Diễn đàn của người dân Quảng Ngãi
giới thiệu | liên lạc | lưu niệm

 April 09, 2025
Trang đầu Hình ảnh, sinh hoạt QN:Đất nước/con người Liên trường Quảng Ngãi Biên khảo Hải Quân HQ.VNCH HQ.Thế giới Kiến thức, tài liệu Y học & đời sống Phiếm luận Văn học Tạp văn, tùy bút Cổ văn thơ văn Kim văn thơ văn Giải trí Nhạc Trang Anh ngữ Trang thanh niên Linh tinh Tác giả Nhắn tin, tìm người

  Văn (Kim văn)
TUẤN CHÀNG TRAI NƯỚC VIỆT (Ch.36-40)
NGUYỄN VỸ
Các bài liên quan:
    TUẤN CHÀNG TRAI NƯỚC VIỆT (Ch.31-35)
    TUẤN CHÀNG TRAI NƯỚC VIỆT (Ch 26-30)
    TUẤN CHÀNG TRAI NƯỚC VIỆT (Ch.21-25)
    TUẤN CHÀNG TRAI NƯỚC VIỆT (Ch.16-20)
    TUẤN, CHÀNG TRAI NƯỚC VIỆT (Ch.11-15)
    TUẤN CHÀNG TRAI NƯỚC VIỆT (Ch.6-10)
    TUẤN, CHÀNG TRAI NƯỚC VIỆT (Ch.1-5)
    TUẤN, CHÀNG TRAI NƯỚC VIỆT (Tựa)
    NGUYỄN VỸ, NHÀ VĂN NƯỚC VIỆT
CHƯƠNG 36.

1927

- Thanh niên học sinh bãi khoá bị đuổi khỏi các trường nhà nước phải phiêu lưu đi kiếm việc làm tạm.

- Làm đâu rồi cũng bị chủ Tây đuổi vì "đầu óc xấu"

- Con gái Bình Định dạy võ.

Tuấn nằm trên bãi cát đến nửa đêm, không muốn về nhà trọ. Ngó lên vòm trời dầy đặc những ngôi sao. Tuấn mơ màng suy nghĩ đến ngày mai, không tìm được lối thoát cho tuổi thơ còn ngu dại. Chưa nghĩ đến tương lai xa vời, chỉ lo đến niên khóa sắp tới, Tuấn sẽ học đâu được nữa vì còn một năm Đệ Tứ niên mới hết khóa Trung học? Lẽ nào một chàng trai 17 tuổi đành phải từ biệt mái trường, vơí chút học thức dở dang, đi phiêu lưu vô định?
Cha của Tuấn có vào trước đó nửa tháng, đem theo nhiều lễ vật để kỉnh quan Đốc học, lo lót cho con, Tuấn đã xin cha đừng đến ông Đốc, vì Tuấn đã biết trước ông Đốc không ăn hối lộ và Tuấn quả quyết với cha rằng Tuấn sẽ không bị đuổi. Tuấn nói thật với cha tin tưởng rằng Tuấn học khá, sẽ được lên lớp. Cha Tuấn tin con, vui vẻ trở về tỉnh nhà. Không ngờ sự thể hôm nay đã ra như thế!

Tuấn buồn quá, đi trên bãi bể, dưới ánh trăng mờ, mãi đến Gành Ráng, nơi đây Tuấn tìm nột tảng đá bằng phẳng, Tuấn nằm xuống ngủ quên lúc nào không biết.

Tuấn sực tỉnh dậy vừa lúc mặt trời đang ló lên ngoài khơi, một mảnh tròn to lớn, đỏ tươi, long lanh trên mặt bể. Chung quanh, những tia nắng tỏa ra thành hình rẽ quạt, chiếu khắp bốn phương. Tuấn ngồi dậy, ngắm say mê cảnh vũ trụ huy hoàng, quên rằng mình là đứa học trò đã bị đuổi khỏi trường vì cuộc bãi khóa.
Chiều trở về thành phố, Tuấn đến thẳng nhà Quỳnh, mới biết hầu hết bạn bè ở các tỉnh xa đã mua vé xe về quê từ lúc sáng sớm. Tuấn do dự không muốn về, sợ cha mẹ buồn.

Cậu học trò bị đuổi không dám đi chơi ngoài phố, Cậu muốn đến nhà trọ hai cô bạn Trâm và Anh nhưng mắc cỡ không dám đến. Cậu lại vừa bị bà chủ nhà cũng rầy la về vụ bãi khóa. Ồ, sốt cả ruột …Bãi khóa …Bãi khóa …ai cũng mắng nhiếc cậu về vụ bãi khóa…!

Nhưng ai đó biết đâu rằng cậu làm, cậu chịu, nào có ăn thua gì đến ai, mà ai cũng hành hạ cái tinh thần cậu vì hai chữ bãi khóa …đã cũ rích từ hai tháng qua!

Tuấn nằm co trên ván, ngoài chái sau, trùm chiếc chiếu để đừng ai thấy cậu khóc. Tuấn tức mà khóc, giận mà khóc, buồn cho thân phận mà khóc, chứ thực ra không phải khóc vì bị đuổi sau vụ bãi khóa.

Thình lình có tiếng O Vui, em gái ông chủ nhà, đến khẽ đập bàn tay trên chiếu, gọi:

- Cậu Tuấn, có cô Trâm, cô Anh tới kiếm cậu kìa.

Tuấn lau khô nước mắt, hất chiếu ra, ngồi dậy. Trâm và Anh bẽn lẽn đứng ngoài hè, không dám vô nhà.

Tuấn vui mừng được gặp hai người bạn gái, nhưng nét mặt hôm nay sượng sùng, mất cả tự nhiên. Tuấn hỏi:

- Trâm và Anh chưa về Phù Cát sao?

- Tụi em tính sáng mai mới về. Tưởng anh đã về Quảng Ngãi rồi chứ.

Tuấn ngượng nghịu lắc đầu:

- Không muốn về đâu hết.

- Sao vậy anh?

- Bị đuổi. Về tỉnh, họ cười chết. Cha mẹ rầy la làm sao?

- Cần gì, anh! Đuổi trường này thì anh đi Huế học trường Pellerin của các ông Cố đạo cũng được vậy.

- Trâm và Anh vừa thi đỗ, nghỉ Hè xong có tính ra Huế thi vào Đồng Khánh không?

Anh lắc đầu, buồn:

- Em muốn đi Huế nhưng mà nhà em nghèo, cha mẹ em chỉ cho đi học đỗ Primaire rồi xin làm Trợ giáo đi dạy học ở trong tỉnh, cho gần nhà.

- Còn Trâm?

- Em cũng vậy.

Tuấn càng thêm buồn, lắc đầu khẽ bảo:

- Tôi cũng …lo kiếm việc làm đỡ đâu đó một thời gian, không thèm đi Huế.

- Anh là con trai, cứ đi học nữa đi! Còn lo cho tương lai, và thực hiện lý tưởng chứ.

