Diễn đàn của người dân Quảng Ngãi
giới thiệu | liên lạc | lưu niệm

 April 09, 2025
Trang đầu Hình ảnh, sinh hoạt QN:Đất nước/con người Liên trường Quảng Ngãi Biên khảo Hải Quân HQ.VNCH HQ.Thế giới Kiến thức, tài liệu Y học & đời sống Phiếm luận Văn học Tạp văn, tùy bút Cổ văn thơ văn Kim văn thơ văn Giải trí Nhạc Trang Anh ngữ Trang thanh niên Linh tinh Tác giả Nhắn tin, tìm người

  Văn (Kim văn)
TUẤN CHÀNG TRAI NƯỚC VIỆT (Ch.6-10)
NGUYỄN VỸ
Các bài liên quan:
    TUẤN CHÀNG TRAI NƯỚC VIỆT (Ch.36-40)
    TUẤN CHÀNG TRAI NƯỚC VIỆT (Ch.31-35)
    TUẤN CHÀNG TRAI NƯỚC VIỆT (Ch 26-30)
    TUẤN CHÀNG TRAI NƯỚC VIỆT (Ch.21-25)
    TUẤN CHÀNG TRAI NƯỚC VIỆT (Ch.16-20)
    TUẤN, CHÀNG TRAI NƯỚC VIỆT (Ch.11-15)
    TUẤN, CHÀNG TRAI NƯỚC VIỆT (Ch.1-5)
    TUẤN, CHÀNG TRAI NƯỚC VIỆT (Tựa)
    NGUYỄN VỸ, NHÀ VĂN NƯỚC VIỆT

TUẤN CHÀNG TRAI NƯỚC VIỆT
Nguyễn Vỹ.

Chương 6.

Đám
rước dâu đi về nhà trai lẽ phải đi theo thứ tự họ hàng, và cô dâu phải đi bộ cùng với những người khác, vì phải nhường 5 chiếc xe kéo cho các bậc lớn tuổi của hai họ. Nhưng nhà trai đã có lời xin bên nhà gái cho phép để cô dâu đi một chiếc xe kéo.

Toàn thể họ nhà gái cũng đã bằng lòng. Vì vậy, cả hai họ đều thoả thuận sắp đặt trong số 5 chiếc xe kéo, hai chiếc chở hai ông kỳ-lão họ nhà trai, 2 chiếc chở hai ông kỳ-lão họ nhà gái, 1 chiếc chở cô dâu.

Còn hết thảy đều đi bộ. Chàng rể một mình một ngựa, thong dong đi sau cùng. Về nhà chồng, cô dâu và chú rể cũng phải lạy trước bàn thờ Ông Bà, xong rồi lạy các ông bác bà bác, ông chú bà thím, và vái chào tất cả những người khác trong họ nhà chồng. Có một lễ riêng biệt để trình diện với làng. Trên một chiếc bàn , họ nhà trai đã đặt một mâm trầu độ 200 lá trầu tươi , sắp từng xấp để quay tròn một mâm, và giữa mâm để một buồng cau. Bên cạnh là một bình vôi, một khay đựng 4 chai rượu, một khay đựng 4 gói trà. Toàn thể hương chức kỳ cựu trong làng đều có mặt. Ông Hương Cả đứng trước, sau lưng là cô dâu chú rể. Ông Hương thưa cho làng biết , chính thức là ngày hôm nay ông cưới vợ cho con trai. Ông nói dứt lời, ông Xã đứng dậy đáp:

- Anh em hương chức xin chúc cho hai họ, và lại chúc thầy Ký, cô Ký được bách niên giai lão.

Ông Hương Cả đứng né ra một bên để thầy Ký và cô Ký vòng tay cúi đầu vái ba vái tạ ơn làng. Lễ hôn thú như thế là xong xuôi mỹ mãn. Bây giờ hương chức trong làng và hai cha con thầy Ký Thanh vội vàng sửa soạn đón tiếp "cụ Sứ". Tại vì Lê văn Thanh đã mời "Quan Công Sứ " đến dụ tiệc, và "quan lớn" cùng với "bà lớn" đã nhận lời, cho nên không những gia đình Lê văn Thanh hãnh diện được đón tiếp vị thượng khách chủ tỉnh, mà cả làng xã cũng phải có bổn phận tiếp rước trọng thể "Quan Cai Trị Đại Pháp" dời gót ngọc đến làng. Nào ai dám phàn nàn việc ấy? Trái lại, các ông hương chức trên dưới đều lo lắng tổ chức cuộc tiếp rước thế nào cho khỏi bị "Quan Lớn" khiển trách. Nếu lỡ sơ sót điều gì, sợ "Quan Lớn Đại Pháp" la mắng, hoặc bỏ tù thì chết ch . Lại nghe thầy Ký cho biết rằng tối nay "Quan Lớn Công Sứ" sẽ đến với "Bà Lớn Sứ" và "Quan Lớn Phó Sứ, Bà Lớn Phó Sứ, Quan Tuần Vũ và Bà Lớn Tuần Vũ". Quả là một biến cố thật to lớn trong làng, từ xưa đến nay chưa từng có, và cũng chưa làng nào có được '"hân hạnh" to lớn ấy Ôi thôi, làng xã ai nấy đều lăng-xăng, lít-xít , trên từ ông Hương, ông Xã, qua chú Trùm, chú Thập, dưới đến mấy '"thằng dân ngu khu đen" (danh từ thông dụng trong giới Quan lại Việt Nam chỉ người dân dưới thờ Quân chủ) rộn rịp lo xanh mặt xanh mày.

Riêng Lê văn Thanh rất là hãnh diện. Mảnh bằng "bờ ri me" và chức vị "thông ngôn, ký lục" của chàng kể đã vinh quang lắm rồi, còn oai hơn cả các ông Đồ Nho thi đỗ Cử nhân, Tiến Sĩ lúc bấy giờ đã không còn được trọng dụng nữa. Nhưng đối với Thanh, sự chàng mời được "Quan Công Sứ Đại Pháp" mà chàng gọi bằng tiếng Tây là "Mơ-sừ Lơ Rề-si-đăng đờ Phờ răng xờ" đến dự tiệc của chàng đó mới là một vinh dự quý báu tuyệt trần. Ai mà dám mời quan Công Sứ? ông Tiến sĩ, ông Phó bảng, dù có được ăn yến tiệc của nhà Vua chăng nữa, cũng đâu có dám mời "Quan Công Sứ" ở tỉnh. Chỉ có chàng. Phải, cả tỉnh này chỉ có chàng, là Lê văn Thanh thông ngôn của "cụ Sứ ", là dám mời cụ sứ đến tận nhà chàng để ăn tiệc cưới của chàng mà thôi! "Mơ-sừ-Lơ-rê-si-đăng" đã hoan hỉ nhận lời. Cả Bà Đầm nữa! Cả Quan Phó Sứ và bà Đầm Phó Sứ nữa! Hãnh diện xiết bao! Vẻ vang xiết bao! Cho nên chàng thông ngôn trẻ tuổi Lê văn Thanh đã gọi dân làng từ năm hôm trước, dựng lên một nhà khách, ngay trước mái hiên nhà chàng, để làm nơi tiếp đón "Quan Công Sứ Đại Pháp", và "Quan Phó Sứ, Quan Tuần, với quý bà Đầm, quý phu nhân, quý cụ, quý quan, quý thầy..." Chàng mua chiếu hoa trải kín mặt đất nhà khách, và mua vải xanh, vải trắng, vải đỏ về mượn người may hai chục lá cờ tam tài của nước "Đại Pháp", để cắm từ ngoài cổng vào đến khắp nhà.

Vì lúc bấy giờ không có máy may (cả tỉnh không có một bàn máy may nào) cho nên chàng phải mượn năm người đàn bà trong xóm may bằng tay trong ba ngày mới xong. Làng, thì sai dân đào lổ đóng cờ đuôi phượng loè loẹt đủ mầu, hai bên lề đường từ ngoài phố vào đến cổng nhà thầy Ký Thanh. Theo lời thầy Ký Thanh cho biết thì "Quan sứ " có nói với thầy là "Quan"sẽ đến hồi 20 giờ. Các ông làng hỏi thầy để cho rõ:

- 20 giờ là mấy giờ, thầy ký?

Chính Lê Văn Thanh cũng không biết 20 giờ là mấy giờ. Từ lúc đi học đến khi đi làm việc ở toà sứ, chàng chỉ biết theo kiến thức thông thường là mặt trời mọc vào khoảng 6 giờ sáng, đúng ngọ là 12 giờ trưa, mặt trời lặn khoảng 6 giờ chiều. Lần đầu tiên chàng nghe quan công sứ bảo quan sẽ đến dự tiệc lúc 20 giờ, chàng cũng "uỷ, uỷ, mơ-xừ" mà chàng mù tịt chẳng hiểu: 20 giờ là mấy giờ. Nhưng không lẽ chàng tỏ cho các ông làng thấy rằng chàng không hiểu "giờ tây", nên chàng cứ trả lời ẩu, ra vẻ thông thạo: - 20 giờ là vanh-tờ-rờ. - Vanh-tờ-rờ là mấy giờ an nam? Giờ Dậu, giờ Tuất hay giờ Hợi? thầy làm ơn cho làng chúng tôi biết để đón rước "Quan Công Sứ". Lê văn Thanh nổi quạu: - Vanh-tờ-rờ là giờ Dậu.

Khổ nổi không ai có đồng hồ để coi 'giờ tây'.

Thầy Ký Thanh làm việc nhà Nước mà còn không có đồng hồ nữa là. Đồng hồ là một vật quý chỉ các quan Tây có mà thôi. Mấy phố lớn của khách trú ở tỉnh cũng không có bán. Thầy Ký Thanh nói ẩu 20 giờ là giờ Dậu, rồi ông Tú Phong, nhà Nho thông thái nhất trong làng, chỉ tính ra giờ Dậu, là lúc mặt trời vừa lặn. Cho nên từ giờ Thân, vào khoảng 4 giờ chiều, toàn thể các ông hương chức trong làng đã lo khăn đen áo dài (riêng ông xã mặc áo rộng xanh) đã đứng chực từ ngoài đường phố. Dân đinh thì kẻ khuâng trống, khiêng chuông, người cầm hèo, cầm lọng. Có hai cây hèo và sáu cây lọng hết thẩy.

Nhưng mặt trời lặn đã từ lâu, trời đã tối, mà các Quan chưa đến. Ông Xã hết sức lo lắng, lật đật sai dân phải đi kiếm xác mía, hoặc rơm, bó làm hai chục cây đuốc, để thắp lên cho sáng. Hôm ấy là ngày 18 âm lịch. Các ông hương chức tính theo phong dao Việt Nam, để biết chừng nào có trăng:

17, nẩy lửa
18, nám đống trấu
19, nín một canh
20, tuất rốt
21, nửa đêm
(đêm 17, vừa nẩy lửa, nghĩa là vừa đốt đèn thì có trăng.
đêm 18, đốt đống trấu vừa nám thì có trăng.
đêm 19, nín một canh qua canh hai có trăng,
đêm 20, thì cuối giờ Tuất có trăng,
đêm 21, đến nửa đếm có trăng)

Đêm nay 18 ư, "nám đống trấu". Mấy ông làng căn cứ theo câu phong dao rất thông dụng ấy mà đoán chừng rằng vừa đốt đống trấu vừa cháy nám thì sẽ có trăng. Có lẽ quan Công Sứ đợi có trăng lên thì quan sẽ tới chăng? Nhưng quan Công Sứ bảo với thầy Ký rằng quan sẽ đến lúc 20 giờ. Thầy Ký Thanh nói lại với làng rằng 20 giờ là giờ Dậ , ông Tú Phong cho biết giờ Dậu là lúc mặt trời lặn. Thế mà bây giờ trời đã tối đen, tối thui, ông Xã lật đật chạy đi hỏi ông Tú Phong, ông bảo giờ này là giờ Tuất.

Hay là quan Công Sứ không đến? Lê văn Thanh cũng bồn chồn lo ngại. Chàng cứ sợ rằng '"Mơ-sừ-lơ-Rê-di- đăng" không đến thì... chàng mắc cỡ với làng xóm biết bao.

