TUẤN CHÀNG TRAI NƯỚC VIỆT.
Nguyễn Vỹ
Chương 16
Tuy ở các tỉnh đèn điện chưa có, nhưng dầu hoả đã được bán khắp các phố, các chợ, trong những thùng thiết lớn từ Huê-Kỳ chở qua. "Đèn Huê-Kỳ", một loại đèn bằng thuỷ tinh, để thắp với dầu hoả, cũng được bán trong các tiệm buôn Tầu và An Nam từ tỉnh đến thôn quê. Chỉ nhà nghèo mới tiếp tục thắp đèn dầu phọng, hoặc dầu dừa, mở heo.
Tại tỉnh, hai bên đường phố, ban đêm chưa có đèn. Nhưng ở các ngã tư đã có những trụ đèn bằng sắt, đúc và chạm rất đẹp, ở bên Tây đem qua, trên ngọn có một thứ đèn chung quanh lồng kiếng, và thắp bằng hơi acétylène. Người ta thường gọi là đèn hơi đá, hay là đèn carbure. Cứ vào khoảng 7 giờ chiều, có một người lính vác chiếc thang trên vai, tay xách một cái đèn carbure, đi đến từng ngã tư thành phố, nơi có trụ đèn. Anh dựng thang vào trụ, rồi cầm một chiếc đèn leo lên thang. Gần đến ngọn, anh đưa tay lên mở một cửa kiếng, đặt đèn vào trong. Trong đèn đã có sẵn bốn năm cục đá carbure và nước. Anh đánh một que diêm (loại diêm Hoa-Sen rất thông dụng, do một hãng Pháp sản xuất tại Hàm Rồng - Thanh Hoá). Anh châm lửa kề miệng vòi của chiếc đèn, tự nhiên lửa phực cháy, do hơi acetylène trong đèn phựt ra.
Đèn carbure chiếu một ánh sáng xanh dịu, mát mẻ và soi xa một vùng chu-vi bốn năm thước. Xong rồi , anh lính trèo xuống, vác thang lên vai, tay còn xách năm, sáu chiếc đèn nữa, đi lần lượt đến những trụ đèn khác. Cứ cách bốn năm chục thước, nơi các con đường lớn, mới có một trụ đèn carbure.
Tất cả các đường khác đều tối om.
Thường thường một chiếc đèn carbure ngoài đường cho cháy lâu được 4 tiếng đồng hồ thôi. Thành thử, chú lính coi về việc thắp đèn phải đi thay carbure mỗi đêm 3 lần, bất kể mưa gió, vào khoảng 7 giờ tối, 11 giờ khuya và 3 giờ sáng. Mỗi lần, anh phải vác cái thang đi và xách theo một thùng đá carbure, và một thùng nước lã. Lương của anh mỗi tháng 2 đồng bạc.
Riêng trong vườn Toà Sứ và chung quanh dinh thự Ông Sứ, treo các loại đèn bằng đồng, bóng đèn thắp gọi là đèn tempête giống như loại đèn của thợ mỏ.
Các nhà giàu sang, đều thắp đèn dầu hoả. Nhưng thắp rất là hà tiện, vì giá dầu đắt lắm - nó gần như là xa xí phẩm hồi 1910. Trong các gia đình người Pháp cũng thắp đèn dầu hoả.
Xe máy (xe đạp) chưa có ở các tỉnh. Nhưng xe kéo đã có nhiều hơn trước, hầu hết là xe bánh sắt. Đầu năm 1920, mới bắt đầu xuất hiện vài ba chiếc xe kéo bánh cao su. Người dùng xe này trước nhất là Quan Tuần-Vũ, rồi đến các "Quan Tây". Chỉ có mỗi một mình quan Công Sứ là có chiếc xe hơi (auto) mà thôi, xe kiểu Delahaye. Xe kéo của Quan Tuần-Vũ do một chú lính kéo, chú mặc áo "kẹp nẹp", đội "nón gù", đi chưn không. Mỗi lần ông Tuần đi đâu, chú lính kéo xe coi bộ cũng hãnh diện, không kém gì Quan, ra vẻ "ta đây là người tay chưn của cụ Lớn".
Lê văn Thanh đã sắm được chiếc xe bánh sắt. Kể ra, thầy Ký có dư tiền sắm được chiếc xe bánh cao su, nhưng lúc đầu chàng còn e dè vì ngồi xe bánh cao su, giống như quan Tuần-Vũ, sợ vô lễ với quan Tuần chăng? Nhưng đi làm việc ở Toà Sứ, ngồi trên xe kéo bánh sắt cũng đã được hãnh diện lắm rồi. Chàng vẫn muốn làm cao hơn Trần anh Tuấn, thầy Phán đầu toà mà ngày hai buổi vẫn lóc-cóc đi bộ, mang đôi giầy Hạ xập-xệ cũ mèm.
Ngoài xe kéo ra, không còn phương tiện lưu thông hoặc chuyên chở nào khác. Thường dân đi xe kéo bánh sắt, các Quan Lớn đi xe kéo bánh cao su. Tuy nói là thường dân, nhưng cũng chỉ có hạng thường dân khá giả, nhà giàu hoặc các thầy Thông, thầy Ký, mới có tiền đi xe kéo bánh sắt. Còn hầu hết nhân dân đại chúng đều đi bộ. Họ đi bộ từ làng này sang làng khác, từ huyện này sang huyện kia, từ tỉnh này sang tỉnh nọ. Họ leo đèo vượt núi, lội bến băng sông, đầu đội nón lá, chưn đi không , dưới trời nắng chang-chang , hoặc trong đêm khuya mờ-mịt.
Mỗi kỳ nghỉ hè, người ta thấy những đám thanh thiếu niên học sinh trọ học ở tỉnh trở về quê nhà cách xa hàng 40, 50 cây số.