- Nếu Trâm và Anh đi ra học Đồng Khánh, thì tui cũng ráng xin cha mẹ tôi cho đi Huế, học Pellerin… Trâm và Anh không đi tôi cũng không muốn đi. Ra ngoài ấy xa lắc, nhớ nhà nhớ bạn, học gì nổi.

Ba người bạn trẻ làm thinh, cúi mặt xuống đất, suy nghĩ. Bàn tay của Anh mân mê chiếc nón lá. Trâm bảo:

- Chiều anh lại nhà tụi em được không?

Tuấn gật đầu:

- Ừ, chiều tôi đến.

Tuấn nở nụ cười gượng:

- Bữa nay khỏi làm rédaction …

Anh cũng mỉm cười rất dễ thương:

- Làm thơ chơi hỉ!

Chiều Tuấn đến nhà trọ hai cô bạn. Anh và Trâm đang chờ, tóc bỏ xõa hai bên vai. Hình như Trâm và Anh vừa mới tắm, hay gội đầu. Cả hai đều mặc áo cụt trắng quần đen (nữ sinh đứng đắn thời bấy giờ không bao giờ mặc quần trắng ban ngày). Hai cô bạn mời Tuấn ăn bánh tráng nướng với đường phổi, rồi Anh đưa Tuấn xem một bài thơ:

- Tụi em dạo này rảnh, tập làm thơ nhiều hơn trước nhưng đọc lên thấy kỳ cục qúa, không hay ho gì hết, anh Tuấn sửa dùm tụi em đi.

Bài thơ:

Khuyên bạn.
Khen ai khó nhọc đã thành công
Dẫu bị chi chi cũng vững lòng
Để lại học đường gương tuấn tú
Rồi đây xa cách , kẻ chờ mong …


Trâm cười:

- Anh coi, hai đứa làm cả buổi mới được bốn câu đó.

Anh tiếp lời:

- Dở ẹc, anh sửa lại cho hay đi.

Tuấn:

- Để vậy tự nhiên hơn. Sửa chi nữa. Tôi họa lại chơi, hỉ?

Trâm:

- Dạ, anh họa đi.

Tuấn loay hoay một lúc lâu mới được bốn câu họa vần, trao cho Anh. Trâm và Anh chụm đầu lại đọc:

Bãi khóa hô hào đã mất công
Qui Nhơn cách biệt thật đau lòng
Trường xưa, bạn cũ tìm đâu nữa,
Một bóng từ nay …hai nhớ mong.


Trâm và Anh cười rũ rượi rồi lấy bút chép lại cả hai bài thơ, mỗi người trên mỗi quyển tập riêng, trong đó chép lại nhiều thơ hay trong quyển Quốc văn trích diễm.

Trâm bảo:

- Anh làm một bài nữa đi, bài bát cú, rồi tối nay tụi em thức họa lại.

Tuấn lắc đầu:

- Lo buồn đủ thứ làm không ra thơ đâu.

Anh:

- Kệ mà, cứ làm đi, anh đừng buồn.

Tuấn chán ngán lắm, nhưng muốn làm vui lòng Trâm và Anh. Tuấn bảo hai cô bạn đi ra sân chơi, để Tuấn ở một mình trong nhà, ráng sức làm thử xem, có được không.

Tuấn ngồi viết, sửa, bỏ, viết lại, xóa bỏ, rồi lại viết. Mãi thật lâu, hơn một tiếng đồng hồ, mới nguệch ngoạc xong 8 câu, đem ra sân trao cho Trâm và Anh. Hai cô nữ sinh đang tưới nước cho mấy cây cau, và mấy bụi hồng, vôi vàng bỏ đôi thùng nước, ngồi trên đòn gánh đọc:

Từ nay cách biệt mái trường ơi!
Ta sẽ phiêu lưu một góc trời
Nước mất, thương nòi, lòng uất ức
Tình xa, nhớ bạn, giọt châu rơi
Vắng đôi hình bóng trong non nước
Ngại chiếc buồm đơn giữa biển khơi
Chép mấy vần thơ làm kỷ niệm
Trăm năm còn nhớ chuyện xa xôi!


Tuấn làm xong xem đi xem lại, muốn đổi vài chữ, sửa một vài câu, nhưng rồi rút cuộc, cứ để vậy trao cho Trâm và Anh.

Hai cô bạn, thoạt tiên mừng rỡ đọc to lên, nhưng đến câu thứ ba và câu thứ tư, Trâm tự nhiên ứa nước mắt rồi cả hai không đọc nữa. Hai người vừa xem nốt những câu sau vừa cắn một chéo áo vào môi, nín khóc. Tuấn chàng trai thơ mộng lúc nào hăng hái kêu gọi bãi khóa, bây giờ ngồi gục xuống bàn, khóc thút thít một mình.
Trâm và Anh đứng dậy đi ra giếng, ngồi bên gốc cây khế sùm sề lí ti những chùm hoa nửa tím nửa trắng, rụng lấm tấm trên sân. Hai cô khóc ấm ức. Anh gác cằm trên đầu gối cúi mặt xuống, Trâm dựa vào gốc khế, cầm chéo áo đưa lên cắn trên miệng, một cánh tay chùi nước mắt.

Tuấn ra về, ghé lại gần hai người:

- Thôi, ngày mai Trâm và Anh nên ra về sớm, tôi chúc Trâm và Anh lên đường bình yên, về Phù Cát vui vẻ, hỉ.

Anh ngước mắt nhìn lâu vào Tuấn, không nói được, cả hai cùng ngượng. Anh khẽ bảo:

- Sáng sớm mai, 5 giờ, anh ra bến đưa tụi em lên xe?

Tuấn gật đầu:

- Vâng, 5 giờ hỉ?

- Dạ, 5 giờ xe chạy.

Tuấn gật đầu một lần nữa, rồi bước nhanh ra đường.

Tuấn ở lại thành phố, không dám về nghĩ hè ở quê nhà, cậu sợ bị cha mẹ đánh đòn. Vì cậu đã bị đuổi sau cuộc chủ trương bãi khóa. Lần đầu tiên chàng thiếu niên nước Việt biết tình cảnh nước nhà bị một cường quốc Tây phương đô hộ.

Tuấn là một thiếu niên đa cảm, cũng như đa số thiếu niên Việt Nam thời bấy giờ, đã chịu những ảnh hưởng trái ngược, một phần thì được thấm nhuần khá sâu đậm Văn Chương Học Thuật Pháp, nhưng phần khác lại được sách báo cách mạng lén lút của các bậc chí sĩ Việt Nam nung đúc tinh thần ái quốc, cách mạng chống Pháp, khiến cho tư tưởng thanh thiếu niên của thế hệ 1925 luôn luôn bị dày vò xâu xé bởi hai ảnh hưởng chống chỏi ấy.

