con ra đi được gặp toàn điều đại cát (rất tốt, rất hay). Con thi vào trường thế nào cũng đậu.

Xong ông trao cho Tuấn-em cả hai giò gà để ăn lấy hên. Tuấn-em cười chỉ lấy một cái. Nhưng thím Ba rầy con:

- Con phải ăn hết một cặp giò. Ăn một cái không nên .

- Sao thế, mẹ?

Chú Ba bảo:

- Ăn một cái, sẽ bị “quáng gà” con à.

- Quáng gà là sao, cha?

Chú Ba tủm tỉm cười, bảo:

- Theo tục lệ của ông bà truyền lại từ xưa, hễ ăn giò gà phải ăn hết đủ cặp, ăn một cái thì buổi chiều tối, sẽ bị lòa mắt, không thấy rõ đường đi, cũng như gà vâỵ.

Tuấn-em sợ hãi, liền gặp hết hai cái giò gà.

Xong bữa cháo tiễn biệt, xem đồng hồ đã 6 giờ hơn, Phán Tuấn giục em ra đi. Nhưng Tuấn-em còn bịn-rịn đứng khóc thút-thít một lúc lâu, tay nắm chặt lấy tà áo của mẹ.

Thím Ba cũng khóc. Thím vừa khóc vừa nói, tiếng nói ấm ức lẫn với tiếng khóc:

- Thôi…con đi mạnh giỏi…Nhờ trời phù hộ cho con…Vô tới trong ấy, con viết thư về, kẻo mẹ trông mong …nghe con!

Phán Tuấn giục mãi, Tuấn-em mơí chịu đi. Nó chấp hai tay trước ngực, cúi đầu chào mẹ chào cha :

- Thưa cha con đi…, thưa mẹ con đi…, thưa anh Hai em đi…

Nó vẫn còn khóc thút thít, Phán Tuấn bảo:

- Anh Hai đi với em…Thôi nín đi. Ra đường khóc, người ta cười đấy.

Phán Tuấn xách va li cho em, tiễn em ra đến bến xe.

Chiếc xe “cam nhông” đi Qui-nhơn lớn bằng chiếc xe thơ “Staca” nhưng hành khách đã ngồi chật ních cả. Muốn cho em có chỗ ngồi được thong thả một chút, Phán Tuấn đã mua vé hạng nhất là được chỗ ngồi ưu tiên trên ghế trước, cạnh “chauffeur” (lúc bấy giờ chưa có danh từ “tài xế”, chỉ có tiếng “sốp phơ”là thông dụng khắp nơi). Không dè trên ghế trước trừ anh “sốp phơ “đã có hai người khách ngồi đấy rồi, nhét Tuấn-em ngồi kẹt ở giữa. Phán Tuấn than phiền:

- Chà! Chật qúa, em tôi ngồi ép thế này, làm sao quẫy cựa được?

Sốp phơ cười đáp:

- Hễ xe chạy, lắc qua lắc lại một lát là rộng chỗ liền, thầy Phán đừng lo.

Trên cửa xe, có ghi mấy giòng chữ trắng 21 places (21 chỗ ngồi), nhưng Phán Tuấn đếm trong xe đã 27 người, dồn ép vào nhau như trong hộp cá mòi. Trên mui xe cột đồ hành lý cao chất ngất, lại còn có ba ngươì ngồi ngất nghễu, kẻ đội nón, người che dù. 8 giờ rồi, trời đã nắng, mà xe vẫn chưa chạy. Phán Tuấn hỏi:

- Sao trong giấy ghi 7 giờ khởi hành?

Sốp phơ bảo:

- Thưa thầy, còn chờ hai người khách nữa, rồi chạy liền.

Mãi đến 8 giờ 30, mới thấy hai người “các chú” (Hoa-kiều, cũng gọi là “khách trú”) đi xe kéo tới, chở hai chiếc va li to tướng và hai giõ hàng hóa. 3 người ngồi trên mui phải leo xuống đất để ngươì ta chất thêm bốn món hành ký kia rồi mới leo trở lên. Nhưng cả ba người đều nói cười vui vẻ. Coi bộ họ thích được ngồi trên mui hơn là ngồi trong xe. Một ông, có lẽ là ông Tú hay ông Cử gì đấy, đầu cúp “carré”, đội mũ trắng, tay cầm dù, miệng nhai trầu, đứng trên bàn đạp phía sau, ngâm bốn câu thơ mà ông vừa cao hứng đặt ra, cho tất cả bà con cô bác nghe chơi. Tuấn-em còn nhớ rõ bài thơ như sau đây:

Gặp hội long vân chuyến viễn hành
Ngồi cao ngất ngưởng tận trời xanh
Văn minh rầm rộ thu đường đất
Tiến bộ còi vang khắp thị thành.

Ông cười ha hả, phẹt một bãi nước trầu đỏ ngòm xuống đất, rồi còn giảng cho người ta nghe, sợ người ta không hiểu hết ý nghĩa hay ho của bài thơ tứ-tuyệt mà ông vừa “xuất khẩu” đã thành:

- Gặp hội Long vân, vì chiếc xe cam nhông này tên là “Long Vân” là Rồng Mây, xe hơi của nhà nước Đại Pháp sáng chế ra có khác nào rồng bay trong mây, cho nên tôi muốn ngồi trên mui xe, cao ngất ngưỡng như ngồi trong mây xanh vậy đó! Ha! Ha!…Câu thứ ba Văn minh rầm rộ là chiếc xe văn minh kêu rầm rầm rộ rộ, thu đường đất xa hóa gần. Tiến bộ còi vang, là xe hơi tiến bộ bóp còi kêu vang khắp cả thành thị thôn quê. Có phải bài thơ này tuyệt không bà con? Ha! Ha!

Có mấy người thành thật khen hay, rồi ông Tú mới víu hai tay vào thành xe leo lên mui. Miệng ông vẫn cười đắc chí. Ông nghiêng mình xuống đất nhổ một phẹt nước trầu rồi giương cây dù lên che nắng, cười với tất cả những người đứng dưới ngước lên ngó ông.

9 giờ hơn 10 phút, chiếc “xe văn minh” nổ rầm rầm, xịt khói ra đen nghịt phía sau. Giờ phút long trọng. “Tiếng còi tiến bộ”reo vang lên “oa…oa…oa…” như gào thét cho những kẻ tò mò đứng chật bên đường phải vội vàng chạy tránh ra hai bên lề. Xe chuyển bánh rồi vụt chạy ầm ầm.

Ông Tú “gặp hội Long vân” ngồi trên mui cao, bị lắc qua lắc lại, vẫn còn nghiêng mình xuống đường cái, cười nói thật to để từ giã đám đông:

- Bà con ở lại mạnh giỏi nghe!

Xe đã vụt chạy xa, người ta còn trông thấy tay ông ngoắc ngoắc …

Xe đã biến trong một vùng khói bụi mù cuộn lên như một trận cuồng phong.

Vào gần đến Bồng Sơn thì xe hỏng máy. Phải ngưng để xốp phơ sửa chữa ba tiếng đồng hồ mới chạy được. Sông Bồng Sơn rộng lớn, chưa có cầu, phải qua “phà”. Tất cả hành khách đều xuống, đi một chuyến phà sang trước chờ đơị bên kia song. Chiếc xe cam nhông được chở trong một chiếc phà riêng, đi sau. Nhưng qua bên kia, xe bò chậm chậm lên bờ, chạy được gần 100 thước rồi lại chết máy.

Sốp phơ chui xuống dưới gầm xe, nằm ngửa mặt lên tay cầm các thứ dụng cụ để sửa máy, trong lúc trên 30 hành khách nhẫn nại ngồi chờ hai bên đường, Ông Tú (hay ông Cử gì đấy) vừa học lỏm được của sốp phơ vài ba danh từ và vài tiếng Pháp mới lạ, liền cao hứng làm một bài thơ nữa để ngâm lên cho bà con nghe chơi. Tuấn em nhớ hết bài thơ như sau đây:

Máy móc văn minh thật khó bì
Hư đâu sửa đó chẳng hề chi
Tắt bình chứa điện, xe ngưng chạy
Nghẹt ống bơm xăng khói hết xì
Kỹ nghệ khéo bày môn tuyệt xảo
Ô tô nào phải vật vô tri
Ni-hoen (manivelle) quay tính kêu như sấm,
Bốn bánh bon bon vụt tốc kỳ.

Ông Tú nhà nho hãnh diện vuốt râu, nhai trầu, đội mũ trắng ngồi trên lề đường, ngâm nga và giảng 8 câu thơ tuyệt bút của ông. Hành khách và thiên hạ chung quanh xúm lại nghe, đều gật đầu, tấm tắc khen ngợi… Tuấn-em nghe cũng mê…

Lúc bấy giờ, không biết là mấy giờ, nhưng đã khuya lắm, chiếc xe ì ạch, nặng nề, leo lên một cái đèo cao, quanhco trên một sườn núi. Hai ngọn đèn pha chiếu hai vệt ánh sáng vàng khè trên mặt đường. Bỗng mấy người ngồi băng ghế đầu, trông thấy hai con mắt sáng ngời đăm đăm nhìn chiếc xe. Người sốp phơ run cầm cập, quay laị nói với hành khách:

- Có “ông” ngồi ở đàng trước kia kìa! Bà con cô bác coi chừng. Đừng thò đầu, thò tay ra ngoài nghe!
Đồng thời mấy người ngồi trên mui cũng la lên thật to:

- Cọp! Cọp! Ê bà con coi chừng! Có con cọp to lắm đang ngồi nhóc mỏ bên lề đường kìa.

Tất cả đều nhôn nhao, sợ hãi. Tuấn-em nghĩ thầm: “Mình ngồi kẹt ở giữa, không sợ. Nếu cọp có chụp thì chụp cái ông Ba Tàu ngồi ngoài, sát cửa xe.”

Chỉ có một con cọp ngồi ngoài đường mà 30 người ngồi trong xe đều hết hồn hết vía.

Tuấn-em tuy ngồi kẹt trong một vị trí tương đối yên ổn hơn, nhưng vẫn hồi hộp run sợ, vì biết đâu!…Lần này là lần đi xe hơi đầu tiên, lại đi xa, và ban đêm gặp cọp trên đèo, thì làm sao biết trước được sẽ xẩy ra chuyện gì?

Anh sốp phơ chắc đã chạy quen trên đường quan lộ, sao anh cũng sợ quýnh lên thế! Xem chừng ảnh mất cả bình tỉnh rồi và hai tay anh run run nắm cái tay lái coi bộ không vững. Anh lâm râm khấn vái: “Lạy ông, ông đi chỗ khác để cho xe tôi chạy, ông ơi”.

Con cọp cứ ngồi miết một chỗ. Hai con mắt sáng quắc và đỏ lòm, cứ nhìn chòng chọc lên chiếc xe đang rồ máy ầm ầm. Mấy ông ngồi phía sau thúc dục anh sốp phơ:

- Cứ chạy chứ sợ gì, chú? Bóp kèn cho vang lên, rồi “phóng nước đại”, ổng không dám làm gì đâu.

Anh sốp phơ nói:

- Bữa trước, đã có một chuyến xe lên đèo ban đêm cũng gặp ổng rồi, ổng rượt theo xe, vồ một thằng “ét” ngôì phía sau.

Mấy ngươì ngồi sau, nghe nói hoảng hốt, ngồi ép dồn vào trong hết. Moị người la lên:

- Sao xe không có cửa sau đóng lại vậy nè?

- Có cửa, mà bị cọp vồ chuyến trước, thành nó sút ra đành phải bỏ laị Qui-nhơn để sửa, chuyến naỳ vô mới lắp lại được.

Trong xe bàn tán xôn xao, nhưng không ai dám lớn tiếng, vì ai nấy đều lo sợ cọp nhảy tới. Chiếc xe vẫn cứ rồ máy và rung động, hình như chính nó cũng sợ run lên. Có người bảo sốp phơ:

- Chú cứ đạp mạnh ga cho xe vọt mau lên, không được sao?

- Được làm sao được? Đèo thì cao, xe vừa sửa máy phải chạy chậm, chứ chạy mau lỡ hư máy nữa thì chết. Nếu xuống dốc thì còn nói gì.

- Thế thì làm thế nào? Không lẽ đứng mãi đây à?

Sau cùng sốp phơ bảo:

- Tôi cho xe chạy nghe! Bà con la hét rùm lên thật to nghe! Lạy trời, ổng sợ không dám rượt theo thì mình thoát nạn.

- Ừ, cứ chạy đi. Tuị tui la làng xóm lên, không sao đâu.

Anh sốp phơ sang số xe, cho xe từ từ tiến tơí, rối cố vọt lên đèo. Toàn thể hành khách la hét um sùm, lẫn lộn đủ các tiếng: “Ối làng xóm ơi! Hù, hù, hù, hù, hù. Cọp, cọp, cọp. Ối làng xóm ơi, Cọp! Cọp!”

Xe gần đến cọp, cọp cứ ngồi yên không nhúc nhích, nhưng cặp mắt cọp sáng ngời cứ đăm đăm nhìn theo xe…Xe càng đến gần cọp, tiếng kêu la hò hét càng to lên, càng ồn ào náo nhiệt. Bổng cọp “gầm” lên một tiếng vang dậy cả núi rừng khiến cho tất cả mọi người đều khiếp đảm, im lặng hết. Chỉ còn tiếng xe kêu rầm rầm, khói xịt ra mù mịt đen ngòm và tiếng còi xe kêu điếc óc điếc tai.

Xe chạy ngay đến chỗ cọp, cọp nhổm dậy toan vồ xe, bỗng từ trên mui xe hai cái thùng rớt mạnh xuống kêu “Phèng! phèng! choảng choảng”ngay trước mũi cọp rồi lăn ra đường cái. Cọp hiảng hốt chạy vọt vào rừng, hành khách chưa kịp hiểu tiếng gì cũng hoảng hốt ôm chầm lấy nhau, dồn ép nhau thành một đống. Xe cứ bò từ từ lên đèo, rầm rầm rộ rộ, còi xe cứ bóp oa, oa, oa! Vài ba bà hành khách chưa hoàn hồn còn há to mồm la hét:

- Ối làng xóm ơi. Ối làng xóm ơi!

- Cọp, Cọp, cọp!

Lên đèo khoảng 100 thước, xe bắt đầu xuống dốc, chạy êm ru không còn tiếng ồn ào xáo động nữa.

Chạy một khoảng xa, đến đồng bằng, vừa thấy vài chục nóc nhà và các lều tranh ở hai bên lề đường, đèn đuốc sáng trưng, người ta đông đúc, vui vẻ. Một trại của “cu-li lục-lộ” ở chung vơí xóm làng dân địa phương. Xe ngừng lại để nghỉ. Đến đây, toàn thể hành khách xuống xe, mơí bu lại ba ông trên mui cũng vừa leo xuống, kể lại câu chuyện thùng thiếc. Đấy là hai thùng thiếc đựng đường cát của ông Tú đem vào Qui-nhơn để bán. Trong lúc xe ngừng trên đèo và hành khách bàn tán những biện pháp lo đối phó với cọp, ộng Tú lặng lẽ cùng hai bạn đồng hành đổ hết đường ra một tấm vải bố lớn của chủ xe dùng để che đậy hang hóa. Ông nhất định hy sinh hai thùng thiếc ấy để đánh một đòn “chiến tranh cân não” lên đầu cổ “ông cọp” và ông tin chắc chắn sẽ thắng lợi.

Ông Tú nghĩ đúng. Cọp sợ hoảng vụt chạy vào rừng, chính vì bị cái vố hai thùng thiếc bất ngờ ấy rơi ngay trước mũi ông với một tiếng phèng la kinh khủng, chứ đâu phải vì những tiếng kêu: “ối làng xóm ơi! Hù. Hù!” “Cọp! Cọp”, và tiếng còi oa, oa… của chiếc xe ho lao không đủ sức bò lên đèo!

Câu chuyện gặp cọp trên đèo thành ra một đề tài vô cùng hào hứng cho các anh “cu li lục lộ” và đàn ông đàn bà trong xóm hai bên đường cùng xúm lại bàn tán, vui cười rất là náo nhiêt.

Tuấn chen vào các đám đông góp câu chuyện bi-hài kích thích thú vị ấy.

Nhưng một lúc, Tuấn không thấy ông Tú đâu. Đi ngang qua các căn nhà mở cửa, Tuấn muốn tìm ông Tú. Ông đang ngồi trong một căn nhà chong đèn dầu hỏa. Chung quanh ông có sáu, bẩy người, nét mặt vui cười nghe ông ngâm thơ. Tuấn bước vào. Ông Tú vẫn đội mãi chiếc mũ trắng trên đầu (tóc cúp carré), tay vẫn cầm cây dù đen, miệng vẫn nhai trầu mỏm-mẻm, nói rất có duyên. Ông đang ngâm và giảng bài thơ ông vừa làm ra như sau đây , cho bà con cô bác nghe chơi:

ĐI XE GẶP CỌP

Một chiếc xe xanh, một cọp vàng
Nhìn nhau bốn mắt sáng choang choang
Cọp gầm vang động, ôi hồn vía!
Xe hoảng kêu lên, ối xóm làng!
Máy bết, người run, vô diệu kế
Đèo cao, đêm vắng, thậm nguy-nan!
Kìa đôi thùng thiếc ai quăng đấy!
Cọp nhảy co giò, tưởng sét vang.

Tuấn ngồi nghe, và thuộc lòng mấy bài thơ của ông Tú làm dọc đường, để kỷ niệm cuộc viễn hành đầu tiên của Tuấn giữa buổi giao thơì của Lịch sử, nửa tân nửa cựu.

Đường cái quan người Pháp goị là “đường thuộc địa số một” (Route Coloniale N.1) qua các vùng hiểm trở của miền Trung, nhất là từ Bình Định vào Bình Thuận, đã có tiếng rất là nhiều cọp. Xe hơi đi ban đêm thường gặp cọp luôn, và bởi cọp thời bấy giờ chưa từng thấy xe hơi nên ưa ra ngồi bên lề đường để rình chụp, và hăm he khiêu khích. Cọp ngày nay đã văn minh rồi, nên trông thấy xe hơi thì mau mau lẫn tránh vô rừng.

Dọc đường, thỉnh thoảng có một vài cái “Miễu cô hồn” hoặc “Am bà Thánh Mẫu”– không ai biết bà Thánh Mẫu nào? – Ở các khúc đường quẹo nguy hiểm.

Nhiều khi ở dưới chân đèo, giữa rừng núi âm u. Đến gần đấy, xe hơi nào cũng đậu lại. Sốp phơ đốt giấy vàng bạc và đèn hương cúng lại vị Thần linh. Các anh sốp phơ đã truyền miệng cho nhau rằng phai cúng lạy nơi các am ấy để các “ngài” phù hộ cho xe tránh khỏi tai nạn dọc đường, như xe rớt xuống hố, xe hư giữa đèo, hành khách bị cọp chụp v.v…

Hình như (theo lời họ nói) đã có những chiếc xe hơi qua đấy không chịu cúng kiến à dâng hoa quả, lên đèo bị tai nạn luôn.

Văn minh khoa học và mê tín dị đoan vẫn dung hòa với nhau trong các chuyến xe vận tải và xe đò dọc theo quan lộ…

Trước cặp mắt tò mò và ngơ ngác của Tuấn, thiếu niên 14 tuổi của nước Việt năm 1924, thành phố mà cậu đến lần đầu tiên để tiếp tục việc học, cách xa tỉnh nhà trên 150 cây số, thật là hoàn toàn mới lạ.

Mới lạ, vì đây là một thành phố rộng lớn, ở ngay trên bãi biển. Mới lạ, vì ở đây nhà cửa cao đẹp, đường phố rộng rãi, người qua lại đông đúc, xe hơi chạy rần rần “văn minh tiến bộ” hơn ở tỉnh của cậu nhiều. Mới lạ, vì ở đây cậu thấy đủ các hạng Tây Đầm: Tây quan, Tây nhà buôn, Tây “cò”, Tây “cố đạo”, Tây “giáo sư”, có đến ba bốn chục ông, chớ không như ở tỉnh nhỏ của cậu chỉ có bốn năm ông quan Tây và vài ba bà Đầm mà thôi.

Dĩ nhiên, Tuấn còn là cậu học trò con nít, vẫn còn “sợ”các ông Tây, cũng như hầu hết học trò lúc bấy giờ. Cho đến đỗi, trong năm đầu, học Đệ-Nhất niên, thường gặp các ông Tây “cố đạo” (danh từ thông dụng thời bấy giờ, để gọi các vị linh mục Gia Tô Giáo), Tuấn cũng không dám đến gần.

Có thể nói rằng hầu hết thiếu niên Việt-Nam thế hệ 1924-25, cùng lứa với Tuấn đều có mặc cảm rằng người “Tây” khác hẳn người “Ta” về mọi phương diện. Tuy đang học chữ Tây, nói tiếng Tây đã khá thạo, viết chữ Tây đã hơi thông, các cậu học trò thời buổi ấy vẫn coi Tây là một giống người xa lạ, mà các cậu còn e ngại, ngờ vực, chưa khứng làm quen.

Tuấn lại nhận thấy rằng người Tây ở một khu riêng biệt, nhà cửa cao ráo, sang trọng, có vườn hoa đẹp, có xe hơi, có xẩm giữ con, có bồi, có bếp, có chó “berger”. Đi ngoài đường ngó vào thấy có vẻ oai nghiêm lạ. Cả thành phố lớn như thế, Tuấn không thấy được một nhà An-nam nào sang trọng như nhà Tây.

Kể ra người Pháp sang xâm chiếm và cai trị xứ ta đã gần 40 năm rồi mà sự cách biệt giữa Tây và Ta vẫn còn xa lắc xa lơ: cách biệt trong đời sống hang ngày, cách biệt trong các công cuộc hoạt động hành chánh, xã hội, kinh tế, thương mãi. Cách biệt cả trong phạm vi giáo dục nữa.

Tuấn để ý thấy rằng trường Tây để cho con Tây học riêng, và xây cất đẹp hơn, một tòa nhà đồ sộ, kiến trúc nguy nga, giữa một khu vườn rộng, có bồn cỏ, khóm hoa, ngay trên bãi biển. Trường An-Nam thì sơ sài, thấp lè tè, xây trên một động cát khô khan gần chưn núi. Không những thế, ở trường An-nam, một truờng duy nhất học đến cấp bậc Cao Đẳng Tiểu Học (Enseignement Primaire Supérieur), có 5 giáo sư An-nam tốt nghiệp trường Cao đẳng Hà Nội và 5 giáo sư Pháp tốt nghiệp tương đương, bằng Brevet Supérieur ở Pháp, mà sự giao thiệp Pháp-Việt hang ngày vẫn lơ là gượng gạo. Giáo sư Pháp ít nói chuyện và ít giao du thân mật với giáo sư Nam, trừ một đôi trường hợp hiếm hoi. Quen tính tò mò, Tuấn hay để ý thấy trong các giờ chơi, thỉnh thoảng hai ba giáo sư Pháp đứng nói chuyện với một vài giáo sư Nam độ 5, 10 phút, rồi Pháp lại cặp kè với Pháp, An-nam bị bỏ rơi đi thơ thẩn trên hành lang, mỗi người một ngã không ai để ý đến.

Tuy nhiên, nói như thế không phải là qủa quyết rằng giáo sư Pháp kiêu căng, phách lối. Trái lại hầu hết giáo sư Pháp đều rất thương mến học trò, và rất vui vẻ với học trò hơn các giáo sư An-nam nữa!

Trừ một giáo sư Toán đáng ghét, còn bốn ông khác đều gây được lòng cảm mến của toàn thể học sinh, Nhất là giáo sư Sử-Ký, mỗi khi ông giảng sử Pháp là học trò nghe mê. Ông là người có chân trong hội Nhân quyền và Dân quyền ở Paris, cho nên trong lúc giảng bài ông luôn luôn công kích kịch liệt chế độ quân chủ thời Louis XVI và không ngần ngại tuyên truyền cho đám thiếu niên học sinh An Nam những tư tưởng của Cách mạng Pháp 1789 Tự Do, Bình Đẳng, Bác Ái.