Vài ba ngày sau buổi học cuối cùng, thường là những đêm rằm, trăng sáng vằng-vặc, các em rủ nhau từng đám độ 5, 10 trò từ chín mười đến mười hai, mười ba tuổi quê quán cùng một huyện hay một phủ. Chúng hẹn gặp nhau tại một nhà trọ nào đó, sau khi cơm nước no-nê, và khởi hành lúc thành phố bắt đầu "đỏ đèn". Mỗi trò xách một va ly áo quần sách vở. Muốn tiện lợi, đỡ mỏi tay xách, vài ba trò rủ nhau mượn một đòn gánh khá dài, cột chung "va ly" thành một chùm đeo lủng lẳng ở giữa và vài trò thay phiên nhau khiêng trên vai, đi từng chặng đường. Dưới ánh trăng xanh, trên đường cái quan dài thăm thẳm, hai bên là đồng ruộng mênh-mông nhái kêu ột-ệch, các em thiếu niên vừa đùa nghịch, chuyện trò cười rỡn để quên bớt nỗi đường xa vạn dặm.
Đường quan-lộ vắng tanh vắng teo, không một bóng người lai vãng. Đêm đã gần khuya, các em đi hơn mười cây số, đã mệt mỏi, tiếng cười tiếng nói thưa lần và bắt đầu hoang mang sợ sệt. Tất cả đều lặng lẽ, âm thầm...
Một vài trò mang quốc, cũng sợ cả tiếng quốc, nên xách quốc trên tay.
Theo lời các bậc cha mẹ đã từng căn dặn trước, mỗi trò đều có đem theo trong mình một con dao bằng sắt, hoặc cầm một nhánh dâu (loại dâu cho tầm ăn), để tự vệ trong lúc đi ngang qua nhiều nơi có "ma". Những khu rừng rậm, những khóm cây, những gò hoang có nhiều mồ mả, những cầu cống... đã nổi tiếng là có nhiều "ma quái", "yêu tinh". Cha mẹ thường dặn các trò: "Hễ gặp ma hiện hình ra, thì con lấy "roi dâu" quất nó, nó sẽ chạy mất! Không, thì con đái ra quần, lấy nước đái lau trên mặt, thì Ma, Yêu, không dám hớp hồn con...Con có dao bằng sắt, Ma không dám tới gần con...".
Đó là những phương pháp trừ ma rất thông dụng mà em bé học trò nào cũng biết, và cũng phòng thủ sẵn sàng trong khi đi học xa, hoặc đi về nghỉ hè, và toàn là đi bộ.
Thời kỳ ấy, "ma quỷ" nhiều lắm. Ở khắp các nẻo đường, các gốc cây, các nghĩa địa, các bến sông, các am miếu, ở ngay trong tỉnh thành đều có vô số những chổ có ma. Nhưng sự thực, nghe đồn đãi về ma thì nhiều, mà chưa ai gặp một con ma, hay trông thấy một con ma lần nào.
Các em học sinh đi bộ suốt đêm như thế, cho nên lúc "gà gáy sáng", hoặc hừng đông thì vừa đến huyện, rồi chia tay ai về nhà nấy. Có kẻ còn đi năm, bảy cây số nữa.
Học trò nhà nước từ khoảng 1910 đến 1920, là con cháu các ông Hương, ông Xã, một số ít nhà giàu, và các quan ở Phủ Huyện và ở tỉnh. Thanh niên nhà nghèo hầu hết đều lo làm ruộng, hoặc các nghề thợ thuyền, chài lưới.
Ngay ở trường làng, học hành không tốn kém chi cả, cũng thường chỉ là con các nhà khá giả mới cập vở đến trường học ABC. Con nhà giàu và con cháu các ông Tú, ông Cử ông Nghè, còn trung thành với đạo lý Khổng-Mạnh, vẫn chưa theo phong trào Tây-học. Phần đông ở nhà hưỡng thú "điền viên": đá gà, uống rượu, đi bẫy chim, câu cá, đánh cờ... Một số xoay sang học nghề thuốc Bắc và xem số Tử Vi.
Chương 17.
Ban ngày đường quan lộ cũng rất vắng người. Vì xe cộ không có, trừ thỉnh thoảng một vài chiếc xe kéo bánh sắt uể-oải, chậm chạp còn tệ hơn xe ngựa ngày nay. Xe hơi thì mỗi ngày chỉ có một chiếc từ trong Nam chạy ra, một chiếc từ "miệt ngoài" chạy vào: đó là hai chiếc "xe thơ" của một hãng Pháp, tên là S.T.A.C.A, chở hành khách sang, và chở thư bưu điện. Chiếc xe hơi chạy vùn vụt trên quan lộ, kêu như sấm dậy, mỗi ngày một lần, là cả một biến cố quan trọng hàng ngày. Hai bên đường dân chúng sợ sệt, lật đật tránh xa, hai bên đồng ruộng trâu bò hoảng kinh chạy tán loạn.
Ông Tuần Vũ (tỉnh nhỏ) hay là ông Thống Đốc (tỉnh lớn) là vị "Quan Lớn An Nam" đầu tỉnh, mỗi lần ngồi trên chiếc xe kéo bánh cao su, đi đâu xa ngoài tỉnh, cũng là cả một biến cố lớn lao vậy. Có lính lệ (lính hầu trong dinh quan) đi trước dẹp đường. Tay luôn luôn cầm chiếc roi mây, và thái độ hung hăng, hắn rất hách dịch, đối với hết thẩy mọi người hai bên hàng phố.
Những người đi đường đều phải né tránh ra hai bên đường, để trống cả một quãng đường dài trước mặt Quan Lớn, không được có một người qua lại. Người lính kéo xe quan, bước chậm chậm; như chở Quan đi dạo mát. Một người lính theo sau, giương cao một cái lọng che trên đầu Quan, mặc dầu trời đã gần tối.
Năm 1920, nhân dịp ngày giổ đức Khổng-tử, Quan Tuần có gửi giấy mời Quan Đốc học trường tỉnh và lần đầu tiên Quan yêu cầu cho học trò trường Nhà Nước đi dự lễ.
Tuấn-em về nhà thưa lại với anh Hai và cha mẹ, để được tụ họp với học trò cùng lớp tại nhà thầy giáo lớp Năm, đúng 7 giờ tối, theo lịnh của quan Đốc học. Học trò lớp nào phải tụ họp tại nhà thầy giáo lớp ấy. Tuấn-em ăn cơm vội vàng, rồi được mẹ thay cho quần trắng mới, áo dài đen mới, để đi dự lễ Đức Thánh Khổng.