Ai đời một học sinh trung học, ở các lớp Đệ Tam, Đệ Tứ Niên, đọc say mê các kịch bằng thơ Alexandrius của Corneille, Racine, lại bắt chước làm thơ Pháp theo kiểu đó để hô hào các lớp học sinh bãi khóa, hoặc để ủng hộ cuộc bãi khóa của các trường khác. Thí dụ như dưới đây là mấy câu thơ Alexandrius Pháp của trò Tuấn, cổ võ anh em học sinh trường Quốc học Huế:

En avant mes amis! Bravo les plus hauts coeurs!
Aimez sans faiblesse nos communes douleurs!
Sachons nous conduire en héros, en fils de braves!
Soyons des enfants fiers, mais pas de vils esclaves!

. . . . . . .

Đó là những câu thơ tập tểnh của một "thi sĩ cỏ” áp dụng những niêm luât Alexanderius mà cậu vừa học trong trường, và bây giờ mò mẫm cách diễn tả những ý nghĩ say sưa nhiệt cuồng của tuổi trẻ.

Tưởng ghét người Pháp thì ghét cả tiếng Pháp mới hợp lý: hoặc là yêu văn chương học thuật Pháp thì thân thiết với người Pháp, nhưng thực tế không phải vậy. Trừ những kẻ có sẵn óc nô lệ quen nịnh hót Tây, cho đến cái gì của Tây họ cũng khen ngợi cả, tôn thờ Tây như bậc thầy, bậc thánh, ngoài ra, đại đa số thanh htiếu niên lãng mạn 1925, đa sầu đa cảm, đều chịu sự trái ngược lạ lùng của hai phong độ trí thức chống chọi nhau: thích học chữ Tây, thích nói tiếng Tây, mà lại ghét Tây, thù oán Tây đã đem ách nô lệ tròng vào đầu cổ dân An nam.

Đó là tâm lý chung của thế hệ thanh niên tây học của Nguyễn Thái Học, Đặng Thái Mai, Phan Thanh, Võ Nguyên Giáp, Nguyễn An Ninh, Tạ Thu Thâu… Trò Tuấn 16 tuổi, học sinh Trung học, cũng bị hai ảnh hưởng trái ngược chi phối các hoạt động văn hóa và chính trị mà Tuấn chỉ là một thiếu niên tập sự, vụng về nhưng hăng hái.

Trong hai tháng đầu của mùa nghỉ hè (nghỉ hè 3 tháng) Tuấn không ôn lại bài vở như các trò không bị đuổi. Tuấn thường ra bãi biển ngồi ôn lại những tư tưởng cách mạng: Việt Nam vong quốc, dân nô lệ, người dân mất nước như đứa con mất mẹ, xiềng xích áp bức ngục tù… Tuấn tự cho mình là một người dân mất nước, và ngồi khóc sụt sùi thê thảm như một người con mất mẹ.
Năm 1925-1927 những danh từ, thành ngữ cách mạng trên kia hãy còn qúa mới mẻ, còn chứa đựng men nồng của nhiệt huyết, có đủ mãnh lực để làm say sưa xúc động những tâm hồn trai trẻ còn đang trong trắng. Dù bị học đường đuổi vì tội chủ trương bãi khóa hay còn được tiếp tục học, thanh thiếu niên học sinh 1925-1927 đều phần đông có tâm hồn vừa lãng mạn theo kiểu Alfred de Musset, Lamartine (O Temps, suspend son vol!…) vừa cách mạng theo truyền thống Phan Chu Trinh, Phan Bội Châu.

Những trò bị đuổi sau cuộc bãi khóa, như Quỳnh, Tố v.v…đều tiếp tục đi học “trường Thầy Dòng Pellerin” ở Huế, để thi diplôme. Riêng Tuấn còn do dự, không dám về nhà thăm cha mẹ, và để xin tiền đi học ở Huế, vì sự thật nhà Tuấn nghèo từ khi anh Tuấn làm thông phán Toà Sứ đã bị bắt ở tù ở Ban Mê Thuột. Ngẫu nhiên Tuấn đến thăm ông chủ nhà trọ của vài người bạn đồng lớp, ông này cho biết hãng nấu rượu ở An Thái, Bình Định, cần dùng một thư ký, học lực Đệ Nhị hoặc Đệ Tam Niên. Thầy hỏi Tuấn muốn đi làm không? Sẵn trong lúc buồn vì bị nhà trường đuổi, chưa biết làm gì, vì lần đầu tiên thấy có một chỗ làm có lương tháng 100 đồng, Tuấn nhận lời ngay.

Chiều hôm đó, thầy Dậu dẫn Tuấn vào giới thiệu với ông Bouillon, người Pháp, giám đốc hãng Société des Distilleries de l’Indochine (Công ty nấu rượu Đông Dương).

Thầy Dậu, không dám nói với ông Bouillon là Tuấn vừa bị đuổi vì tội bãi khóa, thầy chỉ nói qua loa rằng Tuấn nhà nghèo không thích tiếp tục đi học nữa nên xin đi làm.

Hôm sau Tuấn được ông Rocca, phó giám đốc cùng thầy Dậu đưa Tuấn đi xe hơi của hãng lên An Thái, một chi nhánh của hãng, do một người Hoa kiều làm quản lý, Tuấn thỏa mãn được giúp việc thư ký cho "chú" quản lý Huê kiều tại một nơi hương thôn có con sông lớn.

Tuấn mới có 17 tuổi.

Chiều hôm ấy, chú quản lý Diệp-Thành đưa Tuấn sang chào ông Tây Thương Chánh tên là Rossignol. Tuấn rất bỡ ngỡ khi ông Tây và bà Đầm tiếp Tuấn và chú Diệp Thành tại phòng khách. Đứa con trai duy nhất của gia đình người Pháp này tên là Louis, 4 tuổi, được giới thiệu với Tuấn. Nó đưa bàn tay nhỏ bé ra bắt tay Tuấn với một câu tiếng Pháp:

- Bonjour monsieur le cratère (chào ông miệng núi lửa).

Chữ secrétaire (thư ký) bị cậu bé Pháp mới tập nói bập bẹ thành ra cratère, ai cũng phì cười, nhưng Tuấn không cười.
Từ hôm ấy, Trần Tuấn, cậu học trò Đệ Tam Niên bị đuổi vì cầm đầu cuộc bãi khóa, đành bỏ học đi làm cậu thư ký quèn cho một chi nhành hãng rượu của Pháp ở thôn quê, dưới quyền quản lý người Tàu, với lương tháng 100 đồng, ăn và ở ngay trong hãng.
Đêm ấy, Tuấn nằm trên chiếc giường kê ngoài hè nhà quản lý, Tuấn thao thức suốt đêm, nghĩ ngợi và khóc liên miên.

Lần đầu tiên chàng trai tuấn tú của nước Việt, 17 tuổi, đã phải thôi học để đi làm thư ký, kiếm tiền nuôi thân. Nhưng Tuấn cho rằng đây chỉ là một giai đoạn tạm thời, Tuấn nuôi hoài vọng dành dụm tiền bạc để một vài năm sau sẽ ra Hà nội hoặc vào Saigon, tiếp tục học.