Nhưng sự thật 20 giờ là mấy giờ? Chàng băn khoăn suy nghĩ mãi. Trong nhà khách, đèn bánh ú phất bằng giấy ngũ sắc và các ngọn đèn '"toạ đăng", đèn "huyền đăng", cái thì thắp bằng dầu phọng, cái thì thắp bằng dầu dừa, có đến hai chục ngọn, toả ra ánh sáng vàng hoe, lúc tỏ lúc mờ. Người ta kẻ ra người vào đông nghẹt, ai nấy đều nóng ruột đợi chờ, bàn tán thì thầm -- không ai dám cười to nói lớn. Bỗng từ ngoài ngõ, có tiếng xôn xao:

- Cụ lớn tới! Cụ lớn tới! '

Rồi tiếng trống, tiếng chiêng nổi dậy: "Thùng!..thùng.. thùng!.. Boong..boong... boong". Trên hai chục bó đuốc thắp lên sáng rực cả một góc trời.

Những đám người đông nghẹt ngoài hè, ngoài sân, ngoài hàng rào, đều thấy hai ông Tây, hai bà Đầm và một ông quan An Nam đeo thẻ ngà tòn-ten trước ngực. Ông Xã và các hương chức đều sụp xuống đất lạy "Qúy Quan". Chàng thanh niên Lê văn Thanh với ông Hương Cả đã chạy ra đến nơi, cúi đầu cung kính vái chào. Ông Sứ gật gật đầu... bà Đầm cũng gật đầu... Lê văn Thanh mời quí vị quan khách vào nhà. Tuy trời tối và gió mát, nhưng dân làng cũng phải theo nghi lễ, cầm sáu cây lọng che sáu vị thượng quan: "Quan Sứ và bà đầm" đi trước, kế đến là "Quan Phó Sứ và bà đầm phó sứ", rồi mới đến "Quan Tuần và bà lớn". Tất cả các quan khách khác đi theo sau không có lọng. Tiếng trống tiếng chiêng - Thùng! Thùng! Thùng! Boon! Boong! Boong! còn vang rền, cho đến khi "Quý Quan" đã an toạ trong nhà khách.

Chương 7

Phía sau
nhà, mặt trăng sáng rực từ từ trồi trên mấy ngọn tre xao xác gió , dội ánh sáng mát dịu tràn ngập trên vườn cau. Mọi người đều nô nức hân hoan , nhưng vì sợ "Quý Quan" nên ai nấy đều im lặng... đi nhón gót , và nói thì thầm. Chỉ nghe tiếng nói tiếng cười xí lô xí la của "quý Quan Tây" và "quý bà đầm"...
Lê văn Thanh đứng hầu , thỉnh thoảng trả lời câu tiếng Tây "Uỷ , Mơ sừ lơ rê si đăng".

Quan Công Sứ vui cười bảo Lê văn Thanh :

- Vợ mày đâu? Mầy không giới thiệu với chúng tao à!

Bà đầm cũng hỏi Thanh:

- Chắc vợ mầy đẹp lắm hả?

Thanh không biết khiêm tốn, thật thà khoe với bà đầm bằng thứ tiếng "bồi ba rọi":

- Oui, madame, ma femme est plus jolie, elle est la première plus jolie que dans cette province.

(Dạ, thưa bà, vợ tôi là đẹp hơn, đẹp thứ nhất trong tỉnh nầy).

Các ông tây bà đầm đều cười rộ lên. Họ cười vì chàng nói chữ tây trật bậy, trật bạ, vì câu trả lời khoe khoang ngớ ngẩn. Nhưng Lê văn Thanh tưởng là họ khen, nên chàng tỏ vẻ hãnh diện. Chàng quay ra đám bà con, họ hàng, làng xã, dân chúng, đứng xúm xít chung quanh, đông nghẹt cả sân, cả hè, để coi ông tây bà đầm.

Chàng nói lớn với họ:

- Vô biểu vợ tôi ra đây để ra mắt cụ Sứ, các quan lớn bà lớn.

Tức thì có hai ba người chạy vào trong nhà, nói to:

- Cô Ký đâu? Cụ Sứ và cụ lớn, bà lớn kêu cô ra để chào các quan! Ra mau! ra mau!

Tò mò nhất là bà đầm vợ viên công sứ, một thiếu phụ Pháp, trẻ đẹp, trạc 30 tuổi, bà muốn thấy lần đầu tiên một cô thiếu nữ Việt Nam con gái một nhà giàu nhất tỉnh mà bà nghe nói có học chữ Quốc Ngữ, lại là vợ một viên thư ký, nghĩa là vào hạng "văn minh" nhất thời bấy giờ, xem nhan sắc, lối ăn mặc, điểm trang, cử chỉ, ngôn ngữ của cô như thế nào.

Cô Ba Hợi từ trong nhà bước ra, cô vòng tay trước ngực, có vẻ thẹn thùng và rất sợ sệt. Cô ăn mặc ba lớp áo mầu dài đến đầu gối, quần đen, đi chân không, đầu búi tóc xức dầu dừa mặt đẹp tự nhiên không son phấn.

Trình diện với các quan khách, cô vòng tay trước ngực, luôn luôn cúi mặt xuống và không cử động nào. Cô đứng yên như pho tượng. Viên Công Sứ cười bảo Thanh:

- Mầy bảo nó ngước mặt lên xem nào. Nó có vẻ đẹp lắm.

Thanh quen mồm đáp cụ Sứ:

- Uỷ mơ-sừ Lơ-rê si- đăng

Rồi chàng khẽ bảo vợ:

- Cụ Sứ bảo ngước mặt lên.
(Thời bấy giờ thanh niên nói với vợ mới cưới hay là nói với người yêu chưa biết gọi bằng "em" thường gọi trống không)

Cô Nguyễn thị Hợi ngượng nghịu, bẽn-lẽn, khẽ ngước mặt lên một tí thôi. Bà đầm gật đầu, nói nhỏ với chồng:
- Nó đẹp đấy nhi?

Ông Tây cũng gật đầu :

- Không xấu.

Viên Công Sứ theo lễ độ của người Pháp, đứng dậy, nghiêm nghị nói với vợ chồng Lê văn Thanh:

- Chúng tôi thành thật cảm ơn cha mẹ anh và anh đã có lòng tốt mời chúng tôi đến dự buổi tiệc rất đẹp hôm nay, để mừng đám cưới của anh, và nhân dịp vui nầy chúng tôi có lời chúc anh và vợ anh một hạnh phúc lâu dài một trăm năm.

Lê văn Thanh tại vì không thông thạo chữ tây lắm, nên chỉ biêt đáp lại một câu cám ơn cụt ngủn:

- Mẹc xì, Mơ-sừ Lơ-rê-si-đăng.

Xong, chàng bảo vợ vái chào "cụ Sứ" và các quan. Nàng làm theo lời của thầy Ký Thanh.

Khi cô Nguyễn thị Hợi đi rồi, bà đầm hỏi Lê văn Thanh:

- Sao coi bộ nó buồn thế? Không có một tí nụ cười nào cả.

- Dạ thưa bà nó sợ lắm.

Bà đầm hỏi “tại sao?”, Thanh không biết trả lời.

Các quan đều phì cười, nhưng cũng khen Thanh cưới được vợ đẹp lắm và có vẻ hiền lành.

Buổi tiệc vui vẻ, kéo dài đến lúc trăng lên trên nóc nhà, vào buổi giờ Hợi (11 giờ khuya). Lê văn Thanh không ngồi bàn, luôn luôn vòng tay đứng bên cạnh “ông Sứ” để “hầu hạ” và đối đáp những lúc các ông tây bà đầm hỏi chuyện về phong tục Việt Nam.

Làng xã và dân đều chầu chực ngoài sân, ngoài vườn, ngoài ngõ, đông như buổi chợ. Họ phải đợi khi quan Sứ về, họ lại đánh trống, đánh chuông, và đốt ba chục bó đuốc, tiển các quan ra đến ngoài đường. Quan Sứ, quan phó Sứ, và hai bà đầm, lên ngồi xe hơi, chiếc xe hơi độc nhất hiệu Delahaye, cao ngồng, và kêu rầm rầm, mà dân chúng không dám đến gần, sợ nó “hút chết”. Quan Tuần vũ lên xe song mã, bánh sắt, hai con ngựa kéo. Các quan tây khác đều cưỡi ngựa, mỗi con ngựa đều có đeo lục lạc quanh cổ, kêu leng keng... leng keng khi ngựa chạy. Quan Phán Bích đầu Tòa ngồi trên chiếc xe kéo nhà của ông, do một người “cu-li” kéo, và một người dân làng đẩy phía sau, cho xe chạy êm. Còn các quan khác đều đi bộ về tỉnh, nhưng có dân làng cầm đuốc hộ tống về đến Cửa Bắc.

Tính ra tiệc cưới của Lê văn Thanh tốn hơn 300 quan tiền kẽm. Đám cưới, và nhất là bữa tiệc, vì bữa tiệc này quan trọng hơn đám cưới, được dân làng, dân tỉnh, và bà con cô bác xa gần, bình phẫm cả tháng chưa hết chuyện. Đại khái họ nói về cô Nguyễn thị Hợi và Lê văn Thanh:

- Cô Ký được bà Sứ khen là xinh.

Cô Hai Nghĩa, em họ của Thanh:

- Chị Ký mặc áo đẹp quá, răng đen bóng cũng đẹp quá.

Chú Trùm Trương tắc lưỡi:

- Thầy Ký nói tiếng tây hay ghê! Mình biết vậy, hồi đó mình học tiếng tây chơi, bây giờ cũng làm thầy Ký rồi.

- Thầy xổ tiếng tây đóp-đóp, quan Sứ, bà Sứ hỏi gì thầy cũng trả lời trôi chảy hết. Thiệt là giỏi!

Mấy bà già và mấy cô gái ưa phê bình bà Sứ không ngớt:

- Nè bà đầm có hai cái vú to bằng trái bưỡi lận, bà con ơi.

Cả đám đông phụ nữ cười sặc sụa. Bà Hương Bộ nói chêm vào:

- To hơn trái bưỡi đó! To hơn cái đầu thằng Tý đây nè.

Bà chỉ cái đầu thằng Tý bà ẵm trong tay, con bà vừa mới thôi nôi.

Mấy bà mấy cô cười nghiêng ngả.

Cô Bốn Định, con gái bà xã Bảy, hỏi:

- Sao đầm họ để vú tròn vo vậy mà họ không mắc cỡ thím Hương he !

- Ờ sao họ không mắc cỡ! Người An Nam mình thì lo ép cái vú cho nhỏ bớt, đầm họ cứ để vậy, vậy mà văn minh gì đâu?

- Họ để răng trắng nhờn, không nhuộm, coi cái miệng trơ quá há?

Bà Xã Bảy khám phá một điều ghê gớm hơn nữa, nhưng bà nói nho nhỏ, sợ đàn ông nghe:

- Nè, đầm họ không mặc quần!

Cả đám phụ nữ cười lăn lộn, cô Hai Bình té ho sù sụ và cười sặc sụa. Thím Hương Kiểm vừa nhai trầu vừa hỏi:

- Sao chị biết họ không mặc quần?

Câu hỏi không có câu trả lời, chỉ toàn là tiếng cười ồn ào, ầm ỹ cả nhà. Thím Hương Kiểm nhổ một bãi nước trầu đỏ ngòm trên hè, lấy tay chùi miệng rồi nói tiếp:

- Tui, thì tui thấy họ không biết ăn trầu. Hồi anh Ký nó bưng khay trầu ra mời, bà đầm hỏi gì đó rồi bả lắc đầu. Chỉ có Quan Tuần Vũ và các quuan khách An Nam ăn thôi. Tây với Đầm không ai ăn cả.

Cô Bốn Định hỏi:

- Thím xã có thấy đôi giày của bà Đầm không Giầy gì mà cái gót cao nghệu, vậy mà họ đi không té, tài thật!

Bà Xã làm ra vẻ thông thạo :
- Tại đầm họ bước đi thì hai cái mông đít lắc qua lắc lại, họ không té chớ sao!

Trong lúc phụ nữ phê bình bông lơn về y phục của bà đầm, thì đàn ông cũng phê bình ông tây. Hầu hết dư luận dân chúng, từ lão thành đến thanh thiếu niên đều có tính cách vừa sợ sệt, vừa khôi hài. Họ sợ sệt vì ông tây to lớn, lưc lưỡng "oằm xừ" và '"Nhà Nước Đại Pháp văn minh". Nhưng họ vẫn khôi hài, chế nhạo vì những cử chỉ phong tục của người tây phương không giống với người mình. Họ vẫn mỉa mai, đặt lên những câu ca dao và những bài vè trào phúng để ngạo ông tây. Nhưng đó là lén lút. Chứ giữa đời sống mới của nước nhà công khai đặt dưới quyền ông tây, thì Lê văn Thanh được dịp "oai" với làng xã, và bà con cô bác.