Ông đả kích bọn cầm quyền độc tài, áp chế, ông hô hào tự do, dân chủ, đề cao các nhà Cách mạng Pháp như Jean Jaurès, ông đề cao cả cụ Phan Chu Trinh, mà học trò ngơ ngác chưa biết là ai. Cứ đến giờ Sử ký Pháp, ông giáo Mariani vào lớp là y như thể sắm có cuộc diễn thuyết cổ động chống “chính sách thuộc địa”. Ông lật sách ra, giảng sơ sơ năm mười giòng rồi bỏ sách xuống, nói huyên thuyên, la ầm ĩ, hét thật to, đập bàn, đập ghế, đứng dậy, xăn tay áo, phùng mang, trợn mắt, mặt đỏ như quả gấc, ông nói, ông nói…”Dân là Vua! Dân là Chúa Trời! Vâng, đúng thế! Dân là tất cả! Dân là Chúa Tể trong nước! Kẻ nào đè nén Dân, bóc lột Dân, hãy coi chừng!" v.v…

Tuấn ngồi há miệng nghe, như uống ngon lành, say sưa những lời nói aò-ạt, ngào-ngạt, của vị giáo sư Sử ký Pháp. Đến khi hết giờ giáo sư còn nói… nói “cách mạng là cuộc vùng dậy, cuộc quật khởi của những kẻ yếu, chống lại kẻ bạo tàn. Và luôn luôn kẻ yếu sẽ thắng! Công lý sẽ thắng! Tự Do sẽ thắng! Cường quyền và áp chế sẽ sụp đổ như những tượng ác thần luôn luôn bị ngã gục, đổ nát tan tành dưới lưỡi búa tầm sét của Lịch sử!…” Xong ông đứng dậy ôm cặp đi ra…Tuấn muốn chạy theo ôm lấy chân ông, muốn hôn bàn tay ông, muốn níu ông trở lại, thì vừa ông Gabriel giáo sư Toán bước vào.

Ông này có nụ cười láu cá, đôi mắt ranh mãnh, nét mặt độc ác, trái hẳn với ông Mariani. Ông giảng toán một lúc rồi gọi Tuấn lên bảng:

- Mầy hãy vẽ một hình tam giác hai cạnh đều nhau.

Tuấn cầm phấn vẽ hình tam giác hai cạnh đều nhau.

Ông Gabriel mặt đỏ bừng hỏi Tuấn:

- Xong chưa?

- Thưa ông, xong rồi.

- Đi xuống, zéro!

Ông cho Tuấn trong sổ điểm một con số không tròn vo thật đậm. Tuấn không hiểu sao cả. Ông goị người học trò khác lên bảng. Anh này giỏi toán nhất lớp, và được ông Gabriel cưng nhất. Ông hỏi:

- Thằng Tuấn nó vẽ hình tam giác đấy có đúng không?

- Dạ, thưa không .

- Thiếu cái gì?

Trò kia cầm phấn đề 3 chữ A, B, C nơi ba góc. Ông Gabriel gật đầu:

- Giỏi! Đi xuống.

Ông cho trò ấy 19 điểm. Tuấn ngồi làm thinh. Ông Gabriel nhìn nó và mắng nó:

- Mầy là thằng ngốc! Thằng ngu! Crétin, va!

Tuấn đứng dậy:

- Thưa ông gíáo sư …

- Im cái mồm và ngồi xuống! Đồ mọi rợ! Cả giòng giống An-nam của mầy là đồ mọi rợ. Giòng giống An-nam bẩn thỉu (sale race annamite).

Cả lớp ngồi gục đầu, cắn răng, làm thinh, Tuấn cũng làm thinh. Bốn chục chàng thiếu niên âm thầm nuốt hận.

Lớp học lại tiếp tục trong bầu không khí nặng nề. Có lần cũng trong lớp học, ông Gabriel chửi Đề Thám là “tướng cướp”, chửi vua Duy Tân là “thằng nhải con” và có lần ông lấy một bài của Phạm Quỳnh đăng trong baó France Indochine ở Hà nội, đọc cho học trò nghe, và khen tặng Phạm Quỳnh một câu: “Đấy là một người An nam thông minh” (voilà un Annamite intelligent).

Các ông giáo sư “An Nam”có lẽ không thông minh chăng, vì học trò mét lại cho các ông nghe những lời của giáo sư Pháp kia chửi rủa giòng giống An Nam như thế, mà các ông Giáo Sư An Nam vẫn điềm nhiên. Có ông lại còn cười, cho là những lời nói đùa. Một ông giáo sư Luân Lý lại còn điểm một câu phê bình: “Người mạnh bạo bao giờ cũng có lý. Các cậu không nên phàn nàn”.

Tuấn chia giáo sư Pháp ra làm ba hạng:

- Giáo sư Toán Gabriel, đáng ghét,
- Giáo sư Sử Ký Phá: Mariani, đáng kính phục.
- Hai giáo sư Pháp văn và giáo sư Địa dư: đáng mến.

Tuấn cũng chia giáo sư An nam làm 4 hạng:

- Ông Tr. Giáo sư Lý-Hóa: đáng sợ (ông này nghiêm quá)
Ông Th. Giáo sư Luân-Lý: đáng ghét (vừa làm phách, vừa dạy dở, lại hay gắt gỏng và ưa nịnh Tây)

- Ông V. Giáo sư Quốc-Văn: đáng ghét (vừa làm tàng, vừa kém Việt văn, cũng nịnh Tây đôi chút)

- Ông B. Giáo sư Sử-Ký An-nam: đáng mến, dạy giỏi.

- Ông D. giáo sư vẽ và viết tập: đáng mến và hiền lành.

Dần dần, quen với giáo sư Pháp, Tuấn thích lân la nói chuyện với họ và bắt đầu có những ngạc nhiên mới lạ. Như thấy có 3 ông trong số 5 ông, sáng chủ nhật không đi nhà thờ, đêm Noel không đi lễ Tuấn đánh bạo hỏi. Ông Mariani cũng như hai ông giáo sư Pháp văn bảo: “Tôi không tin có Chúa”. Trái lại ông Gabriel là một tín đồ nồng nhiệt, ông giáo sư địa dư cũng là một con chiên trung thành, sáng chủ nhật nào cũng gặp ông đi nhà thờ rất sớm, Tuấn liền có ý nghĩ:

“À, thế ra không phải tất cả người Pháp đều theo đạo Gia-tô".

Sau này có ông Martin và cô vợ trẻ đẹp của ông là con gái ông Đốc học, cả hai đều là giáo sư Pháp văn và Văn phạm, cũng không khi nào đi nhà thờ. Hơn nữa, ông M. thường công kích đạo Gia-tô kịch liệt, Ông công kích cả đạo Phật cho là tất cả các tôn giáo đều là mê tín. Còn giáo sư An Nam thì không ai theo đạo Gia-tô cũng không ai theo đạo Phật: các ông theo đạo… cờ bạc. Đêm nào các ông cũng đánh tứ-sắc, hoặc xổ tam-hường. Tuấn biết hết các nơi hội họp đổ bác của các ông, chỉ trừ ông giáo sư Sử ký An-nam, người Bắc, góa vợ, ông này có một đời sống thanh bần giản dị, có hơi “phi-lô-dốp” một chút.

Tuấn ở trọ một thầy Thông Kho Bạc, người Hoàng phái, họ Bửu. Một đêm thứ bảy, có bốn thầy tụ họp trên gác nhà thầy Bửu Vinh để đánh tổ tôm. Tuấn ngồi ngoài hè, chăm chú ngó con thằn-lằn bò trên mặt kiến đèn “carbure” dựng bên lề đường. Bóng nó nằm dài thườn thượt xuống đường cái như bóng ma, lúc biến lúc hiện, lẫn với bóng lá bóng cây run run trong gió lạnh.

Bỗng có một thầy cùng sở với thầy Bưủ Vinh tên là H. đi xe máy đến. Thầy xuống xe, móc trong túi lấy ra một tờ giấy in gấp lại dầy mo, nhét vào tay Tuấn và khẽ bảo:

- Đi vào nhà, đọc đi, đừng cho ai thấy. Đọc lẹ, rồi 10 giờ tôi lấy lại.

Nói xong, thầy dắt xe máy vào nhà thầy Bửu Vinh, đóng cửa lại, rồi trèo thang lên gác, nhập vào sòng bài tổ tôm. Còn một mình Tuấn ở nhà dưới. Tuấn hết sức ngạc nhiên, mở xấp giấy in ra thấy ba chữ to tướng in màu đỏ: “Việt Nam Hồn”.

Lần đầu tiên, cậu thiếu niên Trần Tuấn, cầm trong tay một tờ báo. Cậu ngó kỹ thấy trên đầu trang dưới giòng chữ: “Việt Nam Hồn”, một câu cũng in màu đỏ đại khái như sau đây: “Cơ quan tranh đấu cho nền Độc Lập của nước Việt Nam”, dưới có giòng in đen: “Trụ sở Trung Ương ở Marseille, Pháp quốc”.

Tuấn vừa sợ vừa mừng run lên, Cậu lên giường nằm trùm chiếc chiếu, để ló đầu ra và đặt cái đèn dầu lửa gần đầu giường. Cậu xem tờ báo, say mê, như muốn nuốt vào bụng những cột báo đầy rẫy những chữ hô hào Ái quốc, cổ động cách mạng chống Pháp, tranh đấu giành Độc Lập, Tự Do.

Những bài thơ in trong báo “Việt Nam Hồn” mà Tuấn còn nhớ sau đây:

Hăm lăm triệu đồng bào nổi dậy
Đuổi quân thù ra khỏi giang sơn
Chớ sao ngậm oán nuốt hờn
Để mang tủi nhục cho Hồn Việt Nam
Bẻ xiềng xích, phá vòng nô lệ
Đem máu đào rửa hận Non Sông
Hỡi đàn con cháu Lạc Hồng
Chớ mê giấc ngủ còn hòng việc chi!

Bài thơ còn dài lắm…Tuấn nhắm mắt đọc ôn lại hai ba lần cho nhớ từng chữ, từng câu, chớ không dám chép ra giấy, để còn những bài khác, những trang khác, tất cả bốn trang giấy lớn in đầy những lời xúi dục khởi nghĩa, thức tỉnh đồng bào.

“Việt Nam Hồn” là tờ báo bí mật đầu tiên lọt vào tay chàng thiếu niên nước An Nam năm 1924, tuy lúc bấy giờ Tuấn mới 14 tuổi. Tuấn hết sức ngạc nhiên, sau khi đọc hết tờ báo, coi lại thật kỷ nơi trang đầu, thấy có chua một giòng chữ đen mà Tuấn không hiểu: “Chủ nhiệm: Nguyễn thế Truyền”.

Tuấn cứ thắc mắc: “Chủ nhiệm là gì? Một danh từ mơí lạ mà Tuấn không biết rõ nghĩa, và sau đó hỏi một ông giáo sư Quốc-văn, ông giảng giải: “Chủ nhiệm là một ông chịu trách nhiệm” Còn Nguyễn thế Truyền là ai? Cậu học sinh 14 tuổi tưởng tượng ông là nhân vật ghê gớm lắm. 10 giờ 30, thầy H., từ trên lầu xuống, đến gần Tuấn. Tuấn để ý thấy thái độ thầy H. cũng bí mật lạ lùng. Thầy hỏi rất khẽ: “cậu đọc rồi chưa?” Tuấn cũng trả lời rất khẽ:

- Dạ rồi… Thầy ơi, tờ báo này ở đâu vậy, thầy?

- Có ngươì ở bên Tây đem về. Bí mật đấy nhé.Tôi thấy cậu Tuấn có “đầu óc”, tôi mới cho mượn xem. Xem xong, đừng nói cho ai biết. Nói tùm lum sẽ bị bắt bỏ tù, hay là bị chết chém đấy.

- Dạ, tôi không nói gì đâu .

- Giữ bí mật, rồi tôi sẽ cho mượn tờ khác để coi.

- Dạ…nhưng thầy à, ai gởi Báo cho thầy vậy? Sao họ đem lén đem về được, thầy?

- Có anh bồi tầu, cứ mỗi chuyến tâù ở bên Tây về thì ảnh đem báo này về cho tụi mình. Cậu Tuấn nhớ là đừng để lộ bí mật, nghe? Người nào đáng tin cậy, cậu hãy nói chuyện và đọc vài câu thơ trong này cho họ nghe. Cậu chỉ nói là cậu nghe lỏm đâu đó, chứ đừng nói là câụ có thấy tờ báo: "Việt Nam Hồn”. Nghe không?

- Dạ.

- Cậu có thích đọc tờ này không?

- Dạ, thích lắm. Tôi đọc say mê, thầy ơi! Hay qúa thầy ơi! Ồ, nếu Tây họ biết được, chắc họ bỏ tù tuị mình

- Ừ, vì thế nên tôi dặn cậu là phải kín mồm kín miệng.

- Thầy có đưa cho thầy Vinh đọc không?

- Có, thầy Vinh cũng thích lắm. Chính thầy hiểu cậu, biết cậu là học trò có “đầu óc”, nên thầy dặn tôi đưa cho cậu xem.

- Cảm ơn thầy lắm. Hễ chừng nào có “Việt Nam Hồn“ thì thầy nhớ cho tôi mượn coi với nhé. Chu cha! coi sướng quá thầy ơi! Thơ hay qúa thầy ơi! Họ chửi Tây, mình đọc thấy lạnh xương sống. Sướng mê!

Thầy Hồ tủm tỉm cười, gấp tờ báo “Việt Nam Hồn” làm bốn, rôì đút trong lưng quần, giấu kín sát bụng, dưới hai lớp áo cụt và áo đen. Thầy ra về.

Tuấn tắt đèn, nằm đọc thầm lại bài thơ lúc nãy:

Hăm lăm triệu đồng bào! Nổi dậy!
Đuổi quân thù ra khỏi giang sơn
Chớ sao ngậm oán nuốt hờn
Để mang tủi nhục cho hồn Việt Nam?

Đây là đêm thứ Bảy. Cả ngày Chủ nhật Tuấn cứ đọc thầm bài thơ trên 70 câu. Tội nghiệp Tuấn-em! Mới 14 tuổi, chưa hiểu quốc sự là gì cả, lần đầu tiên được xem lén một tờ báo “ghê gớm” in từ bên Tây, gởi lén về An Nam, làm xáo trộn cả tâm hồn còn ngây thơ của cậu. Cậu bổng nhớ lại nét mặt nhăn nhó và những lời quyền rủa của ông giáo sư Toán, Gabriel, mà Tuấn thường gọi với các bạn là “Người Mặt Khỉ”

Tại sao ổng dám chửi mình là “nòi giống dã man” “Sale race Annmite”?

Trong đêm tối, nằm đắp chiếc chiếu (vì không có tiền mua mùng và mền), Tuấn âm thầm tức giận ông Tây Gabriel, rồi cảm xúc vì bài thơ trong “Việt Nam Hồn”, bổng dưng Tuấn khóc…Nhưng Tuấn khóc thút thít, không dám khóc to …

Cô Vinh, vợ thầy Bửu Vinh, từ nhà trên cầm cây đèn đi ra sau bếp, chợt đi ngang qua chỗ Tuấn nằm, nghe Tuấn khóc. Cô cười, hỏi với giọng Huế:

- Cậu Tuấn dợ dà hỉ (nhớ nhà, nói theo giọng Huế)?

Tuấn nằm im thin thít giả vờ ngủ, không dám lên tiếng.

Sáng thứ Hai, Tuấn đi học, tìm ngay một ngươì bạn cùng tỉnh mà cậu thân nhất, kéo ra phía sau trường nói thầm:

- Quỳnh ơi, mầy có thấy tờ báo “Việt Nam Hồn” không?

- Tờ gì?

- Việt Nam Hồn.

- Ở đâu?

- Tao có đọc lén được một tờ, mầy ơi. Có bài thơ hay lắm, tao đọc cho nghe …

Thế là Tuấn đọc hết cả bài thơ “Hăm lăm triệu đồng bào, nổi dậy …”

Trò Quỳnh kéo trò Tuấn ngôì xuống cát, dựa lưng vào vách tường, bảo Tuấn đọc lại một lần nữa. Rồi Quỳnh căn dặn Tuấn làm sao hỏi mượn tờ “Việt Nam Hồn” cho Quỳnh xem.

Từ hôm ấy, trong trưòng Cao đẳng Tiểu Học Qui-nhơn lớp Đệ Nhất Niên (1ère Année) tương đương với lớp Đệ Thất bây giờ, có một nhóm học sinh năm đứa, cứ trao lén cho nhau xem tờ Việt Nam Hồn đã rách nhèo nát hết và dán lại từng mảnh.

Mỗi khi cho mượn, hoặc trao trả lại, các trò gấp làm tư, dúi trong lưng quần, giấu sát bụng, dưới hai lớp áo cụt và áo dài đen. Lúc bấy giờ học trò chưa dám mặc “đồ Tây”, tất cả đều mặc aó dài ta, đội mũ, mang quốc.

Phải nói rõ rằng, nhóm học sinh âý chưa bao giờ dám nghĩ đến chuyện “cách mạng” hay là “ làm hội kín đánh Tây”. Nhưng cái mầm ái quốc đã bắt đầu nẩy nở dụt dè và kín đáo trong tâm hồn ngây thơ của tuổi trẻ. Và không riên gì ở trường Qui-nhơn, mà khắp các trường Cao đẳng Tiểu học trong nước như trường Quốc học và Đồng Khánh ở Huế, trường Trung học Bưỏi và Cao đẳng Đại học ở Hà Nội, các trường “college” khác ở Hải Phòng, Nam Định, Vinh, Saigon, Mỹ Tho, Cần Thơ v.v… Ấy là do ảnh hưởng đầu tiên của những tờ báo bí mật từ bên Tây gởi lén về do đường tàu thủy trong đó có hai tờ được phổ biến lén lút sâu rộng hơn cả là Việt Nam Hồn bằng Việt ngữ xuất bản ở Marseille, và tờ Le Paria bằng Pháp ngữ xuất bản ở Paris .

(Le Paria, tiếng Pháp gốc tiếng Ấn Độ, là kẻ thuộc về giai cấp bần cùng, không có quyền gì cả, bị coi như là lớp người ti tiện, và bị kẻ giàu mạnh chà đạp, khinh khi, hất hủi)

Đó là tờ báo cách mạng đầu tiên mà Tuấn và nhiều thiếu niên khác cùng thế hệ đã được đọc lén lút từ năm 1924.

Cùng một lúc, một số sách báo, cũng bí mật từ bên Tây và bên Nhật được gởi lén về Việt-Nam, do tầu thủy, nhất là do chiếc tàu S/S Canton, chạy đường Saigon – Tourane (Đà Nẵng) - Hải Phòng - Hồng Kông. Trong số các sách báo ấy rất tiếc là chỉ một số rất ít viết bằng Việt-ngữ, còn đa số là bằng chữ Nho. Tuấn được thấy bổn “Việt Nam vong quốc sử, Lưu cầu huyết lệ thư, Hải ngoại huyết thư”. Nhưng lúc bấy giờ Tuấn chỉ được đọc các bản chép lại bằng tay, không có tên tác giả. Mãi bốn năm năm sau, Tuấn đã ra Hà Nội tìm tòi học hỏi, mơí biết là những sách ấy của cụ Phan Bội Châu. Tuấn trao các sách “cấm” ấy cho Quỳnh và các trò khác cùng một chí hướng, nhưng ai cũng phải tự tay mình chép lại, để xem lén, rồi giấu kín dưới va li quần áo.

Một hôm, lần đầu tiên Tuấn đưa một bài thơ chép trong “Viêt Nam Hồn” trên một mảnh giấy, trao cho H.X.T., con một quan Tri phủ đang nhậm chức ở Bình Định, học cùng lớp vơí Tuấn. Trò T., người Huế, xem xong hoảng hốt xé phăng ngay mảnh giấy. Hắn hỏi Tuấn:

- Mi lấy cái đồ bậy bạ ni ở mô rứa?

Tuấn cười đáp:

- Tối hôm qua, tao đi bắt còng (con còng giống như con cua, nhưng nhỏ hơn và chạy rất nhanh, có trên nhiều trên bờ biển, trốn giỏi lắm, nhất là ban đêm) ngoài bờ biển, lượm được bài thơ đó trong môt cái hang còng, mầy ơi!

T. làm thầy khôn, dặn Tuấn:

- Sau, mầy đừng có lượm những cái giấy như ri, lỡ mà ông Directeur thấy được thì ông đánh mi chết.

- Tao đưa cho mầy coi chơi, chớ tao đâu dám coi.

Trò T. sợ quá, còn lấy tay moi một lỗ khá sâu trên bãi cát sau sân trường, để chôn dấu bài thơ ghê gớm mà hắn đã xé vụn ra từng mảnh nhỏ.

Tuấn cười bảo:

- Mi dấu bài thơ nớ còn hơn con còng dấu trứng nó trong hang! Mi coi chừng chớ tao sợ bài thơ nó sẽ nở ra thành một bầy còng chạy lung tung trong trường mình, thời mặc sức ông Đìa-réc-tưa chạy theo bắt. Ha! Ha!

Trò T. con trai cưng của quan Phủ Bồng Sơn không hiểu ý Tuấn, nhưng cũng cười hì hì.

Tưởng cần nhắc lại rằng, trong lúc nhiều phần tử trí thức Nho học, lẫn Tây học, ở Bắc, Trung, Nam vẫn tiếp tục hoạt đông bí mật, hô hào Nhân quyền, Dân quyền, cổ xuý Tự Do, Độc Lập, thì trái lại, một số thanh niên hầu như hoàn toàn lãnh đạm, chỉ ham mê học hành tranh đua trên con đường công danh sự nghiệp mà thôi. Tâm trạng ấy không phải là không có nguyên nhân. Một là vì chưa có điều kiện tổng quát để kích thích sự phát huy tư tưởng ái quốc, hai là chưa có một mãnh lực đủ uy tín để giác ngộ tinh thần quốc gia chủng tộc của lớp trẻ ấy. Vả lại phải nhìn nhận rằng thời bấy giờ người ta chưa chú trọng đến thanh thiếu niên cho lắm.

Các sách báo cách mạng từ Hải ngoại gởi về lén lút do các đường tầu thủy, chỉ được lưu hành trong các tầng lớp trung lưu trí thức, nhất là trong giáo giới và một số ít công tư chức có tư tưởng độc lập.

Một vài tờ báo lọt đến tay các bạn thanh niên, là một việc hi hữu và trong những trường hợp vô cùng dè dặt và thận trọng. Chưa có một phong trào chính trị, hoặc xã hội để kích động tuổi trẻ, tuổi trẻ bồng bột hăng hái, mà một việc tức giận nho nhỏ cũng có thể bung lên thành một việc to lớn.

Một vụ “xung đột” sôi nổi như sau đây, giữa học trò và một bọn “các chú” trong thành phố, có thể biểu hiệu tinh thần chủng tộc đang tiềm tàng trong đám thiếu niên thời bấy giờ .

Sau một kỳ nghỉ Hè, học sinh tấp nập đến các tiệm “các chú” mua giấy bút, mực v.v… Hầu hết các tiệm buôn lớn có đủ dụng cụ học sinh, cũng như các tạp hóa khác, đều là của “khách trú”. Người An Nam ít vốn chỉ buôn bán nhỏ thôi. Vì thế, có vài tiệm “các chú” thường hách dịch với khách hàng, và hay ăn hiếp học sinh. Một em bé lớp tiểu học, độ 10 tuổi, đến tiệm Diêu Ký mua hai cuốn vở 100 trang. Người các chú có lẽ đông khách nên vội vàng lấy trao cho em hai quyển vở 50 trang. Em khờ khạo không xem kỹ, nhưng về nhà cha mẹ thấy sự lầm lẫn liền bảo con đến tiệm đổi lại. Người “các chú” không đổi, lại còn la mắng cậu học trò. Đứa con nít sợ về nhà sẽ bị cha mẹ đánh, nên nhất định đòi cho được vở 100 trang, vì quả thật nó đã trả tiền theo giá vở 100 trang. Người “các chú” mắng nó là “ăn gian” và đánh nó một bạt tai. Nó khóc thét lên. Vài cậu học trò lớn đứng chứng kiến sự cộc cằn hỗn láo của người Hoa-kiều, và lên tiếng bênh vực đứa nhỏ, liền bị tuị “các chú” chưỉ: “Người An lam ăn cắp à!” Chỉ một câu nói vô ý thức kia đã gây lên sự công phẫn của mấy cậu học trò và được truyền miệng đi khắp hết các đám học sinh trong thành phố. Thế rôì, do một nhóm bốn người học trò lớn xúi dục 7 giờ tối đêm hôm ấy trên 500 học trò cầm đá và củi, kéo đến ném tung các món ấy vào trong tiệm Diêu Ký, làm bể hết các tủ hàng và gây thương tích cho tất cả trên 10 người các chú và á xẩm trong tiệm. Tuấn-em cũng có dự vào cuộc “khích động” này. Năm giờ chiều nó đang chơi bắt còng ngoài bãi biển, bổng có một đứa bạn đi xe đạp ngang qua, bảo nó: “Mấy thằng các chú ở tiệm Diêu Ký chửi An nam là dân ăn cắp, tối nay tụi mình cầm củi và đá đi đánh cho chết cha tụi nó, mầy đi không?”