Chú quản lý Diệp Thành là người Tàu Hải Nam, còn trẻ độ 30 tuổi, không thạo tiếng Pháp, mà chú nói được bập bẹ năm ba câu theo kiểu tiếng bồi. Vì vậy chú rất mến Tuấn, và mỗi khi có việc phải qua tiếp xúc với ông Tây Thương Chánh, Tuấn đi theo để làm thông ngôn.

Công việc của Tuấn là mỗi buổi sáng ngồi bàn giấy bán rượu, thu tiền và viết biên lai trao cho người mua.

Có những buổi sáng, giao việc bán rượu cho một người khác, Tuấn ra ngồi sau chiếc cân lớn để mua gạo. Từng đoàn người thôn quê, đàn ông, đàn bà, thiếu niên, thiếu nữ, ở trong làng và các làng kế cận, gánh gạo đến hãng để bán. Người bán đặt bao gạo lên bàn cân, Tuấn ghi số cân trên một mãnh giấy trao cho người bán cầm giấy ấy vào trong phòng kế cận để lấy tiền.
Buổi chiều, Tuấn làm sổ sách. Tối Tuấn dạy chữ Pháp cho chú quản lý huê kiều.

Tuấn sống cuộc đời khắc khổ, noi theo gương các bậc hiền triết mà Tuấn đã đọc tiểu sử và nghiên cứu sự nghiệp trong các sách Pháp. Tự nguyện rằng cuộc đời mình còn phải làm một công việc gì cho xứng đáng với thân nam nhi, không được hoang phí tuổi trẻ trong cuộc chơi bời phù phiếm, Tuấn quyết tâm dùng thì giờ ở hãng rượu An Thái (người Pháp viết là An tay), để tu tâm dưỡng tính, cố giữ được tư cách một thanh niên học thức, đứng đắn.
Một hôm Tuấn mướn người thợ hớt tóc cạo trọc đầu Tuấn, như một ông thầy chùa. Việc ấy làm xôn xao dư luận An Thái.

Chú Hoa Kiều quản lý và ông Tây Thương Chánh Rossignol ngạc nhiên hỏi Tuấn nguyên nhân gì khiến Tuấn cạo trọc đầu. Tuấn chỉ tủm tỉm cười đáp: “cạo cho mát”.

Và từ đấy, dân làng An Thái cũng như nhân viên và lao động hãng Rượu gọi Tuấn là "Thầy Ký Trọc".

Trong khi Tuấn làm "Thầy Ký" ở hãng rượu An Thái, Tuấn được chút ít tiền lương, món tiền đầu tiên do tự sức chàng làm ra. Chàng nghĩ rằng tuy là món tiền nhỏ mọn, nhưng nó rất quý báu đối với chàng, chàng phải xài nó vào một việc gì xứng đáng với giá đồng lương. Chàng liền xin phép xuống Bưu Điện Bình Định, mua ba bưu phiếu gởi mua:

- 1 năm báo Tiếng Dân của cụ Huỳnh Thúc Kháng ở Huế.

- 1 năm báo La Jeune Indochine của ông Vũ Đình Duy ở Saigon.

- 1 năm báo L’Argus Indochinois của ông Amédée Clémenti ở Hà nội.

Cả ba tờ báo đều là báo cách mạng. Có điều rất tiện cho Tuấn, là cậu ăn ở luôn trong nhà người Khách trú quản lý hãng rượu, và tối nào cũng dạy Pháp văn cho người chủ ấy. Vì thế, người chủ không tính tiền cơm, và mọi sự chi phí linh tinh đều do chủ cung cấp cho cả. Trung thành với lý tưởng của đời sống mà chàng thư sinh đã tự vạch ra lúc còn đi học ở Qui Nhơn, tiêm nhiễm tư tưởng ái quốc, chàng may hai bộ quần áo bằng vải nội hóa. Sự chàng cạo trọc, mặc kệ người chung quanh gọi chàng là "thầy ký trọc", tỏ rằng chàng không thiết gì đến sự phục sức bên ngoài, mặc dầu chàng mới 17, 18 tuổi.

Ngoài những công việc của hãng rượu, chàng đọc say mê các tờ báo cách mạng mà lần đầu tiên chàng mua dài hạn với số tiền do tự chàng làm ra.

Người chung quanh lại cho chàng biết rằng làng An Thái ở gần làng Kiên Mỹ là quê hương của ba anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ. Một chút hoài niệm lịch sử ấy càng nung đúc chí hướng của chàng trai nước Việt sinh trưởng 150 năm sau nhà anh hùng Tây Sơn.

Chiều chiều Tuấn ra ngồi bên bờ sông An Thái, phóng tầm mắt về dãy núi An Khê, rồi quay vào hướng Nam, quay ra hướng Bắc. Tâm hồn ngây thơ khờ dại của chàng thanh niên bị đuổi khỏi học đường vì vụ bãi khóa chống Tây, rung động xiết bao cảm xúc.
Một buổi tối nóng nực, Tuấn tắm bên giếng như thường lệ. Nhưng lần này Tuấn nghe bên nhà ông Tây Thương chánh tiếng nói nheo nhéo của bà bếp chửi đổng qua:

- Cái dân dơ bẩn như chó!

Tuấn hết sức ngạc nhiên. Bà bếp của ông tây Rossignol chửi ai thế? Không lẽ chửi Tuấn là dơ bẩn trong lúc Tuấn đang tắm? Tuấn lặng lẽ chờ bà bếp nói gì nữa, Tuấn thả gàu xuống múc nước lên tắm. Vừa dội xong gàu nước, lại nghe tiếng bà bếp:

- Ai tắm đó?

- Tôi.

- Chú không biết Quan cấm tắm ở chổ giếng đó?

- Không …Tại sao cấm?

Quả thật Tuấn không hề có nghe lịnh cấm tắm ở nơi giếng này. Vả lại ông tây thương chánh lấy quyền gì cấm?

Tuấn đang thắc mắc về câu chuyện khó hiểu, bổng có tiếng của ông Rossignol nói lớn:

- Tôi cấm đấy. Vì giếng này dùng để lấy nước uống. Tắm ở đây là đổ biết bao vi trùng và bẩn thỉu xuống nước giếng.

Tuấn thấy câu chuyện vô lý và Tuấn thật không ngờ. Từ trước đến giờ người ta vẫn tắm ở đây có sao đâu. Đây là cái giếng duy nhất của hãng rượu, và Tuấn đứng tắm ở ngoài xa theo đúng phép vệ sinh.

Nhưng Tuấn không trả lời ông Rossignol, và không hiểu tại sao dạo này ông Tây thương chính thường kiếm chuyện “cà khịa” với mình?

Sáng hôm sau, trong lúc Tuấn đang ngồi làm việc trong phòng giấy, ông Rossignol bước vào với nét mặt hầm hầm, ông gây chuyện với Tuấn:

- Tôi cho anh biết rằng anh là một thằng An-na-mít bẩn thỉu và vô lễ. Tôí hôm qua anh cãi với tôi ở nơi giếng nước hả? Tôi đã cấm anh tắm nơi đấy, anh biết chưa?