Đến nhà thầy Trợ giáo, gặp đông đủ bạn bè, đợi thầy giáo ăn cơm xong rồi thầy dẫn học trò đi bộ đến Văn Miếu (đền thờ đức Khổng Tử), cách tỉnh lỵ 3 cây số. Phải đi đò qua con sông lớn. Sông thì rộng, nước chảy mạnh, trời thì tối, con đò thì nhỏ, mà học trò thì đông, phải qua đò một lượt với thầy, nên các em sợ té la khóc om sòm! Thầy giáo rầy la bằng tiếng Tây: "Silence!" (im). Qua bên kia sông, còn phải đi bộ hơn hai cây số nữa mới tới Đền thờ Đức Khổng Tử. Đến đây, toàn thể học trò Nhà nước tụ họp lại 200 cậu và năm thầy Trợ giáo... Không có chỗ ngủ, tất cả phải nằm hai bên lề đường, và trong các đám mía kế cận, đợi đến 5 giờ sáng mới bắt đầu tế lễ.
Gà lối xóm mới gáy một hồi, trời còn tối mù tối mịt, nhưng nghe chuông trống nổi lên, các thầy giáo vội vàng thức dậy gọi học trò tụ họp trước cổng Đền. Lớp nào đứng sắp hàng riêng lớp ấy, dưới sự chỉ dẩn của giáo viên. Hầu hết học sinh còn buồn ngủ, vì không có nước rửa mặt nên nhiều cậu chưa tỉnh hẵn, vừa đứng vừa ngủ gật.
Riêng lớp của Tuấn em, thầy giáo cầm cây đèn bạch lạp nhìn vào tờ giấy danh sách để gọi tên, thì thiếu mất bốn trò. Bốn em này còn ngủ trong đám mía, thầy bảo Tuấn em và hai trò nữa kiếm nhưng trời tối quá, không tìm thấy. Vừa có lịnh quan Đốc học truyền cho các thầy dẫn học trò sắp hàng hai đi vào trước đền. Chiêng trống lại nổi dậy, đèn đuốc sáng trưng. Cuộc tế lễ bắt đầu.
Các quan Tỉnh, quan Phủ, quan Huyện, các thầy Đề lại, tất cả các công chức Nam triều mặc triều phục đứng cúng, kẻ hàng trước, người hàng sau, tùy theo trật tự phẩm hàm của mỗi quan. Sau cùng đến các thầy giáo và học trò. Theo lời thầy dặn, hễ nghe tiếng hô: "Cúc cung hưng... bái" và tiếng chuông trống đệm theo, các quan đứng trước lạy, thì học trò cũng phải bắt chước sụp xuống lạy. Nghe tiếng hô: "Hưng' thì đứng dậy, "Bái" thì sụp xuống lạy v.v... đến khi "Hưng bình thân", thì đứng thẳng người hết lạy.
Tuấn em còn đang giấc ngủ, chưa tỉnh hẳn, khi sụp xuống lạy lần đầu, Tuấn ngủ luôn. Mãi đến khi tế xong, thầy giáo lấy chân đá mạnh vào mông đít Tuấn, Tuấn mới giật mình, lóp ngóp bò dậy, theo đám đông ra về.
Thầy giáo và học trò lại kéo nhau đi bộ 3 cây số về tỉnh và đi đò sang sông.
Đến ngã tư cửa Tây, mặt trời đã lên cao "nửa chặng đòn gánh" (7 giờ sáng). Học trò nghe phía sau lưng có tiếng lính la hét dẹp đường và tiếng chuông, tiếng trống, tiếng kèn bát âm, liền đứng lại để coi "quan Tuần-Vũ".
"Quan Lớn" chủ tế lễ Đức Khổng Tử, trở về tỉnh, cũng đã gần đến ngã tư. Đường cái quan đã được hai chú "lính lệ" tiền phong xua đuổi, dọn dẹp trống rỗng, không có một người dân qua lại. Vài ba chú cu li xe kéo bánh sắt đã lật đật kéo xe chạy sang các ngả đường khác. Những người đàn bà đi chợ, đàn ông làm thợ, đi buôn bán, đi "làm việc" các sở, đều phải tránh sang một bên, để đường cho "Quan Lớn" đi.
Trước tiên là sáu người lính bận áo kẹp nẹp, cầm cờ đuôi nheo đi hai bên, rồi đến lính khiêng chuông, lính khiêng trống lớn, lính cầm trống nhỏ, tám người lính thổi nhạc bát âm... Quan lớn ngồi trên chiếc xe kéo bánh cao su, có lính che lọng, lính che tàn, lính cầm cờ, lính bưng hộp trầu (vì quan lớn nhuộm răng đen và ăn trầu), lính bưng điếu thuốc trà v.v... (thuốc lào - tiếng Bắc, ở Huế và Trung gọi là thuốc trà).
Thỉnh thoảng quan lớn truyền lịnh đem hộp trầu cau đã tiêm sẵn, hoặc đem bình điếu trà đến, để quan lớn ăn trầu hút thuốc, thì cả đoàn lính hầu hạ tùy tùng đều phải đứng lại một lát. Quan lớn ăn hút xong truyền lịnh đi, mới lại tiếp tục đi.
Xe kéo quan lớn đi qua các đường phố, hai dãy tiệm buôn "các chú" ở hai bên đường đều thi nhau đốt pháo mừng quan, và mặc áo rộng đứng trước cửa cúi đầu cung kính chào quan. Quan lớn ngồi trong xe kéo, làm nghiêm không chào lại.
Lúc xe quan Tuần vũ đi ngang qua mặt Tuấn em và một lũ học trò đứng xem trên lề đường. Tuấn chỉ vào mặt quan và nói to với mấy đứa bạn nó:
- Mặt ông lớn cũng có ghèn, tụi bây ơi!
Ông lớn quay lại trừng mắt ngó Tuấn, Tuấn và mấy đứa bạn sợ ông Lớn sai lính bắt, lật đật chạy biến mất trong đám đông người đứng coi chật ních trước các hè phố...