Tuấn đang chơi, tức giận chạy ngay về nhà trọ. Dọc đường, nó hốt hai ba chục hòn đá xám của sở Lục-lộ dùng để lót đường, bỏ đầy nhóc hai tuí áo cụt. Nó ra sau nhà bếp lấy ba thanh củi thật to, đem để sẵn dưới bàn học với đống đá của nó. Bà chủ nhà trọ thấy thái độ khả nghi của Tuấn, hỏi: “Trò Tuấn làm chi mà lấy củi và đá bỏ một đống rứa?” Tuấn nói rõ cho cô chủ nghe, và tỏ vẻ tức giận mấy người khách trú lắm. Cô chủ la rầy Tuấn, nhưng chồng cô, thầy Thông Vinh Kho bạc, bảo: “Học trò, họ muốn đánh lộn với các chú thì mặc họ. Can cớ chi đến mình mà mình ngăn cản, hỉ?”. Trong thâm tâm, thầy Vinh cũng tán thành cuộc đả kích kẻ ngoại kiều dám xấc xược với người An Nam, tuy thầy không phải học trò nên không tham gia.

Còn bọn học trò, thì chỉ truyền miệng với nhau, chứ sự thật không có trò nào dám ra mặt chỉ huy trận “chiến tranh đá” này và không ai nghĩ đến hậu quả. Chỉ lo trả thù câu chửi rũa hỗn láo của mấy người khách trú ở tiệm Diêu Ký thế thôi. Chỉ nghĩ đến việc ném đá và quăng củi vào tiệm, cho “chết cha tụi nó”, để hả cơn tức vì câu nói “người An lam ăn cắp”. Có thể gọi là sự bộc lộ “tinh thần dân tộc”, nhưng thật ra chỉ là sự bộc lộ cá tính bồng bột tự nhiên của tuổi trẻ, chứ chưa phải là một cuộc “biểu tình” có tổ chức, có kẻ chỉ huy, vì không có ai chỉ huy cả. Trò Tuấn, cũng như mấy trò khác, chạy đi đến các nhà trọ có bạn bè trú ngụ, kể chuyện mấy người khách trú đánh đứa học trò nhỏ lúc 12 giờ trưa, rồi rủ 7 giờ tối đi ném đá. Trong số 600 học trò của nhà trường, có độ 100 trò không dám làm việc ấy, còn thì trò nào cũng tức tốc chạy đi kiếm đá, củi để đến 7 giờ tối đem quăng vào tiệm Diêu Ký cho hả cơn giận.

Chưa đến 7 giờ, Tuấn đã cầm ba thanh củi, và bỏ đầy đá xám trong hai túi áo cụt, đi tới tiệm Diêu Ký, ngay trước cổng chùa Quảng Đông, và đã thấy có sáu bảy chục học trò tụ họp ngay đấy rồi. Một trò tự động đầu tiên ném vào tiệm hai, ba cục đá to bằng trái cà và hai thanh củi. Mấy trò khác bắt chước ném theo, đá và cuỉ tới tấp bay vào tiệm Diêu Ký như mưa, rôì tất cả bỏ chạy. Tuấn ném sau cùng trong lúc trong tiệm tụi “khách trú” chạy ùa ra rất đông, cầm củi và dao, quyết trả thù lại. Tuấn bỏ chạy trong lúc một bọn học trò trên vài chục đứa khác từ ngoài bờ song kéo vào tiếp tục xung kích vào mục phiêu “địch”. Bọn học trò càng đông, tụi đã chạy rồi còn quay trở lại nữa với các cục đá và các cây củi xin ở các nhà An nam kế cận. Cuộc loạn đã kéo dài cho đến 10 giờ. Đến 11, 12 giờ, tiệm đã đóng cửa mà thỉnh thoảng cũng còn những cục đá to tướng ném chan chát vào hai cánh cửa, và trên mái ngói.

Cảnh sát ở đâu? Cả thành phố to lớn như thế chỉ có 6 người “lính phú lít”, toàn là người An nam. Họ thay phiên nhau ba người ở sở để hầu hạ ông “Cò” Pháp, và túc trực ở văn phòng. Còn 3 ngươì được nghỉ ở nhà đi uống rượu đánh bạc. Thành phố rất yên ổn, không cần có “phú lít”. Bị học trò đánh và đánh nhau với học trò, mấy ngươì “khách trú“ không dám đi thưa “bót phú lít” vì ban đêm họ không dám đến phá rầy quan Tây. Mãi 8 giờ sáng hôm sau, chủ tiệm Diêu Ký cùng cả gia đình khách trú trên 10 ngươì bị u đầu, lỗ trán, chảy máu mắt, sưng mặt, sưng mũi, gãy răng, rách áo, rách quần, kéo đến sở Cò. Họ còn khệ nệ bưng theo bốn chai rượu chat đỏ, một bịch thuốc Méllia và 20 hộp sữa Nestlé để “kỉnh quan lớn” nhờ quan lớn xử giùm, mong “đèn trời soi sáng” cho họ được nhờ vì họ bị bọn “học trò nhà nước đánh phá tan hoang hết cửa tiệm”.

Ông Cò nhận các đồ lễ, rồi điềm nhiên bảo họ cứ đi về buôn bán, ông sẽ xử cho. Tất cả đều cúi khòm lưng vái chào cảm ơn quan lớn. Ông Cò làm bản tường trình đem lên ông Sứ (chính thức là quan Công Sứ) ông Sứ chuyển giấy sang ông Đốc học, cũng người Pháp.

Ông Đốc cho gọi vài cậu học trò lớn lên phòng giấy, để hỏi về cụ đánh các chú đêm vừa qua. Các trò đồng thanh trả lời:

- Monsieur le Directeur, ces Chinois sont des voleurs. (Thưa ông Đốc, mấy người Hoa kiều ấy là bọn ăn cắp). Ils volent les élèves (chúng nó cướp tiền của học trò).

Ông Đốc cũng tường trình lên ông Sứ:

- Monsieur le Résident, les Chinois sont des voleurs, Ils volent mes élèves (Thưa Quan Công Sứ, Hoa kiều là tụi ăn cắp. Chúng nó cướp tiền học trò tôi).

Bảy hôm sau, ông Cò gửi trát đòi chủ tiệm Diêu Ký lên hầu. Ông thân ái khuyên bảo người Hoa-kiều:

- Từ nay không nên ăn cướp tiền của học trò. Chúng nó sẽ không phá phách cửa tiệm của mầy nữa đâu (người Pháp thời bấy giờ vẫn khinh khi người Hoa-kiều và gọi họ bằng “mầy”, ít khi họ gọi “anh” hay “ông”.

Qủa thật, vụ “chiến tranh đá và củi” năm 1924 không tái diễn nữa.

Sau vụ này, Tuấn-em sung sướng khoe với các bạn là nó đã ném một cục đá trúng kêu cái “đóp” vào đầu một chị xẩm, tại chị này đứng trước cửa xăn quần lên đến đầu gối, chưỉ lũ học trò: “Mẹ tổ cha mấy đứa học trò A lam à!”.

Ngoài vụ đánh phá tiệm Diêu Ký, bình nhật “học trò An-nam” vẫn hiền lành như đất cục, ngày tháng chăm lo học hành.

Thiểu số dăm bảy cậu thỉnh thoảng được đọc thường xuyên và không dám nói lại cho nhiều người nghe những bài văn thơ “kinh thiên động địa” mà các cậu đã được đọc, từ nghìn xa lén lút trao về.

Nhưng đó là những món ăn tinh thần nghiền ngẫm mãi trong tiềm thức, thấm nhuần trong đầu óc, bổ dưỡng cho suy tư, để rồi có cơ hội thuận tiện là bộc phát lên như dậy men, như bùng lửa, như sôi máu, sôi gan…

Chương 27.

1920 - 1924

- Trước 1925 danh từ “Việt-Nam” chưa được thông dụng trong dân chúng.

- Nước gọi là An Nam, Dân gọi là người An Nam, hoặc là Annamite ( theo tiếng Pháp).

- Đa số "Thượng lưu trí thức Nam kỳ” nhập tịch dân Pháp, theo đạo Thiên Chúa, và sống theo Tây.

- Hoàng thân Lào, Sinh Viên Cao Đẳng Công chính Hà Nội, tên là Souphanouvong, lấy vợ An-Nam ở Nha Trang (Nay là lãnh tụ Pathet Lào).

- Nhiều tỉnh Bắc, Trung Kỳ chưa có đèn điện.

- Dư luận xôn xao về vụ một ông Quan Ba tàu thủy Pháp cho học trò nhiều tiền để đánh ông trên đường đèo, đêm vắng.

- Một ông Giám-binh Tây, đi kinh lý, ở ngủ lại ban đêm trong làng.

Trước 1925, hay nói cho đúng là trước tháng 7-1925, hồi cụ Phan bội Châu chưa bị Tây bắt tại Thượng Hải đưa về Hà Nội, danh từ "Việt Nam" chưa được phổ thông trong dân chúng, và chưa được chính thức áp dụng ở xứ ta. Trên các công văn, báo chí, sách vở bằng chữ Pháp cũng như chữ Quốc-ngữ không mấy khi dùng đến hai tiếng "Việt-Nam".

Bên Nam triều, theo quốc hiệu đã được sửa đổi từ thời vua Minh-Mạng, các giới quan trường và trên các giấy tờ chính thức, đều dùng hai chữ “Đại-Nam”. Vua An-Nam được xưng hô là Đại Nam Hoàng Đế.

Các nhà trí thức, khiêm nhường hơn, thường viết là “Nước Nam”, hoặc “Nam Quốc”, còn dân chúng, từ Nam chí Bắc, lại quen dùng danh từ đã có sẵn từ nghìn xưa, do chính người Tàu ban bố cho là “nước An-Nam”. Người Tàu gọi người Việt là Ố-nàm-dàn(An nam nhân). Ở Hà Nội, nhà thơ Nguyễn Khắc Hiếu, chủ trương một tờ báo văn nghệ, lấy tên là An Nam Tạp Chí. Ở Saigon, ký giả tài ba xuất chúng là Nguyễn Phan Long điều khiển một tờ báo viết bằng Pháp-ngữ, lấy tên là Echo Annamite.

Riêng ở Nam kỳ, phần đông các giới “ thượng lưu trí thức”, và các nhà kỹ nghệ, thương mại, đại điền chủ ở Saigon và Lục tỉnh, lại không thích người ta gọi mình là "Annamites”. Đa số đã xin vô "dân Tây”, sống theo lối Tây, và hãnh diện được gọi là "Citoyens Français” (công dân Pháp). Ở Trung Kỳ và Bắc Kỳ, trái lại, hạng “An Nam dân Tây” rất hiếm. Ngay những người thân Pháp nhất, triệt để trung thành với Pháp, nhà văn như Phạm Quỳnh, quan lại cao cấp như Hoàng Trọng Phu, Vi Văn Định, Tôn-Thất Hân, Thái văn Toản, v.v…đều giữ nguyên quốc tịch An-Nam.

Về tiếng xưng hô địa danh của ba miền, tuy người Pháp đã đặt riêng ra ba tên khác nhau: le Tonkin (Bắc-Kỳ) - người là les Tonkinois; L’Annam (Trung Kỳ), người là les Annamites du Centre; la Cochinchine (Nam Kỳ), người là les Cochinchinois, nhưng tiếng An-nam và Annamites vẫn thông dụng hơn, từ Nam chí Bắc. Ở Hà nội, Hải phòng, cũng như ở Huế, Qui nhơn, Saigon, Cần thơ, Châu đốc dân chúng vẫn quen gọi với nhau là “người An-nam” và nói: hàng hóa Annam, ngày An-nam, các quan An-nam, tiệm buôn An-nam, ngày Tết An-nam, v.v…

Chính những người có học thức cũng quen nói như thế trừ những nhà làm cách mạng mà thôi. Những người bình dân ở Saigon và Lục tỉnh, không học Địa dư, thường gọi từ Nha Trang trở ra là “xứ Bắc”, hoặc là “xứ Huế”, “xứ Nghệ”. Ít khi họ phân biệt là miền Bắc, miền Trung . Thỉnh thoảng họ gọi bằng một danh từ châm biếm và khôi hài là “dân trọ trẹ”. Tại vì tiếng nói từ Nha Trang trở vào Phan Thiết, cũng na-ná như tiếng miền Nam, còn từ Qui-nhơn trở ra Nghệ An, Hà Nội, giọng nói hơi nặng, người miền Nam nghe khó hiểu.

Người miền Trung lại gọi Nam Kỳ là đất "Đồng Nai Gia Định”. Người bình dân miền Bắc thỉnh thoảng lại gọi Nam Kỳ là “xứ ở gần mặt trời".

Cho đến năm 1932, đường hỏa xa từ Hà nội vào Trung Kỳ chỉ mới tới Tourane, mà người Việt gọi là Cửa Hàn (nay là Đà Nẳng). Đường xe lửa từ Saigon ra, cũng chỉ đến Nha Trang, nơi đây là ga cuối.

Tại Nha Trang năm 1924, có một khách sạn khá lớn ở ngay trước ga xe lửa, mà chủ nhân người An-nam, đặt tên là Hotel Terminus (Khách sạn Cuối). Ông chủ Hotel, có một cô con gái khá đẹp và rất lãng mạn, tên là Kỳ Nam.

Vào khoảng 1937, có một cậu sinh viên trường Cao Đẳng Công Chính Hà nội là một Hoàng tử Lào, nhân dịp nghỉ hè, đi nghỉ mát ở Nha Trang. Cậu sinh viên Hoàng tử đến trọ tại "Khách sạn Cuối” và được dịp làm quen với cô Kỳ Nam, con gái ông chủ. Đối với cậu Hoàng tử Lào lúc bấy giờ, lấy được một “tiểu thư Annam” làm vợ là cả một vinh dự lớn lao.

Đối với cô thiếu nữ lãng mạn ở Nha Trang, lấy một người chồng là Hoàng tử, mặc dầu là Hoàng tử Lào, và không đẹp trai, cũng là một hạnh phúc thần tiên. Thế là cuộc tình duyên thơ mộng đã kết cuộc bằng một đám cưới vô cùng long trọng. Đôi vợ chồng Việt – Lào đó hiện nay vẫn còn sống và cậu sinh viên Hoàng Tử Lào lúc bấy giờ chính là Souvanna Souphanouvong, lãnh tụ Pathet Lào hiện nay.

1924, nhiều tỉnh chưa có đèn điện, tuy là những thành phố lớn vào hạng ba, hạng tư, ở toàn xứ An nam. Đường phố vẫn còn thắp đèn acétylène cháy nhờ hơi đá carbure, đựng trong một bình bằng đồng, lồng trong bốn mặt kiếng, trên cột sắt sơn đen và chạm trổ rất đẹp. Thường có những con thằn lằn to lớn không biết từ đâu bò lên trên mặt kiếng để đớp những con thiêu thân. Hình bóng những con thằn lằn ấy ngã xiêng xuống mặt đường, lúc hiện ra nằm dài trên đường lộ, lúc rút lại trong bóng tối, như những bóng ma. Nhất là trong những đêm mưa gió và ở các ngã tư vắng vẻ những “bóng ma" ấy thường làm cho những học trò nhút nhát ghê rợn không dám đi qua.

Trừ ba thủ đô Saigon, Huế, Hà Nội, và các thị trấn quan trọng như Nam Định, Hải Phòng, Vinh, Tourane, Cần Thơ v.v…, còn hầu hết ở các thành thị khác, đường phố không có tên, và không có số nhà. Dân chúng thường gọi theo những tên địa phương mà không ai đặt ra nhưng moị người đều biết, như: đường Lò Heo, đường Lò Vôi, đường Bờ Sông, đường Cống Kiều, đường Nhà Thờ, đường Miễu Cô hồn v.v…

Tuy thế, trong mỗi tỉnh, đường nào ở đâu, nhà nào ở đâu, nhà ai, ở xóm nào, mấy anh cu li xe kéo đều biết hết. Vì đường phố hãy còn ít, nhà cửa chưa đông đúc, đất trống còn nhiều, kỹ nghệ chưa thành hình, thương mãi của người An nam gần như không đáng kể.

Hầu hết các hiệu buôn bán lớn là của "các chú“, của “Chà và“ của “Ma la bà“ (Chà và là Java – Nam Dương; Malabar: gốc Ấn Độ). Các hãng xuất nhập cảng là của người Tàu, hoặc Pháp, An nam chỉ đành phận bé nhỏ, nghèo hèn, với những tiệm cúp tóc đơn sơ, tiệm thợ may (hai ngành này phát triển nhất) thuốc Nam, thuốc Bắc, hoặc tạp hóa nho nhỏ. Thỉnh thoảng xen vào một vài tiệm người Bắc, chuyên môn bán đồ đồng (mâm, lư, đèn) và một ít lụa Hà Đông.

Trừ một vài đại lộ đã trải nhựa goudron để cho xe hơi chạy, nhất là xe các quan, còn thì hầu hết các đường phố đều lồi lõm, chổ u, chổ đột, sạn đá gồ ghề, mỗi lần mưa to là nước chảy như đường mương, khe suối.

Cứ chiều chiều, tan giờ học, Tuấn thường ưa đi dạo xem các dãy phố, các tiệm buôn, các nhà cửa vườn tược, chùa miếu ở khắp hang cùng ngỏ hẻm. Tính tò mò, chỗ nào cũng muốn đến, việc gì cũng muốn thấy, chuyện gì cũng muốn nghe, cậu học trò 15 tuổi mặc áo dài đen vá nơi cùi chỏ, mang đôi guốc cùn ba xu, đi lang thang khắp phố, khắp phường.

Gặp các ông giáo, nhất là ông giáo sư Vật Lý học và Hóa Học, cậu vội vàng chạy trốn. Ông này người Huế, mặt nhiều mụn, cái miệng hay dô ra, cặp mắt sáng quắc, thường đi xe máy. Tốt nghiệp Trường Cao Đẳng Hà nội, ông rất giỏi về Lý-Hóa, nhưng cũng rất nghiêm khắc với học trò. Đã ba lần rồi, buổi chiều gặp Tuấn đi chơi ngoài phố, là sáng hôm sau giờ Vật-lý hay Hóa, ông gọi Tuấn lên trả bài. Luôn luôn ông cho Tuấn ăn hột vịt. Một buổi chiều chủ nhất, ông trông thấy Tuấn nằm chơi một mình trên bãi biển Gành Ráng, sáng thứ hai ông kêu Tuấn lên trả bài. Trò Tuấn ở nhà học thuộc bài vanh vách, nhưng không biết tại sao khi vào lớp, đứng trước mặt giáo sư trò quên tất cả. Ông giáo thưởng cho trò một con zéro bự rồi trừng mắt nói với cả lớp:

- Ce cancre ne sait jamais ses leçons, parce qu’il s’ amuse tout le temps avec les cancres (Thằng học trò lười biếng ấy không bao giờ thuộc bài bởi vì nó chơi cả ngày với mấy con cua biển).

Do lối “chơi chữ” của ông Giáo sư, vì chữ cancre có hai nghĩa, mà bạn bè trong lớp gọi đùa Tuấn là “con cua biển” (hay là thằng lười biếng, theo nghĩa thứ hai).

Một buổi tối, Tuấn nằm trên bãi cát, nghe tiếng sóng hòa nhịp với tiếng reo vi vu của rặng cây phi lao trên Cầu Tàu. Ngoài khơi, có chiếc tàu Orénoque của Tây đậu cạnh hải đăng. Ông quan ba với mấy người thủy thủ chèo chiếc tam bản (tây gọi là sampan) vào cặp bến. Mấy người thủy thủ lên bờ, đi bách bộ vào thành phố, vừa đi vừa hát om sòm. Bãi bể tối om, xa xa có một ánh đèn đá lắt leo trong gió lộng. Tuấn ngạc nhiên thấy ông quan Ba đến gần cậu. Tuấn không lo sợ gì, vì cậu đã biết nói tiếng Tây, sẵn sàng đối đáp. Ông quan Ba vuốt tóc cậu. Và khẽ nói với giọng rất hiền hòa:

- Bonsoir, mon enfant

Tuấn bạo dạn đáp lại, với giọng con nít:

- Bonsoir, monsieur…

Ông quan Ba lấy trong túi ra một gói sô-cô-la cho Tuấn, và bảo Tuấn đưa ông đi dạo phố. Lần đầu tiên Tuấn được đi chơi với ông Tây - lại là ông quan Ba tàu thủy, - nói chuyện với ông thân ái và tin cậy như một người bạn lớn tuổi. Dọc đường, ông bảo Tuấn rủ thêm bốn đứa bạn nữa cùng đi cho vui. Ông nói: "Tôi rất yêu thanh niên An nam”. Tất cả có bốn đứa bu theo bên ông đều là bạn học của Tuấn, được ông cho kẹo, cho thuốc hút, cho nhiều tấm hình cartes postales in các thắng cảnh bên Tây rất đẹp. Rồi ông đề nghị: “các em đưa tôi đến một nơi nào thật hoang vắng, ngoài châu thành, nơi không có người qua lại. Ngồi chỗ vắng như thế, chúng ta sẽ xem trăng, xem sao, và nói chuyện thú hơn”. Tuấn và bốn đứa bạn hăng hái đưa ông lên chân núi Xuân Quang, nơi đây không một bóng người, không một túp nhà, cách xa thành phố 2 kí lô mét.

Sau khi tất cả đều ngồi xung quanh ông, trên một bãi cỏ, nghe ông kể chuyện bên Tây, một lúc thật vui, ông quan Ba cười bảo: “Bây giờ các em sẽ xem tôi bày ra một trò chơi rất lý thú nhé”. Cả bọn nôn nao vui mừng. Ông lấy một đồng bạc đưa Tuấn, bảo: "Em xuống phố mua chừng 5 thước dây dừa thứ lớn và thật chắc, 9 hoặc 10 cây roi mây, hoặc roi tre, hay là những khúc củi dài cũng được, và 100 grammes ớt thứ thật cay, với 100 grammes muối”. Tuấn hơi lo ngại hỏi: “Trò chơi gì mà phải dùng các món đó?”. Ông quan Ba cười, nụ cười hiền lành đáng tin cậy:

- Em cứ đi tìm các món đó về đây, rồi các em xem tôi làm trò chơi này hấp dẫn lắm.

Tuấn và một đứa bạn theo lệnh ông vội vàng chạy về phố tìm mua một bọc ớt, mốt gói muối, và năm cuộn dây dừa. Còn roi thì các trò không biết mua ở đâu, bèn bảo nhau nhổ đại mấy cây tre cắm hang rào của một căn nhà trống ngoại ô.

Khi Tuấn trở lại núi Xuân Quang với đủ các đồ "chơi" kia, ông quan Ba vui vẻ bảo: ”Các em lột hết quần áo của tôi ra, lấy dây dừa cột hai tay hai chân của tôi lại, và trói chặt nhé, và đè tôi nằm xuống đất, đừng cho tôi quẫy cựa. Rồi các em thay phiên nhau mỗi người cầm một cây roi tre đánh vào mông đít tôi. Phải đánh thật dữ tợn. Các em đánh tôi như đánh một kẻ thù, vừa đánh vừa chửi, và đánh thật mạnh, đừng sợ tôi đau. Đánh mãi chừng nào gãy nát hết mấy cây roi, và đánh sao cho nổi lằn trên đít tôi, cho rơm rớm máu… Nhưng các em nhớ rằng chỉ đánh trên mông đít, đừng đánh trên lưng hay trên đầu, hay các chỗ khác trên thân thể tôi. Đánh trên mông cho chảy máu rồi gĩa muối ớt cho thật nhỏ, chà xát trên những chỗ lằn roi rớm máu ấy. Xong rồi tôi sẽ thưởng cho mấy em mỗi đứa 2 đồng bạc.

Hai đồng bạc thời bấy giờ giá trị hơn 200 đồng ngày nay. Tuấn và bốn đứa bạn do dự, không đứa nào dám làm công việc lạ lùng ấy mà các trò không hiểu tại sao. Nhưng ông Tây quan Ba cứ năn nỉ, van lơn, và đưa trước cho mỗi trò hai đồng bạc. Sau cùng, Tuấn bảo các bạn: “Tuị mình cứ làm như lời ổng dặn, nếu có xẩy ra việc gì thì chạy trốn. Trời tối, đêm vắng, núi hoang, sợ cóc gì, hè!”

Nhưng Tuấn hỏi ông quan Ba:

- Chơi trò chơi chi mà kỳ cục thế hả ông?

Ông Quan Ba mỉm cười đáp:

- Các em làm cái việc ấy xong, rôì tôi kể chuyện cho nghe. Chuyện hay lắm.

- Tụi tôi đánh ông, rôì ông có đánh lại tụi tui không?