Tuấn lễ phép hỏi lại:

- Thưa ông, tại sao ông cấm như thế?

- Taị sao hả? Tại vì cái giếng đó sản xuất ra nước uống chứ không phải nước tắm. Tôi không cho phép anh tắm nơi đó, và cấm cả những người An-na-mít bẩn thỉu của anh.

Tuấn nổi giận:

- Người An-na-mít không bẩn thỉu như ông nói. Ông không có quyền chửi người An-na-mít.

Ông Tây thương chính liền xổ một thôi hồi lâu:

- À, tôi biết mà! anh là một thằng đầu óc xấu xa. Anh đọc những tờ báo bẩn thỉu như L’Argus Indochinois, mà chủ nhiệm là một người dân Pháp ghiền thuốc phiện, tôi biết nó lắm, là một thằng khốn nạn bị con vợ Annamít bỏ bùa mê. Tờ báo Tiếng Dân, tôi cũng biết, chủ nhiệm nó là một lão nhà quê dốt nát và tướng cướp, bị xử án đày ra Côn lôn. Còn thằng Vũ Đình Duy, chủ tờ báo La Jeune Indochine, là một thằng An na mít là những kẻ vong ân bội nghĩa. Học chữ Tây, học văn minh của Tây, rồi chửi lại Tây… Qủa thật là một giống người hèn hạ!

Tuấn không thể nhịn được nữa:

- Tôi xin lỗi ông, nhưng ông chính là một người hèn hạ! Khốn nạn!
Ông Rossignol đang cầm cây can trong tay, liền đưa can lên toan đập vào đầu Tuấn. Tuấn né đầu qua một bên, rồi chụp luôn cái can của ông Tây. Hai người dằng co nhau làm đỗ cả lọ mực trên bàn.
Ông Tây giựt lại được cây can rồi hục hặc bỏ ra về.

Ba ngày sau, hai ông giám đốc và phó giám đốc Công ty rượu ở Qui Nhơn, Bouillon và Rocca, lên thăm hãng An Thái. Tuấn đoán biết có chuyện không lành. Quả nhiên Bouillon gọi Tuấn vào phòng giấy quản lý, bảo:

- Tôi trả lương cho anh và anh đi ra khỏi chỗ này tức khắc.

Tuấn do dự một chút rồi hỏi lại:

- Thưa ông, tại sao vậy?

- Không tại sao cả. Tôi đuổi anh ra khỏi hãng của tôi.

- Nhưng ít nhất ông cũng cho tôi biết lý do chứ.

- Lý do: anh là một thằng An-na-mít bẩn thỉu.

Tuấn liền trả đũa lại:

- Chính ông mới là một người Tây bẩn thỉu.

Ông Bouillon đánh Tuấn một tát tai, Tuấn nhỏ người nhưng cũng mạnh, thoi vào ngực ông một thoi rồi bỏ đi ra ngoài. Chàng từ giã luôn hãng rượu An Thái.

Trưa hôm ấy, cả làng An Thái và nhân viên lao công trong hãng đều xôn xao thì thầm với nhau: “Chu choa! Thầy Ký Trọc oánh lộn với ông Tây chủ công xi, thầy bị đuổi rồi".

Tuấn đi đò qua sông An Thái để sang phố Chợ. Đò mới qua được nửa con sông thì có tiếng gọi vọng lại trên bến cũ. Tuấn quay lại thấy An, một thiếu nữ xinh đẹp mà chàng quen biết chưa được hai tháng. An là một bạn đồng chí do Tuấn huấn luyện về văn thơ và tư tưởng cách mạng. An khóc nức nở, tay cầm chiếc khăn vẫy Tuấn lia lịa:

- Anh Tuấn! Qua bên đó chờ em!

Tuấn cũng định chờ. Nhưng chỉ có một con đò. An phải đợi đò trở lại bến mới sang sông được, trong khi ấy người tài xế chiếc xe cam nhông của hãng rượu đã được lịnh chở Tuấn đi ngay về Qui Nhơn, đừng để ở lại An Thái một phút nào.

Ngồi trên chiếc xe gập gềnh chạy kẽo cà kẽo kẹt trên con đường gồ ghề chật hẹp, Tuấn tức giận ông tây thương chính Henri Rossignol và ông tây chủ hãng rượu André Bouillon. Phải công bằng nhìn nhận rằng ông phó giám đốc Rocca dễ thương hơn.
Trước khi Tuấn vĩnh biệt hãng rượu, ông Rocca lấy trong túi ra cho Tuấn 50 đồng và bảo: “Anh thông minh, nên tiếp tục đi học nữa, đừng đi làm thư ký quèn, uổng thì giờ. Tôi biếu anh tiền lộ phí!”. Tuấn ứa nước mắt cảm ơn ông tây Rocca.

Tuấn lại băn khoăn nhớ An. Trần thị An, người đẹp An Thái võ nghệ giỏi. Chính nàng đã dạy cho Tuấn học những bài võ Bình Định đầu tiên. Tuấn nhớ lại những đêm sáng trăng, trước sân nàng, trong lúc mọi người hàng xóm đã đóng cửa ngủ, An mặc áo cụt, quần đen, tóc bới, dạy cho Tuấn những ngón võ lợi hại của xứ An Thái. Làng này trai gái đều giỏi võ. Có lần nàng kể chuyện một cô em bạn dì vì giỏi võ mà bị tù.

Lộc mới có 18 tuổi, nhưng xác cao lớn, đẫy đà. Thân sinh Lộc là một Võ sư danh tiếng cả Bình Định. Môn đệ của ông nhiều lắm, từ các làng xa đến học. Nhưng biết Lộc có tính nóng và hung hăng, Ông cụ không bao giờ dạy võ cho con gái của ông, và những đêm ông dạy cho môn đệ, ông cấm Lộc không được xem. Ông nhốt cô con gái nghịch ngợm trong nhà. Nhưng đứng sau song cửa sổ gian nhà tối om, Lộc chăm chú ngó bọn con trai học võ ngoài sân. Đêm nào cô cũng lén cha, đứng sau song cửa sổ, học võ nghệ bằng mắt và bằng trí nhớ. Ông cụ không hay biết gì cả. Một đêm ông cụ có khách, một ông Chánh tổng cởi ngựa đến chơi, đàm đạo uống rượu rồi ở lại nghỉ. Con ngựa ô của ông đẹp lắm, nhốt trong chuồng ngựa sau nhà.

Nửa đêm, hai ông gìa ngủ say, cô Lộc lén ra chuồng ngựa, cô mở cửa chuồng, dắt ngựa ra rồi nhẩy lên lưng ngựa, quất ngựa phi ra cổng. Cổng đã cài then, cô không cần mỡ, cứ ngồi trên lưng ngựa và bay vượt qua cổng. Cô cưỡi ngựa chạy chơi tận làng xa, mãi sáng mới về. Cổng vẫn còn cài then. Cô và ngựa bay qua.
Cha cô và ông khách dậy sớm, ngồi uống trà trên ghế tràng kỷ, đều kinh ngạc chứng kiến kỳ công võ nghệ của cô. Đem ngựa vào chuồng xong, cô trở ra lạy cha và khách 3 lạy để xin lổi rồi ung dung xuống bếp.