Bây giờ ai cũng sợ chàng. Cô Ba Hợi cũng được dân làng kính nể. Cô đi ra phố, ai gặp mặt cũng cúi đầu, chấp tay chào "thưa cô Ký"... "thưa chị Ký" ... "thưa dì Ký". Cho đến ông Tú Phong, nhà Nho học lão thành, và được dân chúng kính phục, thầy học cũ của Lê văn Thanh, gặp hai vợ chồng Ký Thanh cũng chào hỏi niềm nở: "Thầy Ký ở tên toà về đấy à?"... "thầy Ký lên toà đấy hả?"... "cô Ký đi chợ hay đi đâu đó?".

Nhất là từ năm 1915, thì tất cả kỳ thi Hương, thi Hội và Nho học ở Trung Kỳ đều bị bãi bỏ hẳn, do sắc lệnh của "Hoàng Đế An Nam" tuân theo chính sách của Nhà Nước Bảo Hộ, ông Tú Phong coi bộ buồn bã, tức giận, nhưng không thốt ra một lời.

Từ khi có sắc lệnh mới của Vua năm 1915, bãi bỏ khoa cử theo lối xưa, học trò ít đi học ông Tú Phong nữa. Một số đông thanh thiếu niên trong tỉnh bắt đầu nộp đơn xin học trường "Nhà Nước" , gọi theo danh từ là "Trường Pháp Việt" - "Ecole Franco - Annamite, hay là Ecole Franco Indigène".

Nhưng chúng ta hãy tạm gác lại những sự kiện lịch sử này, trong một chương sau tôi sẽ nói tiếp. Bây giờ chúng ta trở lại đêm tân hôn của Lê văn Thanh, chàng thanh niên mới cưới vợ, năm 1915.

Sau khi các quan khách ra về rồi. Ông Hương Cả, thân sinh của chàng, gọi chàng vào nhà trong để nói nhỏ với chàng một giọng rất nghiêm nghị:

- Cha đã chọn giờ tốt cho con "động phòng" trong đêm tân hôn của con. Con phải đợi đúng giờ Tý, ước chừng mặt trăng lên đến giữa sân, con mới được vô buồng làm lễ "hoa chúc" với vợ con.
Lê văn Thanh hí hởn sung sướng lắm. Chàng chạy ra sân ngó lên trời, thấy trăng lơ lửng trên nóc nhà còn một xí nữa mới lên đến giữa sân. Chàng vào nhà khách chờ đợi rất ngoan ngoãn.
Một lát sau trăng lên gần giữa sân. Thanh không kịp hỏi cha , mừng quýnh, len lén chạy trước cửa buồng của chàng và đẩy cửa bước vào. Chàng cài then lại. Cô Nguyễn thị Hợi bẽn-lẽn, đang ngồi trên một góc giường. Cô vẫn mặc y nguyên cả ba chiếc áo lụa dài, không cởi ra. Thanh thấy một chiếc bàn mà ai đã kê sẵn nơi đầu giường lúc nào chàng không được biết. Trên bàn đã để một dĩa trầu cau têm rồi, một bình rượu với hai cái chén nhỏ. Hai cây đèn bạch lạp cháy hiu hiu... Thanh đến trước mặt cô Hợi, nhưng không đứng gần. Với một giọng run run, gần như không ra tiếng, chàng nói ấp úng, nàng ngồi cúi mặt xuống nghe:

-... Ơ... Ơ... làm lễ động phòng... hoa chúc...

Nói mấy lời đó, chàng cũng rụt rè e lệ. Nàng khẽ đáp:

- Thầy (1)... Ông lạy trước Nguyệt... hai... đứa... mình phải lạy một lượt chớ.

Nàng đứng dậy. Chàng bước đến bàn thờ Nguyệt lão (2), lấy bình rượu rót ra hai chén, rồi thắp hai que nhang, đưa cô Hợi một que, chàng cầm một, Hai người đồng lạy. Xong chàng lấy một chén rượu đưa cô Hợi:

-... Ơ... Ơ... uống rượu...

Nàng đưa hai tay lễ phép nhận chén rượu, và nâng lên uống cạn một lượt với chàng. Chén rượu nhỏ thôi, chắc là uống không say lắm.

Chàng lại lấy một miếng trầu cau, trao nàng:

- Ơ... Ơ... ăn trầu...

Nàng cũng đưa hai tay lễ phép nhận miếng trầu tươi cau tươi và đưa vô miệng nhai. Nàng nhai nhỏ nhẹ chầm rãi, rất có duyên. Chàng vừa ăn trầu, vừa cởi chiếc áo gấm và áo dài trắng treo trên tường, chỉ còn mặc chiếc áo cụt. Chàng lên giường nằm, miệng còn nhai trầu mỏm mẻm. Cô Nguyễn thị Hợi vẫn cứ mặc nguyên ba áo hàng mầu, ngồi ghé một bên mép giường, cúi mặt xuống ra chiều bối rối, hai tay mân mê tà áo.

Tuy đã lên giường , nhưng Lê văn Thanh còn mắc cỡ nằm quay mặt vào vách đất, làm thinh, miệng cứ nhai trầu không ngớt. Một lát khá lâu, chàng cất tiếng nói, nhưng không dám ngoảnh mặt ra ngó cô vợ mới cưới:

- Cô Ba không cởi áo đi nằm, kẻo mệt! Khuya rồi...bây giờ là giờ...Tý...

Nàng khẽ đáp: "dạ" nhưng không dám cởi áo, cứ để nguyên ba lớp áo hàng mầu, nằm ghé xuống bên lề giường.

Rồi mạnh ai nấy ngủ.

Gà gáy hết canh năm (vào khoảng 5 giờ sáng), chàng chợt tỉnh dậy, thấy vợ nằm sát cạnh giường sắp té xuống đất, mới nằm lại gần nàng, nắm tay lung lay:

- Cô Ba... cô Ba... nằm xít vô, kẻo té... nằm xít vô...

Nàng vẫn nhắm mắt như ngủ mê, nhưng cũng nghe lời chàng, nằm xít vào một tí, một tí thôi. Chàng hồi hộp sung sướng, khẽ đặt bàn tay lên cánh tay cô vợ trẻ mà chàng nhìn thấy xinh đẹp như nàng Tiên giáng thế...

Lê văn Thanh hồi hộp khẽ đặt bàn tay lên cánh tay áo hàng mầu lục của cô vợ trẻ... cô Ba để yên, không nói gì nhưng khi chàng bạo tay hơn một tí, khẽ đưa bàn tay dần dần lên ngực cô, thì cô Ba hất tay ra, rồi co cánh tay của cô lên để che ngực, mặc dầu cô đã mặc ba lớp áo hàng mầu, chưa kể áo cụt trắng ở trong cùng chiếc yếm đen của cô cột chặt vào cổ và lưng.

Thấy cô vợ mới cưới còn giữ gìn e lệ, Lê văn Thanh không dám làm ẩu, vội vàng rút bàn tay, nằm im phăng phắc.

Gà gáy lần thứ hai... rồi lần thứ ba, vào khoảng 6 giờ sáng. Trong cảnh vật còn mơ màng lặng lẽ, mọi vật như còn ngái ngủ, tuy trời đã hừng sáng, tiếng kèn rạng đông ở trại lính khố xanh bổng vang lên thánh thót, cả tỉnh thành đều nghe:

tò te tí tò tí te
tí tò tí te, tí tò te tí
te tò te tí , tò tí te
tí tò tí te , tí tò tò te...


Cô Nguyễn thị Hợi vội vàng ngồi dậy, không nói năng một lời, ra mờ cửa buồng, đi thẳng xuống bếp. Cô đến chum nước lạnh, lấy gáo dừa múc một gáo nước, trút nước ra bàn tay đưa lên rửa mặt. Rửa xong, cô đưa vạt áo dài lên lau. Cô hớp một hớp nước để súc miệng. Lúc bấy giờ không có thuốc đánh răng. Vả lại, răng các bà, các cô đã nhuộm đen (cả một số đàn ông theo Nho giáo cũng nhuộm răng đen) thì làm sao đánh răng được?

Trái lại, lâu lâu cách năm bảy tháng, cô Nguyễn thị Hợi còn phải nhuộm lại hàm răng cho đen thêm, đen ánh như hột mãng cầu (tiếng bắc: hạt na). Trong mấy ngày nhuộm răng, để cho thuốc nhuộm thật khô, cô Ba Hợi phải nhịn ăn các đồ nóng và các đồ cứng rắn, chỉ ăn cơm nguội hoặc cháo nguội, và các món ăn mềm.

Cô Ba Hợi - từ nay người ta gọi là cô Ký Thanh - vào nhúm bếp nấu nước sôi để pha trà. Thầy Ký đã thức dậy, ngồi ghế tràng kỷ ở nhà trên, uống trà với ông Hương Cả, thân phụ của chàng.

Tội nghiệp cho chàng thanh niên mới cưới vợ! Đêm tân hôn đáng lẽ là đêm thơ mộng xiết bao, là đêm tràn trề hạnh phúc của tình yêu son trẻ, mà sau khi làm lễ hợp cẩn với vợ, chàng vẫn chưa được gần vợ, bởi cô còn quá thẹn thuồng chua dám gần chàn!

Cho đến đêm thứ hai, nàng vẫn còn xa cách... chàng phải rủ rĩ bên tai nàng vài câu chuyện bâng quơ, gợi nói chuyện sao cho nàng mỉm cười, nàng vui vẻ, bạo dạn, hết còn bẽn-lẽn, sợ sệt như đêm đầu. Ký Thanh không quên xử dụng vài câu chữ Nho trong các sách Khổng giáo để quyến dụ người đẹp đêm tân hôn. Chống tay trên chiếc gối gỗ, nửa nằm nửa ngồi khép nép bên lề giường, chàng run đùi khẻ nói, cố gắng giọng hùng hồ như Thầy Đồ dạy học:

- 'Đức Thánh, Ngài nói rằng: "Thiên hạ chi đạt đạo ngũ viết quân thần giã, phụ tử giã, phu phụ giã, môn đệ giã, bằng hữu chi giao giã, ngũ giã, thiên hạ chi đạt đạo gĩa... " (ở đời có 5 đạo: đạo vua tôi, đạo cha con, đạo vợ chồng, đạo anh em, đạo bạn bè giao hảo: ấy là 5 đạo thiên hạ phải thực hành). Tôi tự xét tôi đi làm việc Nhà Nước, ấy là tôi đạt được quân thần chi đạo. Tôi ăn ở có hiếu với cha, ấy là tôi đạt được phụ tử chi đạo... Nay tôi đã gá nghiã cùng cô Ba, thì tôi trộm xét cái thân bảy thước này không đến nổi vô ích với đời, tôi đã thành đạt cái nam nhi chi khí. Tôi thương cô Ba bao nhiêu, tôi lại nhớ câu trong Kinh Thi bấy nhiêu: "thê tử hảo hợp, như cổ sắt sắc cầm, nghi nhĩ thất gia lạc nhĩ thê noa... Phụ mẫu kỷ thuận hỹ hồ" (vợ con hoà hợp như tiếng đàn sắt đàn cầm, nhà cửa đoàn tụ vợ con vui vẻ... cha mẹ được hoan hỷ lắm thay... )

Ký Thanh ngâm mấy câu sách Nho, khoái chí gật đầu, rồi cao hứng xổ một mớ tiếng tây ba rọi:

- Tục ngữ An Nam mình nói: "Thuận vợ thuân chồng, tát biển đông cũng cạn". Tây thì nói "Unis la femme et le mari, puisser de l'eau... dans le mer de l'Est... est vidé aussi...".

Thanh vừa nói vừa nhai trầu mỏm mẻm, vừa cười tủm tỉm. Chàng nuốt nước trầu một cách ngon lành, trong lúc cô Ba ngồi nghe như vịt nghe sấm, thầm phục ông chồng tài hoa cùa cô. Chàng khẻ bảo:

- Cô Ba nằm xuống nghỉ, kẻo khuya rồi, cô Ba. Đã quá giờ Tý rồi đó.

- Dạ thầy ngủ trước đi.

Lê văn Thanh nằm xuống giả vờ ngủ và ngáy khò khò... Chàng chỉ giả vờ thôi, sự thực thì chàng vẫn thức, để rình lúc cô Ba ngủ.