Chúng chạy về nhà lấy sách vở đến trường... Hôm ấy học trò đi trể khỏi bị phạt.
Chương 18.
Một buổi sáng thứ ba, Tuấn-em đang ngồi chăm chỉ nghe thầy giáo lớp Năm giảng bài Địa dư, bỗng có tiếng giầy tây của quan Đốc học đi lộp độp ngoài hiên rồi bước vội vàng vào lớp, học trò đứng dậy. Quan Đốc (người tỉnh Nghệ-an) nói tiếng tây trọ-trẹ với thầy giáo vài ba câu gì đó, rồi quay lại nói tiếng Việt với học trò:
- 5 giờ chiều nay có máy bay tới tỉnh, vậy chiều nay cho nghỉ học để các trò đi coi máy bay. Tất cả học trò đều phải đến trường hồi 3 giờ để thầy giáo dẫn đi. Nghe không?
Cả lớp đều đồng thanh dạ rân một itếng. Quan Đốc lại nói tiếng Tây với thầy giáo vài ba câu rồi ra đi. Thầy bảo học trò:
- Asseyez-vous! (các trò, hãy ngồi xuống)
Học trò ngồi xuống, rồi thầy tiếp tục giảng bài. Dạy xong, gần mãn giờ, thầy mới bảo:
- Các trò nghe quan Đốc dặn lúc nãy, phải nhớ đấy! Chiều nay nghỉ học nhưng 3 giờ các trò phải đến trường để thầy dẫn đi coi máy bay... Các trò có biết máy bay là cái gì không?
Cả lớp đồng thanh trả lời:
- Thưa thầy, các con không biết.
Thầy giáo giảng:
- Máy bay là cái máy biết bay. Nó bay như con chim bay vậy, nhưng nó là con chim thật to, trong ruột nó có cái máy, nó ở ngoài Tourane bay vô, nó sẽ đậu gần chợ Ông Bố, cách xa tỉnh 4 cây số.
Tuấn-em ngồi bàn đầu, dơ ngón tay lên. Thầy hỏi:
- Trò Tuấn hỏi gì?
Tuấn đứng dậy, vòng tay lễ phép:
- Thưa thầy, máy bay nó đậu trên ngọn cây hay nó đậu trên nóc chợ?
Thầy cười:
- Nó đậu trên đám đất trống phía sau chợ.
Một trò khác dơ ngón tay lên hỏi:
- Thưa thầy, máy bay nó đậu trên đám đất, nhưng chiều nay nó thấy mình tới coi đông quá, nó sợ nó bay mất thì làm sao coi được?
Thầy trả lời:
- Máy bay có ông quan Ba Tây lái ổng cho nó đậu đấy để người ta tới xem. Sáng mai nó mới bay vô Qui-nhơn.
Tuấn-em lại dơ tay lên hỏi:
- Thưa thầy, thầy đã thấy cái máy bay chưa? Mình đứng coi, nó có hít mình vô trong bụng nó như xe điện không?
- Thầy thấy hình vẽ cái máy bay trong tự điển Larousse chớ chưa thấy cái máy bay ở ngoài. Chiều nay thầy dắt các trò đi coi, thầy cũng coi. Từ trước tới giờ, đâu có máy bay mà coi. Bây giờ nhà nước bảo hộ mới đem một chiếc máy bay từ bên nước Pháp qua cho người An Nam xem.Quan Công Sứ tư giấy cho quan Đốc học, để cho học trò đi coi. Vậy chiều nay tới chỗ nó đậu, các trò phải đứng với tôi, tôi đi đâu các trò đi theo đấy, chớ đừng chạy bậy bạ, đừng có lại gần nó mà chết đấy, nghe không?
- Dạ (cả lớp đều dạ một cách hồi hộp lo sợ)
Tuấn em về nhà thưa lại với anh Hai nó và cha mẹ nó..Cứ mỗi lần thằng con trai út sắp đi lễ hay đi đâu như thế, là thím Ba, mẹ Tuấn, lo cho Tuấn rất tươm tất, không để thiếu sót một tý gì. Thím mặc áo quần sạch sẽ cho nó (áo dài đen bằng vải trang đầm, quần vải quyến trắng), thím lấy chổi lông gà quét bụi trên chiếc mũ trắng của nó, cho nó một tiền (60 đồng tiền ăn ba) để nó đi xa có tiền ăn bánh uống nước. Luôn luôn thím căn dặn nó "Con nắm áo thầy giáo đi theo sát bên cạnh thầy, chớ đừng nô dỡn với bạn bè chạy nhảy tung tăng, cái máy bay nó hít chết nghe không con!".
Tuấn-em ngoan ngoãn dạ.
4 giờ chiều, 5 ông thầy giáo dẩn 5 lớp học trò đến đám đất trống sau chợ Ông Bố, thì thiên hạ đã tụ tập nơi đây như một buổi chợ. Nghe đồn có máy bay đến, hầu hết người lớn trẻ nhỏ trong thành phố đều nao nức đến xem. Người ta kéo nhau lũ la lũ lượt đi chật đường chật xá, dân chúng khắp nơi đổ dồn về đông nghẹt. Tất cả sở nhà nước đều nghỉ việc, để cho các thầy Thông thầy Ký, dắt vợ dắt con đi xem máy bay. Con đường hương lộ từ tỉnh lên chợ Ông Bố, ngày thường chỉ lưa thưa vài ba bóng người, nông dân đi cày bừa, thôn nữ đi chợ, hôm nay có hàng muôn nghìn người chen chúc nhau đi, như một ngày đại hội. Đường đấp đất ruộng, bụi bay lên mù mịt...
Trừ ra những người giàu sang có tiền đi xe kéo, còn toàn thể đều đi bộ trên đường quanh co giữa thôn quê dài trên bốn cây số. Xe kéo có đeo trái lạc, chiếc xe chở hai ba người, anh phu xe khom lưng kéo, tay rung chiếc lạc kêu leng-keng, leng-keng... người bộ hành phải bước xuống ruộng để cho xe đi vì con đường chật hẹp. Nhiều người bực mình, cứ đi giữa đường, không chịu né một bên, anh phu xe phải năn nỉ: "Bà con làm phước tránh chổ cho xe đi chớ, bà con!". Tránh chỗ thì tránh, nhưng không tránh khỏi cãi nhau vì tranh giành nhau đi trước, vì ai cũng sợ tới trễ. Rốt cuộc, tất cả mọi người đều vui vẻ, đến đám đất chợ Ông Bố chờ, mà máy bay chưa tới.