Một đêm, có chàng võ sĩ ở phương xa đến xem môn đệ của Thầy dượt võ. Hắn phách lối, thách hết 5 cậu học trò của ông ra thử tài với hắn. Lần lượt cả năm cậu đều bị đánh liểng xiểng. Ông thầy tức mình, mắc cỡ, chỉ ngồi uống rượu. Nhất định cứu danh dự của cha và của cả trường, cô Lộc từ trong bếp ra, bảo gã kia:

- Chú lại đây thử với tôi.

Hắn cười ngạo mạn:

- Tôi không nỡ chạm ngọc thể của Nữ nhi.

Lộc tiến tới cho vào mặt gã đàn ông vô giáo dục khinh nàng là nữ nhi. Gã kia trả miếng. Thế là hai người hăng máu trổ hết tài nghệ giữa Vũ trường, dưới ánh trăng sáng tỏ. Một lát sau gã kia bị “nhi nữ” đá cho lăn nhào. Nàng đã trả được cái hận cho cha và cho cả năm môn đệ.

Tiếng cô Lộc từ đấy vang khắp cả xứ Bình Định. Một hôm, vào buổi trưa mùa hè, cha cô đi vắng. Gió mát, Lộc lim dim trong chiếc võng treo ngoài vườn giữa hai cây mít. Một người lính tập (lính khố xanh) từ ngoài cổng bước vào. Cô trông thấy lên tiếng hỏi:

- Chú là ai, đi đâu đó?

Người lính lạ, cười:

- Cô không biết tui sao, cô Hai? Tui là lính Tập của Nhà Nước, được phép về thăm nhà hai bửa, sẵn đi ngang qua đây ghé thăm cô Hai đó mà!

- Xin lỗi chú lính Tập, cha tui đi vắng, chỉ có một mình tui ở nhà, không có ai tiếp chú.

- Thì cô tiếp tui không được sao?

- Tui là con gái không được phép tiếp người lạ.

Chú lính tập tiến đến gần võng, cười chớt nhã chọc htiếu nữ:

- Nghe thiên hạ đồn cô Hai võ giỏi lắm, đến coi cô giỏi cách nào! Tui xin phép cô Hai cho tui bóp vú cô một cái, hỉ?

Vừa nói chú lính vừa dùng võ thuật chụp vào ngực Lộc, liền bị Lộc đá một đá té nhào xuống đất. Hắn nằm trợn mắt dẫy dụa mấy cái rồi chết nghẻo luôn.

Cô Lộc bị tù, vì một ngón võ sát nhơn.

Tuấn ngôì trong xe bị dằn lên dằn xuống nhớ lại câu chuyện của Lộc do cô An kể lại cho chàng nghe một đêm trời không trăng Tuấn vừa học xong một ngón bí hiểm. Trong xe cũng có một thiếu nữ buôn bán ở chợ An Thái xin quá giang xuống Qui Nhơn mua hàng. Cô ngồi đối diện với Tuấn, Tuấn nghĩ thầm:

- Biết đâu cô gái đẹp này cũng là môn đệ của cô Lộc?

Chàng tủm tỉm cười một mình, nhớ chuyện người lính tập gặp giờ xui xẻo đã làm hỗn vơí bộ ngực hấp dẫn của nàng.

Cô gái đẹp hỏi Tuấn:

- Sao thầy ký cười em?

Tuấn sờ tay lên cằm…, nhoẻn một nụ cười hiền lành:

- Tôi cười người lính tập chứ không phải cười cô.

Cô gái dịu dàng đáp:

- Em không phải là chị Lộc.

Câu trả lời bí hiểm đó đủ cho Tuấn biết giai nhân không thẹn với uy danh gái An Thái.

Về Qui Nhơn, Tuấn vào trọ tạm nhà thầy Phạm Đào Nguyên. Kể chuyện bị sa thải cho Nguyên nghe, thầy ký hãng Descours et Cabaud cười:

- Đi học bị nhà trường đuổi, đi làm bị hãng đuổi. Tôi ráng sống lâu để coi đời anh ra sao!

Tuấn nằm suy nghĩ suốt đêm. Chàng muốn đi Hà nội, tiếp tục học thi Tú tài, nhưng không có tiền. Muốn vô Saigon để nhập vào đảng Nguyễn An Ninh, nhưng tiền cũng không có. Chàng thấy con đường tiến thủ bị nghẽn, mà máu nóng cứ sùng sục trong tim, chỉ muốn lồng lên như con ngựa hăng máu.

Ba hôm nằm nhà thầy Phạm Đào Nguyên đã không làm gì, lại buổi tối nghe Phạm Đào Nguyên nói nhỏ cho nghe: Ngoài Hà nội có một đảng tên là “Việt Nam Quốc Dân Đảng” đang hoạt động mạnh. Anh nên đi Hà nội.

Cũng đêm ấy, đi lang thang ngoài bờ sông, Tuấn gặp một thầy trợ giáo quen thân, tên là Phạm Cự Hải, người Quảng Nam.

Thầy Hải nhét vào Tuấn một tờ truyền đơn in bằng đông sương, ký tên “Đông Dương Cộng Sản Đảng”. Thầy hỏi Tuấn:

- Tuấn học lớp Nhì hay lớp Nhất?

Tuấn không hiểu, ngơ ngác hỏi thầy Hải:

- Tôi sắp học thi tú tài, sao thầy hỏi lạ vậy?

Thầy Hải cười:

- Lớp Nhì là Cours Moyen. Lớp Nhất là cours superieur. Anh hiểu không?

- Không hiểu thầy muốn nói bóng cái gì?

- Cours Moyen viết tắt là C.M. là cách mạng. Cours Supérieur, viết tắt là C.S. là cộng sản.

Tuấn cười:

- Tôi là C.M.

Thầy trợ giáo Phạm Cự Hải cười:

- Anh học giỏi, anh thông minh, anh phải lên Cours Supérieur(C.S) chứ! Một thanh niên như anh lẽ nào còn trình độ C.M.?

Tuấn ngây thơ đáp:

- Cộng sản hay Cách mạng cũng đều lo cho quốc gia độc lập và dân tộc tự do. Tôi không hiểu sao lại chia ra Cộng sản, Cách mạng Quốc gia, làm chi vậy?

Thâỳ trợ giáo Hải kéo Tuấn ra bãi biển ngồi. Thầy thuyết một hồi lâu về chủ nghĩa Cộng sản. Tuấn thấy rõ ý định của thầy muốn kéo Tuấn vào tỉnh bộ Cộng sản mà thầy đang muốn thành lập ở Qui nhơn. Nhưng Tuấn lắc đầu:

- Tôi thích Cách mạng quốc gia hơn là cộng sản… Tuy nhiên thầy trợ giáo Phạm Cự Hải và Tuấn từ giã nhau lúc 9 giờ tối trước nhà Dây thép Qui-nhơn với lời hứa hẹn sẽ gặp nhau nữa.