Một lúc sau, cô Ba đứng dậy nhẹ nhàng, cởi áo dài ra, chỉ còn mặc áo cụt trắng. Cô nằm xuống, nhưng vẫn nằm riêng bên lề giường. Cô không dám đụng chạm vào da thịt người đàn ông, chồng của cô. Một lúc khá lâu, cô nghe ở nhà trên, nhà cầu, nhà bếp, ngoài hè toàn những tiếng ngáy của những người đã ngủ say, mệt mỏi. Trên đất, tiếng thằn lằn chặc lưỡi. Tiếng ếch nhái kêu ột... uệch... ngoài sân…Cô nằm lim dim một lúc, không cựa quậy. Thanh tưởng cô đã ngủ rồi, mới len lén nằm kề bên cô.

Chàng khẽ đặt mũi lên đôi má âm ấm của nàng mịn và thơm như hai cánh hoa đào, chàng say sưa hít liên tiếp hai ba hơi. Đó là những nụ hôn đầu tiên của cặp thanh niên âu yếm hồi đầu thế kỷ này. Nàng làm bộ ngủ mê để chàng muốn làm gì thì làm. Đêm nay, nàng không chống cự, từ chối một tí gì cả.

Một buổi sáng, trong lúc Ký Thanh ngồi uống nước trà trên tràng kỷ với ông Hương Cả, ông bảo chàng:

- Tiệc cưới của con, tất cả bà con cô bác trong tỉnh ai cũng có tới dự vui vẻ. Nhưng cha không thấy mặt chú thợ Ba, cha thằng Chuột. Tại sao vậy kìa?

- Chú thợ mộc ấy không ưa nhà mình.

- Cha nghĩ chắc rằng có lẽ thằng Chuột được Nhà Nước cho học bổng đi học trường Quốc Học ở Huế, nên chi chú thợ Ba làm phách, không thèm tới dự tiệc cưới của con đó.

Ký Thanh nổi giận:

- Tiệc cưới của con, trên có cụ Sứ, cụ Phó Sứ, cụ Tuần, dưới có làng xã đông đủ hết, như vậy đã danh giá biết bao. Chú thợ Ba làm phách với ai, chớ làm phách với nhà mình sao được?

- Chắc có lẽ chú ỷ thằng Chuột học giỏi hơn con?

Ký Thanh làm thinh, ganh ghét thằng Chuột nhưng không làm sao được.

Ông Hương Cả đoán như có phần đúng hẳn. Thằng Chuột - từ nay chúng ta gọi tên chính thức của chính nó là Trần Anh Tuấn - đã cắp vở đi học trường Nhà Nước sớm hơn Lê văn Thanh hai năm. Các bạn còn nhớ hồi đó nó mới 8 tuổi chưa biết mặc áo quần, vì thầy giáo quen với cha nó, doạ nạt nếu nó không đi học trường Nhà Nước thì cha mẹ nó sẽ bị quan tây bỏ tù, cho nên nó phải cắp vở đi học A, B, C...

Hai năm sau, Lê văn Thanh nhờ thằng Chuột dạy lại A, B , C... cho chàng, rồi chàng xin vào học lớp Năm "Trường Nhà Nước", thì giờ bà con trong tỉnh và ở cửa Bắc, không gọi nó là thằng Chuột nữa, mà gọi nó đỗ bằng "ri-me", vì Trần Anh Tuấn là người học trò đầu tiên ở cửa Bắc học chữ tây đã thi đổ cấp bằng ấy. Đáng lý ra, Tuấn được danh vị mới là "Tân Học Khoá Sanh". Nhưng theo lệ làng đã có từ thời Nho học, người nào thi đỗ một cấp bằng mới, được chức mới, phải giết bò giết heo "khao làng" (đãi làng) thì dân chúng trong làng cũng như trong tỉnh, mới chính thức gọi kẻ tân khoa bằng chức vị mới. Không phải thi đỗ Tú Tài, Cử Nhân là được người ta gọi "ông Tú", "ông Cử" đâu. Phải làm tiệc khao làng, đãi toàn thể dân làng ăn uống rồi mới được dân làng gọi "ông Tú", "ông Cử". Tục lệ "xôi thịt" ấy có từ thời khoa cử cựu học, thời đại phong kiến của chế độ quân chủ, vẫn cứ duy trì với trào lưu tân học.

Vì Tuấn con nhà nghèo, gia đình chú thợ mộc không có tiền để khao làng xã, cho nên Trần Anh Tuấn thi đỗ "ri-me", vẫn bị dân làng gọi là "trò Chuột", chớ không ai gọi là "cậu Khoá". Vả lại, Tuấn, mới 12 tuổi, nên bị coi như là con nít, không được người ta trọng vọng.

Trái lại, hai năm sau Tuấn, Lê văn Thanh thi đỗ bằng "ri-me", nhờ nhà nước hạ lệnh "đón rước tân khoa" và nhờ ông Xã Quý giết bò, giết heo, để đãi làng ăn uống phủ phê suốt hai ba ngày, cho nên Thanh được dân làng tâng bốc. Kế đó, Thanh được bổ làm thông ngôn ký lục ở toà Sứ, lại khao lần nữa, mới được làng gọi là thầy "Ký".

Trần Anh Tuấn, con chú thợ mộc, nghèo, không có ruộng đất, tuy học giỏi hơn Thanh, thi đỗ sớm hơn Thanh hai năm, và được nhà nước bảo hộ cấp học bổng cho đi học trường Quốc Học ở Huế, vẫn cứ bị làng xã gọi là "trò Chuột", cái tên ấy không vinh dự tí nào.

Chính ông Hương Cả cũng khinh miệt thằng Chuột là con nít và coi rẻ chú thợ mộc là dân nghèo. Tức giận vì sự cách biệt khinh khi ấy, nhưng hãnh diện vì con mình được đi học ở Huế, sẽ đỗ đạt cao hơn và sẽ làm chức tước lớn hơn, nên cha "trò Chuột" không thèm đến dự tiệc cưới, nhưng chú thợ mộc Ba cũng đến mừng xã giao ông Hương Cả và "thầy Ký". Chú mặc bộ quần áo vải ta, thứ vải thô sơ rẽ tiền nhất do người trong xóm dệt bán, mà chú thường mặc thường ngày, một chiếc khăn vắt vai, chú đi lửng thửng đến nhà ông Hương Cả. Trong câu chuyện bãi buôi, ông Hương Cả mời chú Ba thợ mộc ăn trầu, rồi hỏi:

- Thằng Chuột bây giờ học lên lớp mấy, chú Ba?

- Dạ, thưa ông Cả, nó mới học lớp đệ nhị niên.

- Mấy năm nữa mới thi lận?

- Dạ thưa, nó nói còn hai năm, đệ tam niên, đệ tứ niên, rồi thi đít-lôm.

- Tôi cũng muốn cho thằng Ký ra Huế học đít-lôm, nhưng cụ Sứ thương nó, biểu nó đi làm việc ở toà, nên nó vâng lệnh cụ Sứ... Thiệt cụ Sứ thương thằng Ký lắm... Cụ khen nó giỏi chữ Tây.

- Dạ, thưa ông Hương Cả, bũa trước tôi cũng tính đến mừng thầy Ký, nhưng tôi nghe nói cụ Sứ tới, tôi sợ cụ Sứ, nên tôi không dám đến.

- Cụ Sứ thương thằng Ký, cụ mới tới dự tiệc cưới của nó, chớ đời nào cụ tới nhà An Nam. Có bà lớn Sứ nữa. Cụ lớn ông và cụ lớn bà đều có bắt tay "bỏ sua" (bonjour) tôi.

- Dạ, tôi có nghe nói.

- Sao chú không cho thằng Chuột đi làm việc như thằng Ký của tôi, có phải danh giá không! Nhà chú nghèo mà cho nó đi học Quốc Học ở Huế làm chi vậy? Chữ tây khó lắm, thằng Chuột nó còn nhỏ nó học sao nổi?

- Dạ thưa ông Cả, cũng vì con tôi còn nhỏ tuổi, nên ra làm việc sao được. Với lại, nó có học bổng của Nhà Nước, chớ tôi làm gì có tiền cho nó đi Huế... Ôi, thưa ông, tôi để thây kệ nó, nó muốn học gì thì nó học. Phận tôi nghèo hèn dốt nát, tôi đâu dám nghĩ chuyện cao xa...

- Ừ, chú nói phải, châu chấu đá voi sao nổi.

Chú thợ mộc nói qua loa vài câu chuyện nữa, rồi đứng dậy lễ phép xin cáo từ. Bề ngoài, cha "trò Chuột" làm ra vẻ khiêm nhường, ti tiện trước mặt ông Hương Cả, nhưng trong thâm tâm chú cười thầm, tự bảo: "Hai năm nữa, thằng Chuột thi đậu bằng đít lôm, rồi hai cha con ông sẽ biết hai cha con tôi."

Chương 8

1910-1916

- Những kẻ nịnh Tây, tâng bốc "Quan Lớn Đại Pháp" .
- Trường Quốc Học Huế đến năm 1907 mới có kỳ thi Tiểu-học đầu tiên.
- Trường Nữ-học Đồng Khánh Huế mở năm 1917.
- Năm 1910, toàn xứ Trung-kỳ tổng cộng chỉ có 1595 học sinh.
- Chiếc xe hơi đầu tiên. Dân chúng hoảng sợ.
- Saigòn năm 1910 tổng cộng dân số: 70.000 người, trong đó chỉ có 40.000 người Việt.
- Có chiếc "xe máy" (xe đạp) là "văn minh" nhất.
- Saigòn năm 1910, chỉ có tất cả là 5 chiếc ôtô của Pháp.
- Thanh niên Saigòn mang giầy "ma mị"
- Vụ Vua Duy-tân, tháng 5 năm 1916, Huế.
- Ảnh hưởng của Vua Duy-tân (16 tuổi) đối với thanh niên Việt Nam hồi đó.
- Vụ giặc Đồng Bào năm 1908.

Thanh niên Việt Nam theo tân trào tây học, vào khoảng 1910-1916, không phải tất cả đều như Lê văn Thanh. Nhưng Thanh là một nhân vật điển hình của một lớp trẻ mới tiếp xúc lần đầu tiên với uy quyền của nước Pháp bảo hộ, khiếp sợ trước binh lực hùng cường của người Pháp, và khâm phục văn minh cơ khí của Pháp, cho nên họ hùa theo đám quan lại nịnh tây mà tôn kẻ chiến thắng bằng những danh từ tâng bốc thông dụng từ Bắc đến Nam: "Quan Thầy Đại Pháp", "Nhà Nước Đại Pháp"... "Mẫu Quốc Bảo Hộ" v.v...

Mà chính người Pháp cũng không ngờ. Những khẩu hiệu chính thức ấy không phải do người Pháp đặt ra. Phải nhìn nhận một sự thật rõ ràng là ngay từ lúc Pháp mới sang đô hộ xứ ta, họ chỉ tuyên truyền và đề cao văn minh của họ mà thôi, chớ không khi nào họ bắt buộc người Việt Nam phải suy tôn họ bằng những câu nịnh bợ như trên kia. Họ chỉ gọi xứ họ là "nước Pháp" - La France, chớ không bao giờ tự đề cao là "Đại Pháp", là "quan thầy Đại Pháp" v.v... cũng như họ gọi Viên Toàn Quyền hoặc viên Khâm Sứ của họ là "Ông Toàn Quyền", "Ông Khâm Sứ " v.v... như người Việt Nam suy tôn họ. Cái lối tâng bốc phong kiến tạo nên là do các quan lại "An Nam" xướng ra đầu tiên, rồi các quan Pháp, các thầy Thông, thầy Ký hùa theo xưng hô thành ra thông lệ. Hạng thanh niên "An Nam" làm việc cho Nhà Nước Bảo Hộ thời bấy giờ, hầu hết là hãnh diện được làm tôi tớ cho "Quan Thầy Đại Pháp" và tranh đua nhau nịnh bợ "quan thầy" để được ban bố ân huệ, tước vị, phẩm hàm, "thăng quan tiến chức".