Ông quan Ba cười:

- Không, tôi là Quan Ba Tàu Thủy, tôi không phỉnh gạt các em đâu.

- Lỡ đánh ông rôì tụi tui bị lính bắt bỏ tù thì sao?

- Nơi đây vắng vẻ, có ai biết đâu? Chính tôi đề nghị cái trò chơi ấy cơ mà! Nào! Bây giờ các em xúm lại lột quần áo của tôi ra đi. Chúng ta bắt đầu cuộc chơi rất hấp dẫn say mê này. Nào! Các em ra tay đi!

Tuấn cưòi bảo mấy đứa bạn cùng xáp vào thi hành “trò chơi” ly kỳ, bí mật, mặc dầu chưa biết kết cuộc sẽ như thế nào.

Để kích thích sự can đảm của năm thiếu niên Annam, ông Quan Ba tự cởi hết áo quần ra.

Tuấn lấy sợi giây dừa, cùng bốn đứa bạn bắt đầu trói tay trói chưn ông Tây… Nói đúng ra năm cậu con nít này đều có cảm tưởng đang làm một việc động trời, cho nên trò nào cùng còn sợ sệt ngại ngùng. Ai mà khi không dám cầm roi quất vào mông đít một ông Tây? Lại là ông Tây quan Ba? Nhưng ngẫu nhiên được cơ hội đánh Tây, Tuấn tỏ ra hăng hái nhất. Tuy rằng cậu không có thù oán gì ông Tây quan Ba này, trái lại, từ lúc mới gặp cho đến bây giờ, cậu và bốn đứa bạn đều kính mến ông và được hân hạnh chơi thân với ông, nhưng sẵn “trò chơi” kỳ quái và nguy hiểm này chính ông Tây bày đặt ra, và chính ông van lơn, năn nỉ các trò đánh đập ông. Tuấn bỗng nhiên cảm thấy từ trong thâm tâm nổi dậy sự vui thích dã man được đánh một ông Tây cho thỏa lòng “ái quốc hận thù”. Đó là ảnh hưởng đột ngột và đầu tiên của những bài thơ ái quôc mà cậu đã đọc lén trong hai tờ báo bí mật “Việt Nam Hồn” và “Le Paria”.

Sự “căm thù” hoàn toàn vô ý thức, vì không lý do gì cả đối với cá nhân ông Tây Quan Ba rất hiền lành tử tế kia nhưng Tuấn sung sướng được dịp cầm roi quất trót, trót!… thật mạnh, thật đau, trên hai mông đít trần truồng của ông Tây, vừa chửi đã đời, vừa đánh đã đời: “Tổ cha thằng Tây! Tao oánh cho chết mày! Sao mầy qua lấy nước tao?...Sao mầy bắt bỏ tù vua Duy-Tân của nước An Nam?...Mẹ cha mầy!... "

Thật là một cơ hội hy hữu, vừa là một dịp đầu tiên trong đời trẻ con của các cậu học trò trường Tây được đánh một ông Tây! Tuấn đánh nhiều hơn cả, liên tiếp ba cây roi tre đều dập nát hết. Rôì đến phiên ba trò kia cũng thi nhau mà đánh, mà chửi, một trò không dám đánh mạnh, một trò vừa đánh vừa cười. Ông Tây vẫn nằm yên, sắp mặt xuống đất, tay chân bị trói chặt bằng mấy vòng dây dừa to bằng ngón chân cái. Theo đúng lời căn dặn của “khổ chủ” năm trò đánh nát cả chục cây roi tre, để trên hai mông của ông chằng chịt những lằn roi rướm máu, rồi gĩa muối thật cay để xát vào những lằn máu kia. Quái lạ làm sao! Ông Tây vẫn nằm yên, không hề tỏ vẻ gì đau đớn cả, và không kêu la một tiếng . Nhưng khi năm bàn tay học trò xát mạnh muối ớt lên những lằn roi ứa máu, thì tụi này nghe ông bắt đầu rên rĩ … Ông rên rĩ một giọng khoái trá, một giọng đê mê …như tiếng mèo đực ôm ghì lấy mèo cái trong đêm khuya trên mái nhà.

Năm đứa học trò An nam không hiểu cái lối “chơi” gì lạ lùng quái gở của ông Tây.

Nửa giờ sau, “cuộc chơi” chấm dứt. Mười cây roi tre đã dập gãy xác xơ, nắm muối ớt chà xát trên mông ông Tây cũng đã hết rồi. Ông nằm rên một lúc khá lâu, mắt nhắm riết gần mười phút đồng hồ, không quẫy cựa. Năm cậu học trò ngồi xuống đất, hồi hộp đợi xem.

Tuấn khẽ bảo mấy đứa bạn:

- Nè, nếu ổng ngồi dậy la làng xóm, thì tụi mình chạy trốn hết nhé. Đứa nào đứa nấy lẻn về nhà nằm. Sáng mai đừng đi ra phố mà cũng đừng nói gì cho ai biết chuyện nầy, tụi bay nghe?

Tất cả đều băn khoăn lo sợ. Trò Tuấn sợ nhất, vì chính trò cầm đầu vụ này và trò đánh ông Tây hăng hái nhất.

Ông Tây mở mắt mỉm cười, tuy nụ cười hơi mệt nhọc. Ông nói chậm rãi, uể oải, nhưng giọng nói thoải mái:

- Ah, mes enfants! C’est bien! C’est très bien! Merci! Merci! (À, các con ơi, Giỏi lắm! Giỏi tuyệt! Cảm ơn …cảm ơn…)

Ông bảo tiếp:

- Maintenant, délivrez-moi de cette corde de coco.(Nào, bây giờ các con hãy cởi hộ cái dây dừa ra cho ta).

Năm đứa học trò xúm lại mở dây trói ra cho ông rôì ông lấy áo quần mặc vào. Ông móc túi áo lấy cho thêm mỗi đứa 2 đồng bạc, vừa nói lâm râm trong miệng:

- Merci! Merci! (Cảm ơn! Cảm ơn!)

Ông và lũ học trò kéo nhau xuống thành phố. Dọc đường, Tuấn hỏi cuộc “chơi” lạ ấy có ý nghĩa gì, và ở bên nước Tây người ta thích chơi kiểu đó làm sao?

Ông Tây mỉm cười đáp:

- Đó là một lối chơi riêng của người Âu-châu, nhưng chỉ có số ít người thôi, nhất là những người ở Hải quân, vì họ đi ngoài biển tháng này qua tháng nọ ít được tiếp xúc với đàn bà…nhưng các con đừng nói lại chuyện này cho ai biết nhé!

Mấy cậu học trò vẫn chưa hiểu gì cả, và ông Quan Ba thuyền trưởng chiếc tàu Orénoque, cũng không nói thêm câu nào nữa. Hình như ông mắc cỡ, cho nên gặp chiếc xe kéo bánh cao su đáng đi lang thang kiếm khách, rung lạc leng keng…leng keng, ông Quan Ba vội vàng nhẩy lên xe bảo chạy ra bãi biển.

Mấy hôm sau, chiếc Orénoque đã rời bến đi mất rồi. Tuấn mới dám đem chuyện đánh ông Tây Quan Ba ra thuật lại cho một vài vị giáo sư nghe và nhờ quý vị giải thích dùm cho… Nhưng tất cả các giáo sư Tây và Nam và mấy thầy làm việc gần Tây đều không ai tin câu chuyện của Tuấn. Họ còn cho rằng Tuấn đặt chuyện nói láo.

Câu chuyện thắc mắc “đánh ông Tây“ vẫn còn in đậm trong đầu óc Tuấn mười mấy năm sau. Một hôm, ngẫu nhiên ở thư viện Hà Nội Tuấn đọc một quyển sách Pháp nói đến các chứng bịnh về tình dục (maladies sexuelles), có tả một câu chuyện giống hệt chuyện Tuấn đánh ông Quan Ba. Trong sách bảo lối “chơi” bệnh hoạn ấy gọi là Flagellation (đánh roi). Nhưng vị bác sĩ, tác giả quyển sách cũng không giảng giải rõ ràng, chỉ phân tích một vài triệu chứng đau thần kinh mà thôi.

Vụ quan Ba tầu Orénoque do Tuấn và bốn đứa bạn nói cho nhiều người nghe, vài hôm sau cả thành phố đều biết. Và sau đó tám tháng, chiếc Orénoque trở lại cập bến, nhưng viên Công Sứ Pháp cai trị thành phố ra lệnh cấm ông Quan Ba lên bờ.

Có lẽ để giữ thể diện và uy tín chung cho người Pháp ở An nam chăng?

Tuấn và bốn đứa bạn vẫn khoe với mọi người rằng chúng đánh Tây mà được Tây thưởng tiền! Lời khoe khoang của con nít còn khờ khạo, nhưng sự ngẩu nhiên được đánh Tây tuy là một hành động máy móc do chính ông Tây kia xúi dục để thỏa mãn một chứng bịnh tình dục của ông, nhưng không dè cũng chính là khởi điểm một thỏa mãn thầm lén được “đánh Tây” và “chửi Tây” của mấy học trò An nam 14, 15 tuổi đã đọc “Việt Nam Hồn”.

Tôi muốn đề nghị với bạn đọc, ta nán lại hơi lâu một tí trong năm 1924 nầy. Tôi muốn phác họa bức tranh sinh hoạt của xã hội Việt Nam, và riêng của thanh niên trong năm này đối với nhiều chi tiết nữa, về các phương diện tinh thần và vật chất, để rồi sang năm 1925 chúng ta sẽ chứng kiến một cuộc thay đổi toàn diện, do một vài yếu tố chính trị gây ra một cách bất ngờ. Các bạn sẽ thấy năm 1924 chấm dứt một giai đoạn của Lịch sử Việt Nam và đồng thời cũng chấm dứt một thời niên thiếu của chàng trai đất Việt mà sau này người ta sẽ gọi là Thế hệ thanh niên 1925.

Thế hệ này sẽ đóng góp một vai trò rất quan trọng trong Lịch sử Dân Tộc cho đến năm 1945…

1924, sự tiếp xúc với người Pháp ở toàn cõi Việt Nam, trên phương diện chính trị cũng như xã hội, đã được bình thường, sau tám năm thái bình an lạc, kể từ cuộc thất bại gần như âm thầm của phong trào Duy-Tân tháng 5 năm 1916.

Thời kỳ 1918-1924 là thời kỳ an ninh nhất trong Lịch sử đô hộ của Pháp ở khắp ba cõi Nam-Trung-Bắc kỳ, và ngưòi Pháp thường hãnh diện cho là thời kỳ “Thái bình của Pháp”, nhờ nước Pháp tạo nên, họ gọi là "La Paix Francaise”.

Năm xứ Đông Dương do họ cai trị, gồm có Bắc kỳ, Trung kỳ, Nam kỳ, Ai Lao, Cao Miên, họ gọi là Indochine Francaise và được dịch ra danh từ chính thức là Đông Pháp. Uy tín của người Pháp ở đây lúc bấy giờ thật là lớn lao, địa vị của họ thật là bền vững, xét bề ngoài hình như không có sức mạnh nào làm lung lay nổi uy quyền của họ.

Lá cờ Pháp với ba màu nổi bật, bay rực rỡ một mình trên ngôi bá chủ, ngự trị khắp cõi bờ thuộc địa, uy nghi trên các thành quách lâu đài, phất phới trên mái nhà tranh nhà ngói …

Việt Nam không có cờ, bởi lẽ rất giản dị là không có nước Việt Nam! Chỉ riêng xứ Trung kỳ có lá cờ của Nam triều, nền vàng với một miếng cờ Pháp chiếm một góc trên bên trái, nhưng cờ này chỉ treo nơi cửa Ngọ Môn ở Huế và tại các tỉnh đường mà thôi. Dân chúng không ai treo cờ Nam triều (cũng có chỗ gọi là cờ An Nam, có nơi gọi là cờ Khải Định . Từ 1932, cờ này đổi lại cờ mới, kiểu khác, dân chúng gọi là cờ Bảo Đại.) Vả lại không ai bắt buộc phải treo “cờ An Nam” cho nên không ai may cờ ấy làm chi cho tốn vải, vô ích!

Ở Nam Kỳ chỉ treo cờ Pháp, mà dân chúng gọi là “cờ Tam Sắc“. Ở Trung Kỳ và Bắc kỳ gọi là “cờ Tam Tài". Trò Tuấn có hỏi vài ông Tú nhà Nho taị sao cờ Pháp (xanh trắng đỏ) lại goị là cờ tam tài, các cụ giảng nghĩa: “cờ Đại Pháp gồm có Thiên Taì, Địa Tài, Nhân Tài, nên gọi là cờ Tam Tài”, Tuấn lại hỏi ai đặt ra danh từ ấy? thì các cụ chịu thua. Một cụ Cử trả lời bông lông: “Chắc là có một ông Quan An Nam nào đặt ra như thế, để quan Tây vui lòng”. Một vài ông giáo sư Tây học trả lời cho Tuấn như sau đây: “Mầu xanh là tượng trưng nền da trời, cao siêu tột bực. Màu trắng là trong sạch tinh khiết, quảng đại vô biên. Mầu đỏ là rực rỡ như vầng thái dương rọi khắp hoàn cầu.” Nhưng Tuấn tò mò, ham học hỏi, muốn biết đến nơi đến chốn, bèn hởi thẳng một người Pháp, ông Charol, giáo sư Sử ký. Ông này giảng rõ ràng cho Tuấn nghe: Lá cờ ba sắc của Pháp hồi khởi cuộc cách mạng 1789. Lúc bấy giờ nước Pháp còn là một nưóc quân chủ chuyên chế, lá cờ của nhà vua là màu trắng, dân chúng Paris nổi dậy đòi nhà vua phải chia sẻ quyền hành cho dân, và sau khi phá ngục Bastille, đòi vua phải triệu tập một hội nghị nhân dân. Chính trong hội nghị ấy, nhà lãnh tụ La Fayette đề nghị bỏ lá cờ trắng có hoa huệ (drapeau blanc fleur de lys) của vua, mà thay vào cờ của dân chúng thủ đô Paris, kèm hai bên màu trắng của vua. Lá cờ tam sắc được dân chúng hoan hô nhiệt liệt và từ đấy được coi là cờ cách mạng. Đến khi tòa án nhân dân diệt Vua Louis XVI và Hoàng Hậu Marie Antoinette để thành lập chính phủ Cộng Hòa, lá cờ tam sắc vẫn được chính thức nhìn nhận là lá cờ của Cộng Hòa Pháp quốc, lá cờ của nhân dân Pháp.

Tuấn nghe ông Giáo sư Pháp giảng rõ lịch sử lá cờ tam sắc, liền nhớ lại những lời giảng qua văn chương triết lý của mấy cụ nhà Nho và mấy vị giáo sư “An nam”. Tuấn nghĩ rằng các ông ấy chỉ muốn đề cao nước Pháp, và những kẻ nào đã đặt ra danh từ “cờ Tam Tài” cũng chỉ có mục đích nịnh bợ người Pháp, không cần căn cứ đúng trên ý nghĩa lịch sử chân chính của nó.

Trừ các nhà Cách mạng An nam đã đi ở tù, hoặc bị đầy nơi xa (như đã nói ở một chương trên) còn hết thảy những người trí thức Nho học và Tây học mà trò Tuấn được dịp tiếp xúc, đều khen Tây và phục Tây sát đất.

Như thế, xét về tình hình toàn diện đến cuối năm 1924, thì quyền bá chủ của người Pháp ở Đông dương đã được mặc nhiên công nhận. Không ai chối cãi rằng nước Pháp quả thật văn minh tiến bộ về khoa học hơn nước ta nhiều.

Một số trí thức Tây-học đã không ngần ngại, trong sách báo cũng như trong các bài diễn thuyết trước công chúng, tán dương vai trò lãnh đạo của nước Pháp, mà họ hãnh diện suy tôn là bậc nhất hoàn cầu.

Nhiều nhà báo kỳ cưụ ở Nam kỳ thuộc vào hạng thượng lưu và trung lưu vẫn thường nói: “Thầy Đại Pháp của chúng ta”. Các nhà Nho-học và Tây-học ở “Trung, Bắc lưỡng kỳ” lại ưa dùng những danh từ mới, mới đặt ra trong thời kỳ ấy, - những danh từ rất thịnh hành mà người ta thường gặp luôn trong các sách, báo do các nhà “Trí Thức An nam viết, và các bài diễn văn, như: Khai hóa, đuốc văn minh, mẫu quốc, nhà nước bảo hộ, quan thầy Đaị Pháp v.v… và những câu đại khái như: ”Nhà nước Đại Pháp đến khai hóa cho dân An Nam ta“, “dân An Nam ngày nay đã văn minh tiến bộ, ta phải nhớ đến công ơn Quan Thầy Đại Pháp” v.v… và v.v…

Nhiều người ưa lý sự nhất trong tỉnh, những tay ăn nói cừ nhất, thuộc về hạng trung lưu, nếu không dua nịnh người Pháp, thì cũng cho rằng người Pháp cai trị xứ An Nam là một việc dĩ nhiên, không đem ra làm một đề tài mổ xẻ chỉ trích phê bình gì nữa cả.

Duy có tụi thiếu niên học sinh là ngây thơ chưa biết gì. Chính là học trò trường Nhà Nước, học chữ Tây đã khá, nói tiếng Tây đã trôi chảy, viết chữ Tây đã thông thạo văn phạm, đã biết diễn tả những câu văn bóng bẩy, chính bọn trai trẻ An Nam ấy đang được thấm nhuần văn học và khoa học tiến bộ của Pháp lại có những nhận xét hơn người lớn. Một vài việc mà Tuấn cũng như các bạn cùng thế hệ thanh niên, được mắt thấy tai nghe rõ ràng, đã gieo trong đầu óc của các trò một ý nghĩ không tốt đẹp gì cho người Pháp cả. Như việc ông Gabriel, giáo sư Toán, đã chửi người An Nam là “giống dân bẩn thỉu” – Sale race – là “bọn dã man”, sauvages, đã gây trong tâm trí các trò một mối căm hờn ngấm ngầm không dám thố lộ. Hoặc giả như vụ ông Quan Ba tàu Orénoque đã bày ra trước mắt Tuấn và mấy đứa bạn, một “trò chơi” kỳ quái, ngoài sự tưởng tượng của tụi thiếu niên học sinh.

Một buổi chiều ngồi hóng gió trên bải biển Qui-nhơn. Tuấn nhắc lại vụ kia với mấy đứa bạn, rồi phê bình:” Thế thì người Pháp rất văn minh cũng có những cái rất dã man đấy! Những kẻ nịnh Tây bợ Tây, có lẽ chỉ thấy bề mặt của Tây mà không thấy bề trái của Tây…”

Đó là một vài ý nghĩ rất giản dị của các cậu học trò đã được tiếp xúc gần gủi với Tây.

Biết bao nhiêu người Pháp đã làm cho Tuấn thán phục văn chương, tư tưởng, triết lý, khoa học của Pháp. Tuấn đã nghiền ngẫm say mê những tiểu thuyết hấp dẫn của Bernardin de Saint Pierre, của Lamartine, Chateaubriand, Alphonse Daudet, những bài thơ bất hủ của Victor Hugo, Théophile Gauthier, André Chénier, Alfred de Mausset, những bản kịch thâm thúy, cao siêu, xúc động của Corneille, Racine, những thuyết minh khoa học, y học của Lavoisier, Pasteur…, những cử chỉ anh hùng, những danh ngôn thâm thúy của Danton, Mirabeau, La Fayette, Napoléon…

Còn biết bao nhiêu những danh nhân khác nữa, mà Tuấn đã học hỏi say mê trong các sách giáo khoa Pháp của lớp Đệ Nhất niên!

Ấy thế mà chỉ có vài người Pháp, một giáo sư Toán chửi Tuấn là “giống An Nam bẩn thỉu”, “người An Nam mọi rợ”, và một viên Quan Ba tàu thủy cởi trần truồng bảo mấy đứa học trò cầm roi đánh vào mông đít và xoa muối ớt lên những lằn roi rướm máu, hai người Tây điển hình ấy đã làm cho Tuấn tự nhiên mất hết nhiều lòng yêu chuộng say mê của Tuấn đối với cả một nước Pháp đầy rẫy những danh nhân vĩ đại!!

Tuấn, thiếu niên nước Việt, tâm hồn còn ngây thơ,trong trắng, đã bắt đầu nhìn thấy một vài khía cạnh thực tế khả ố, khả bỉ của nước “Đại Pháp” văn minh oai vệ kia.

Tuy thế, tụi “lắc-léo-me-dòng-lô”, vẫn lo học hành yên ổn, tính nết vẫn ngoan ngoãn giữa một xã hội đầy ngập ảnh hưởng Pháp, mà từ quan đến dân đều một loạt cúi đầu tuân theo Nhà Nước Bảo Hộ. Từ Bắc chí Nam, tuy ba miền sống trong ba chế độ và hoàn cảnh chính trị khác nhau, nhưng trên bình diện tâm lý xã hội, đại để vẫn là một xã hội trưởng giả, nửa tân nửa cựu, nửa An Nam, nửa Tây, riêng biệt hẳn, dưới một tầng thấp kém đối với các lớp “trưởng giả thuộc địa“ của người Tây.

Mọi người dân đầu an tường thủ phận, hầu như thỏa mãn trong cảnh sống thái bình, mà các cụ nhà Nho gọi là “quốc thái dân an “dưới quyền đô hộ của “Quan Thầy Đại Pháp”.

Kỳ nghỉ hè năm 1925, trò Tuấn về ở chơi nhà bà ngoại trong một làng ở gần giãy Trường Sơn. Một buổi chiều, mặt trời gần lặn, bỗng có một ông Tây đóng lon Quan Một cỡi con ngưạ ô, với bốn người “Lính Tập” đi bộ, từ ở đồn Huyện cách đó 10 cây số, đi thanh tra các làng gần núi. Quan Một ghé ở đêm tại nhà ông Xã. Nửa giờ sau cả làng đều biết tin.

Trẻ con hàng xóm chạy trốn hết. Vài ba đứa ẵm em, thân thể trần truồng, bẩn thỉu, mũi dãi lòng thòng, còn chơi ngoài đường, cha mẹ chúng nó liền gọi chúng vào nhà và rầy la, không cho chúng bước ra khỏi ngõ. Họ sợ ông Quan Tây. Trò Tuấn quen tánh tò mò, mặc áo cụt, mang guốc, đến nhà ông Xã để xem ông Tây làm gì. Các ông Hương chức đều đến đông đủ để chào Quan Một. Ông Quan ăn bánh mì và cá mòi hộp của ông đem trong môt cái "sac", rồi uống một tô nước trà tươi do dân làng nấu. Bà Xã và cô con gái nhỏ của bà thì vội vã làm thịt ba con gà mái và dọn một bữa cơm như mâm giổ có hai dĩa cá, ba dĩa thịt, một bánh tráng, với hai chai rượu, đãi bốn “bác lính”. Họ ăn uống say sưa, ở nhà giữa, đòi hỏi đủ thứ, trong lúc ông xã khăn đen áo dài, trải chiếc chiếu hoa trên tấm ván gỗ trước bàn thờ ông bà, để mời Quan Lớn nằm nghỉ. Đêm ấy, ông Xã và cả gia đình nằm ngủ trên đất nhà bếp, nhường mấy tấm phản và chiếc giường tre kê ngoài hè cho bốn bác lính Tập nằm.

Vào khoảng 9 giờ đêm, có lẽ tại trời nóng nực qúa ông Tây ngủ không được, ông cưỡi ngựa ô đi lang thang trên các đường làng. Ông đi một mình, không có lính nào đi theo hộ vệ cả. Trời sáng trăng, ông đi quanh khắp các xóm, dưới bóng các bụi tre. Ông đi tới đâu, chó sủa tới đó, rồi dần dần tiếng chó sủa vang dậy khắp cả xóm trên, xóm dưới. Chó An nam cũng biết đánh hơi người ngoại quốc hay sau mà Tuấn ngồi ngoài ngõ hóng gió, nghe tiếng chó sủa náo động nhất ở xóm nào thì biết ông Tây cởi ngựa đi qua xóm ấy. Khi ông cởi ngựa ngang qua ngõ nhà bà ngoại của Tuấn, con chó Vện trong sân nhảy vồ ra sủa, bị ông Tây cầm roi cá đuối quất một cú thật mạnh trúng ngay lưng nó. Con Vện kêu ẳng ẳng mấy tiếng, vừa chạy vô bụi sủa ra càng giận dữ hơn. Tuấn cũng phẩn uất đứng dậy nói một câu tiếng Pháp:

- Vous avez fait du mal à mon chien, monsieur (ông đánh con chó của tôi đau điếng đấy, thưa ông).