Mãi đến năm 1945 (18 năm sau), Tuấn mới gặp lại thầy trợ Hải. Trên đường vào Saigon ghé lại Nha Trang, cuối tháng 8-1945, giữa một thành phố rực rỡ cờ đỏ sao vàng. Tuấn được một người bạn cho biết danh sách Ủy ban Kháng Chiến Khánh Hòa mới thành lập ở Nha Trang. Chủ tịch Ủy Ban là Phạm Cự Hải.

Trụ sở Ủy ban đặt nơi tòa Công Sứ cũ của Tây. Tuấn đến xin gặp chủ tịch.

Phạm cự Hải rất niềm nỡ bắt tay Tuấn.

Sau vài ba câu chuyện hàn huyên, Phạm Cự Hải nhắc lại câu chuyện gặp gỡ trên bãi biển Qui-Nhơn năm 1924 và cười hỏi:

- Nay chắc anh đã lên C.S.?

Tuấn điềm nhiên cười đáp:

- Không. Tôi vẫn trung thành với C.M.

Sau cuộc nói chuyện với thầy trợ Hải trên bãi biển Qui-Nhơn, Tuấn tự cảm thấy rõ rệt không khí cách mạng đang bao trùm trí óc non nớt của Tuấn.

Đêm ấy, Tuấn hỏi Phạm Đào Nguyên:

- Tôi muốn đi Huế, để yết kiến cụ Phan Bội Châu. Được không anh?

Nguyên sốt sắng trả lời:

- Ừ, đi thì đi… Nhưng rồi phải làm gì chớ đi chơi không vậy sao? Và nhớ: đi thăm cụ Phan coi chừng Mật Thám nhé!

- Ra Huế rồi sẽ liệu.

- Anh phải tiếp tục học nữa mới được. Hay là ra Huế xin vào trường Thầy Dòng?

- Trường Thầy Dòng là trường gì? Dạy đi thi gì?

- Trường Thầy Dòng ở Huế tức là trường Pellerin của một ông Cố đạo. Họ dạy thi Diplôme.

- À , phải rồi. Tụi thằng Quỳnh, thằng Tố, cũng bị đuổi ở Qui-Nhơn, đều ra học ở Pellerin, Huế. Tôi muốn ra Huế theo tụi nó.
Nguyên cười hỏi:

- Tiền?

- Ra Huế, tôi sẽ viết thư về nhà xin tiền cha mẹ tôi.

- Thế sao không về thẳng tỉnh nhà, thăm hai bác rồi xin tiền luôn thể?

- Tôi sợ cha mẹ tôi đánh. Còn một năm nữa thi Diplôme mà bãi khóa bị đuổi, cha mẹ tôi tức giận lắm. Tôi đi làm thư ký hãng rượu An Thái, đã bị cha tôi viết thư vô rầy dữ. Mẹ tôi buồn rầu khóc lu bù.

- Thôi thì tôi giúp anh 200 đồng để anh đi Huế. Mà ra Huế phải đi học, chớ không được đi chơi nghe không? Chơi hết tiền, tôi không gởi mandat nữa đâu đấy, nghe không?

- Ừ.

Sáng hôm sau, Phạm Đào Nguyên dậy thật sớm, lúc 5 giờ, một mình đun nước pha hai ly cà phê sữa và nướng một chiếc bánh mì. Xong thầy gọi Tuấn dậy, ăn điểm tâm với Tuấn và lo sửa soạn đầy đủ cho Tuấn ra đi. Trong lúc Tuấn rửa mặt, nghe tiếng gà hàng xóm gáy giữa im lặng của thành phố còn say ngủ, Tuấn lo ngại cuộc hành trình sắp khởi diễn, không biết số kiếp mình sẽ phiêu bạt đến đây? Tiếng gà gáy như tiếng kèn của định mệnh, chàng ra đi tranh đấu với đời, đơn độc, bơ vơ, sức trai trẻ còn non yếu, chàng sẽ thắng những thử thách nguy nan, hay sẽ qụy giữa đường?

Tiếng Phạm Đào Nguyên gọi:

- Mau lên, anh Tuấn, sắp tới giờ xe chạy rôì.

Tuấn vẫn để đầu trọc mặc lẹ bộ đồ Tây nội hóa, xỏ đôi giày Tây rẻ tiền, rồi xách chiếc va li đan bằng tre chỉ cài với một then ngang, không có ổ khóa.

Phạm Đào Nguyên đứng nhìn bộ tịch nửa quê nửa thành thị của Tuấn, và nhoẻn một nụ cười:

- Xong chưa? Đi!… Cả tương lai của anh bắt đầu từ giờ phút này… Sáng nay tôi tiễn anh ra bến xe mà không biết anh sẽ đi về đâu? Nhưng tôi tin anh là người có chí, tôi chúc anh kiên nhẫn, còn thành bại sau này là chuyện của trời!

Tuấn làm thinh vì không biết nói gì. Tim chàng đập mạnh khi đến bến xe. Trước khi bước lên xe, chàng bịn rịn xiết chặt tay bạn và lẩm bẩm một câu mà chắc Nguyên không nghe rõ:

- Cảm ơn anh Phạm Đào Nguyên …Cảm ơn anh nhiều lắm.

Xe rồ máy đã lâu bắt đầu chạy chậm chậm để quẹo ra đường lớn. Thầy Phạm Đào Nguyên còn đứng nhìn theo, vẫy tay từ biệt, Tuấn gục đầu xuống thành xe, lặng lẽ khóc.

Xe ra khỏi thành phố, Tuấn lại nghe tiếng gà gáy trổi dậy sau dãy nhà tranh lụp xụp bên chân núi.

Từ Qui Nhơn ra Tourane (Đà Nẵng) đường thuộc địa số 1 (Route Coloniale No.1) hãy còn gồ ghề, chưa tráng nhựa, phải xuống xe ba lần để qua đò: bến Bồng Sơn tại Phủ Bồng Sơn, Bình Định, bến Trà Khúc, cách tỉnh lỵ Quảng Ngãi 1 cây số, và Bến Ván, phủ Tam Kỳ, Quảng Nam.

Vì chiếc xà lan (chaland) nhỏ và hẹp, nên phải để cho xe qua trước, hành khách chờ đi chuyến sau. Cũng may là thời bấy giờ ít có xe chạy, nên hành khách khỏi phải đợi lâu. Nhưng đứng trên bờ nhìn chiếc xe nặng trĩu đậu trong chiếc xà lan nghiêng qua nghiêng lại trên dòng sông rộng, hành khách cứ lo ngại …Nó chồng chềnh quá, lỡ nó đổ hoặc chìm xuống sông thì mất hết cả hành lý của mình chất trên mui xe.