Đa số lớp thanh niên tây học thời bấy giờ chỉ có một mục đích duy nhất là thi đậu để làm việc cho Nhà Nước tức là "làm Quan": bên Nam-triều từ Quan Huyện, quan Phủ, đến quan Tuần Vũ, quan Tổng Đốc, quan Thương Thư, bên chính phủ Bảo Hộ thì quan Tham, quan Phán, quan "còm mi", quan Đốc. Dưới một bực là thầy Trợ giáo, thầy Thông, thầy Ký cũng ao ước được làm ông quan nho nhỏ. Cho nên lúc bấy giờ người Pháp nhận xét mỉa mai rằng: "TRONG ĐẦU ÓC MỖI NGƯỜI VIỆT NAM ĐỀU CÓ MỘT ÔNG QUAN", nghĩa là người An Nam nào cũng có tham vọng "làm Quan" cả. Sự nhận xét tổng quát ấy kể ra cũng đúng một phần nào.

Vả lại lúc ban sơ người Pháp cần đào tạo cấp tốc một số công chức để giúp việc cho họ trong các cơ sở mới thiết lập: Tòa Sứ, Kho Bạc, nhà Giây Thép, sở Lục Lộ, nhà Thương, nha Thương Chánh v.v... Mà số thanh niên theo học "chữ Tây" tại các trường Pháp - Việt mới mở còn rất ít oi, cho nên sự học rất được khuyến khích, thi cử rất dễ dàng và học sinh đỗ bằng "tiểu học" đã được bổ dụng ngay trong các công sở, làm "thông ngôn ký lục".

Riêng ở Trung Việt chẳng hạn, (từ 1900 đến 1945, gọi là Trung Kỳ, trường Quốc Học, ở Kinh thành Huế, được mở từ năm 1896, nhưng mãi đến năm 1909 mới bắt đầu mở kỳ thi "Certificat d' Etudes Primaires Franco-Indigenes". Lúc bấy giờ bằng cấp này còn gọi là bằng Sơ Học, trong dân chúng gọi là bằng "ri-me". Trong làng dạy hai lớp Đồng Ấu và Dự Bị (lớp Năm, lớp Tư), trường Huyện, Phủ có lớp Sơ Đẳng (lớp Ba), trường Tỉnh có thêm lớp Nhì, lớp Nhất. Sau, từ 1917, các trường tỉnh đều đặt thêm lớp Nhì đệ nhị niên, và đổi là Tiểu Học Pháp Việt (École de Plein Exercise), trường Quốc Học đổi thảnh trường Cao Đẳng Tiểu Học (Primaires Supérieures) Cũng năm 1917 mở thêm trường Cao Đẳng Tiểu Học Đồng Khánh, riêng cho con gái. Năm 1920, trường Cao Đẳng Tiểu Học Vinh, năm 1921, trường Cao Đẳng Tiểu Học Qui Nhơn.

Năm 1910, các "Trường Nhà Nước" cả Trung Kỳ, tổng cộng chỉ có 1595 học sinh.

1915 có 2.442 học sinh.
1920 có 30.349 học sinh.
1925 có 41.062 học sinh.
1930 có 62.558 học sinh.

Năm 1930, sự học đã phát triển mạnh mẽ khắp xứ, mà số nữ sinh toàn xứ Trung-kỳ cũng mới chỉ có 1986 người, trong số đó có 47 cô ở các lớp Sư phạm và 494 cô ở các lờp Cao đẳng tiểu học (thi bằng diplôme), tức là bằng Thành Chung, gần như Trung Học Đệ Nhất Cấp ngày nay.

Chương 9.

Lê văn Thanh
bắt đầu học ABC hồi 19 tuổi. Năm 1911, 20 tuổi cậu xin vào trường Nhà Nước, học lớp Năm, 24 tuổi chàng thi đỗ bằng "ri-me", hai tháng sau được vào làm "thầy Ký" ngay trong tòa Sứ và làm thông ngôn cho ông Công Sứ, tuy sự hiểu biết vể tiếng Tây trong bốn năm sơ học chưa bao nhiêu.

Trong lúc đó, Trần Anh Tuấn, thằng Chuột nhỏ hơn Thanh 10 tuổi, lại học trước hơn Thanh 2 năm. Năm 12 tuổi nó đã đỗ bằng "ri-me" và được Ông Công Sứ ở tỉnh cho học bổng đi Huế học trường Quốc Học.

Trần anh Tuấn đi Huế bằng cách nào?

"Đường Cái Quan" đã có rồi, mới đổ đá, nền đất bằng phẳng. Hai bên đường đã bắt đầu dựng cột giây thép. Tuy đến mùa mưa, nhiều đoạn đường bị nước mưa làm trôi cả đất lẫn đá, và cầu cống chỉ được bắt qua các con sông nhỏ, các con sông lớn còn phải dùng đò, nhưng "đường cái quan" mà người Pháp gọi là "đường thuộc địa số 1" để nối liền các tỉnh, từ Saigòn ra Huế, ra đến Hà Nội. Riêng ở các tỉnh Trung Việt, đường sá đã có nhưng xe cộ chưa có. Xe ô tô (ở Nam kỳ gọi là xe hơi, ở Trung kỳ gọi là xe điện), ở ngay tại tỉnh lỵ chỉ có ông Công Sứ Pháp có một chiếc mà thôi, xe hiệu Delahaye, cao ngồng, máy nổ kêu rầm rầm, xịt khói phía sau, dân chúng sợ hãi không dám lại gần.

Người ta đồn rằng đứng gần "xe điện" sẽ bị nó hít vào trong bụng máy, chết liền không kịp thở. Chính thầy ký Thanh cũng chưa dám đến gần xe "cụ Sứ". Các ông tây khác, hoặc đi ngựa, hoặc ngồi trên xe kéo bánh sắt, do một người "cu li an nam" kéo. Xe kéo chạy xa nhất chỉ trong khoảng 30 hoặc 40 cây số (kí-lô-mét) một ngày, và chỉ chạy trong giới hạn một tỉnh. Các "quan An Nam" và các bà vợ quan, đi đâu đều đi cáng và đi từng trạm, lính thay phiên nhau mỗi trạm là hai người khiêng chiếc cáng. Ông quan hay bà quan (bà lớn) nằm trong cáng như nằm trong võng có màn thêu che phủ hai bên.

Dân chúng, đi buôn bán, từ tỉnh này qua tỉnh nọ, dĩ nhiên là phải đi bộ rồi. Phần nhiều, họ rũ nhau 5, 10 người đi cho có bạn, hàng mấy trăm cây số, mất nửa tháng hoặc 20 ngày, có khi hàng tháng. Họ đi bộ như thế từ Quảng Ngãi ra "Tou-Ranh" (Tourane, Đà Nẵng) hoặc từ Hội An vô Nha Trang, Phan Thiết, Đồng Nai (Gia Định - Saigòn).

Vì đường sá xa xôi, xe cộ rất hiếm hoi, lại thiếu thốn tất cả những tiện nghi trong cuộc viễn hành, vượt núi băng sông dầm mưa, dãi nắng, cho nên một số người đi buôn bị đau chết dọc đường, một số khác vào đến Đồng Nai rồi ở luôn đấy sinh cơ lập nghiệp, không muốn trở về. Thỉnh thoảng đôi người đi Đồng Nai về, khoe rùm lên rằng ở Saigòn nhà cửa phố xá đông nghẹt, có nhà lầu cao ba tầng, có đường đi rộng ba thước, trên bộ xe hơi chạy "boong boong", dưới nước tàu thủy chạy "vù vù", tối đến đèn điện thắp sáng choang như ban ngày, ông Tây bà Đầm ôm nhau "đăng xê" coi vui mắt quá chừng!

Thật là văn minh quá sức tưởng tượng của người An Nam ta!

Vì thế ở các tỉnh miền Trung, dân chúng thường ao ước được đi Đồng Nai một chuyến. "Đi Đồng Nai", đó là cả một giấc mộng phiêu lưu, như thể đến một thiên đường xa lạ...

Một số đông phụ nữ trẻ đẹp, nhưng buồn duyên tủi phận, giận mẹ chồng hiếp đáp, hoặc bị chồng hất hủi, thường "cuốn gói đi Đồng Nai - Gia Định", mặc dầu phải đi bộ. Rồi năm bảy năm sau trở về thăm bà con cô bác, họ đeo đầy vòng vàng, hột, xuyến, chói lọi trên tay trên ngực, má phấn môi son, đầu tóc thơm ngát mùi nước hoa. Thường thường cô Hai hay cô Ba thích dắt theo về một người chồng Đồng Nai, bận quần áo bằng lãnh đen, chân đi giày Tây, đầu đội mũ Tây, miệng bịt răng vàng, và hút thuốc lá Tây...

Đàn ông đàn bà ở đất "Hòn Ngọc Viễn Đông" đi về đây trông oai như ông Hoàng bà Chúa.

Cho nên hầu hết những thanh niên buôn bán ở các tỉnh miền Trung đều đi bộ theo đường cái quan, hoặc đi ghe bầu theo đường biển, kéo nhau vào Đồng Nai Lục Tỉnh. Nhưng còn đám thanh niên học sinh, sau khi đỗ bằng Tiểu học ở tỉnh nhà, thì lại rủ nhau đi Huế, tiếp tục học trường Quốc Học ở Kinh Đô. Số học sinh đi học trong Saigòn rất ít.

Trần Anh Tuấn được học bổng mỗi tháng 2 đồng bạc (cũng gần 2.000 đồng bây giờ). Tuấn có đến chào quan Công Sứ ở tỉnh. Ông cho Tuấn tiền làm lộ phí. Đổi ra tiền An Nam được 6 quan tiền kẽm. Tuấn xuống bến Thu Xà, chờ ba ngày có "ghe bầu" chở nước mắm và đường bông Quảng Ngãi đi Fai-Foo (Hội An). Cha của Tuấn, chú thợ Ba, có quen với ông chủ ghe, gởi Tuấn đi nhờ ghe ông.

Trước ngày Tuấn ra đi, cha mẹ Tuấn có nhờ thầy phù thủy trong tỉnh chọn được ngày lành tháng tốt, là ngày 2 tháng 8 ta, xuất hành vào giờ Mẹo. Chú thợ Ba cũng có làm thịt môt con gà nấu cháo cúng Ông Bà, xin phù hộ cho thằng con trai thượng lộ bình yên. Cúng xong chú Ba chặt hai cái giò gà đưa thầy phù thủy xem.

Thầy sáu Chánh lật qua lật lại cặp giò, xem xét kỷ lưỡng rồi gật đầu hai ba cái:

- Tốt lắm đây, chú Ba à. Trò Chuột đi Huế học chắc chắn sẽ đỗ đạt thành tài.

Chú Ba vui mừng rót rượu mời thầy sáu Chánh phù thủy. Bà con cô bác trong thân quyến chú thợ mộc, nghe tin "thằng Chuột" đi học tận ngoài Huế, đều có đến chúc mừng. Kẻ cho nó một quan tiền, người cho vài thước vải quyến trắng để may quần, vài thước vải trăng đầm để may áo đen. Có người cho cả một cân đường bông, hoặc một xấp giấy tây, một vài gói bánh ít, bánh thuẩn, bánh bò. Tuấn cảm động nhận lãnh tất cả, nhét tất cả trong một khăn gói nặng trìu trỉu (lúc bấy giờ ở tỉnh chưa có tiệm nào bán va-li).

Sáng sớm hôm sau, mặt trời rạng đông, hai cha con chú Ba cột khăn gói vào một đòn gánh, rồi cha một đầu, con một đầu, lặng lẽ khiêng gói ra đi. Họ đi chưn không và đi bộ xuống tận Thu Xà để Tuấn lên "ghe bầu" theo đường biển ra Fai-Foo (Hội An). Từ Fai-Foo, Tuấn sẽ đi xe kéo ra Tu Ranh (Đà Nẳng), rồi lên xe lửa đi Huế.

Còn hai tháng nữa mới tựu trường, niên khóa 1915-16, Tuấn mới 12 tuổi.

Trong lúc Tuấn đi ghe bầu ra Huế tiếp tục học tại trường "Quốc Học", thì các lớp thanh niên các tỉnh ở "Bắc Kỳ" và "Nam Kỳ", cùng lứa với Tuấn, cũng lục tục lên Hà Nội và Saigòn, học để thi bằng "đít-lôm". Song song với trường Quốc Học Huế, ở Hà Nội có trường Trung Học Bảo Hộ (collège du Protectorat) ở làng Bưởi nên thường gọi là trường Bưởi. Ở Saigòn có trường trung học Chasseloup-Laubat.