Viên quan Một quay lại ngó Tuấn, rồi gò cương ngựa hỏi cậu bé:

- Tiens! Tu parles francais? (À, mày nói tiếng Pháp?)

Tuấn đáp:

- J ’en sais à peine quelques mots. (Tôi chỉ biết qua loa đôi ba tiếng)

Ông Tây xuống ngựa, cột ngựa vào một gốc cây rồi đến gần Tuấn. Tuấn nhìn kỹ thấy khuôn mặt của ông Tây còn trẻ và na ná giống An nam. Tuy nước da trắng, tóc quăn, nhưng đặc biệt cái mũi không cao, tròng con mắt đen và tóc cũng hơi đen. Tuấn ngạc nhiên, vì tất cả những người Pháp mà Tuấn biết được chục người, kể cả các giáo sư đều mũi cao tóc hoe, mắt thau, hoặc xanh, hoặc đục ngầu. Vả lại giọng nói của ông Tây Quan Một cũng không thật là Tây lắm.

Ông hỏi, Tuấn trả lơì bằng tiếng Pháp. Một lúc sau, có lẽ ông thích nói chuyện với một thằng học trò ở nhà quê nói được tiếng Tây chút ít, ông cao hứng bảo nó (dĩ nhiên là ông nói tiếng Pháp), nhưng đây xin chép lại bằng tiếng Việt:

- Mẹ tao cũng là người An na mít, nhưng bà không phải là một nhaque. Tuấn không hiểu hai chữ "nhaque”, và hơi thắc mắc sao tiếng Pháp lại có một chữ lạ lùng như thế. Thấy Tuấn trố mắt ngó, ông cười hỏi:

- Mày hiểu một “nhaque” là gì không?

- Thưa không, tôi chưa thấy chữ ấy bao giờ cả.

- Mày có một quyển tự điển Larousse?

- Thưa có.

- Thế thì mày thử tra trong đó xem. Mày có tìm hết cả quyển Larousse cũng sẽ không thấy chữ ấy đâu? Nhaque là nhà quê.

Ông Quan Một nói tiếp:

- Tao, tao cũng nói tiếng an-na-mít giỏi lắm, nhưng tao không nói, bởi vì đó là tiếng nói của những người nhaque. (Ông đọc theo giọng Tây là gnak!)

Trong lúc ông nnói chuyện với Tuấn, con chó Vện cứ chạy ra chạy vào sủa mãi. Nó sủa oang oang lên, hình như muốn đuổi ông Tây đi phứt cho rảnh. Ông Quan Một cười, chỉ nó :

- Ngay như con chó của mày, nó cũng là một con chó nhaque. Chó Tây đẹp hơn, và …lễ phép hơn (les chiens Francais sont plus jolis et plus…polis).

Tuấn mắc cỡ, hết muốn nói chuyện với ông Quan Một. Bây giờ Tuấn đã biết rõ ông là Tây lai, cha Pháp mẹ An nam, nhưng ông lại khinh miệt người An nam quá. Ông cho tất cả người An nam đều là “gnak” chỉ trừ ra mẹ ông .

Tuấn hỏi lại, cũng bằng tiếng Pháp:

- Thưa ông, mẹ ông là người An-na-mít, mà bà có ghét người “nhaque” không?

- Mẹ tao không phải là nhaque. Bà là con gái một vị đại thần ở triều đình An nam. Nếu tao muốn, tao có thể làm một ông Quan Lớn An-na-mít, nhưng tao thích làm ông Quan Tây hơn. Mầy cũng vậy, mầy đi học, sau này mày thi đỗ, mày cũng sẽ là một ông quan nho nhỏ của nhà nước Đại Pháp Bảo Hộ.

Tuấn cười bảo:

- Nếu tôi thi đỗ sau này, tôi sẽ không làm quan.

- Vậy thì mầy sẽ làm gì?

- Tôi sẽ làm thằng nhà quê.

Ông Quan Một nghiêm nét mặt, tỏ vẻ giận, và mắng Tuấn:

- Imbécile! (Mầy ngốc!).

Tuấn trả lời:

- Que voulez-vous? Mon père est nhaque, ma mère est nhaque, j'aimerais rester nhaque même quand je serais un licencié ou un docteur-ès-Lettres… (Ông nghĩ coi, cha tôi là nhà quê, mẹ tôi là nhà quê thì tôi cũng sẽ thích là nhà quê, mặc dầu chừng đó tôi sẽ là Cử nhân hay Tiến sĩ Văn chương Pháp…)

- Mầy còn nhỏ quá, mầy chưa biết gì hết. Nhưng mầy nên biết rằng ở Nam kỳ tất cả những người Annamites học ở Paris về, đỗ các bằng cấp Đại học Pháp vô dân Tây hết.

- Mỗi người có một ý thích riêng. Tôi còn nhỏ tuổi, tôi thích học chữ Pháp, tôi rất yêu các Thi sĩ, Văn sĩ Pháp, các nhà Bác học Pháp, các bậc anh hùng Pháp, nhưng tôi vẫn yêu nước An-nam hơn, tôi thích người An-na-mít hơn, mặc dầu họ là nhà quê.

Tuấn bực mình vì con Vện nó cứ sủa hoài. Bây giờ nó lại đến đứng dựa vào chân Tuấn và nhìn ông Tây Quan Một mà sủa mãi, sủa mãi. Tuấn cười nói với ông Tây Quan Một:

- Thưa Quan Một, xin ông cho phép tôi đem con chó vào nhà cho nó ngủ, kẻo nó cứ sủa hoài. Kính chào ông.

Khi ông Quan Một lên ngựa đi và trò Tuấn cũng quay trở vô nhà, đã 11 giờ khuya, thì Tuấn thấy bà ngoại ngồi nấp sau hàng rào nghe lỏm chuyện của cháu mình đối đáp với Quan Một. Nhưng không phải một mình bà ngoại Tuấn, còn lù lù sau các bụi rậm đứng lên chín mười người đàn ông đàn bà lối xóm đi ngả sau đến đấy rình nghe tự hôì nào.

Tất cả đều trầm trồ khen Tuấn:

- Chà! Thằng Tuấn nói tiếng Tây với ông Quan Một nghe hay qúa, hỉ!

Rồi họ xúm lại hỏi:

- Ông Tây nói chuyện gì vậy, Tuấn?

Tuấn cười đáp:

- Ổng nói chuyện ba-lăng-nhăng chơi cho vui, chớ có gì đâu.

Ba tháng sau, đúng một tháng sau ngày nhập trường, một buổi sáng thứ Hai, hôì 10 giờ, anh cai trường vào lớp đưa một tờ giấy cho ông giáo sư, ông giáo xem xong bảo Tuấn lên văn phòng quan Đốc.

Ông Đốc trừng mắt ngó Tuấn:

- Mầy là một thằng có đầu óc xấu (un mauvais esprit).

Tuấn ngơ ngác chưa hiểu gì, thì ông “Đìa-réch-tơ”, một nhà mô phạm Pháp rất nghiêm khắc, nói tiếp:

- Trong kỳ nghỉ hè, mầy nói chuyện gì với ông F. trong khi ông đi kinh lý trong làng mầy?

Tuấn sợ hãi, ấp úng không trả lời được. Vì Tuấn không ngờ câu chuyện phiếm đối đáp với ông Tây-lai Quan Một trong đêm hè trước cổng nhà bà ngoại, đã lọt đến tai ông “Đìa-réch-tơ”. Chắc là ông Quan Một không bằng lòng một vài lời nói của Tuấn, và viết thư mét ông Đốc chăng?

Ông Xã trong làng đã cho Tuấn biết trước rằng, sáng hôm sau ông Quan Một có hỏi ông Xã về “đứa học trò nói được tiếng Tây đó là ai?”. Ông Xã có nói rõ cả tên họ, học trường nào, và ông Quan Một có ghi trong một quyển sổ mà ông đem theo để biên chép những điều ông nghe thấy trong các hương thôn.

Tuấn bị ông “Đìa" mắng cho một trận nên thân.


Chương 28.

1920 - 1024

- Thầy giáo "trai gái với học trò" là một việc "động trời"! Bị hội đồng Kỷ-luật nhà trường khiển trách và đổi đi nơi khác.

- Thanh niên và học sinh nam-nữ không bao giờ biết dùng câu "anh yêu em", "em yêu anh" và ít dám chơi thân vơí nhau.

- Một thầy giáo "Cộng sản" bị các đồng chí bóc-lột lấy luôn cả vợ thầy làm "của chung".

1924, thầy giáo mà yêu học trò là một điều hy hữu, một việc “động trời” không những gây ra dư luận xôn xao ở trong học đường mà “tai tiếng” còn tràn lan cả thành phố. Không riêng gì ở Qui-nhơn nơi Tuấn đang trọ học, mà ở khắp các trường học trong nước, ở Trung kỳ cũng như ở Bắc kỳ, Nam kỳ, mặc dù Nam kỳ là thuộc địa của Tây, sống dưới một luật pháp tự do rộng rãi hơn. Tiếng thông thường chưa gọi là "yêu". Người ta bảo:

* Thầy giáo “trai gái” với học trò -- tiếng miền Trung

* Thầy giáo "phải lòng" cô học trò -- tiếng miền Bắc.

* Thầy giáo "mèo" với học trò -- tiếng miền Nam.

Mối tình ấy bị coi là “vô luân thường”, “vô đạo đứ”, bị dư luận của các gia đình phụ huynh học sinh, dư luận của toàn thể xã hội, phê bình nghiêm khắc. Không một ai bênh vực che chở cho cuộc "tình duyên tội lỗi” ấy.

Tuấn còn nhớ hồi học lớp Nhất ở tỉnh nhà, một thầy trợ giáo độ 20 tuổi ở Huế mới đổi tới , dạy học suốt một niên khóa mà không bao giờ dám nói một câu bông đùa với bốn cô học trò, 16, 17 tuổi trong lớp. Nữ sinh và thầy giáo không hề trao đổi một nụ cười, một tia mắt, hoặc hỏi han một câu gì ngoài những bài học trong chương trình. Các cô đề xưng với thầy một tiếng “con” rất cung kính.

Ấy thế, mà khi Tuấn vào học trường Trung-học Qui Nhơn lúc gần mãn niên khóa, bỗng dưng nghe xẩy ra một chuyện thầy giáo “trai gái” với học trò. Không phải ở lớp Tuấn, vì từ lớp Đệ nhất niên (1ère Année) trở lên, không có nữ sinh. Những cô thi đỗ bằng "Primaire” ở các tỉnh đều ra Huế học trường Đồng-Khánh, trường Nữ Trung học duy nhất , lừng lẫy tiếng tăm ở Trung kỳ.

Lớp Nhất trường Qui Nhơn có 6 cô nữ sinh: Yến, Nhạn, Lài, Thục, Trâm, Anh. Trò Tuấn nhớ tên sáu cô là nhờ một đêm trời mưa, trò có đến chơi nhà trọ của bốn cô sau, và làm một bài thơ đùa nghịch tặng các cô:

Yến, Nhạn đa tình,
Trâm, Anh: duyên trinh
Thục: lưng quần đỏ,
Lài, nhỏ xinh xinh.

Yến và Nhạn là hai chị em ruột, con gái một bà Quan Lớn, góa chồng mà học trò đồn là tình nhân của ông “Đià-réc-tơ” và cả của ông Gabriel, giáo sư Toán. Bà rất đẹp, và hai cô cũng rất đẹp, có vẻ quí phái, trông đa tình ghê. Trâm và Anh độ 15, 16 tuổi, duyên dáng mặn mà, lại hay bẽn-lẽn, đi học cứ che nghiêng cái nón gò-găng, sợ học trò con trai nhìn mặt. Thục, nước da ngâm ngâm đen, đi rất chững chạc, và chuyên môn mặc quần trăng đầm đen mà lưng quần thì may bằng vải cầu-kiều đỏ loét. Trò Tuấn cứ chế nhạo cái mầu đỏ ấy hoài, nhưng Thục không bao giờ thay lưng quần màu khác. Cô Lài, con gái bà chủ trọ của các cô, người nhỏ bé xinh xắn, và rất vui tính, cứ theo chọc trò Tuấn hoài. Nói đúng ra, thì cô nào cũng ưa “phá rầy” trò Tuấn, và những đêm trời mưa, Chủ Nhật, thứ Năm, Tuấn thường đến nhà trò chuyện với bốn cô. Tuấn nói chuyện đời xửa đời xưa, chuyện tam hoàng ngũ đế, chuyện rồi ngâm thơ đánh đàn, hoặc chỉ dùm các cô về Pháp-văn, vì cô nào cũng ngán văn phạm. Bốn cô cứ ra phố mua kẹo thèo lèo, một xu được một gói, về lo lót cho Tuấn, để nhờ Tuấn “gà” cho bài Luận Pháp văn.

Lần nào thầy giáo chấm bài luận của bốn cô cũng cho nhiều điểm. Tụi học trò con trai lớp Nhất cứ thua điểm bốn cô con gái, và bị thầy la rầy, tức mình đi rình các cô, nhưng không bao giờ bắt gặp các cô mua kẹo thèo lèo để hối lộ cho Tuấn. Mãi sau này, ba bốn chục tuổi, Tuấn vẫn ghiền kẹo thèo lèo, nguyên do cũng tại các cô ấy. Tuấn đánh đàn không hay, chỉ từng-tứng-tưng một đôi bản hành vân, lưu thủy, thơ thì tập tểnh năm ba vần cóc nhái, nói chuyện thì lung tung thiên địa, nhưng bốn cô học trò lớp Nhất lại thích chơi với Tuấn. Có lẽ vì Tuấn học lớp trên, và chỉ có Tuấn là thường đến nói chuyện vui với các cô trong những đêm mưa buồn, ơn-ớn lạnh…

Các trò khác mắc cở, đâu dám bước chân đến căn nhà trọ mỹ miều nghiêm trang ấy. Nhiều đêm trời mưa tầm tã, các cô muốn Tuấn ở lại, Tuấn kể những chuyện tình Tây phương rất cảm động, mà Tuấn đã đọc trong các bộ tiểu thuyết Pháp, Graziella chẳng hạn, hoặc Andromaque, Télémaque, La Dame aux Camélias, bốn cô hồi hộp ngồi nghe, bốn cặp mắt huyền mơ cùng uống trên môi Tuấn những lời ngây ngô thơ mộng. Cho đến hai ba giờ khuya, nghe dứt chuyện, bốn cô say sưa lăn ra ngủ trên giường, trong chiếc mùng trắng xóa. Trò Tuấn cũng buồn ngủ quá rồi, nằm chèo queo trên chiếc ghế dài, lạnh ngắt, mưa dầm dề, gió rít hiu hiu. Trò thiu thiu ngủ, nhưng vẫn cảm thấy như có mấy bàn tay dịu dàng khẽ đắp lên cho trò hai chiếc chiếu hoa. Lúc bấy giờ chưa có mền. Ngọn đèn Huê-kỳ hết dầu đã tắt ngấm từ bao giờ.

Một số đông học trò lớp Nhất và lớp Đệ Nhất niên đồn đãi rằng trò Tuấn “trai gái” với bốn cô học lớp Nhất, ở trọ nhà bà Mười. Nhưng đấy chỉ là lời đồn xuyên tạc, hoàn toàn “vô căn cứ”. Chứ “trai gái” làm sao được với bốn cô một lúc, và trò Tuấn mới có 16 tuổi, các cô học lớp Nhất cũng mới có 14, 15 tuổi thì biết gì mà trai gái?

Nói có Trời làm chứng, trò Tuấn với bốn cô bạn gái có giao du thân mật với nhau thật sự, nhưng chỉ thân mật trong cái vòng lẩn quẩn loanh quanh của tình học trò, chứ chưa bao giờ họ trao đổi với nhau một lời hứa hẹn “tơ-lơ-mơ”, hoặc một câu tâm tình say mê rạo rực…

Năm 1924, trong đám học sinh “An nam”, chưa ai được nghe văng vẳng câu: “anh yêu em” hay “em yêu anh”. Mặc dầu là những học trò đã to đầu, lớn xác, học ở các lớp Đệ Nhị, Đệ Tam niên, cũng chưa ai biết hôn môi, hôn má là gì. Không bao giờ người ta thấy bóng một cặp thanh niên, thiếu niên nam nữ, đi chung với nhau ngoài phố, hay bất cứ ở đâu. Con gái riêng phần con gái, con trai riêng phía con trai, gặp nhau trước cổng trường, cũng đi né sang bên, trông thấy nhau ngoài đường phố cũng không đứng lại ngó nhau cười, hay nói vài ba câu chuyện.

Chuyện “trai gái” không phải là không có. Ở thời nào, nơi nào mà không có “trai gái” Nhưng “trai gái” chỉ viết một vài lá thư kín đáo gởi lén cho nhau, thêu cho một vài chiếc khăn, gởi cho một vài chiếc bánh… Thế thôi.

Dù có thề non hẹn bể cũng chỉ trên giấy mực, tuyệt nhiên không có cô cậu nào dám cắp tay nhau đi nhởn nhơ ngoài phố, hay đem nhau ra ngồi ngoài bãi biển, hay trên động cát mênh mông.

Ấy thế mà bổng nhiên xảy ra vụ thầy giáo lớp Nhì “trai gái”với cô học trò trong lớp, làm câu chuyện đầu môi cho toàn thể mấy trăm học trò cả trường.

Thầy còn trẻ, người Huế, vào khoảng 20, 21 tuổi, chưa có vợ. Cô học trò cũng người Huế, độ 14, 15 tuổi. Một buổi tối, khoảng 8 giờ, trò Tuấn đi lang thang hóng gió trên con đường vắng vẻ trước trường. Tình cờ trò thấy hai bóng trắng trong một xó tối gần một ngôi mộ vôi. Đường này xưa có tiếng là có nhiều ma, vì trước kia là một nghĩa địa, mồ mả ngổn ngang trên một động cát hoang vắng.

Tưởng hai bóng trắng là hai con ma, Tuấn vụt chạy. Một lúc sau, một cậu học trò khác đi xe đạp ngang qua đấy, trông thấy hai bóng trắng cũng tưởng là ma, cũng cắm đầu khom lưng đạp xe thật nhanh. Hai trò gặp nhau ở trước cửa nhà Lao, cậu nào cũng hớt hơ hớt hãi nói chuyện với một người lính tập: “có hai con ma mặc toàn đồ trắng hiện lên ở chỗ Mả Vôi ngoài gốc sân trường". Người lính tập bảo: “Ma đâu nào? Các cậu chỉ tôi xem, tôi oánh nó chết ngay bây giờ”. Người lính mang súng đi với hai cậu học trò trở lại chỗ Mả Vôi. Hai bóng trắng đứng sát gần nhau, và yên lặng, không nhúc nhích. Người lính nạp đạn vào súng rồi hô lớn: “Có phải ma không? Tôi bắn chết chịu đấy nhé”. Bổng “ma” cất giọng run run: “Không phải ma. Đừng bắn tụi tui”. Ma nói giọng Huế. Người lính lại bảo:

- Không phải ma, thì ai? Xưng tên lên, không thì tôi bắn.

Ma tự giới thiệu:

- Tôi là thầy giáo.

Ma đủng đỉnh đi ra …

Tuấn vẫn còn lạnh xương sống, vì trò nghe người ta nói rằng ma thường giả dạng làm người. Bóng ma mỗi lúc mỗi hiện ra rõ rệt với chiếc áo dài trắng, quần trắng, tà áo phất phơ trong gió. Tuấn chăm chú nhìn dưới chân ma, nếu phải là ma thì chân đi lơ lửng trên không khí, còn trái lại nếu chân đạp trên đất thì đúng là người. Tuấn vô cùng ngạc nhiên thấy bóng trắng bước đến gần trò chính là thầy giáo lớp Nhì, thầy L.

Lễ phép, Tuấn và người học trò kia đều khẽ cúi đầu: “Thưa chào thầy”.

Câu chuyện tò mò của bác lính tập và hai cậu học trò đáng lẽ đến đây có thể chấm dứt được rồi. Không dè bác lính tập quái ác, lấy tay chỉ một bóng trắng còn đứng yên bên Mả Vôi trong bóng tối lờ mờ ghê rợn, vì đường phố không có đèn. Y hỏi:

- Còn con ma nào kia nữa?

Thầy giáo lớp Nhì lính …quýnh , bập bẹ trả lời:

- Cô em…em của tôi đấy.

- Kêu em thầy ra đây. Sao lại đứng đó?

Bóng trắng cứ đứng yên một chỗ. Người lính hăm dọa:

- Không ra đây, tui bắn chết chịu à!

Bây giờ trò Tuấn mới nhận thấy là người lính tập hơi say rượu, giọng nói của y hơi lè nhè. Thầy giáo L. lên tiếng gọi:

- Đi ra, em!

Bóng trắng đủng đỉnh bước ra. Trời tối, Tuấn chưa trông rõ mặt, chỉ thấy thoáng qua hình dáng thiếu nữ, Người lính say rượu hỏi:

- Cô làm gì chỗ cái Mả Vôi đó?

Giọng cô thiếu nữ Huế trả lời rất nhỏ:

- Dạ …có làm chi mô …

Tuấn bước kề lại xem, bỗng reo to lên:

- Tưởng ai, cô Hoa học trò lớp Nhì đây mà!

Người lính tập say, tay cầm súng lại ngó thầy giáo và tiếp tục hỏi:

- Thầy làm chi trong nớ với cô học trò nhỏ ni?

- Nó là …em…của tôi …Nó đi tiêu…nó sợ ma ..tôi phải đi với nó…

Người lính phá lên một trận cười làm tan vỡ cả bầu trời vắng lặng. Anh ta quay lại ngó thầy giáo:

- Thôi, xin chào thầy, hỉ!

Giọng nói khôi hài, mỉa mai, cay đắng, điểm theo một tràng cười kế tiếp, sặc sụa, vang cả động cát và khu Học đường. Người lính đi xa xa…biến hẳn nơi mút đường tối om, nhưng tiếng cười của anh cứ còn văng vẵng...Hả! …hả!…hả!…hả! …

Hai cậu học trò cũng vụt chạy mất, để lại cho hai bóng trắng còn tần ngần giữa đường, một chuổi cười hăng hắc…

Sáng hôm sau hai cậu phao ra cái tin “động trời”cho cả trường và cả thành phố Qui-nhơn hay: thầy giáo với cô học trò.

Mấy hôm sau, cô Hoa, học trò lớp Nhì không đi học nữa, và anh “planton” (tuỳ phái) nhà trường có thóc mách cho học trò biết rằng thầy Trợ giáo lớp Nhì bị Conseil de Discipline (Hội đồng kỷ luật) của các giáo sư và ông Đốc khiển trách nặng nề. Ít lâu sau thầy bị đổi đi tỉnh khác. Theo mấy cậu học trò ở Huế cho biết thì thầy giáo và cô học trò cả hai đều quê quán ở Đế Đô, đã về làm đám cưới tại Huế trong kỳ nghỉ hè năm ấy.

Thà như thế còn hơn! Vì giá như trò Tuấn không trông thấy hai bóng ma ở Mả vôi trong một đêm tối trời, thì biết đâu cuộc tình duyên vụng trộm của thầy giáo và cô học trò lớp Nhì sẽ có thể đổ bể tùm lum ra nữa mà hậu quả sẽ tai hại biết bao nhiêu.

Vụ Thầy giáo trai gái với học trò làm xôn xao dư luận ở học đường và cả thành phố suốt một tháng trời. Thỉnh thoảng về sau, người ta vẫn còn ưa nhắc lại. Nhưng riêng trong đám nữ sinh, không hề có một lời bình phẩm. Các cô mắc cỡ. Không ai bảo ai, tất cả các cô đều giữ thái độ hoàn toàn im lặng trước tai tiếng ấy. Có lần Tuấn dựa hơi quen thân với bốn cô lớp Nhất, Trâm, Anh, Lài, Thục, đánh bạo hỏi các cô:

- Sao, các cô có bênh vực con nhỏ học trò lớp Nhì với thầy trợ giáo Liên không?

Tức thì cô Anh đánh vào cánh tay Tuấn một cái đau điếng:

- Anh Tuấn kỳ quá! Hỏi chi chuyện nớ?

- Hỏi cho biết chơi!

Nhưng không một cô nào muốn trả lờì, Tuấn mới kể lại câu chuyện gặp ma (kể lần thứ ba, thứ tư…) và cười giỡn, cố ý tạo ra không khí thân mật hơn để các cô thổ lộ vài câu tâm sự. Mãi khuya gần đi ngủ, cô Trâm mới vừa ngáp vừa nói:

- Có con Hoa nó thành yêu, thành tinh như vậy, chớ con gái gì mà lăng nhăng thế bao giờ. .

Cô Lài cắt ngang:

- Ối! Nói làm chi chuyện xấu xa nớ mà nói hoài!