Nếu đếm số người đi đón xem máy bay hôm ấy có lẽ hơn vài ngàn người. Đây là lần đầu tiên người ta nói đến máy bay.
4giờ rưỡi, ai nấy xôn xao. Quan Sứ đi "xe điện" đến. Lính tập đã sắp hàng đứng đón, thổi kèn lên và bồng súng chào. Dưới ánh nắng chiều, hai dẫy lưởi lê cắm trên miệng súng, sáng quắt nom thật là oai hùng...
Các quan tây cũng lục tục kéo tới, người đi ngựa, kẻ đi xe kéo bánh sắt, hay bánh cao su. Một lúc sau, quan Tuần phủ mới đến, có lính lệ cầm trống tiêu-cổ đi trước báo hiệu, đánh trống tum! tum! Nhưng quan Tuần có vẻ sợ sệt khi thấy Quan Sứ đã đến trước rồi, quan Tuần vội-vàng xuống xe kéo cao su, đi thẳng đến Quan Sứ, cúi đầu vái... vái...
Người ta thấy Quan Sứ vui vẻ nhã nhặn bắt tay Quan Tuần. Quan tây nói chuyện với quan ta, có thầy phán Tuấn đứng bên cạnh làm thông ngôn.
Quan Tây móc "đồng hồ trái quít" ở trong túi ra xem "đã 5 giờ kém 15". Ông liền truyền lịnh đốt rơm và bã mía đã chất sẳn thành một đống to tướng nơi góc ruộng kế đấy. Tuấn-em không hiểu đốt rơm làm gì, hỏi thầy giáo, thầy giáo không hiểu chạy đi hỏi quan Đốc, quan Đốc cũng không hiểu chạy đến hỏi Phán Tuấn. Tuấn bảo:
-"Dạ thưa quan lớn, đốt để khói lên làm dấu hiệu cho máy bay thấy chỗ đáp xuống, vì máy bay sắp đến".
Tiềng xì xầm truyền từ miệng này sang miệng khác:
-"Máy bay sắp đến! Máy bay sắp đến!".
Và không ai bảo ai, muôn nghìn cái đầu ngước lên vòm trời xanh thẳm...Muôn nghìn cặp mắt lục lọi, nhìn đăm đăm tận các làn mây xa...xa tít ngoài hướng Bắc...tìm kiếm bóng dáng chiếc máy bay mà chưa ai biết như thế nào.
Làn khói trắng từ nơi đống rơm và bã mía ngùn-ngụt cháy, vươn mình lên không trung như một nàng Tiên uốn lượn thân hình mảnh khảnh, như say sưa một vũ điệu mê ly, đón chờ con Chim Thần của Khoa Học Tây Phương.
5 giờ... 5 giờ 15, 5 giờ 30... Nhiều người bắt đầu nói bông lơn. Nói bông lơn, vẫn là đặc tính của người dân quê ta. Kẻ thì tủm tỉm cười, bảo: "Chắc chim bay xa, gãy cánh rớt xuống biễn rồi!". Kẻ đáp lại với giọng mỉa mai khác:"Chú mày nói bá láp nè! Chim Thần Điểu của nước Đại Pháp thì có phép lớn, đâu như chim sẻ của An Nam!"
Các Quan Tây coi bộ sốt ruột lắm. Trời đã chạng vạng. Nắng chiều đã tắt sau các luỹ tre xanh xào-xạc gió. Làn khói rơm duyên dáng cũng đã mỏi mệt, chỉ còn như một hơi thở yếu dần... Một con quạ bay tít nơi xa... hàng trăm ngón tay chỉ chỏ... và bao nhiêu người reo lên: "Máy bay tới kìa". Các quan Tây, quan An Nam cũng tưởng thật, tất cả những con mắt đều ngó theo con quạ đen... Rốt cuộc con quạ đáp xuống một cành tre. Có lẽ nó mắc cỡ, không dám bay xuống phi trường. Thiên hạ chăm chú ngó con quạ, trong lúc một người lính Tây và một ông tập phi ngựa từ dưới tỉnh lên, lính cỡi ngựa ô chạy trước, ông Tây cỡi ngựa kim chạy theo sau, tức tốc đến "phi trường" mà không ai trông thấy...
Ông Tây phi ngựa thẳng tới chổ quan Sứ rồi hai người bắt tay nhau nói chuyện xí lô xí la, xem giấy tờ nhau, rồi cười ầm ầm.
Thiên hạ không ai chờ đón máy bay nữa, nhưng lại tò mò muốn biết ông Tây nào lạ mới đến đây vội vã bất ngờ như thế, có chuyện chi? Người ta xôn xao, hay có biến loạn ở đâu? Bổng từ chổ ông Sứ đứng, quan Đốc học đi nhanh đến các thầy giáo, vừa nói vừa cười:
- Sáng nay Quan Sứ ở Tourane đánh giây thép vào cho Quan Sứ ta, bảo là: "Commandant avion arrivera ce soir" (Quan Ba máy bay sẽ đến chiều nay).
Ông Tây lạ mới đến kia chính là quan Ba phi công ở ngoài Tourane vào để quan sát phi trường đã, xem diện tích có rộng lớn và bằng phẳng cho máy bay đáp xuống được không, nếu được thì sáng mai ông trở ra Tourane rồi ba hôm sau máy bay mới đến.