Chế độ cai trị của người Pháp ở Bắc Kỳ không khác ở Trung Kỳ. Bắc kỳ vẫn là đất của "Đại Nam Hoàng Đế" (Empereur d'Annam) mà kinh đô chính thức là Huế, lại vừa là xứ Bảo Hộ (Protectorat du Tonkin) thuộc địa của Pháp mà thủ đô là Hà Nội. Còn Nam Kỳ thì bị tách hẳn ra làm nhượng địa của Pháp, không còn dính líu gì với ông Vua An Nam nữa, từ thời Tự Đức năm thứ 20 (1867). Tuy nhiên, về chính trị và hành chính, có sự chia xẻ ba kỳ riêng biệt như thế, nhưng đời sống xã hội, gia đình và luân lý của toàn thể nhân dân Việt Nam, từ Bắc đến Nam, xét về tổng quát vẫn không khác nhau bao nhiêu.

Riêng thành phố Saigòn tiếp nhận văn minh của Pháp trước tiên. Người Pháp chiếm đóng, xây dựng thành phố, và củng cố vị trí nơi đây đã trên 40 năm về trước, và ảnh hưởng trực tiếp của họ đến các từng lớp dân chúng được sậu rộng hơn, và đã tràn lan khắp "Đồng Nai Lục Tỉnh".

Thanh niên Việt Nam ở "Nam Kỳ" đã quen nếp sống mới của văn minh Pháp cũng sớm hơn và bồng bột hơn, kể cả hai phương diện vật chất và tinh thần.

Tuy thế, trong giai đoạn thiết lập cơ sở Đông Dương, từ đầu thế kỷ đến Đệ nhất thế chiến 1914-18, trạng thái "văn minh tiến bộ" của Pháp ở ngay Saigòn cũng chưa có gì đặc sắc lắm, hãy còn sơ sài, tạm bợ, không hơn bao nhiêu đối với Bắc kỳ và Trung kỳ.

Mặc dầu người Pháp hết sức khoe khoang và quảng cáo cho Saigon "Hòn Ngọc Viễn Đông" của họ "Perle d' Extreme-Orient", nhưng xét kỹ lại thì Saigon cũng chỉ có đôi phần hào nhoáng lộng lẫy ngoài mặt mà thôi, với một dân số không quá 70.000 người (43.000 Việt nam, 20.000 ngoại kiều: Hoa, Ấn, Xiêm và 10.000 Pháp) trong năm 1910.

Thanh niên Việt Nam ở Saigon hầu hết còn mặc đồ bà ba đen và đi chưn không, xe máy chưa có nhiều. Gọi là xe máy, vì lần đầu tiên vào khoảng 1908-1909 dân chúng Saigon ngạc nhiên trông thấy một chiếc xe mảnh khảnh, không có ngựa kéo, không có người đẩy, chỉ có hai bánh bánh bằng cao su đặc mà người ngồi trên xe đạp chạy vo vo. Các nhà thi sĩ thời bấy giờ thấy vậy liền đặt tên cho nó là "con ngựa sắt", danh từ mà ngày nay thỉnh thoảng còn nhiều người dùng khôi hài.

Xe máy năm 1910 là loại xe sang trọng đắt tiền, của các hạng thanh niên giầu có, phong lưu. Một cậu công tử đạp chiếc xe máy đi ngang qua chợ Bến Thành, bao nhiêu người đứng ngó, thèm thuồng, ngơ ngác. Cậu ngừng xe nơi "bồn binh" (cũng gọi là bồn kèn), người ta xúm lại coi với cặp mắt tò mò, trầm trồ khen ngợi. Xe hơi (ô tô) thì là một sản phẩm bí mật của máy móc tân kỳ, tuyệt xảo. Năm 1910 cả thành phố Saigon mới có 5 chiếc xe hơi của các "quan Tây". Năm 1920, được 100 chiếc. "Quan Thống Soái Nam Kỳ" từ trong dinh bước ra sân, lên ngồi chiếc xe hiệu Peugeot, một người lính An Nam lật đật cầm "ma-ni-ven" đút vô đầu máy, khom lưng quây ba bốn vòng liên tiếp. Máy nổ ầm ầm xịt khói ra sau đít. Bác lính sốp phơ bóp cái kèn đồng kêu "toe! toe!" rồi chiếc xe có cặp mắt kiếng tròn vo phía trước, lù lù chạy tới. Người đi đường lo tránh ra hai bên nhưng bao nhiêu chó, heo, gà, vịt, đi lang thang trên đường Saigon, bị xe hơi cán chết! Hôm sau, vài tờ báo tây ở Saigon đăng tai nạn ấy trên trang nhất, hai cột.

Xe kéo bánh sắt và bánh cao su đặc mới bắt đầu xuất hiện trong lúc này, do một hãng doanh nghiệp của nước Pháp chế tạo ra.

Đại đa số dân chúng đi xe ngựa, cũng gọi là "xe thổ mộ" bánh sắt, người Pháp gọi là xe hộp quẹt (boite d' allumettes) hoặc là tac-à-tac. Các hạng thượng lưu và trung lưu đi xe song mã hoặc xe kiếng, sang hơn xe thổ mộ.

Đồng hồ chưa được thông dụng, nhất là đồng hồ đeo tay. Mới có một số ít các ông, các thầy, và các người giàu sang có đồng hồ trái quít (montre) bỏ vào túi áo. Thanh niên chưa được hân hạnh dùng các món quý giá ấy.

Khoảng năm 1920-25, trong số 100 thanh niên, An-nam chỉ có độ một vài người có đồng hồ mà thôi. Nhưng thanh niên Saigon, và nói chung cả Nam kỳ đã cúp tóc sớm hơn thanh niên Trung, Bắc. Khoảng năm 1920, có thể nói rằng hầu hết thanh niên Nam kỳ đã cúp tóc rồi. Trong lúc ấy ở Trung kỳ còn đang lưu hành một câu ca dao bẩn thỉu chế nhạo và "chửi" những chàng trai trẻ bắt đầu hớt tóc:

Cái đầu trọc lóc bình vôi
Tao ngồi tao ỉa, mày ngồi mày ăn.


Cái "đầu trọc lóc bình vôi" vì lúc bấy giờ các học sinh trường Nhà Nước thường hớt tóc theo kiểu "carré", trọc hết hai phần ba cái đầu, chỉ còn để một mái tóc ngắn vuông vức, ở phía trước.

Cùng lứa và "cùng làm việc nhà nước" như chàng Ký Thanh ở Trung Kỳ, các thầy thanh niên làm việc ở các sở tại Saigòn, Lục tỉnh, thường mặc áo xuyến đen dài không quá đầu gối, quần lụa bông, mang giầy "ma mị" (loại giầy của khách trú Chợ Lớn, cũng như giầy Hạ Ở Trung - Bắc, nhưng đế lót lông đuôi ngựa), quấn khăn nhiễu đen, tay cầm dù đen.

Một số khá đông các công chức lương tháng 6 đồng hoặc 4 đồng, đã đua nhau diện âu phục: "áo bành tô" (Paletot - theo kiểu áo thuộc địa tây, bằng vải bố trắng, cổ đứng, một hàng nút lớn bằng xà cừ kết ở giữa, đội mũ trắng, mang dép da. Các bậc "ông" như "commis", thì mang giầy tây, do từ bên Tây gởi sang với giá đắt, thường thường là loại giầy "bottine" da đen, cao cổ.

Hầu hết thanh niên học sinh đều mặc áo quần bà ba, đi chưn không, hoặc đi dép da.

Học sinh các trường lớn của nhà nước, Chasseloup Laubat, hoặc trường công giáo, như Adran, mặc âu phục do nhà trường sắm cho, mỗi cậu ba bộ.

Phụ nữ bình dân và trung lưu, các lớp nữ sinh, cũng mặc quen đồ bà ba. Chỉ có các bà nhà giàu sang mới mặc áo hàng dài, và đeo vòng xuyến, chuỗi vàng, đầy tay đầy cổ. Mãi đến khoảng 1930-35, đa số nữ sinh 19-20 tuổi ở Saigon và Lục tỉnh đi học, hoặc đi dạo chơi ngoài phố, đi xem hát, vẫn còn mặc áo bà ba che dù, mang guốc rất tự nhiên.

Sự giao thiệp của phụ nữ Nam kỳ với người Pháp được tự do hơn phụ nữ Trung kỳ và Bắc kỳ. Các gia đình gọi là thượng lưu ở Saigon và Lục tỉnh tự cho là hân hạnh được gả con gái cho tây, và đồng thời cũng có rất nhiều gia đình trong giới "thượng lưu trí thức" An Nam nhập tịch vào dân Pháp.

Trái lại, ở Trung và Bắc, con gái Việt Nam lấy chồng Tây bị coi như là một cái nhục, dù là ở các giới quan lại triệt để thân Pháp. Danh từ "me Tây" ở Bắc và Trung có ý nghĩa xấu xa, khinh bỉ, không thể áp dụng cho các bà vợ tây ở Saigon vì không đúng với hoàn cảnh thực tế, trong suốt thời kỳ Pháp đô hộ.

Hơi khác với thanh niên nam nữ ở Nam Kỳ, thanh niên ở Bắc và Trung còn chịu rất nhiều ảnh hưởng của Khổng giáo. Học sinh thiếu niên từ lớp Đồng Ấu, đã mặc áo dài đi học, con trai cũng như con gái, bất luận giàu hay nghèo. Đối với các thầy giáo, các cô giáo, học trò rất lễ phép, sợ thầy nếu thầy nghiêm khắc, quý mến và quyến luyến thầy nếu thầy hiền lành. Tại các làng, các phủ, huyện, các tỉnh, gặp những ngày kỵ, giỗ, thường thường cha mẹ học trò hay mời thầy giáo "ăn giỗ" để tỏ tình kính mến.

Đến ngày Tết, học trò các lớp lớn, mỗi lớp vui vẻ tự động hùn tiền với nhau mua các món lễ vật, trà, rượu, đường, đậu xanh, hột gà, nếp, bưng đến nhà riêng của thầy để "Tết" thầy và đọc chúc, từ tạ ơn thầy đã hết lòng dạy dỗ quanh năm. Thầy giáo cũng cảm ơn học trò, và tặng quà bánh, với sự ân cần niềm nở. Tình quyến luyến chân thật giữa thầy trò vô cùng cảm động.

Cho đến đỗi học trò ở các lớp Cao đẳng tiểu học (trung học) đến ngày 'tết Tây', cũng vui vẻ kéo đến từng đoàn đông đảo tại nhà riêng các giáo sư Pháp mà họ quý mến, để chúc mừng năm mới. Dĩ nhiên, đối với các giáo sư hung dữ, kiêu căng, và các giáo sư Pháp hay "chửi người An Nam", nói xấu nước Việt Nam, thì học trò tức giận và oán ghét, không bao giờ bước chân tới nhà. Hoặc đau nằm nhà thương họ cũng không bao giờ đi thăm.

Thanh niên Hà Nội, từ 1900 đến 1925, còn chịu ảnh hưởng Khổng giáo rất nhiều.

Trừ ra học sinh phải cắt tóc theo sự bắt buộc của nhà trường, còn số đông các giới khác, nông nghiệp, thủ công, thương mãi v.v... Vẫn chưa muốn cắt tóc, vì để tóc là tượng trưng cho lòng hiếu thảo với Cha Mẹ. Ngay trong đám trí thức thời bấy giờ có ông Nguyễn Văn Tố, phó giám đốc viện Bác cổ Viễn Đông, một nhà Nho, học giả uyên thâm cả Hán học lẫn Tây học, vẫn giữ cái búi tóc, mãi cho đến năm 1939, bị các báo chế nhạo quá ông mới đành lòng cắt bỏ. Cắt bỏ, nhưng ông vẫn không hết thương tiếc nó.

Nhiều nhà trí thức tây học tuy đã cắt bỏ cái búi tóc, và sống theo nếp sống mới, nhưng vẫn nhất định không chịu mặc "đồ Tấy" và giữ mãi quốc phục suốt đời họ, như các ông Nguyễn Văn Tố, Phạm Quỳnh, Nguyễn Đỗ Mục, Nguyễn Triệu Luật, Nguyễn Văn Ngọc, Nguyễn Khắc Hiếu, v.v... Và một số đông các thầy giáo ở Trung và Bắc việt mãi cho đến năm 1945.