Tuấn lại hỏi cô Thục, cô lưng quần đỏ và giây lưng đỏ. Cô này theo đạo Thiên Chúa.

- Còn cô Thục, cô nghĩ sao?

Thục đỏ mặt tía tia, hai mí mắt cứ chớp lia lịa. Cô mắc cỡ không nói, hỏi mãi cô mới trả lời:

- Chúa không tha cho những tội lỗi như vậy đâu.

Tóm lại, thân lắm mơí được nghe các cô nữ sinh tỏ bày “quan điểm” và tất cả đều cương quyết kết tội thầy trợ Liên và cô học trò lớp Nhì.

Cả thành phố không có được một người đàn ông nào lên tiếng bào chữa cho thầy trợ giáo , hoặc một người đàn bà, một cô gái, bênh vực cho cô học trò lớp Nhì.

Trong hoàn cảnh “thuần phong mỹ tục”của xã hôị An nam 1924 như vừa phác họa, thật không có chỗ nào cho một tình duyên tự do lãng mạn. Tôi đã nói “thế hệ ấy chưa dám dùng chữ “yêu” và chưa có ai dám thực hiện “tình yêu” sỗ sàng công khai.

Đôi “trai gái”chỉ nói “thương” nhau. Chữ “thương”ấy có thể chứa đựng một cảm tình rất thiết tha, nhưng vẫn lén lút, gìn giữ, sợ sệt. Cho nên có câu thông dụng “thương vụng nhớ thầm” và truyền thống tình cảm vẫn chặt chẽ ở Trung kỳ cũng như ở Bắc kỳ và Nam kỳ, ở thành thị trong đám trí thức và thanh niên Tây-học cũng như ở hương thôn.

Bây giờ tôi xin kể chuyện một thầy Trợ giáo lớp Năm, thật là buồn cười. Không phải là một vụ trai gái, mà là một vụ “cộng sản”. Năm 1924, Cộng sản đã bắt đầu tuyên truyền bí mật trong các giới gọi là “trí thức” nhất là giáo giới. Dĩ nhiên là “Quan Tây” và “Quan An nam” không hề biết một tí gì về các sự kiện ấy, cũng như họ chẳng biết gì về hai tờ báo Le Paria và Việt Nam Hồn (của Đảng Độc Lập Việt Nam ở Pháp hoàn toàn không có dính líu gì với cộng sản cả).

Trong toàn thể đám Đốc học (Giáo sư tốt nghiệp Cao đẳng đại học Hà nội) và Trợ giáo ở Qui-nhơn, chỉ có mỗi một thầy trợ giáo lớp Năm là theo lý thuyết Cộng sản, và thầy hiểu Cộng sản với ý nghĩa tuyệt đối giản dị là tất cả của cải đều là của chung. Chính trò Tuấn cũng được thầy Trợ giáo lớp Năm rủ đến nhà thầy chơi, và tuyên truyền. Hình như không những riêng ở nhà trường, mà kể cả thành phố Qui-nhơn, chỉ có mỗi một thầy Trợ giáo lớp Năm là theo Cộng sản, nghĩa là theo chủ trương như thầy thường tuyên bố: “ở đời muôn sự của chung. Không có vật gì là riêng của ai cả”.

Thế rồi một hôm có một anh thợ chụp hình (tuy là người thợ chụp hình duy nhất trong thành phố, nhưng tiệm anh vẫn nghèo nàn) đến xin vô đảng, và nói: “Tôi cũng xin theo làm cộng sản đệ tử của thầy”.

Thầy mừng quá, và khi anh thợ chụp hình đã biết trước rằng thầy có một cái máy chụp hình mới mua, anh hỏi:

- Thưa thầy Trợ, thầy đưa cho em cái máy đó để em dùng được hông?

Trung thành theo thuyết cộng sản của thầy, thầy Trợ vui vẻ đưa máy cho anh thợ chụp hình. Hai hôm sau, một thầy Thông làm việc ở sở Thương chánh đến nói với thầy Trợ:

- Tôi đến đây xin làm đệ tử Cộng sản của thầy đây.

Thầy Trợ vui mừng nhận người đệ tử mới. Nhưng thầy Thông Thương chánh biết nhà thầy Trợ có một máy hát và 20 đĩa cải lương, liền bảo: “Thầy cho tôi cái phonographe và 20 cái Disques đó về vặn nghe hỉ?”

Thầy trợ rất sốt sắng trao máy hát và 20 đĩa hát cho người đệ tử Cộng sản mới của thầy, cũng như thầy đã trao máy chụp hình cho anh “đồng chí” thứ nhất.

Dần dần, trong 3 tháng, số người xin “làm cộng sản” với thầy Trợ rất đông. Mỗi người đệ tử mới đến đều xin của thầy một món đồ: từ cái đồng hồ trái quít treo tòn ten trên vách tường, đến cái đồng hồ báo thức đặt trên bàn thờ Ông Bà. Các đảng viên cộng sản của thầy lấy mà không đem trả lại, và họ cũng không đưa cho các đồng chí khác để thay phiên nhau dùng theo thầy trợ căn dặn.

Thầy trợ Tố (tên thầy) rất hãnh diện đã kết nạp được một số “đồng chí cộng sản” khá đông. Thầy rất vui vẻ, sốt sắng, thực hành đúng theo đường lối chủ trương cộng sản của thầy, là trao hết các đồ dùng trong nhà cho các đồng chí xử dụng. Thầy thường ưa thuyết cho Tuấn và các trò khác nghe rằng: Cộng sản là như vậy đó, nếu trên đời này ai cũng chia của đồng đều cho nhau, đừng ai tham lam dành giữ làm của riêng mình thì sẽ có “thế giới đại đồng”.

Một hôm, cô Trợ than phiền rằng tất cả quần áo, chén dĩa, nồi đồng, mâm thau, thầy đã chia hết cho hang xóm mỗi người một mớ, để họ đem về nhà làm “của chung”, đến nỗi bây giờ ở nhà chỉ còn mỗi một nồi đất mà thôi.

Thầy Trợ Tố thường giảng dạy:

- Cộng là chung, sản là của. Cộng sản là của chung. Của mình tức là của chung hết thiên hạ. Vợ của tôi, ai xin tôi cũng cho.

Cô Trợ tức mình và xấu hổ, ôm mặt khóc hu hu cả một buổi chiều. Thế rồi có một anh chàng đẹp trai, con thứ bảy của một ông thầy thuốc Nam, anh ta đang soạn tuồng cải lương và định lập một gánh hát Bình Định - buổi chiều đó lò dò đến nhà thầy Trợ, xin vào đảng Cộng sản. Thầy mừng rỡ đón tiếp và nhận anh làm đồng chí, bảo cô Trợ pha trà đãi người đảng viên mới. Uống xong một tách trà nóng, đồng chí cải lương tủm tỉm cười bảo:

- Thưa thầy, thầy cho em mượn cô Trợ về ở chung với em có được không?

Thầy Trợ cười hãnh diện:

- Được chớ. Của đời muôn sự của chung. Của tôi, tôi phải chia cho người khác dùng. Của anh cũng vậy. Mình là cộng sản, phải thực hành lý thuyết đó chứ …Nhưng anh mượn vợ tôi rồi phải trả lại cho tôi nghe không?

Đồng chí cải lương cứ tủm tỉm cười:

- Dạ

- Chừng nào trả?

- Dạ, chỉ vài ba tháng, cô Trợ giúp tôi lập gánh cải lương xong rồi tôi trả lại thầy, vì nghe nói cô Trợ có giọng ca tứ-đại-oán nghe mê.

- Ừ phải, vợ tôi ca tứ-đại-oán thì hay kinh hồn. Anh muốn mượn vợ tôi thì tôi sẵn sàng cho mượn, nhưng ba tháng anh phải trả lại tôi nghe không?

- Dạ, Thầy Trợ nói đúng quá. Vậy mới là Cộng sản chứ hỉ!

Cô Trợ nằm trong buồng nghe rõ câu chuyện, khóc thút thít, nhưng không biết nghĩ sao, cô vùng đứng dậy, xách nón ra bảo chồng:

- Cơm chưa nấu, nghe! Cái nồi đất bể rồi. Thầy chịu khó đi ra chợ mua cái nồi khác về nấu cơm. Tôi đi với anh này.

Nói xong, người đồng chí mới của thầy Tố chào thầy rồi cùng với vợ thầy ra đi.

Nhưng câu chuyện đến đây chưa chấm dứt. Vì sáng hôm sau thầy Trợ Tố đến nhà người đệ tử để bắt vợ về. Thế là có cuộc cải lộn rồi đánh lộn. Vợ thầy trợ Tố lại xách nón ra đi, và lần này cô đi mất biệt, không ở với anh bầu cải lương, mà cũng không trở về nhà ông chồng “Cộng sản”.

Kế đó, phong trào cộng sản của thầy Trợ Tố tự nhiên giải tán. Thầy Tố cũng bị đổi đi tỉnh khác.

Chương 29.

- Thuốc hút “Mélia”, sản xuất tại Saigon, được thông dụng nhất trong nước, có hình Tây Đầm hun nhau.

- Phong trào ca cải-lương bắt đầu thịnh hành.

- Một bài ca Hành vân bằng tiếng Pháp, được học sinh hoan nghênh nhất

- Chưa có “Báo Xuân”, Báo Saigon, Hà Nội, không có báo ở miền Trung và các tỉnh xa.

- Một ông Chủ-bút ở Saigon đến tỉnh, là cả một thần tượng đối với thanh niên, học sinh.

- Một nhóm “học trò lớn” dự định hùn tiền vô Saigon lập một tòa báo.

- Lần đầu tiên một cậu học trò tập-tểnh “viết báo”.

Cuối năm 1924 cũng là gần hết năm Giáp Tý. Đâu đấy đều bắt đầu sửa soạn “ăn Tết”. Học trò các trường đều được nghỉ trước ngày 23 tháng Chạp năm ấy là ngày 17 tháng giêng 1925, và nghỉ Tết được một tháng. Nửa tháng trước, hầu hết học sinh quê quán ở tỉnh xa đều nhận được “mandat“ của cha mẹ gửi vào cho để mua vé xe hơi về “ăn Tết” ở tỉnh nhà.

Trước khi tạm biệt thành phố, học trò mỗi lớp tự động rủ nhau đi chúc Tết các vị giáo sư. Tuấn bây giờ thuộc về lớp lớn, không như hồi năm trước còn đem quà bánh đến Tết thầy, và đọc diễn văn mừng tuổi thầy. Chỉ học trò các lớp Tiểu học, từ lớp Nhất xuống lớp Ba, vẫn còn giữ tục lệ tốt đẹp ấy. Học trò lớp lớn từ Đệ Nhất niên Trung học trở lên, không đọc chúc từ và cũng không dâng Thầy các lễ vật nữa. Không phải vì không có lòng kính Thầy như xưa, nhưng vì một lý do rất dễ hiểu là hồi ở lớp Nhất chỉ có một hai giáo sư, mà bây giờ mỗi lớp có đến 4, 5 vị Giáo sư.

Học trò làm gì có nhiều tiền mua sắm lễ vật đầy đủ để đi Tết tất cả ngần ấy ông giáo. Sau khi bàn tính kỹ lưỡng, trò nào cũng muốn để dành tiền mua qùa và chơi Xuân, toàn thể đều đồng ý đi tay không đến mừng tuổi suông 5 vị Đốc học (giáo sư) An nam. Đối với ông Hiệu Trưởng và các giáo sư Pháp thì đã có một số đại diện đi chúc Tết hôm đầu năm Tây rôì (Tết Tây).

Riêng trò Tuấn được bốn cô lớp Nhất để dành cho một món qùa không ngờ. Trước hôm xách va li lên xe hơi về quê nhà ăn Tết, Tuấn đến thăm một buổi tất niên tại nhà trọ các cô. Ngồi uống trà và nói chuyện vui đùa với nhau một lúc, cô Anh mở rương lấy ra một gói thuốc hút Mélia. Lúc bấy giờ ở Trung kỳ chỉ có mỗi một thứ thuốc gói Mélia đó mà thôi (Bastos cũng chưa có). Trong mỗi gói thuốc Mélia đều có một tấm hình chụp một cặp Tây Đầm hôn nhau rất tình tứ - và nhiều kiểu Tây Đầm khác nhau, tất cả đều say mê âu yếm, chụp ở Paris và in mầu tuyệt đẹp. Học trò thích gói Mélia lắm nhưng không có tiền mua vì bán đắt đến năm cắc bạc một gói, chỉ có các ông Giáo sư và các thầy Thông, thầy Phán có tiền xài bảnh mới hút được thứ thuốc đó.

Thỉnh thoảng trò nào xin được của ai một tấm hình Mélia đem khoe, cả lớp xúm kại coi coi vẻ thèm thuồng lắm. Thuốc Mélia lúc bấy giờ hút đắng nghét, còn tệ hơn các loại thuốc bình dân hiện nay, nhưng nó quí là vì có tấm hình in Tây Đầm hôn nhau, kèm trong bao thuốc bọc giấy bóng, và nó lại là loại thuốc gói đầu tiên quấn bằng máy từ Saigon gởi ra bán mắc tiền, chỉ những người giàu sang mới mua nổi. Kể ra, nó còn quý hơn thuốc thơm Craven A hay 555 hiện nay.

Hôm Tuấn đến nhà trọ bốn cô Anh, Trâm, Thục, Lài để thăm tất niên trước hôm về quê ăn Tết, cô Anh đưa cho Tuấn gói thuốc Mélia, và cười bảo: “Tụi em biếu anh gói thuốc để Tết anh hút chơi”. Tuấn ngạc nhiên và cảm động ngôì làm thinh một lúc Tuấn ngắm nghía tấm hình đôi trai gái Tây Đầm hôn nhau say mê, với một câu thơ Pháp in dưới bức hình:

Bonne année, parfait amour,
A Toi seul, à Toi pour toujours.

Loại thơ rẻ tiền, nhưng đối với tuổi trẻ thời bấy giờ thật là đầy ý nghĩa thơ mộng:

Chúc mừng năm mớí, tình yêu diễm tuyệt,
Chỉ tặng Anh thôi, của Anh mãi mãi.

Tuấn nghẹn ngào nói không ra lời, nhưng cố nghĩ ra được vài câu thơ, rồi mượn bút viết trên một mảnh giấy:

Một món qùa Xuân, cảm xiết bao!
Lấy chi đền đáp nghĩa thanh cao!
Vái trời phù hộ cùng thi đậu
Lài, Thục, Trâm, Anh, thỏa ước ao!

Thơ học trò chỉ làm được thế thôi, và không biết nói gì hơn nữa. Bốn cô Lài, Thục, Trâm, Anh cũng sung sướng ngâm thơ, reo cười rộn rã. Tuấn để dành gói thuốc Mélia để Tết hút lén, vì học trò thời bấy giờ không dám hút thuốc. Nhất là để khoe với bạn bè tấm hình Mélia hiếm có.

1924, phong trào hát cải lương ở Nam kỳ mời tràn lan ra các tỉnh miền Trung, được dân chúng hoan hô niềm nỡ. Tất cả học trò Trung học, Tiểu học, và nhiều vị Giáo sư đều thuộc lòng một bài "Hành Vân” bằng tiếng Pháp, trích trong một tuồng Cải lương của một đoàn hát Cải lương Saigon đem ra diễn tại rạp Qui-nhơn trước hôm Tết, như sau đây:

Tiếng Pháp:

Chers enfants…
Vous êtes de jeunes gens
Travaillez
Et rappelez-vous
Que le temps qui passe
Marche vite..
Et ne se retrouve jamais
Quand on veut qu' il se rattrape.
Arbres qui poussent,
Sources qui coulent,
Pierres qui roulent
Marquent le temps qui s’ écoule,
S’ écoule
Un jour fuit,
Une bourse pleine d’ or
De notre trésor
Finira alors, alors,
Tout autre bien ira encore
Nous ne devons pas
Perdre ce riche trésor.

Phiên âm ra tiếng An nam thành điệu “Hành Vân” trong tuồng cải lương như sau đây:

Là sẹ cái dâng phần
Vu-dét đờ jơ-nơ-jâng,
trờ ra …mà ra vây đế
Ê-ráp-cái-pờ-lê-vu
Cờ lơ tân ki pạt
Mạc-sờ sờ vít .
Ê nơ xơ rờ-tờ-ru-vờ jă-me
Cân tong vờ kin sơ rất tờ -ráp,
Ác-bờ-rờ-ki-pút
Xuộc-sờ ki cun
Pi-ẹ cái ki-ràn
Mạc-cờ lơ tang ki sệ cun, sệ cun,
Ùn jua fúy
Uyn-buộc-sơ-plen-dò
đờ-nốt-tờ-rê-dò
phi-ni-ra ạ-lo ạ-lo,
tú tốt tờ rờ-biển la-ra ân co
nú nơ… mà đờ-vông-pá
pec đờ-rờ xơ-rít trề-do.

Lấy đờn nguyệt đánh bài Hành Vân chữ Tây này nhịp với lời ca nghe vui tai lắm.

Mấy cô học trò con gái cũng đều thuộc lòng, và một buổi trưa thanh vắng Tuấn đã được nghe cô Lài ở lớp Nhất nằm võng ru em bài Hành vân “là sẹ cái dâng phần”…

Tết về tỉnh nhà, Tuấn lại được nghe một bạn đồng hương học ở Quốc học Huế về hát bài “Hò Sông Huơng” như sau đây:

"Tiếng Pháp bồi":

Depuis que je te connais,
Jusqu' ici six sept années
ở chàng, chàng ơi! ớ chàng! chàng ơi!

v.v…

Phiên âm ra tiếng Huế:

Đờ-puy-cờ-jơ-tơ-cò nét
juịt-ki-xì xịt-xệt tan-nê,
ớ chàng! chàng ơi! …ớ chàng, chàng ơi …

v.v…

Thế là mấy ngày Tết, Tuấn và mấy bạn học ở Huế về, cùng nhau đánh đờn và hát toàn những bài hò và bản cải lương trên kia, coi bộ khoái lắm. Bà con cô bác trong tỉnh, trong làng, cũng nghe say mê.

Chương 30.

1925

- Cụ Phan Bội Châu bị bắt giam ở ngục Hoả-Lò, Hà nội, và bài thơ của cụ Phan Chu Trinh làm xáo động tinh thần Nam-Nữ học sinh toàn quốc.

- Đổng-Sĩ-Bình, một ông Phán Toà, làm cách mạng.

- Thư cách mạng trao đổi giữa học sinh các trường

- Điện tín của học sinh các trường gửi Toàn Quyền Varenne xin ân xá cụ Phan.

- "Hiệp-định 1925" giữa Pháp và Triều Đình Huế

- Quyển "Đông Dương Hôm Qua và Hôm Nay" phát không cho học sinh Trung-Nam-Bắc.

Toàn thể thanh niên trong nước, đến năm 1924, đang sống cuộc đời học sinh yên tỉnh, vô tư, chỉ lo ăn học, và vui chơi trong ngày Chủ nhật với những cuộc giải trí thông thường. Kẻ rủ nhau đi dạo về quê bằng xe đạp, người ở lại thành phố thì đá banh, tụ họp bạn bè trò chuyện, đi tắm sông, giặt áo quần, đi xem các thắng cảnh, viết thư về xin tiền cha mẹ v.v…

Hầu hết tất cả học trò sau ba tháng nghỉ hè, đều được lên lớp. Năm này Tuấn lên Đệ Nhị Niên và đã thấy mình thành một học trò lớn, đã học được nhiều môn Giáo Khoa mới, hấp thụ được khá nhiều những tinh hoa văn học Âu tây. Học sinh đa số đều quen nói tiếng Pháp, vì bắt buộc phải nói tiếng Pháp với giáo sư Pháp, cả với giáo sư An nam, vì tất cả các môn học đều bằng tiếng Pháp chỉ trừ mỗi tuần 2 giờ Việt-văn, môn này được coi chính thức trong chương trình là “Quốc văn”.

Ngoài học đường, tình trạng chung của xã hội An nam ở Bắc kỳ cũng như ở Trung kỳ và đời sống hàng ngày dưới chế độ của người Pháp, đã thành ra một sự kiện hiển nhiên, đã được chịu đựng một cách thụ động êm thắm. Không có sự chống đối Nhà nước Bảo Hộ. Ở Nam kỳ, giai cấp gọi là thượng lưu trí thức và tư bản ở Saigon và Lục tỉnh, hầu hết đều nhập tịch dân Pháp, sống theo phong tục của Pháp, tiếp xúc thường xuyên với các Quan Cai trị Pháp và các nhà tư bản Pháp.

Quảng đại quần chúng ở thành thị và thôn quê, thì vẫn có thái độ thụ động, lo an cư lạc nghiệp, cũng như ở Trung kỳ và Bắc kỳ. Không ai thù ghét Tây, nhưng cũng không sợ Tây như hôì vài mươi năm về trước.

Nhưng phải khách quan nhìn nhận rằng người Pháp đã gây được một uy tín lớn lao vô cùng và thật sâu rộng, là nhờ họ có một văn minh khoa học tân tiến và cao kỳ mà không một người “An nam”nào chối cãi được.

Sở dĩ họ nắm vững được guồng máy cai trị 25 triệu dân An nam và thao túng được Triều Đình Vua An nam ở Huế là nhờ uy tín một cường quốc văn minh đứng vào bực nhất nhì trên thế giới.

Bỗng dưng tháng Bảy dương lịch năm 1925, gần nghỉ Hè, giữa tình thế đang yên tỉnh và bình thường ấy, một cái tin rất mới lạ, kinh dị, như một tiếng sấm sét giữa vòm trời quang đãng, nổ bùng và không biết từ đâu và loan truyền khắp nước An nam: "Cụ Phan Bội Châu bị Tây bắt ở Thượng Hải đem về giam tại nhà Lao Hỏa Lò, Hà Nội".

Cụ Phan Bội Châu là ai?

Lúc bấy giờ chẳng ai biết cả. Cái tên nghe thật kêu nhưng là một cái tên rất mới, lạ, từ trước đến nay chưa hề nghe nói đến bao giờ.

Một buổi chiều thứ bảy, trò Tuấn đi học về, thấy không khí của thành phố hơi khác hơn mọi hôm. Có nhiều nơi tụ hợp năm ba người nói chuyện xầm xì với nhau, trong các tiệm người An nam.

Trò Tuấn cắp sách về đế nhà trọ - nhà thầy Bửu Vinh Thông Phán sở Kho Bạc - thầy cũng vừa ở sở đạp xe máy về.

Thầy gác xe máy lên cái kệ gỗ sơn xanh xong rồi đi vô buồng thay áo. Nét mặt của thầy xem khác hơn mọi hôm. Lần nào ở sở về, trông thấy Tuấn, thầy cũng mỉm cười thay thế cho tiếng chào. Nhưng lần này, thầy Bửu Vinh không cười.

Tuấn nghĩ thầm thầy giận mình vì một chuyện chi đó chăng, hay thầy bị một chuyện gì không vui ở sở? Thầy đi tắm, vào sửa soạn ăn cơm. Tuyệt nhiên thầy không nói một câu, nét mặt thiểu não khác thường.

Cơm xong, 7 giờ tối, một bạn đồng nghiệp của thầy đi xe máy đến, coi bộ vội vàng, băn khoăn. Thầy ngoắc nhỏ thầy Bửu Vinh ra nhà sau, chỗ bàn học của Tuấn, gần bếp, và thầy đưa tay ngoắc trò Tuấn, Tuấn chạy theo.

Ra nhà sau, thầy kia rút trong lưng quần ra một tờ nhật báo tên là “Thực Nghiệp Dân Báo” ở Hà nội. Giữa trang báo có in hình một ông già râu xồm xoàm, mặc áo xuyến đen, đội khăn đen, đeo kính trắng . Gương mặt của ông thật là oai nghiêm. Ngay trên hàng đầu, in hai hàng chữ thật đậm, chiếm 6 cột, hết cả bề ngang của tờ báo. Tuấn trố mắt đọc:

"Hội đồng đề hình sắp đem vụ án cụ Phan Bội Châu ra xử. Hai vị trạng sư Bona và Larre sẽ bào chữa cho Cụ".

Thoạt tiên, trò Tuấn không hiểu gì cả. Cụ Phan Bội Châu là ai? Tại sao ông già này lại bị Tây bắt và đem ra xử tội? Taị sao có hai vị trạng sư Tây ra bào chữa cho cụ? Trạng sư là gì?