Nên kể thêm rằng, ba hôm sau, cũng khoảng 5 giờ chiều máy bay có đến. Một chiếc máy bay lớn sơn màu trắng, bốn cánh hình chữ nhật cũng mầu trắng, hai cánh trên, hai cánh dưới. Phi cơ bay lượn ba vòng trên đám đất trống khá rộng và đã được dọn dẹp sạch sẽ không có một bụi cỏ. Nhưng nó bay tít vào hướng Nam, một cái chấm đen rồi biến mất làm cho khán giả lại thất vọng, tưởng nó bay luôn. Nhưng một lát sau, nghe tiếng ầm ầm trên trời, mà không thấy nó đâu... bỗng từ trong làn mây trên rặng tre xanh, nó xuất hiện ra đột ngột, to lớn như một con chim kỳ quặc kinh khủng, bay lượn mấy vòng nữa, tiếng nó vang động cả vòm trời. Rồi nó lù lù hạ thấp xuống tận nơi xa và chạy thẳng đến giữa phi trường, ngừng lại. Một cái chong chóng còn quay tít, gây ra môt làn gió mạnh, làm bay nón, bay khăn của đám khán giả ngơ ngác. Ai nấy hoảng sợ, cả đám học trò, chạy lui xa năm, sáu bước. Người ta thấy rõ mặt ông Quan Ba hôm trước từ trong phi cơ bước ra tươi cười bắt tay Quan Sứ...
Đó là năm 1920. Cũng như tất cả mọi người trong tỉnh, hai anh em Tuấn được trông thấy chiếc máy bay lần đầu tiên.
Chương 19.
1921
- Ông Tú nhà Nho bị tù đày ở Côn-lôn lúc được trả tự do về nhà mở trường dạy chữ Quốc Ngữ, chữ Tây và Toán.
- Sữa hộp con chim (Nestlé) là món xa xỉ phẩm chỉ để các quan dùng.
- Học trò "đi Tết" Thầy, và đọc "đít cua" (discours) mừng tuổi Thầy.
- Tình hình các trường Nhà Nước khắp ba kỳ Trung Nam Bắc.
- Một bộ đồ Tây gởi vô Saigòn may.
- Một ông Đốc học nịnh "Mẫu quốc".
- Một ngày lễ Quốc Khánh Pháp. Và những trò giải trí nhục nhả cho người An-Nam.
Chiếc máy bay lần đầu tiên kiểu Farman 1915, đáp xuống một khu đất hoang gần tỉnh lỵ, một buổi chiều thứ sáu năm 1920, trước một công chúng vài ngàn người đã gây được một uy tín lớn lao cho người Pháp và thêm được một yếu tố tâm lý vững chắc cho chính sách chinh phục mà họ gọi là "Bảo Hộ".
Thời kỳ này các nhà Văn Thân có đầu óc ái quốc đã hoạt động chống Pháp từ 1906-1908, theo phong trào Duy-Tân, phong trào xin xâu "giặc đồng bào", hầu hết đã bị đày đi Côn Lôn, Lao Bảo đều đã lần lượt trở về, và sống yên thường thủ phận. Các ông không hoạt động chính trị nữa, chỉ mở trường tư tại nhà dạy học trò. Ông Tú Phong thầy học cũ của Ký Thanh và của Phán Tuấn, sau khi bị đi tù ở Côn Lôn về, liền mở trường dạy chữ quốc ngữ và bỏ hẳn chữ Nho. Người ta ngạc nhiên thấy ông Tú sau chín năm đi tù về, đã cúp tóc carré và cách thức ăn ở đã tiêm nhiễm ''văn minh Âu Tây". Ông viết chữ quốc ngữ rất thạo, và có đem về một quyển tập dầy khoảng 200 trang chép bằng mực tím tất cả những gì ông học được trong nhà lao Côn Lôn. Ông đem quyển tập ấy dạy lại cho đám học trò của ông, độ vài ba chục thanh thiếu niên, con những nhà khá giả nhưng không thích đi học "trường nhà nước". Nhiều cậu đã lớn tuổi sắp làm ông Hương, ông Xã. Đại khái về Toán thì ông Tú dạy cách đo bóng cây để biết cây cao mấy thước, đo ngọn núi cao, và diện tích hình vuông, hình chử nhật, hình tam giác, hình chữ nhật lệch, hình thoi, v.v...
Ông cho học trò làm những bài toán bằng thơ, thí dụ như sau:
Vừa gà vừa chó
Bó một bó cho tròn
36 con
100 cái cẳng
Hỏi mấy gà, mấy chó? v.v..
Về địa dư, ông dạy vẽ địa đồ "ngũ đại châu" và bôi đủ các thứ mầu, vẽ bậy bạ không trúng vào đâu cả, nhưng đại khái cũng phân biệt châu Âu, châu Á, châu Mỹ, vv... Về Lịch sử, ông viết ra một quyển sách quốc ngữ nhan đề "Nam Quốc Sử diễn ca" bằng thơ lục bát. Ông cho học trò học thuộc lòng quyển sử của ông, một bản duy nhất, chép bằng tay, thay vì học "Tứ Thư Ngũ kinh" như ông đã dạy trước kia. Quyển "Nam Quốc Sử diễn ca" của ông Tú mở đầu như sau đây:
Nước ta đã bốn ngàn niên
Hồng Bàng lập quốc con Tiên cháu Rồng
Âu Cơ kết với Lạc Long
Sanh ra trăm trứng, chuyện không hoang đường
Mới nghe thì khó tỏ tường
Nhưng dòng Lạc Việt hùng cường biết bao!
Đất nhiều, sông rộng, núi cao,
Dân hăm lăm triệu, dễ đâu thua người! v.v...
Tuy thế, ông Tú cũng thích chữ Tây lắm. Thỉnh thoảng ông dạy học trò của ông học chơi cho vui vài ba câu tiếng Pháp mà ông đã học lỏm được ở Côn Lôn, thí dụ như "Bông-xua Bà Đầm, Bông-xua Mông xừ, v.v..."
Mồng một Tết, ông Tú đến nhà ông Cử Phạm, chúc mừng bằng một câu tiếng Tây: "Bon-an-nê!" điểm theo một nụ cười bông đùa rất có duyên. Đó là triệu chứng chữ Pháp đã bắt đầu thịnh hành vào khoảng năm 1920 trong dân gian vậy.