Trong các lớp thanh niên học sinh ở Trung kỳ và Bắc kỳ, đại đa số còn mặc áo dài, quần vải quyến, đội mũ, mang guốc cho đến năm 1925, sau khi cụ Phan Bội Châu và cụ Phan Chu Trinh ở Hải ngoại về nước. Nhất là sau các phong trào bãi khóa rầm rộ khắp các trường trung học trong khoảng 1925-1927 do trào lưu cách mạng bồng bột nổi dậy trong các lớp thanh niên học sinh ở Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định, Vinh, Qui Nhơn, Huế.

Chương 10.

Huế,
nơi đế đô phong kiến nhất và thủ cựu nhất Việt Nam, lại chính là trung tâm điểm của các phong trào cách mạng sôi nổi nhất của thanh niên.

Trần Anh Tuấn, cậu học trò con nít từ tỉnh ra học trường Quốc Học Huế, niên khóa 1915-1916, mấy tháng đầu còn ngơ ngác giữa cảnh hoa lệ hùng vĩ của đế đô, không dè rơi nhằm vào một địa điểm bí mật nhất của lịch sử. Vị chúa thượng, ngự trị trên đất này, chính là một chàng thanh niên mảnh khảnh chỉ hơn Tuấn 4 tuổi, là DUY-TÂN hoàng đế.

Ông chủ chiếc ghe bầu đưa Tuấn từ Thu Xà ra Hội An, có lòng thương mến Tuấn và viết thư gửi gấm Tuấn cho thầy thông Vinh, một người cháu gọi ông bằng cậu, làm việc ở ga xe lửa Huế.

Sự thực, với ông chủ ghe có đứa con gái 10 tuổi, vẫn đi theo với ghe. Trông thấy Tuấn là cậu học trò tuy con nhà nghèo mặt mũi khôi ngô, tính nết hiền lành, mới 12 tuổi mà học giỏi, chỉ học mấy năm nữa là đỗ đạt thành tài. Ông mong sẽ gã con gái ông cho Tuấn sau này. Ông cho Tuấn tiền và quần áo và viết một bức thư bằng chữ Nho dặn Tuấn ra đến ga xe lửa thì tìm thầy thông Vinh ở tại ga trao thư cho thầy.

Vì lời giới thiệu ấy mà thầy Thông Vinh ân cần đón tiếp Tuấn và đưa Tuấn về ở trọ nhà thầy, tại Bến Ngự, gần Ga. Tuấn có học bỗng của ông Công Sứ tỉnh nhà đáng lẽ được ở nội trú, nhưng thầy Thông Vinh xin với ông Đốc học cho Tuấn ở nhà thầy để được gần gũi săn sóc cậu học trò còn niên thiếu, lại xa nhà, xa cha mẹ.

Tuấn ở nhà thầy Vinh ngày hai buổi đi bộ đến trường Quốc học, cách đấy không xa. Những ngày chủ nhật, nghỉ học, Tuấn được thầy Vinh cho nghe nhiều chuyện rất hay ở Huế, nhất là những chuyện thông minh phi thường của Vua Duy Tân 16 tuổi. Thầy Vinh, cũng như hầu hết những người ở Huế, đều kính phục Vua Duy Tân như một bậc thần đồng, lại đăng ngôi Thiên tử. Mỗi lần nói chuyện là thầy thích nói chuyện vua Duy Tân, những mẩu chuyện lặt vặt trong thâm cung của Hoàng Đế, không biết do ai lén lút truyền khẩu ra ngoài, àm hầu hết người ngoài đều biết rõ, nhất là trong đám học sinh. Tất cả thanh niên ở Huế, hồi đó, đều khâm phục vị Hoàng đế trẻ tuổi, vị Hoàng đế của thanh niên.

Nghe riết chuyện vua Duy Tân, rồi cậu học sinh Trần Anh Tuấn đâm ra mê vua Duy Tân, ngày đêm cứ ao ước làm sao trông thấy long nhan của Ngài...

Một đêm vào khoảng 7 giờ, cung điện vua Duy Tân và tất cả Thành Nội Huế đang thắp đèn điện sáng choang, bỗng nhiên bị chìm trong bóng tối đen mò. Các ông Hoàng bà Chúa trong Cung, Thượng thơ các Bộ, binh lính khố vàng, khố xanh đều hoảng hốt, lật đật thi hành những biện pháp đề phòng chuyện bất trắc. Ngoài thành phố dân chúng xôn xao lo ngại, nhưng chỉ một lúc thôi, rồi khoảng 8 giờ, đèn điện trong Nội lại bật lên sáng trưng như mọi đêm. Ai nấy đều vui mừng, yên ổn. Hai hôm sau, dư luận trong thành phố đồn đải về vụ đèn điện tắt như sau đây.

Trong Thành Nội có một nhà máy điện nhỏ và riêng biệt để lấy điện thắp riêng trong cung cấm và hoàng thành. Nhà máy điện do kỹ sư Pháp trông nom, tên là Paul Eberhart, ông này cũng là thầy dạy Pháp văn và cách trí cho Vua Duy Tân. Vua Duy Tân lúc bấy giờ chỉ có 16 tuổi, mà tỏ ra một chàng thanh niên rất ham học, và một trí óc thông minh phi thường, lại ưa chơi nghịch.

7 Giờ tối hôm ấy, ông Eberhart đã về nhà. Vua Duy Tân ngự xuống nhà máy đèn xem chơi, rồi thừa lúc không ai để ý, Ngài lén lấy kềm tháo một chiếc bù-lon nho nhỏ trong guồng máy, và bỏ nó vào một thùng nước kê gần đấy. Ngài làm công việc "phá hoại" ấy rất nhẹ nhàng và mau lẹ, vài ba người lính gác và thợ thuyền không ai trông thấy. Bỗng dưng máy điện ngưng chạy và đèn điện tắt hết. Vua Duy Tân cười tủm tỉm thong thả trở về Cung. Ngài truyền gọi ông Eberhart đến gấp, để thử tài ông này một phen. Viên kỹ sư Pháp, cử nhân khoa học, vừa là thầy học của Ngài, cuống quít, lo sợ, không hiều vì sao máy điện trong hoàng thành đang chạy ngon trớn bỗng dưng lại hư.

Vua Duy Tân bảo:

-"Ông phải sửa máy gấp rút lên nhé! Đừng để cung điện của Trẩm không có ánh sáng như thế này!"

Ông Eberhart chạy xuống nhà máy điện, cầm đèn bạch lạp đi rọi xem hết các máy móc. Ông rất thắc mắc không hiểu nguyên do vì sao máy không chạy. Ông lui cui gần một tiếng đồng hồ, xem xét từng bộ phận không tìm ra máy hư chỗ nào. Bỗng nghe tiếng Vua Duy-Tân đến. Bốn tên lính cận vệ cầm bốn đèn lồng theo hầu Ngài. Vị Hoàng đế thiếu niên hỏi:

-"Ông Eberhart, ông không làm sao cho máy chạy được ư?...".

Giáo sư lính quýnh đáp:

-"Tâu Bệ Ha... tôi chưa tìm ra... chỗ máy hỏng."

Vua Duy-Tân mỉm cười:

-"Ông cho phép Trẩm tìm giúp với ông nhé!".

Giáo sư Eberhart kính cẩn kêu lên:

-"Ơ, tâu bệ hạ, ngài sẽ bị dầu mỡ dính nhớp tay Ngài... ".

- "Không hề chi ", vua Duy-Tân đáp.

Thế rồi, trước cặp mắt kinh ngạc của ông giáo sư cử nhân khoa học, cậu học trò hoàng đế 16 tuổi thò tay vào thùng nước, lấy ra một cái bù-lon, đem gắn vào buồng máy, lấy kềm vặn chặt lại. Ngài tủm tỉm cười:

-"Trẩm tưởng bây giờ máy có thể chạy được rồi".

Quả nhiên máy chạy... Và đèn điện sáng rực trở lại.

Giai thoại trên kia, có chỗ đáng ngờ, thực hư thế nào chúng ta không thể nào minh xác được. Nhưng chắc chắn là đúng một phần nào, vì hai hôm, sau đêm đèn điện vụt tắt trong dân chúng, khắp kinh đô Huế ai mà không biết, và không ai là không tin.

Trần Anh Tuấn ở trường Quốc học đã được các bạn cùng lớp kể chuyện ấy trong giờ chơi ngoài sân trường, về nhà lại được thầy thông Vinh cũng thuật lại đầu đuôi đúng y như thế, và còn... hay hơn thế nữa. Thầy kết luận:

-“Vua Duy-Tân thông minh lạ thường. Vua Duy-Tân học một biết mười, Ngài thông hiểu cả máy điện, Ngài hiểu còn hơn Tây nữa! Vua Duy-Tân có kém gì Tây đâu!”.

Trần anh Tuấn lại lấy ra một quyển vở đưa thầy thông Vinh xem. Lần này, chính Tuấn hãnh diện, là đã chép được một bài thơ bằng chữ Pháp, mà một thầy trợ giáo ở lớp Nhất có cho học trò học, bảo tác giả chính là Vua Duy-Tân.

Bài thơ nhan đề: "Nocturne, sur la Rivière des Parfums". Có thể dịch là "Hương Giang dạ khúc".

Bài thơ có 20 câu, chép vừa một trang vở, tuyệt hay, tuyệt đẹp, đọc lên nghe rất du dương, rất buồn, thích hợp với tâm hồn một thanh niên mơ mộng ở xứ Huế.

Thầy Vinh và cậu Trần Anh Tuấn cùng nhau ngâm nga nhịp nhàng say sưa:

La barque obéit, endormie
Aux coups réguliers du rameur,
Mon âme tressaille, meurtrie
Au coup de la vie dans mon coeur,
Et mon âme vogue, alanguie
Au rythme alenti de mon coeur,
Et la barque vogue, alentie
Au rythme alangui du rameur.

( Etc.. )

Dịch:

Thuyền to thiu thiu ngủ, lênh đênh
Theo nhịp mái chèo bơi êm ái
Tâm hồn ta rên rỉ, buồn tênh,
Theo cơn sóng trần duyên tê tái
Hồn ta bơi lướt qua, buồn tênh
Trên lớp sóng trần, duyên tê tái
Thuyền ta bơi lướt qua, lênh đênh
Theo nhịp mái chèo bơi êm ái.


... v.v...

Bài thơ diễm tuyệt đó , có phải thật của vua Duy-Tân làm ra không? 16 tuổi, tâm hồn của nhà vua đã tế nhị đến thế ư? 16 tuổi nà vua đã giỏi Pháp văn đến thế ư?

Tác giả bài thơ chỉ ký có ba mẫu tự F. G. H. Nhưng hầu hết các thầy trợ giáo ở trường Quốc Học Huế, và các thầy làm việc các sở nhà nước đều đồng thanh nói F. G. H chính là vua Duy-Tân. Ai nghi ngờ là không phải của vua Duy-Tân thì các thầy tức lắm, nhất định cãi lại cho kỳ được. Bởi vì vua Duy-Tân không phải là một thanh niên tầm thường như các thanh niên khác. Ngài là một vì Thiên Tử, Ngài là một vị Thần Thánh. Ngài là khí thiêng nung đúc cả giòng dõi Tiên Rồng.

Trần Anh Tuấn, cậu thiếu niên 12 tuổi, năm 1915, được may mắn học tiếng Pháp từ thuở bé, đã bắt đầu ưa chuộng văn chương Phá , thích lịch sử Pháp, phục khoa học Pháp nhưng sống giữa cố đô Huế trong không khí sùng bái vua Duy Tân, một vị Hoàng Đế thanh niên chỉ lớn hơn cậu 4 tuổi, làm cậu nhiệt liệt hoan hô vua Duy-Tân, mê vua Duy-Tân, chỉ thích nghe chuyện và nói chuyện về vua Duy-Tân... cũng như hầu hết thanh niên lúc bấy giờ , nhất là ở Trung Kỳ... Cho đến tháng năm 191 , sắp sửa được nghỉ hè thì ngay kinh đô Huế xẩy ra vụ vua Duy-Tân bỏ cung điện một đêm tối trời, thoát ly ra ngoại thành để chỉ huy cuộc khởi nghĩa đánh Tây. Trần Anh Tuấn, cũng như toàn thể thanh niên học sinh trường Quốc học nghe tin ấy như một tiếng sét đánh bên tai.

Mấy ngày đầu, người Pháp ở tại Huế muốn dấu kín vụ này không cho dân chúng trong thành phố và học sinh biết. Tuy số lính khố xanh và lính sơn đá lính sơn đá là soldat, lính Tây, phân biệt với lính Tập - khố xanh - của An Nam) được tăng cường canh gác nhiều nơi, nhưng cuộc sống hàng ngày của đế đô Huế vẫn không thay đổi, như không có gì xảy ra. Học trò vẫn đi học, và đến trường các vị giáo sư Pháp cũng như các thầy trợ giáo An Nam, vẫn dạy học như thường lệ, không ai nói gì chạm tới "quốc sự".