Thầy Bửu Vinh giảng giải cho Tuấn hiểu. Chính thầy và bạn đồng liêu của thầy cũng nhờ coi được tờ Thực Nghiệp Dân Báo ở nhà một người nào đó mới hiểu rõ vụ Phan Bội Châu, và nói cho Tuấn nghe. Tờ Thưc Nghiệp Dân Báo ở Hà nội, không biết ai đem vào tỉnh này? và đem vào hồi nào? Ai mua? Khắp cả thành phố không đâu thấy bán, thế mà một tuần lễ sau, Tuấn trông thấy nhiều nhà có tờ Thực Nghiệp Dân Báo và hãnh diện cho bà con chuyền nhau mượn coi. Coi xong phải trả lại liền cho đến khi tờ báo rách nát vẫn còn người mượn. Sau cùng, ngươì có báo phải đem giấu tờ báo trong rương, trong tủ, như một vật quý giá vô ngần, sợ ai lấy mất.

Cả thành phố xôn xao, nhưng vẫn lo sợ, chỉ xầm xì trong nhà, không dám nói lớn, không bàn tán công khai. Nhất là bức ảnh của cụ Phan Bội Châu, không dám đễ cho người lạ trông thấy.

Từ đêm đầu tiên – đêm thứ Bảy gần ngày nghĩ Hè – thấy ảnh cụ Phan Bội Châu trên tờ Thực Nghiệp Dân Báo và nghe rõ chuyện Cụ Phan Bội Châu, do hai thầy thông phán sở kho bạc kểl lại, trò Tuấn như bị một sức mạnh gì huyền bí, làm xáo trộn tinh thần. Suốt đêm, Tuấn cũng không ngủ được. "Chân dung Sào Nam Phan Bội Châu tiên sinh”, theo đúng dòng chữ in của tờ báo dưới ảnh cụ Phan, cứ ám ảnh tâm hồn còn ngây thơ non nớt của cậu học trò 16 tuổi.

Sáng chủ nhật dậy thật sớm, Tuấn ăn vội vàng tô cháo gà, rồi chạy đến các nhà bạn bè, nói chuyện cụ Phan Bội Châu. Có vài trò sợ sệt bảo Tuấn: “Mày đừng nói chuyện đó, bị ở tù chết cha!” Nhưng phần đông đều bàn tán say sưa về chuyện cụ Phan Bội Châu, một bậc anh hùng ái quốc bị Tây bắt bên Tàu sắp đem ra xử tử. Vì moị người đều nghĩ rằng thế nào cụ Phan Bội Châu cũng sẽ bị Tây xử “chết chém”.

Kỳ nghỉ Hè ấy, Tuấn không về quê, viết thư xin phép cha mẹ ở lại học tư lớp Hè.

Sự thực, Tuấn muốn ở lại để được coi tờ Thực Nghiệp Dân Báo Hà nội cho biết chuyện cụ Phan Bội Châu. Về tỉnh nhà làm gì có báo mà coi. Mâý người đi buôn ở Đồng Nai, cũng có đem về mấy tờ Sài Thành Nhật Báo ở Saigon, nói chuyện một bậc chí sĩ khác tên là Phan Chu Trinh, ở bên Tây mới về. Người ta đồn rằng ông này giỏi lắm, người Tây ở Saigon cũng phải sợ ông. Ông đi đâu cũng có hàng ngàn người An nam bu theo ông để nghe ông diễn thuyết chửi Tây, chửi vua An nam, mà Tây không dám bắt bỏ tù ông.

Tuấn đã viết thư về nói dối với cha mẹ là ở lại Qui-nhơn để học tư, nhưng sự thực là suốt ba tháng nghĩ Hè, Tuấn ưa lai vãng đến nhà mấy đứa bạn để đọc lén tờ Thực Nghiệp Dân Báo. Sau có thêm tờ Khai Hóa Nhật Báo, tờ Trung Bắc Tân Văn cả ba từ Hà Nội gởi vào. Từ Saigon gửi ra có tờ Sài Thành Nhật Báo, Đông Pháp Thời Báo, một tờ Báo Tây Echo Annamite của một người An nam làm chủ bút, tên là Nguyễn Phan Long và tờ La Cloche Félée cũng của một người An nam tên là Nguyễn An Ninh.

Tuấn không biết những tờ baó này do ai ở Saigon gởi ra, và ai ở Qui-nhơn gởi mua? Chỉ biết rằng cả Qui-nhơn chỉ vài ba người có mà thôi và được chuyền nhau mượn coi lén lút trong một nhóm học trò Đệ Nhị và Đệ Tam Niên.

Giáo sư An nam không dám coi báo, trừ một ông giáo người Bắc dạy Quốc văn mà học trò thường gọi là ông Đốc Bình và thầy trợ Tố dạy lớp Năm mà trong thành phố người ta gọi là “thầy Cộng sản” để ngạo cái chủ trương của thầy là "của đời muôn sự của chung”. Nhưng ông Đốc Bính thường dặn dò Tuấn đừng chơi thân với thầy Tố vì thầy này là một con "mouton“ (con cừu) tiếng Pháp có nghĩa là kẻ làm do thám.

Do đó, học trò bảo nhau là thầy Tố làm mật thám cho Tây. Ở các sở Nhà Nước, hầu hết các thầy Thông, thầy Phán đều không dám coi báo công khai, trừ hai thầy Kho bạc, và một thầy ở Toà Sứ. Thầy này hăng hái nhất và còn trẻ, lối 23, 24 tuôỉ, quê quán ở Huế, và chưa có vợ, tên là Đồng Sĩ Bình. Mặt thầy nhiều mụn, và lúc nào thầy cũng nói tiếng Tây để chửi Tây. Tuấn mê nghe thầy giảng hay, và lạ nhất là Tuấn ít khi nghe thầy nói tiếng An nam. Có lẽ tiếng An nam dùng để chửi Tây không hay bằng tiếng Tây? Tuấn nghĩ thế nhưng không dám hỏi. Cũng có lẽ nói tiếng Tây đã thành ra thói quen của những người học tiếng Tây đã giỏi. Có lần Tuấn được dự một cuộc hội hợp bí mật tại nhà ông Đốc Bính. Suốt mấy tiếng đồng hồ, ông Toàn và thầy Đổng sĩ Bình đều nói toàn tiếng Tây để chửi Tây kịch liệt, và hô hào học trò nên có tinh thần ái quốc và đừng làm nô lệ cho Tây.

Lúc bấy giờ những danh từ “đả đảo”, “thực dân”, “đế quốc” v.v… chưa thông dụng. Người ta chỉ dùng một chữ thông thường nhất là “cách mạng”.

Đêm nhóm họp đầu tiên do thầy Thông phán Đổng sĩ Bình tổ chức, thầy bảo Tuấn chạy đi rủ thêm trò Quỳnh, trò Tố và trò Thu đến nhà ông Đốc Bính. Lần đầu tiên Tuấn được nghe hai chữ “cách mạng” do thầy Bình lập đi lập lại không biết bao nhiêu lần. Nhóm hợp để thầy và ông Đốc Bính giảng báo cách mạng cho tụi này nghe.

Ba tờ báo Hà nội thuât chuyện cụ Phan Bội Châu. Báo Quốc ngữ Saigon thuật chuyện cụ Phan Chu Trinh. Tờ báo Pháp ngữ La Cloche Félée của Nguyễn An Ninh thì chưỉ Tây và hô hào “cách mạng” hăng hái nhất. Mỗi lần thầy Bính trao cho Tuấn một tờ báo mới thầy đều căn dặn xem xong phải chuyền cho mấy trò khác xem. Nhưng Tuấn không bao giờ dám đem báo vào lớp học. Mỗi lần xem xong, trò đút nó dưới lớp áo dài đen và chạy đến nhà trò Quýnh đưa lén cho trò này xem.

Một buổi tối, Tuấn đến nhà thầy Đổng sĩ Bình, thầy ở một mình một căn nhà mướn trong một ngõ hẻm gần bờ song. Thầy chỉ cho Tuấn một bài thơ bằng chữ Nho ký tên Phan Chu Trinh, do tự tay thầy chép ra bằng nét chữ đậm và thật đẹp, lồng khung kiếng treo trên tường. Tuấn không biết bài thơ này do thầy chép ở đâu ra, nhưng Tuấn học thuộc lòng ngay:

Thế sự hồi đầu dĩ nhất không
Giang san hòa lụy khấp anh hùng
Vạn dân nô lệ cường quyền hạ
Bát cổ văn chương túy mộng trung
Trường thử bách niên cam thóa mạ,
Bất trí hà nhựt xuất lao lung
Chư quân vị tất vô tâm huyết
Thích bả tư văn khán nhất thông.

Tuấn đã được học chút ít chữ Hán, nhưng lần đầu tiên nghe nhiều tiếng mới lạ: anh hùng, nô lệ, cường quyền, lao lung, tâm huyết. Tuấn chưa hiểu rõ nghĩa cho lắm. Thầy Bình ngâm từng câu, giảng từng ý, rồi thầy ngâm đi ngâm lại nhiều lần. Thầy giảng rộng ra nữa, và nói:

“Nước An nam đã mất,
nhà An nam đã tan,
dân An nam bị làm nô lệ.
Đồng bào như người mê ngủ
chưa tỉnh ngộ để cho Tây nó đè đầu, đè cổ, nó áp chế…
Một trăm năm nữa cũng đành chịu hay sao?”

Thầy nói bằng tiếng Tây, rất hăng hái, rất say mê. Thầy đập tay xuống bàn, thâỳ dậm chân xuống đất, thầy hét lên: “Trời ơi! Trời ơi! Nưóc An nam là con Rồng cháu Tiên, mà dân An nam ngày nay là tôi, là tớ, là mọi, là rợ, bị xiềng xích, gông cùm, áp chế! Thế có tủi nhục cho Hồn Thiêng của Đất Nước hay không?”

Bỗng thầy oà ra khóc, thầy gục đầu xuống bàn khóc nức nở… Tuấn bị qúa cảm xúc, cũng rưng rưng nước mắt ngồi khóc ngây ngô. Tuấn nhìn lên bài thơ đóng khung treo trên tường, càng nhìn càng khóc.

Mỗi câu thơ như:

Vạn dân nô lệ cường quyền hạ
Bát cổ văn chương tuý mộng trung.

Mà thầy Bình đọc đi đọc lại, kêu gào lên, rồi khóc, làm trò Tuấn có cảm tưởng như đây chính là tiếng nói đau khổ, tiếng rên xiết bi thương của một Hồn thiêng hiện về kêu gọi con cháu bằng giọng ai oán lâm ly.

Không khí bi thảm ấy kéo dài một lúc lâu. Rồi thầy Đổng sĩ Bình ngước đầu dậy, mắt còn dẩm lệ, bảo trò Tuấn:

- Tuấn ơi! Chúng ta là con cháu của Hùng Vương, của Lạc Long Quân, ta phải làm thế nào chứ! Làm thế nào để phá tan cái xiềng xích nô lệ, để đòi lấy Độc Lập Tự Do, để…

Tuấn chỉ biết ngồi cúi đầu, nghe và khóc.

Thầy Đổng sĩ Bình đứng dậy, đôi mắt thầy đỏ ngầu, tay thầy run lên, thầy chỉ ngón tay lên bài thơ chữ Nho của cụ Phan Chu Trinh, và nói bằng tiếng Pháp có vẻ căm hận, oán than, nhấn mạnh từng câu:

- Notre grand Patriote Phan chu Trinh a dit: "nous sommes des esclaves!...Nous sommes des esclaves!" (Nhà đại ái quốc của chúng ta là cụ Phan chu Trinh đã nói đấy: chúng ta là những kẻ nô lệ).

Rồi thầy nói liên tiếp bằng tiếng Pháp, thầy nói thao thao bất tuyệt, thầy nói đến trào nước miếng hai bên mép, đổ mồ hôi trên trán, trên má, thầy hô hào: Cách mạng! Phải làm Cách mạng! Il faut faire la Révolution! Il faut faire la Révolution! Pour que les Annamites ne soient plus des esclaves, pour que les Francais ne soient plus des oppresseurs, …des tyrans…, il faut faire la Révolution!

Tuấn đã hoàn toàn bị thôi miên bởi giọng diễn thuyết hùng hồn ai oán của thầy Đổng sĩ Bình, Thông phán đầu tòa của quan Công Sứ Pháp, chủ tỉnh Qui-nhơn.

Đêm hôm đó, Tuấn đến nhà trọ của mấy cô học trò lớp Nhất. Năm nay, cô Thục lưng quần đỏ đã thi đổ primaire về nhà lấy chồng làm Chánh tổng, cô Lài cũng đã thi đổ được mẹ cho ra Huế học trường Đồng Khánh. Chỉ còn cô Trâm, cô Anh thi rớt phải học lớp Nhất trở lại một năm nữa. Tuấn đem bài thơ đã học thuộc lòng ở nhà thầy Bình đọc cho Trâm và Anh nghe. Tuấn lập lại những lời hô hào cách mạng của thầy Đổng sĩ Bình, và Tuấn cũng đã được tiêm nhiễm những giọng say mê ai óan của thầy, nói hùng hồn như thầy, đến nỗi một lúc sau Tuấn cũng bị xúc động gục xuống bàn khóc …Trâm và Anh cũng rưng rưng khóc theo.

Đêm ấy, Tuấn nói hết những gì Tuấn biết về hai cụ Phan bội Châu và Phan chu Trinh, cho Trâm và Anh nghe say sưa, mãi đến gà gáy sáng.

Sau kỳ nghĩ Hè năm ấy, một số đông học trò ở toàn xứ An nam khắp ba Kỳ, đều thuộc lòng bài thơ của cụ Phan Chu Trinh, bài thơ cách mạng đầu tiên đã vang dội trong đầu óc thanh niên thế hệ 1925.

Trong nhiều trường hợp, đại khái như trường hợp của Tuấn, việc cụ Phan Bội Châu bị bắt giam ở nhà lao Hà Nội, việc cụ Phan Chu Trinh về Saigon diễn thuyết cách mạng, và bài thơ của cụ “Thế sự hồi đầu dĩ nhất không …” được truyền khẩu bí mật đi khắp nước, từ Bắc chí Nam.

Học trò con gái phần đông là nghe theo học trò con trai, cũng được tiêm nhiễm tinh thần cách mạng, và sau này cũng hăng hái, cùng với bạn trai tham gia tất cả các cuộc hoạt động bí mật và công khai làm "phá rối cuộc trị an của Nhà Nuớc Bảo Hộ".

Tuấn viết bức thư đầu tiên cho Lài ở Huế, như sau đây (Lài ở “Internat” (ký túc xá), trường Đồng Khánh). Thư phải để gửi cho một cô bạn cùng lớp Đệ Nhất Niên với Lài, nhưng ở trọ nhà bà cô trong Thành Nội, nhờ cô bạn trao lại cho Lài).

Le 6 Octorbre 1925

Cô Lài ơi,

Cô ở Huế, mà việc cụ Phan Bội Châu, một bậc anh hùng ái quốc bị Tây bắt ở bên Thương Hải giải về giam trong nhà tù Hà Nội ngoài Bắc kỳ, cô có nghe tin không? Việc cụ Phan Chu Trinh, bậc anh hùng chí sĩ ở Tây về Nam kỳ, cô có biết không?

Bài thơ của cụ Phan Chu Trinh:

"Thế sự hồi đầu dĩ nhất không,
giang san hòa lụy khấp anh hùng.
Vạn dân nô lệ cường quyền hạ,
bát cổ văn chương túy mộng trung.
Trường thử bách niên cam thóa mạ,
Bất tri hà nhựt xuất lao lung.
Chư quân vị tất vô tâm huyết,
Thỉnh bá tư văn khan nhất thông"

Cô có thuộc không?

Cô trả lời cho tôi mừng kẽo tôi nóng lòng lắm. Còn cô Thục thi đỗ rồi mà không ra Đồng Khánh tiếp tục học như cô, lại ở nhà lấy chồng, lão Chánh tổng nhà giàu, góa vợ. Tụi tui tức giận lắm đó. Tết này cô có về Qui-nhơn ăn Tết không? Nếu cô về thì tui ở lại chơi trong mấy ngày Tết. Tụi mình đến nghe thầy Bình giảng Les Droits de l'Homme et du Citoyen (Nhân quyền và Dân quyền). Tôi có cái hình cụ Phan Bội Châu đẹp lắm, nếu cô không có thì tôi gửi ra cho cô.

Tôi với Anh và Trâm nhắc đến cô hoài. Cô đau mắt hột, đã bớt chưa? Tôi chúc cô học tiến bộ nhiều.

Thơ bất tận ngôn.

Au revoir, mademoiselle.
Votre ami dévou:

Tuấn.

Hơn mười ngày sau, Tuấn được thư Lài trả lời như sau:

Huế le 18 Octobre 1925

Anh Tuấn ơi,

Em bắt được thư anh sáng thứ tư, chị Tuyền đưa vô cho em mà Tuyền đã xé coi trước. Em giận lắm. Ở Huế, mấy cô trợ giáo và học trò Đồng Khánh cũng bàn tán lao xao việc cụ Phan Bội Châu bị bắt bỏ tù ở Hà Nội. Mấy bữa ni đang làm đơn gởi Quan Toàn Quyền để xin tha cho cụ. Tuị em theo mấy anh học trò trường Quốc Học và cũng hăng hái vận động đánh giây thép ra Bắc kỳ để xin ân xá cụ Phan Bội Châu. Còn trường Qui-nhơn của mình? Không lẽ mấy anh làm thinh để cụ Phan bội Châu bị tù sao? Anh nghĩ sao, cho em biết, em mong tin anh lắm. Cụ Phan chu Trinh diễn thuyết ở Nam kỳ, hô hào lập “dân chủ” đánh đổ “quân chủ”. Em có một cuốn sách in bài diễn thuyết đó. Anh có không? Nếu không, thì em gửi vô cho anh. Hay hạng nhứt. Anh Tuấn ơi em đọc say mê. Làm sao em gửi lén vô cho anh? Nhưng có một trò trai bị lính của Vua bắt, vì đang ngôì dưới cầu Trường Tiền đọc bài đó. Bài thơ anh chép cho em, em cũng có rồi. Ở Huế, ai cũng thuộc lòng.

Tết, em phải về Qui-nhơn thăm mẹ em. Anh Tuấn ở lại ăn Tết với em hỉ? Em không có ảnh của cụ Phan Bội Châu nhưng em thấy trong báo “Khai Hóa“ ở Hà nội gởi vô cho cô giáo, cô giáo có đưa cho tụi em coi. Cụ đẹp qúa, oai quá, anh hỉ. Anh ơi, dân nước An nam mình bị làm nô lệ cho cường quyền, anh có buồn không? Nghe tin cụ Phan bội Châu bị tù, tụi em khóc hết.

Tuị em nhứt định xin tha cho cụ. Em đã thuộc lòng bài thơ anh làm tiễn em đi Huế, và thuộc lòng cả bài thơ của cụ Phan chu Trinh, vơí bài “Huyết lệ thơ” của cụ Phan bôị Châu nữa. Tết em về, em đưa cho anh coi bài “Huyết lệ thơ” em không dám viết vô đây, bài đó ghê lắm, anh à.

Em nhớ mẹ em, em khóc hoài.

Em cũng nhớ anh, em gửi lời thăm chị Trâm, chị Anh và chúc hai chị sang năm thi đỗ để ra Huế học với em.

Tết anh ở lại đừng về Quảng Ngãi, anh hỉ. Ông docteur chữa bệnh trachoma cho em đã gần bớt.
Votre affectueuse amie qui pense à vous.

Lài.

Tái bút - Nếu chưa lo việc làm đơn xin tha cụ Phan bội Châu thì anh làm thiệt gấp. Ngoài Huế này, mấy chị lớp trên nói: nếu nhà nước kết tội chém cụ Phan bội Châu thì cả trường Đồng Khánh sẽ làm lễ để tang cho cụ. Em viết tới đây em khóc vì em sợ họ không tha cho cụ đâu. Anh Tuấn ơi, nếu cụ Phan bị chết chém thì anh cũng để tang nghe không anh? Anh cổ động mấy anh học trò trường mình cho đông thì sợ gì. Anh làm đơn gởi đi thật gấp. Nghe nói quan Toàn Quyền mới tên là Alexandre Varenne, gần sang An nam rôì, để xử cụ Phan Bội Châu. Chúng ta làm đơn xin ân xá cho kịp ngày, nếu để trể thì nguy tính mạng bậc chí sĩ anh hùng của nước ta. Tuị em ngoài này mấy tuần chỉ lo có một việc đó thôi. Em chờ thư anh. Au revoir anh..

Votre amie fidèle:
Lài.

Đọc thư cô nữ sinh Đồng Khánh bị xúc động về cụ Phan Bội Châu có thể bị chết chém, Tuấn vụt chạy ra sau nhà bếp ngồi khóc một mình. Cũng như những đám học trò con trai con gái khác đã bị ảnh hưởng về vụ Phan Bội Châu, ảnh hưởng tự nhiên, ngấm ngầm nhưng vô cùng mãnh liệt, Tuấn sùng bái cụ Phan bội Châu không xiết kể và cứ hồi hộp lo sợ cụ bị chết chém.

Tuấn chạy đến nhà thầy Đổng sĩ Bình, và rưng rưng nước mắt nói thầm với thầy:

“Thầy ơi, tôi nói dại dột nếu lỡ mà cụ Phan bội Châu bị chết chém thì làm sao?”.

Thầy Bình đang ngồi ăn cơm tối, vụt ném chén cơm và đôi đũa xuống đất, tiếng kêu choảng choảng …Thầy đập bàn tay thật mạnh trên bàn và la lên giận dữ, bằng tiếng Tây: “Jamais! Jamais! Jamais les Annamites laisseront mourir ainsi le Grand Patriote Phan Sao Nam!” (Không đời nào! Không đời nào người An nam để cho nhà đại chí sĩ Phan Sào Nam chết như thế !)

Nhưng rồi như điên như cuồng, thầy gục đầu xuống bàn khóc, vừa lẩm bẩm như cầu nguyện: "cụ Phan không chết! cụ Phan không chết!..."

Thầy Đổng sĩ Bình, Thông Phán tòa sứ Qui-nhơn, cùng một lý tưởng và một chí hướng với Bửu Đình ở Huế, Nguyễn An Ninh ở Saigon, Nguyễn Thái Học ở Hà nội, là những nhân vật điển hình của thế hệ thanh niên trí thức cách mạng năm 1925. Một số rất đông học trò các trường Trung học Pháp-Việt, Nam và Nữ, ở ba Kỳ, và sinh viên Cao đẳng ở Hà nội đều chịu ảnh hưởng trực tiếp của mấy bực đàn anh kia. Chính họ đã truyền cảm cho lớp thiếu niên 1925, tinh thần ái quốc, tư tưởng cách mạng, mà hai cụ Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh ở hải ngoại mới về, là hai thần tượng tuyệt đối để họ sùng bái tôn thờ , tha thiết thương yêu .

Tôi nói “thương yêu”, vâng! Vì lớp trai trẻ có gái lẫn trai của thế hệ 1925, đã để trái tim của họ rung cảm mãnh liệt lần đầu tiên bởi tình yêu Nước mà cả hai nhà chí sĩ Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh là hai hình ảnh thiêng liêng rực rỡ. Những mối tình khác chỉ đều phụ thuộc mà thôi. Lòng ái quốc bộc phát sôi nổi, đột ngột và hăng hái cho đến nỗi họ đã tự động để tang cho cụ Phan Chu Trinh khi cụ chết ở Saigon năm 1926, họ lập bàn thờ ở khắp nơi để tế vong linh của cụ, và họ có thể tình nguyện chết theo nếu cụ Phan Bội Châu bị án tử hình năm 1925.

Chính trong làn gió cách mạng nồng nhiệt lôi cuốn ấy, trong tình yêu nước thiết tha đầm ấm ấy, đã nẩy nở ra tinh thần hy sinh dũng cảm của cô Nguyễn thị Giang, Nguyễn thị Bắc và trăm nghìn cô Bắc, cô Giang khác và trăm nghìn Nguyễn Thái Học khác trong đám thanh thiếu niên nam nữ học sinh.

Không phải riêng một thầy Đổng Sĩ Bình điên cuồng, kêu thét vì quốc hận, không phải riêng một cậu học trò 16 tuổi như Tuấn cũng đau đớn khóc than cho “Vong Hồn Tổ Quốc” mà hầu hết thanh thiêú niên nam nữ toàn nước “An Nam” đều bồng bột sôi nổi với tinh thần cách mạng tuy hãy còn ngấm ngầm e dè, chưa bùng ra quyết liệt.

Có điều làm vinh dự nhất cho các cô giáo và nữ sinh trường Đồng Khánh Huế, là trường Nữ Trung Học độc nhất của xứ Trung kỳ, đã hăng hái hơn tất cả các trường khác ở toàn xứ An nam trong việc ân xá cho cụ Phan bội Châu.