Ông Tú cũng dạy học trò của ông học chữ số của Tây theo giọng ta:
- "On, đơ, toa, cách, xanh, xít, nớp, đít, ông, đui...". Hơn nữa, ông Tú đặt tên cho đứa cháu ngoại đầu lòng của ông là Lê văn On theo chữ Un của Pháp), và đứa cháu nội thứ ba là Trần văn Toa (theo chữ Trois).
Ông Tú dạy cả khoa vệ sinh nữa, một môn học mà trước kia chính ông cũng chưa biết. Thí dụ, ông dạy rằng sáng dậy phải lấy cục than đen trong bếp, chà trên răng rồi súc miệng, cho sạch miệng và sạch răng. Tất cả học trò ông đều làm đúng theo lời ông dạy.
Ký Thanh là học trò cũ của ông Tú, trước kia rất kính trọng thầy, nhưng từ ngày ông bị bắt vì quốc sự và bị đày đi Côn Lôn, chàng không dám nhắc đến tên thầy nữa. Hôm ông Tú ở tù về, bà con trông phố và trong tỉnh mừng rỡ đến thăm tấp nập, chật nhà cửa, và tỏ lòng quyến luyến cảm phục ông Tú. Duy có Ký Thanh là không dám bước chân đến hỏi thăm thầy một câu. Chàng sợ "liên luỵ" đến bổn thân, tìm cách tránh thầy cũ như tránh người cùi.
Phán Tuấn, trái lại, thường đến thăm thầy luôn, tuy rằng hồi nhỏ '"thằng Chuột" mới được ông Tú dạy cho học bập bẽ vài chữ "thiên trời, địa đất" mà thôi, vì nhà nghèo nó đâu có đi học được thường xuyên. Nhớ tình thầy trò cũ, Trần anh Tuấn thường "đem kỉnh" ông Tú một gói trà hoặc một cân đường, một chai rượu hổ cốt, một hộp sữa bò. Thời buổi ấy chỉ có một thứ sữa hộp duy nhất là sữa con chim và là một món xa xỉ. Ai có tiền mới mua được một hộp về nhà để dành pha uống cả nửa tháng mới hết.
Trong tỉnh chỉ có các nhà quan và các thầy làm việc Nhà-nước, có lương bổng nhiều mới dám uống sữa bò. Cho nên lâu lâu Phán Tuấn đem biếu ông Tú một hộp sữa Nestlé, ông quý lắm, vui mừng cám ơn "thầy Phán". Mỗi lần Tuấn đến thăm, chàng thích hỏi ông Tú về đời sống của tù ở Côn Lôn. Chàng thích nghe ông Tú kể chuyện các bạn đồng lao của ông như ông Nghè Huỳnh thúc Kháng, ông Nghè Ngô đức Kế, ông Tây Hồ Phan châu Trinh, ông Tú Tân Hội, vv...
Tuấn nghe say mê. Có lần Tuấn khẽ hỏi:
- Thưa thầy, vua Duy-Tân có ở Côn Lôn không?
- Không. Nghe nói Tây đày Ngài qua đâu tận bên Phi châu lận.
- Thưa thầy còn vua Thành Thái?
- Ngài, thì hình như cũng bị lưu đồ qua bên đó.
- Vua Hàm Nghi?
- Vua Hàm Nghi cũng bị đày qua Phi châu.
Tuấn hỏi cho biết thôi, chứ Tuấn không dám thổ lộ tâm sự riêng tư gì của chàng. Chàng biết chàng đang bị Ký Thanh "dòm ngó" và tìm đủ các cách để làm hại chàng. Tuấn đến thăm ông Tú Phong, đã là một hành động táo bạo và liều lĩnh lắm rồi.
Chương 20.
Gần Tết, Tuấn-em xin mẹ một đồng bạc, góp với học trò trong lớp mua các món lễ vật để "Tết" thầy lớp Năm. Lớp nào và trường nào học trò cũng tự động làm việc ấy, để tỏ lòng biết ơn thầy dạy dỗ. Chính cha mẹ học trò cũng rất sốt sắng về việc ấy nữa. Thầy giáo lúc bấy giờ được học sinh kính mến và trọng vọng lắm.
Vì học giỏi nhất lớp, lại hạnh kiểm tốt, nên Tuấn được bạn bè trao tiền nhờ mẹ mua các đồ vật tết thầy: một quả nếp, hai chai rượu, một cân đường bông và một cân đường phèn. Mấy lớp lớn (lớp Ba, lớp Nhì, lớp Nhất), học trò còn đọc "đít cua" để "mừng tuổi" thầy giáo. Học trò lớp Năm còn nhỏ tuổi quá, chưa làm đước "đít cua", nhưng cha mẹ cũng dạy cho một vài câu lễ phép mà các em học thuộc lòng ở nhà rồi đến đọc cho thầy nghe.
Chiều 27 hay 28 tháng chạp, thầy giáo vừa ăn cơm xong, thấy cả lớp học trò của mình toàn tụi con nít 9, 10 tuổi, mặc áo đen dài, quần trắng, đi chưn không, rụt rè tiến vô nhà. Mấy em đi đầu bưng mấy quả "lễ vật" tức là quà Tết, cung kính đặt giữa bàn nơi thầy ngồi uống nước trà. Tất cả đều khúm núm, sợ sệt. Thầy giáo đang mặc áo cụt, cũng vội vàng vào buồng mặc áo xuyến dài ra tiếp học trò.
Các em đứng vòng tay rất lễ phép, rồi một đứa được các em đề cử trước - chính là Tuấn-em - cúi đầu xá thầy ba xá, bập bẹ nói một câu mà em đã được cha mẹ ở nhà dạy học thuộc lòng:
- Dạ bẩm Thầy, năm hết Tết đến, chúng con xin kính lời mừng tuổi Thầy Cô cùng quý quyến và chúng em kính chúc Thầy Cô sang Năm Mới được Phật Trời phò hộ an khương.
Tuấn nói trôi chảy gọn gàng không vấp một chữ, xong cúi đầu xá thầy ba xá. Toàn thể các em đều cung kính cúi đầu xá thầy ba xá.