Nhưng ngoài các giờ học, sau khi mãn lớp học, học trò về nhà lại được người nhà hoặc bà con hàng xóm, thầm thì về việc vua Duy-Tân khởi nghĩa đã bị tây bắt, giam ở đồn Mang Cá.

Thầy thông Vinh, trong lúc ngồi ăn cơm với Trần Anh Tuấn trên bộ ván ngựa tong nhà, lặng lẽ trở đầu đũa viết trên chiếu "Cậu có nghe gì lạ không?" Tuấn cũng trở đầu đũa viết đáp: "Dạ có". Chỉ có thế thôi, rồi cả hai người ngó ra ngoài đường im lặng. Tự hôm đó, không những trong nhà thầy Vinh mà cả thành phố Huế không còn ai dám nói đến những giai thoại về vua Duy-Tân nữa. Cho đến bài thơ chữ Pháp Nocturne (Hương Giang Dạ Khúc) mà ai cũng nói là của vua Duy-Tân, bài thơ hoàn toàn mơ mộng, cũng không còn ai dám ngâm nga nữa.

Một hôm, gần ngày bãi trường nghỉ hè, chương trình niên khoá đã dạy hết rồi, một giáo sư Pháp lớp đệ Nhất niên của Tuấn lần đầu tiên đem vụ vua Duy-Tân ra nói cho học trò nghe. Ông mạt sát vị hoàng đế cách mạng, và chửi rủa Ngài:

-"Thằng con nít ấy nó tự cho mình là một Đại Hoàng Đế! Nó dám chống lại nước Pháp, thì đấy, bây giờ nó đi ở tù!"

Trần anh Tuấn hầm hầm nét mặt, ngồi nghe, tức giận lắm. Đến giờ ra chơi, giáo sư và học sinh ra sân. Tuấn lén ở lại trong lớp, lấy phấn viết trên bảng đen hai câu thơ của Corneille trong kịch La Cid mà cả lớp đã học:

Je suis jeune, il est vrai, mais aux âmes bien nées,
La valeur n'attend pas le nombre des années.


Dịch:

Tuổi ta trẻ nhưng hồn ta khảng khái
Giá trị người không đợi phải nhiều năm!


Ở dưới ký: 'Empereur Duy Tân (Hoàng Đế Duy-Tân)

Hết giờ ra chơi, học trò vào lớp đông đủ. Viên giáo sư ban nãy cũng trở vào bàn của ông. Nhưng ông đỏ mặt, giận dữ, đọc hai câu thơ trên bảng đen, rồi hỏi:

- Ai viết đây?

Trần Anh Tuấn ngồi bàn dưới, can đảm giơ ngón tay lên. Giáo sư hằn học nhìn Tuấn:

- Mầy ngu như con lừa, mầy học trong sách nào đó rằng hai câu thơ kia của vua Duy-Tân?

Tuấn làm thinh. Viên giáo sư mắng tiếp:

- Tu es un mauvais esprit... Tu es partisan de Duy-Tân? Attention à toi!
(Mầy là một đầu óc xấu xa... Mầy theo phe đảng của Duy-Tân hả? Mầy liệu hồn nhé!)

Cả lớp im lặng. Giáo sư Dubois đút tay trong túi quần đi qua đi lại trên kệ gỗ trước bảng đen. Ông đứng lại đột ngột, trừng mắt ngó Tuấn:

- Tao đi "xi-nha-lê" với ông Đốc học.

Ông chạy vụt ra cửa.

Trong giờ Sử ký Pháp, và là giờ chót của niên khoá 1915-16, chương trình học đã hết rồi, còn hai hôm nữa là nghỉ hè, học trò lớp đệ Nhất niên đang ngồi nghe một giáo sư Pháp kể chuyện Pháp - Đức chiến tranh... Ông công kích nước Đức thậm tệ, chửi nước Đức là một nước thù địch của cả Âu châu và thế giới, dân Đức là một giống người dã man, tàn bạo, cho nên các nước văn minh không gọi là Allemands, mà gọi là Boches, một danh từ khinh miệt, nguyền rủa... Rồi ông chê quân lính Boches đánh giặc thua Pháp, bị quân đội Pháp giết chết vô số. Ông khoe dân tộc Pháp anh hùng, ái quốc, nhưng vẫn bác ái, nhân đạo v.v...

Bỗng có tiếng giày tây đi đọp đọp gần đến lớp Đệ Nhất niên... Giáo sư và cả học trò đã quen tiếng giầy của ông Đốc học Pháp. Đúng là của ông. Nét mặt hầm hầm, ông bước vào lớp. Giáo sư và toàn thể học trò đều đứng dậy. Ông bảo ngồi xuống. Bỗng ông lớn tiếng hỏi:

- Đứa nào là Tra-an-Tu-an?

Trần Anh Tuấn tái mặt, đứng dậy. Ông đưa một ngón tay ngoắc Tuấn lên:

- Viens! (lên đây)

Cả lớp im phăng phắc, ai nấy đều sợ run, cúi mặt xuống bàn không dám ngó nét mặt sắc đá của ông Directeur (Đốc học). Tuấn rụt rè dưới bàn bước lên đứng trước mặt ông. Ông trợn trắng đôi mắt dữ tợn nhìn Tuấn:

- Mày là phe đảng của Duy Tân phải không? Hả?

Tuấn bối rối không kịp trả lời thì bị Ông đưa bàn tay đầy lông đen xì đánh vào má Tuấn một cái tát nẩy lửa. Tuấn xiểng liểng muốn ngã.

Ông directeur chỉ vào mặt Tuấn:

- Mầy coi chừng! Nếu mầy nghe lời dụ dỗ của tụi côn đồ, tao sẽ cho mầy đi ở nhà pha (ở tù), mầy nghe không? Tao sẽ viết thư cho ông Công Sứ tỉnh mầy để báo cho ông ấy biết rằng mầy là một cái đầu óc xấu xa (un mauvais esprit - có tư tưởng chống Pháp).

Ông đuổi Trần anh Tuấn xuống chỗ ngồi. Xong ông diễn thuyết một hồi cho cả lớp nghe:

- Tụi mầy biết Duy-Tân là ai không? Nó là một thằng con nít ranh, một nhãi con kém giáo dục. Nó nhờ nước Pháp đặt nó lên chiếc ngai vàng của ông bà nó, thế mà nó không biết ơn nước Pháp, nó toan làm giặc đánh lại nước Pháp...

Ông nói nhiều lắm, nhiều lắm. Ông chửi hoàng đế Duy-Tân rồi kể công ơn nước Pháp, ông khoe nước Pháp là nhân đạo, là bác ái, là bình đẵng là một trong những nước văn minh bậc nhất trên hoàn cầu v.v...

Học trò ngồi im lặng, cúi đầu nghe. Vừa có trống trường đánh một hồi "Thùng thùng thùng thùng...", mãn buổi học sáng,11 giờ. Ông còn dừng lại, nói ráng thêm mấy câu hùng hổ, rồi bước ra đi. Cả lớp đứng dậy chào ông.

Ông giáo sư chỉ mặt Trần anh Tuấn:

- Mầy đã hiểu bài học ấy chưa?

Tuấn làm thinh. Ra về, có năm bảy trò cùng lớp đi theo bên cạnh Tuấn, nói nhỏ bên tai như an ủi Tuấn một phần nào:

- Mầy đừng sợ. Ông directeur doạ mày đó, chứ ông không gửi thư cho ông Công sứ tỉnh mày đâu. Ông không bỏ tù mày đâu.

Nhưng đa số học sinh khác trong lớp Đệ Nhất Niên, bạn thân hay không thân của Tuấn, đều lánh xa, sợ đến nỗi không dám đi gần Tuấn, sợ ông directeur để ý, sợ nói chuyện với Tuấn sẽ bị liên can, sợ sẽ đi ở tù, sợ, sợ ... không biết sợ cái gì nữa.

Xét ra tinh thần thanh niên Việt Nam -- lấy thanh niên học sinh và trí thức làm điển hình, vì thời bấy giờ, chỉ có lớp thanh niên học sinh và trí thức là đáng chú ý hơn cả, -- thì có thể chia làm ba hạng, ở Trung Kỳ, cũng như ở Bắc Kỳ và Nam Kỳ.

Một hạng, thiểu số như Trần Anh Tuấn, cũng học chữ Pháp, hấp thụ say mê văn hoá Pháp, khâm phục văn minh khoa học rất kỳ tài của Pháp, nhưng lòng ham mến và kính phục ấy không bao giờ đè át được tinh thần bất khuất truyền thống của giống nòi. Tuấn, con trai một anh dân nghèo, làm thợ mộc, được theo đòi văn hoá Pháp, nói tiếng Tây đã thông thạo, viết chữ Tây đã trôi chảy, đọc sách Tây đã nghiền ngấm say sưa, thế mà chỉ một hình ảnh của vua Duy-Tân đã in sâu vào đầu óc, chí khí quật cường của vị hoàng đế còn nhỏ tuổi, đủ gợi dậy truyền thống Dân Tộc trong dòng máu, trong tư tưởng, thế cũng đủ thấy rằng tinh thần dân tộc là yếu tố bất diệt của Lịch sử , bất cứ ở thời đại nào.

Nhưng trong thời kỳ người Pháp mới đô hộ xứ ta, nói rõ hơn là từ năm 1900 đến 1924-1925, hạng thanh niên ái quốc có tinh thần dân tộc, học sinh như Trần anh Tuấn, công chức như thầy thông Vinh ở sở Hoả Xa, hãy còn ít lắm, ít lắm...

Trái lại, đông nhất là hạng thanh niên ham danh vọng, ham chức tước, thích phẫm hàm, theo Tây, lạy Tây, bợ đỡ Tây, "liếm gót giầy cho Tây", suy tôn Tây là bậc "thầy Đại Pháp", là bậc "Quý Quan", "Quý Mẫu Quốc" -- Nước Mẹ -- Hoặc là hạng thanh niên nhút nhát, sợ chuyện "Quốc Sự", sợ bỏ tù chỉ lo sống yên thân, ngày hai buổi đi học hay "làm việc nhà nước", sáng xách ô đi, tối xách về. Hai hạng thanh niên trên chiếm đại đa số trong nhân dân.

Cho nên, vụ vua DuyTân hồi tháng 5 năm 1916, ngay thời bấy giờ không có một tiếng vang sâu rộng. Cũng như các vụ Phan đình Phùng, Hàm Nghi v.v...ngay sau thời gian đã trôi qua. Lịch sử đã lắng xuống, các nhà viết sử mới bắt đầu tham khảo biên chép, chúng ta mới đọc lại được những đoạn sử oanh liệt trước đây năm sáu chục năm. Chớ ngay hồi đó, lúc xảy ra các vụ quan trọng của Lịch Sử nào ai dám viết công khai? Dám in thành sách? Dám nói? Dám bàn tán, phê bình? Tất cả đều ngậm câm, kín mồm kín miệng, nào ai dám hở môi? Từ trên xuống dưới, từ Triều Đình đến Hương Thôn, đều im lặng. Không khác gì dưới thời Neron của La Mã, một nhà thơ chỉ thở ra ba tiếng: "Roma Vasta Silentio!' (La Mã mênh mông im lặng). Họ sợ gì dữ vậy? Thì đây, vua Duy-Tân bị tây bắt, bị giam trong đồn Mang Cá, rồi bị đưa xuống tàu thủy của Pháp đi Ô Cấp (Vũng Tàu) để gặp vua Thành Thái đang bị giam lỏng tạm tại đây, rồi vua Duy-Tân bị đảy ra đảo La Réunion, thuộc địa Pháp ở gần Madagascar, Phi Châu.

(Xem tiếp chương 11)


Nếu độc giả, đồng hương, thân hữu muốn: 

* Liên-lạc với Ban Điều Hành hay webmaster 
* Gởi các sáng tác, tài liệu, hình-ảnh... để đăng 
* Cần bản copy tài liệu, hình, bài...trên trang web:

Xin gởi email về: quangngai@nuiansongtra.net 
hay: nuiansongtra1941@gmail.com

*  *  *

Copyright by authors & Website Nui An Song Tra - 2006


Created by Hiep Nguyen
log in | ghi danh