Một buổi sáng thứ hai, trong giờ chơi, Tuấn được anh cai trường kêu xuống văn phòng nhận một thư bảo đảm. Tuấn mừng quýnh tưởng là thư nhà gửi măng-đa vô cho. Ra khỏi văn phòng, Tuấn xem nét chữ trên phong bì và dấu bưu điện đóng trên con tem, biết ngay là thư của cô Nguyễn thị Lài, học sinh trường Đồng Khánh Huế, bạn thân của Tuấn. Tuấn chạy ra phía sau trường, ngôì một mình trên bãi cát, mở thư ra xem. Nét chữ của cô Lài đều đặn, tế nhị, rất dễ thương. Lài viết:

Huế ngày 14-12-1925 tức là ngày 29 tháng 10 năm Ất Sửu,

Mon cher ami Tuấn!

Em muốn viết thư này thiệt gấp gửi vô cho anh, để anh biết rằng ngày 9 tháng 12 vừa qua, các cô trợ giáo trường Đồng Khánh và học trò tụi em, có đồng ký một giấy phép như sau đây gởi ra Quan Toàn Quyền Alexandre Varenne ở Hà Nội Bắc kỳ: Gougal Hanoi – Nous institutrices et élèves collège Đồng Khánh, avons honneur demander à votre bienveillance grace pour patriot Phan Bội Châu.

Nhưng giấy thép đó không gởi đi được, anh biết taị sao không? Taị ông Chánh sở Giây thép không dám gởi đi và đưa trình lên ông Khâm Sứ Pierre Pasquier.

Ông Khâm sứ liền sai một ông thanh tra mật thám tới trường Đồng Khánh ở Huế, kêu hết tất cả các cô trợ giáo và học trò tựu lại trước mặt bà Đốc (bà Đầm) và hỏi: "Ai viết cái giây thép này?" Tức thì có cô trợ giáo Mân bước ra đọc cho ông thanh tra mật thám nghe bản chữ Tây như sau:

Je déclare être de celles qui ont decidé l'envoi du télégramme à M. le gouverneur général Varenne , et je vous présente mon amie, Mlle…qui est décidée à supporter avec moi les conséquences de notre acte collectif. Nous n’avons pas à consulter notre Directrice pour une faveur que nous demandions au Chef de la Colonie en debors du domicile administrative. Nous protestons contre le fonctionnaire de Postes qui s’est permis, après avoir recu notre argent, de détourner le télégramme remis à son guichet. Et ceci est d’ autant plus grave que ce télégramme était adressé à Monsieur le Gouverneur Général. Nous n’ avons pas à rougir de notre acte et n’avons que suivi l’exemple de nos soeurs de Hanoi qui ont arrêté la voiture du gouverneur général pour lui remettre une supplique en faveur de notre héros national et n’avons recu aucune suggestion du dehors. Nous avons agi en femmes annamites et non comme institutrices et élèves du collège.

(Tôi xin nhận là có cùng với các bạn gái quyết định gởi giây thép ra quan Toàn Quyền Varenne, và tôi xin giới thiệu ông đây là cô X. bạn tôi, đã cùng nhau quyết định chịu hết cả những hâụ quả của hành động tập thể này. Chúng tôi vì một ân huệ mà chúng tôi gởi xin quan Toàn Quyền ở ngoài phạm vi nhà trường. Chúng tôi phản đối ông chánh sở Bưu điện đã nhận tiền của chúng tôi để đánh diện tín, mà lại không gởi điện tín ấy đi. Càng trầm trọng hơn nữa, là chính điện tín ấy chúng tôi gởi ra quan Toàn quyền. Chúng tôi không hối hận tí gì về hành động của chúng tôi, chúng tôi chỉ theo gương của các bà chị của chúng tôi ở Hà nội đã chận xe hơi của quan Toàn quyền để đưa lên ngài một bản thỉnh nguyện ân xá cho vị anh hùng dân tộc của chúng tôi. Chúng tôi không bị ai xúi giục cả. Chúng tôi hành động với tư cách là phụ nữ An nam chớ không phải với tư cách là các cô trợ giáo và các học trò trường Đồng Khánh).

Anh à, tuị em đều lo sợ cho hai cô trợ sẽ bị bắt bỏ tù nhưng may quá, ông thanh tra đứng im lặng nghe, nghe rôì xin cái tờ khai kia để đem về trình với quan Khâm sứ. Sáng ngày hôm qua, là ngày 13.12.1925, bà Đốc kêu cô trợ Mân bảo rằng ông chánh sở Giây thép mời cô trợ ra tòa giây thép để lấy lại số tiền gởi điện tín mà điện tín bị giữ lại không gởi.

Anh Tuấn à, mấy bữa rày ở Huế xôn xao lắm. Ngày vua Khải Định chết (các quan nói là vua băng hà) là ngày 6.11.1925, dân đế đô Huế chỉ nô nức chờ coi đám tang mà thôi. Đám tang của nhà vua thì lớn lắm nhưng học trò và các cô trợ giaó không có chút gì cảm động, vậy mà việc cụ Phan bội Châu thì lại làm cho cả trường mất ăn mất ngủ, ngày đêm lo sợ, buồn rầu lạy Trời làm sao cứu cho nhà chí sĩ An nam khỏi chết.

Còn học trò trường Qui-nhơn mình có làm gì không anh Tuấn? Bửa trước anh có được thư của em chứ? Rôì anh có nói chuyện với mấy ảnh, có rục rịch gì không? Em chờ thư anh qúa chừng mà không thấy anh trả lời. Sao vậy? Chúc anh bình yên mạnh giỏi.

Votre amie qui pense toujours à vous
Nguyễn thị Lài.

Tuấn đọc đi đọc lại thư của Lài hai ba, bốn lần. Rôì Tuấn mắc cỡ cầm thư chạy đến nhà mấy đứa bạn Quỳnh, Thu, Tố. Tuấn hỏi:

- Học trò Qui-nhơn mình dở quá! Thua xa học trò con gái trường Đồng Khánh. Tao xấu hổ lắm, tao không dám viết thư trả lời cho Lài.

Quỳnh bảo:

- Tụi Đồng Khánh nhờ có mấy cô trợ giáo có đầu óc. Còn mấy ông thầy giáo của trường mình ông nào ông nấy sợ Tây như sợ cọp, tối chỉ lo xổ tam hường và đánh tứ sắc, còn làm khỉ gì được.

Tố nói thêm:

- Phải có mấy ông cầm đầu thì tụi học trò mới dám làm chớ! Mầy coi, ông T., thì lo xổ tam hường, ông Thy thì ở nhà ôm vợ, ông V. thì đánh tứ sắc, chỉ còn ông đốc Bình thì không nghe ổng nói gì hết.

- Tụi mình chạy lại thầy Đồng sĩ Bình, hỏi ý thầy xem. Học trò Huế cũng có làm đơn xin ân xá cho cụ Phan. Qui-nhơn mình ngủ gục hết trơn, hết trọi, thế này sao?

Đêm ấy, bốn trò liền kéo nhau đến nhà thầy Đồng sĩ Bình. Thầy Bình nói:

- Tôi đã gửi bài đăng trong báo Saigon để kêu ân xá cho cụ Phan Sào Nam. Còn về phần các học trò, phải tự làm lấy chứ! Cũng như ở Huế, trường nào làm riêng trường đó mới được.

9 giờ khuya, về nhà Quỳnh, trò Tuấn hăng hái lấy bút viết nháp giây thép để gửi ra Quan Toàn Quyền. Tố, Quỳnh, Thu chuyền nhau xem. Điện tín viết bằng Pháp văn như sau đây:

Gougal Hanoi – Nous, élèves collège Qui-nhon, vous serions reconnaissants accorder grâce à notre Grand Patriote Phan Bội Châu.

Quỳnh bỏ chữ collège, Tố thêm mấy chữ “vouloir bien”, Thu thêm "très" trong câu "notre Grand Patriote". Nhưng rôì không lẽ chỉ bốn đứa ký tên? Phải có cả trường ký chớ? Làm sao lấy chữ ký cả trường? Lỡ ông Đốc biết thì sao?

Bốn đứa bàn đi bàn lại suốt đêm. Đến gà gáy sáng Tuấn đề nghị đừng ký tên gì cả, cứ đánh đại giây thép mệnh danh là toàn thể học trò trường Qui-nhơn, rồi lỡ xẩy ra chuyện gì thì bốn đứa mình cùng chịu tội. Nhưng giấu kín đừng cho học trò trong trường biết. Vì đa số học trò trường Qui-nhơn hồi đó còn sợ. Chính bốn đứa này tuy hăng hái làm nhưng vẫn còn ngại …vì không có người lớn đỡ đầu. Dù sao cũng nhất định gởi cái giây thép nhưng lại không có tiền. Bốn đứa đều không có một xu, chưa đứa nào được măng-đa ở nhà. Sáng tinh sương, thành phố còn ngủ, Quỳnh và Tuấn chạy đến ngõ cửa thầy Đổng sĩ Bình, đưa thầy xem cái giây thép. Thầy gật đầu khen:

- C' est très bien! C'est très bien! (Giỏi lắm! giỏi lắm!)

Xong thầy móc túi áo ra cho 1 đồng bạc mới tinh. Đồng bạc tròn chung quanh có răng cưa, trong có khắc hình “bà Đầm xoè“ và có vòng chữ République Française (cộng hòa Pháp). Để đồng bạc trên đầu ngón tay, cầm cán bút bằng sắt gõ vào, nó kêu “ keng!” rất thanh.

Hai đứa học trò mừng quýnh, cầm đồng bạc chạy về đưa cho hai đứa bạn nằm nhà chờ kết qủa, 8 giờ sáng Quỳnh và Tuấn làm đơn khai dối là “malade” xin phép Giáo sư cho nghỉ một buổi.

Hai đứa rủ nhau đi ra nhà Giây Thép. Tòa bưu điện đông người ra vào. Tuấn gấp tờ giấy điện tín bỏ trong túi áo, không dám lấy ra vội. Đợi lúc vắng người, hai trò đến đưa cho thâỳ Thông giây thép coi, và trao luôn đồng bạc mới tinh. Nhưng thầy thông giây thép xem xong, trợn mắt lấy tay làm dấu cho hai trò đi vòng sau tòa bưu điện. Hai đứa ra đến đây thì thầy thông đã đứng đấy rồi, tay còn cầm tờ giấy của Tuấn. Thầy trợn mắt ngó Quỳnh và Tuấn và nói khẻ:

- Các trò muốn ở tù phải không? Ai bảo các trò gởi cái giây thép này?

Tuấn nhe răng cười (Tuấn có tật nhe răng cười mỗi khi lính quýnh khó trả lời).

Quỳnh bảo:

- Hết thảy học trò trường Qui-nhơn

Thầy thông bảo:

- Các trò đừng có làm bậy! Đã có lịnh của quan Sứ dặn quan Rờ-xơ-vơ hễ có ai đánh giây thép xin ân xá cụ Phan Bội Châu thì đừng gửi, và đưa giây thép lên cho Quan Sứ coi.

Hai trò nhìn nhau, Quỳnh hỏi Tuấn:

- Sao mầy?

Tuấn nhe răng cười:

- Sao là sao?

Thầy thông bảo tiếp:

- Tôi thương hai cậu. Con tôi cũng có học trong trường, nếu có chuyện gì nó cũng bị đuổi như các cậu vậy. Thôi tôi can hai cậu, xé bỏ cái giấy này đi. Nguy hiểm lắm. Nên kín mồm, kín miệng, tôi không có trình lên ông Rơ-xơ-vơ đâu.

Quỳnh lại hỏi Tuấn:

- Sao mầy?

Tuấn chỉ biết nhe răng cười:

- Sao thì sao, chớ sao! Thầy thông không cho gửi thì đành vậy.

Thầy thông trao tờ giấy “nguy hiểm“ lại cho Tuấn. Hai trò ra bờ biển ngồi, xé vụn từng mảnh giấy nhỏ, và vò cục lại quăng ra đợt sóng. Hai đứa vội vàng về nhà Quỳnh. Tuấn và Quỳnh đều mắc cỡ và buồn, làm thinh không nói gì với nhau. Một lúc sau, Tuấn nằm sấp xuống chiếu, khóc thút thít một mình…

Vụ án Phan Bội Châu đang sôi nổi, thì một buổi sáng sau khi vua Khải Định chết được chừng sáu bảy hôm, ông Daydier, đốc học trường Qui-nhơn, cầm một tờ giấy in, vào các lớp đọc cho học trò nghe. Lớp Tuấn đang học giờ Sử Ký Pháp. Giáo sư Mariani giảng về cuộc Cách mạng năm 1848. Với giọng hùng hồn như diễn thuyết, ông đang kể lại những sự kiện xẩy ra ở Paris, lúc thi sĩ Lamartine cầm cây cờ Tam-tài đứng trước tòa Đô Chánh hô hào dân chúng, thì ông Đốc học Daydier đi giầy cộp cộp …từ ngoài mở cửa bước vào. Ông giáo sư ngừng nói. Ông Đốc đứng ngay giữ lớp, với vẻ mặt trịnh trọng khác hơn mọi ngày, nhìn chăm chăm vào mặt học trò, nói chậm rãi nhấn mạnh từng câu, từng chữ để cho học trò chú ý:

- J'ai une nouvelle importante à vous annonncer...(tôi có một tin quan trọng báo cho các trò biết…)

Ông ngưng một phút, rút trong túi áo ra một cặp kiếng lấy gắn vào sống mũi (ông đeo một loại kiếng trắng gắn vào sống mũi chứ không có gọng) rôì nói tiếp, đại khái, ý nghĩa như sau đây:

- Trước hết tôi báo tin cho các trò biết rằng Hoàng Đế Khải Định mới chết, cách đây một tuần lễ…Cái chết ấy thật là một việc đau buồn cho nước An nam và nước Pháp, bởi vì hoàng đế Khải Định là một người bạn lớn của nước Pháp (un grand ami de la France). Con trai của Ngài là hoàng tử Vĩnh Thụy, du học ở Paris, hãy còn nhỏ tuổi qúa không thể nào thay thế Vua Cha để cai trị dân. Tuy vậy nước Pháp có bổn phận bảo vệ nước An nam không thể để trống cái ngai vàng ở Huế, vậy nên nước Pháp đã mời hoàng tử Vĩnh Thụy về để kế vị Vua cha. Ngài sẽ nối ngôi nhà Nguyễn với niên hiệu là Hoàng đế Bảo Đại. Nhưng vì Hoàng đế còn nhỏ tuổi muốn tiếp tục việc học ở Pháp, ngài là cậu học trò rất thông minh…

Ông Daydier tủm tỉm cười với ông giáo sư Mariani, rồi quay lại nói tiếp với học trò:

-… và rất chăm chỉ, đáng làm gương cho học trò…ngài về nước để tang cho Phụ Hoàng của Ngài, rồi sẽ trở qua Pháp để tiếp tục việc học. Vì thế, Hội Đồng Cơ Mật ở Huế mới thỏa thuận ký với nước Pháp một bản thỏa ước, gọi là “bản thỏa ước năm 1925“ (La Convention de 1925) để cải tổ việc cai trị nước An nam cho mỗi ngày mỗi mở mang tiến bộ. Đây để tôi đọc xho các trò nghe nguyên văn bản “thỏa ước“ đã ký kết giữa viện Cơ Mật Huế, đại diện cho Hoàng Đế Bảo Đại, và quan Khâm Sứ Trung kỳ đại diện Quan Toàn Quyền Đông dương.

Dĩ nhiên bản Thỏa ước 1925 làm bằng tiếng Pháp và có những điều khoản rõ ràng. Ông Daydier đọc hết từ đầu đến cuối trên tờ giấy in dài độ 1 trang rưỡi. Đây là vài chi tiết quan trọng nhất mà trò Tuấn nhớ rõ:

1. Trong thời gian vắng mặt Hoàng đế Bảo Đại du học ở Pháp, triều đình Huế sẽ do một hội đồng Nhiếp chính (Conseil de Régence) điều khiển.

2. Hội đồng Nhiếp chính gồm các quan Cơ Mật Đại thần, đại diện Triều đình, vị Chủ tịch Tôn nhơn Phủ đại diện Hoàng Phái, và quan Khâm Sứ Trung Kỳ, đại diện Nhà Nước Bảo Hộ.

3. Hội đồng Nhiếp chính do quan Khâm sứ Trung kỳ chủ toạ.

4. Các việc hành chính quan trọng đều do tòa Khâm sứ trực tiếp điều khiển vơí sự thỏa thuận của Hội đồng Nhiếp chính.

5. Hội đồng Nhiếp chính đảm nhiệm về việc cúng tế việc quản trị các cung điện Hoàng gia , việc cấp phát các sắc Thần v.v…

Và các chi tiết khác không quan trọng.

Đọc hết bản Thỏa ước, ông Đốc học bảo:

- Các trò về nhà nói laị cho cha mẹ của các trò rõ về sự nước Pháp lúc nào cũng chăm lo mở mang và dìu dắt nước An nam trên con đường văm minh tiến bộ. Chỉ những kẻ ngu xuẩn và những kẻ bạc nghĩa vong ơn mới không biết những ân huệ của nước Pháp. Các trò về hỏi lại cha mẹ của các trò về tình hình của nước An nam trước khi nước Pháp đem văn minh qua đây, trước đây chừng mười năm thôi, rôì các trò so sánh với nước An nam ngày nay thì các trò sẽ biết người An nam mang ơn nước Pháp những gì.

Ông Daydier nói đến đây thì vừa trống đánh ra chơi, ông chào ông giáo. Học trò đều đứng dậy, đợi ông đi ra rồi mới ùa ra sân chơi. Chỉ tội cho lớp Đệ Tam Niên, cạnh lớp của Tuấn, đến phiên phải ở lại để nghe ông Đốc.

Học trò ra chơi, không còn nhớ ông Đốc đã nói những gì. Bản “Convention de 1925” bằng tiếng Pháp, họ hiểu hết nhưng rốt cuộc không hiểu gì cả. Hiểu nghĩa những câu những chữ, nhưng nào có hiểu được tại sao có cái “Convention”ấy, và tại sao ông Đốc đem nó đến từng lớp đọc cho học trò nghe? Chuyện đâu đâu ở Huế, chuyện Vua với Tây, có ăn thua gì đến học trò?

Ngay như vua Khải Định chết, trước đó 6,7 hôm mà hầu hết học trò cũng không hay biết gì cả , mấy anh lớn ở lớp Đệ Tam Niên cũng vậy. Họ còn vui cười hỏi nhau:

- Ủa vua Khải Định chết hồi nào mà không nghe ai nói he? Ông Daydier không xuống lớp nói thì tụi mình cũng tưởng ổng còn sống chớ.

Rồi tất cả đều cười, như là câu chuyện diễu. Toàn thể học sinh rất là thờ ơ, không có một xôn xao nho nhỏ, cũng không có lời bàn tán về cái “Convention 1925” - một danh từ thật mới lạ mà không ai tìm hiểu cho rõ ý nghĩa và công dụng như thế nào. Không có ai nhắc lại những lời của ông Đốc học Daydier. Nhiều trò chỉ thích thú được ngồi chơi trong lớp hơn nửa tiếng đồng hồ, khỏi học bài Sử ký. Các trò khác bu lại từng nhóm như thường lệ, để hỏi nhau về bài toán Géométrie hay Physique mà chốc nữa vào lớp phải nộp lên cho giáo sư Gabriel.

Mấy ông giáo sư An nam đi qua đi lại ngoài hành lang với các giáo sư Pháp, nói chuyện với nhau với vẻ mặt vui thích lắm. Cái tin Vua Khải Định chết do ông Đốc Daydier long trọng tuyên bố thành ra gần như một tin mừng, hay là một biến cố vui vẻ cho cả nhà trường. Còn bản “Convention” thì tuyệt nhiên không ai nhắc đến.

Kế đến vài tháng sau, cũng trong một buổi học, tự nhiên ông Tổng giám thị An nam (Surveillant général) đến từng lớp, theo sau là anh cai trường ôm một gói sách. Ông nói với giáo sư vài lơì rồi quay lại bảo với học trò một quyển sách mới tinh.

- Quan Đốc vừa nhận được của quan Khâm sứ ở Huế gởi vô cho mỗi trò một quyển sách này. Quan Đốc khuyên các trò không những là nên đọc hết quyển sách, rất bổ ích, mà về nhà còn phải đọc lại cho cha mẹ nghe nữa.

Nói xong, ông Tổng giám thị đi ra, anh cai trường theo sau còn mang mấy gói sách nặng chĩu để phát cho các lớp khác. Cửa khép lại, ông giáo Gabriel tiếp tục giảng bài Géométrie plane. Học trò không kịp xem quyển sách nói những gì, Ông giáo sư cũng không để ý đến.

Về nhà, trò Tuấn rút sách trong cặp ra xem. Tên sách là L’Indochine d’hier et d’aujourd’hui (Đông dương ngày xưa và ngày nay). Tác giả là Cucherousset, chủ báo Eveil Économique ở Hải Phòng , Bắc kỳ. Sách dày, in thật đẹp, chữ in màu sepia, mỗi trang bên trái bằng Pháp ngữ đối chiếu với trang Quốc ngữ bên phải. Người dịch Pháp ngữ ra Quốc ngữ là một nhà Nho An nam ở Hà nội tên là Vũ Công Nghi.

Ngay nơi trang đầu quyển sách có hình ông Toàn quyền Alexandre Veranne ở giữa, phía bên tay trái là ông phó Toàn quyền Pierre Pasquier, tay mặt là “vua Bảo Đại”, Hoàng đế Annam “phía dưới tay trái là Vua Sisowath-Monivong, Quốc vương Cao Miên, tay mặt là Vua Sisavangvong, Quốc trưởng Ai Lao. Trang trong có hình vợ góa của của Khải Định, dưới đề Pháp ngữ là “S. M La Reine Douairière” (Bà Hoàng Thái Hậu) một thiếu phụ Huế, trạc 24 tuổi, nét mặt ngây ngô, tóc quấn, đeo kiềng vàng, mặc áo gấm thêu hoa.

Trong sách còn in nhiều thắng cảnh Đông dương như Angkor Watt, Angkor Thom ở Cao Miên, Tháp Chàm ở Qui nhơn, cửa Ngọ Môn Huế, Hồ Hoàn Kiếm Hà nội, nhà Hộ sinh Quảng Ngãi v.v…

Có điều lạ, là tuyệt nhiên không có một phong cảnh nào của Nam Kỳ và không có hình của một nhân vật nào của Nam kỳ.

Trò Tuấn đọc hết cả quyển sách. Sách chia ra nhiều chưong, tóm tắt lại là nói về Đông dưong trước hồi Tây qua, so sánh với xứ Đông dương năm 1925, với tất cả những cái mà tác giả cho là “văn minh tiến bộ” về các phương diện học đường, y tế, canh nông, hỏa xa, công chánh, kỹ nghệ, thương mãi v.v…Và chương cuôí, kể công ơn của nước Pháp với các xứ Đông dương là vô lượng vô biên như trời như bể.

Mãi 10 năm sau, Tuấn ở Hà nội, được giao thiệp nhiều với các giới trí thức và được dịp điều tra, mới biết rằng quyển L’Indochine d’hier et d’aujourd’hui (Đông dương ngày xưa và ngày nay) của Cucherousset và Vũ Công Nghi xuất bản năm 1925 do Phủ Toàn Quyền đặt mua trên 200.000 quyển để phát không cho tất cả các trường Trung học Đông dương, trường Cao đẳng Hà nội và các trại lính khố xanh, các Thầy Thông, Thầy Phán các sở Nhà nước. Đó là phương pháp tuyên truyền của Nhà Nước Bảo Hộ để chống lại phong trào Ái quốc và Cách mạng do hai cụ Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh ở Hải ngoại về đã gây ra trong toàn thể quốc dân. Quyển sách kia có mục đích gián tiếp nhắc nhỡ cho dân An nam những “công ơn của nước Đại Pháp” đã gây dựng xứ Đông dương và nhất là xứ Trung kỳ rong thời gian nước Pháp cai trị. Ảnh hưởng của quyển sách L'Indochine d’hier et d’ aujourd’hui đối vơí học trò hình như cũng có hiệu nghiệm một phần nào, vì có một số ca tụng nước Pháp ghê lắm.

(Xem tiếp chương 31).

Nếu độc giả, đồng hương, thân hữu muốn: 

* Liên-lạc với Ban Điều Hành hay webmaster 
* Gởi các sáng tác, tài liệu, hình-ảnh... để đăng 
* Cần bản copy tài liệu, hình, bài...trên trang web:

Xin gởi email về: quangngai@nuiansongtra.net 
hay: nuiansongtra1941@gmail.com

*  *  *

Copyright by authors & Website Nui An Song Tra - 2006


Created by Hiep Nguyen
log in | ghi danh