Thầy giáo ngồi bàn, rưng rưng nước mắt. Thầy cảm động quá không nói sao được, liền đưa tay kéo Tuấn vào lòng thầy và kéo hết cả ba chục em vào đứng lại hết cạnh thầy. Thầy lấy tay âu yếm vuốt đầu tóc các em.
Thầy giáo hồi xưa nghèo lắm. Lương tháng chỉ được 5 đồng bạc chứ đâu có nhiều. Thầy không có gì đãi các em, chỉ bưng trên bàn thờ xuống một quả bánh in của cô giáo vừa làm để cúng. Thầy gọi cô lấy thêm ra ít bánh cúng cho đủ 30 cái bánh để làm quà cho 30 em học trò.
Mỗi em đưa hai bàn tay non nớt ra lễ phép nhận lãnh quà của thầy.
Nhưng tội nghiệp không em nào ăn cả, bỏ túi để đem về khoe với cha mẹ. Các em học trò năm 1920 đã biết quí cái bánh của thầy giáo cho Tết, không phải bởi nó là cái bánh, mà bởi nó là món quà Tết của thầy. Thầy nói mấy lời cảm ơn các em, cảm ơn cha mẹ các em, và gởi lời về "mừng tuổi" các bậc cha mẹ. Cô giáo cũng vui vẻ tươi cười, âu yêm hỏi chuyện từng em.
Cũng buổi tối ấy, học trò lớp nào cũng đi Tết thầy giáo của mình.
Riêng ở lớp Nhất, trò Hường được toàn thể các bạn cùng lớp cử ra đọc bài "đít cua" bằng chữ Pháp để chúc mừng thầy. Bài tự trò làm lấy, vì trò giỏi chữ Pháp nhất lớp. Trò đã làm xong trước đó mười ngày, và chuyền tay nhau cả lớp cùng xem. Xong, trò Liên, con thầy Thông Lễ làm y tá ở tỉnh, nhờ cha đem vào nhà thương đánh máy giùm trên một tờ giấy thật trắng. Trò Quít, đứng đầu về môn vẽ, được các bạn giao cho công việc vẽ một bó hoa thật đẹp, đủ màu, trên đầu tờ "đít cua".
Tối hôm ấy, cơm nước xong, vào khoảng 7 giờ, 40 học trò lớp Nhất quần áo tề chỉnh, tụ họp tại nhà cậu Hường. Nơi đây, với tiền đóng góp của tất cả lớp, mẹ cậu Hường đã mua sẵn các món lễ vật đựng trong 5 quả lớn. Năm cậu tình nguyện bưng 5 quả, rồi tất cả cùng đi đến nhà thầy ở một đường hẻm tối om trong thành. Chó sủa vang dậy cả xóm. Thầy giáo lớp Nhất đang nằm võng ru con ngủ, nghiêng mình ngó ra sân thấy lố nhố những bóng đen. Cô giáo cầm chiếc đèn Huê-kỳ đứng cửa rọi ra, quay vào nói với chồng "Học Trò!". Cô ôm con ra để cho Thầy được rảnh. Thầy vào nhà trong, mặc áo lương dài kết nút xương, ra ngồi ghế tràng kỷ để tiếp học trò của thầy.
Sau khi 5 cậu đặt 5 quả lễ vật trên bàn, ai nấy đều im lặng vòng tay đứng sau Hường. Cậu Hường cầm tờ giấy đánh máy có vẽ bó hoa vạn thọ, xá thầy ba xá, rồi cung kính đọc. Giọng cậu run run như sợ sệt. Xin chép nguyên văn một bài Pháp-ngữ của học trò lớp Nhất tự làm ra để chúc mừng năm mới thầy giáo, ngày Tết năm 1921: (tài liệu của ông Trần văn Tính, thân phụ một học sinh trường Pháp-Việt, năm 1921)
Monsieur et Cher Maître,
A l'occasion du Nouvel An qui va venir, nous, vos petits élèves respectueux et obéissants, avons l'honneur de vous adresser, ainsi qu'à votre honorable famille, nos voeux les plus fervents de Bonheur, de Richesse et de Longévité.
Monsieur et Cher Maître,
Vos bienfaits sont comparables à la montagne Thái Sơn, vos Vertus sont immenses comme la Mer de l'Est. Vous êtes au-dessous du Roi mais au-dessus de nos parents que nous aimons et respectons également. C'est pourquoi nous ne pouvons pas vous exprimer toute l'instruction que vous nous donnez.
Nous vous prions de vouloir bien pardonner notre langage maladroit. Mais notre respect est grand à votre égard, notre gratitude est profonde . Dans notre vie nous ne pourrons jamais oublier notre Maître bien-aimé.
Veuillez agréer, Monsieur et Cher Maître, l'expression de notre très humble reconnaissance.
Vos élèves très dévoués du Cours Supérieur.
Tết, 1921.
Lời văn quả thật còn ngây ngô, nhung cách đặt câu đã khá vững, văn phạm đã đúng đắn, diễn tả không đến nổi vụng về lắm.
Xin dịch nguyên văn.
Thưa thầy kính yêu,
Nhân dịp năm mới sắp đến, chúng con, bọn học trò của Thầy, cung kính và biết nghe lời, hân hạnh dâng lên Thầy cùng tôn quyến, những lời nồng nhiệt kính chúc Thầy: Phước, Lộc, Thọ.
Thưa thầy kính yêu,
Ơn của Thầy như núi Thái Sơn, đức của Thầy rộng mênh mông như biển Đông. Thầy ở bậc dưới Vua, nhưng ở bậc trên cha mẹ chúng con, mà chúng con cũng yêu kính vậy. Cho nên chúng con không thể nào diễn tả hết được tất cả những sự biết ơn mà chúng con cảm từ trong đáy lòng vì nền giáo dục mà Thầy đã ban cho chúng con. Chúng con xin thầy tha thứ cho lời vụng về. Nhưng sự kính trọng của chúng con rất là sâu xa. Trong đời chúng con sẽ không thể nào quên được bậc Hiền sư yêu dấu.
Kính xin Thầy nhận nơi đây lòng tri-ân hèn mọn của chúng con.
Học trò rất tận tâm trung thành với Thầy ở lớp Nhất.
Tết 1921.
(Còn nữa)