Hành khách sang bên kia sông lên bờ gặp một bác Lính Khố Xanh tay cầm cây roi mây, đứng chận lại hỏi: “thẻ thuế thân”. Mỗi người đàn ông An nam thời bấy giờ 18 tuổi trở lên đều phải có luôn luôn trong mình hai cái bùa hộ mệnh: thẻ căn cước và thẻ thuế thân. Thẻ sau này là một biên lai bằng bìa màu ghi số tiền mình phải nộp “thuế bổn thân” trong năm. Mỗi năm có một thẻ thuế thân, thay cho thẻ năm trước, có đóng con triện bằng mực đen và chữ ký của Lý trưởng trong làng. Đa số những ông xã chưa học quốc ngữ, đều ký tên bằng chữ Hán, Tuấn mơí có 17 tuổi, chưa có thẻ thuế thân nhưng căn cước phải có.

Tuấn thấy có một ông hành khách đang năn nỉ bác Lính Tập một cách khúm núm rất lễ phép. Tò mò, Tuấn đến gần xem, ông hành khách đã rủi ro bỏ mất thẻ thuế thân, nên bị bác Lính Tập đòi bắt giam trong đồn. Nhưng ông hành khách móc túi lấy một đồng bạc cầm hai tay khúm núm “kỉnh” bác Lính, để xin bác rộng lượng tha tội cho. Bác Lính Tập bỏ đồng bạc trong túi áo, rồi đòi thêm một đồng nữa. Người hành khách cũng phải chịu thì bác Lính Tập mới tha cho đi.

Từ Qui-Nhơn ra Tourane phải đi xe hơi mất 2 ngày. Ngủ lại ở Quảng Ngãi một đêm. Lần đầu tiên chàng trai 17 tuổi được đi xa 2 ngày đêm liên tiếp như thế. Tuấn cố thu vào trong con người tất cả những phong cảnh, nhân vật, mà chàng trông thấy dọc đường. Nhưng đêm ở Quảng Ngãi, Tuấn không dám đi dạo phố, sợ gặp những người quen, và nhất là sợ gặp Ông Thân Sinh của chàng. Tuấn có mặc cảm của một đứa học trò bị đuổi, mắc cỡ không dám gặp lại những bạn bè cũ hoặc những người quen thuộc ở tỉnh. Tuấn có cảm tưởng chuyến đi Huế lần đầu tiên này là một cuộc lẫn trốn lén lút như người mạo hiểm trong một cuộc hành trình bí mật.

Đêm ấy, nằm trong phòng ngủ của khách sạn Công ty do hãng xe đò dành riêng cho hành khách đi xe của hãng, Tuấn lắng tai nghe trong phòng kế cận tiếng khóc ấm ức rất là thê thảm của một người đàn ông. Tuấn nôn nao cảm động, muốn biết người hành khách đó là ai vậy, và tại sao họ khóc liên miên như vậy, không lúc nào ngớt? Tuấn lóp ngóp bò dậy, khẽ bước chân không ra đứng nơi cửa buồng của chàng. Tuấn lắng tai nhưng không nghe được gì cả, ngoài tiếng khóc thút thít, lúc nức nở, lúc rên rỉ, như kẻ đau khổ đang bị một tai nạn gì bi ai thảm thiết lắm. Một lúc lâu Tuấn thấy cửa phòng mở, và một người đàn ông chạc 35, 40 tuổi từ trong bước ra. Tuấn để ý đến đôi mắt của ông tràn đầy những ngấn lệ.

Ông mặc đồ Tây, không biết từ đâu đến, nhưng có lẽ xuống xe lúc 6 giờ chiều. Bây giờ đã 10 giờ khuya ông vẫn chưa thay đồ ngủ. Ông đi ra sân sau một lúc trở vào, Tuấn đánh bạo hỏi:

- Thưa ông , sao ông khóc dữ vậy? Ông có điều chi đau khổ lắm phải không?

Người hành khách lạ lại òa lên khóc, vừa ấm ức trả lời:

- Tôi làm instituteur (Trợ Giáo Trung Tiểu Học) ở Tourane, hôm qua được dây thép của Mẫu thân tôi ở Nha Trang …báo tin …ông Thân tôi chết tại quê nhà …Tôi buồn lắm cậu à …Tôi thương Song Thân tôi lắm …Tôi mất ông Thân tôi …tức là tôi mất tất cả …(ông lại khóc lớn).

- Thưa thầy, Bác năm nay bao nhiêu tuổi?

- Ông thân tôi..thọ 78 tuổi…

- Thưa thầy, Bác đau bệnh gì?

- Thân phụ tôi…khoẻ mạnh, ổng chết vì bịnh già… Bây giờ tôi về…để tang…và lo an táng…Thân phụ tôi.

Thâý Tuấn cũng rưng rưng nước mắt, và gương mặt ngây thơ, ông hỏi:

- Cậu ở đâu?

- Thưa thầy, tôi là cựu học sinh Collège Qui Nhơn.

- Cậu đi đâu đây?

- Tôi đi Huế, tiếp tục học thi Diplôme.

- Cậu tên gì?

- Dạ, Tuấn.

- Cậu còn song thân không?

- Dạ, thưa thầy còn.

- Cậu có phước quá…cậu phải thương yêu song thân như trong sách luân lý đã dạy…Mình là con trai được cha mẹ sinh ra nuôi dưỡng cho khôn lớn, phải có hiếu với cha mẹ, phải kính cha mẹ, thương cha mẹ…cha mẹ mình mất tức là mình mất tất cả… Vừa nói vừa khóc…thầy trợ giáo lại khóc òa lên khiến Tuấn bùi ngùi không cầm được giọt lệ.

Có lẽ tại vì biết Tuấn là học trò collège (trung học), nên tự nhiên thày trợ giáo sẵn dịp thuyết cho Tuấn một bài học luân lý gia đình bằng tiếng Pháp:

- Souvenez-vous que vous avez rencontré un soir un instituteur qui pleurait la mort de son père… Vous voyez. Je ne suis plus jeune comme vous, mais devant le deuil cruel qui me frappe, je pleure comme un enfant…Parce que je suis toujours l’enfant de mon père…un père que j’aime, que j’adore, que je chéris le plus au monde… (Cậu nên nhớ rằng một đêm cậu có gặp một thầy trợ giáo đang khóc vì cha chết. Cậu thấy không, tôi đâu còn trẻ như cậu, nhưng trước cái tang tàn bạo đang dày vò tôi, tôi vẫn là đứa con của thân phụ tôi, một đấng từ phụ mà tôi yêu tôi cưng, mà tôi qúi hơn hết trên đời).

Nói xong thầy trợ giáo đủng đỉnh bước vào phòng của thầy. Tuấn nhìn theo cái băng tang bằng crêpe đen, dày và to mà thầy đeo trên cánh tay phải… Là một thanh niên của thế hệ 1927 sống trong một xã hội còn thấm nhuần đạo Khổng, Tuấn rất khâm phục thầy giáo, tự nguyện rằng mình sẽ là một đứa con có hiếu như thầy và sẽ nhớ mãi những lời thầy khuyên bảo về đạo làm con. Cả đêm Tuấn không ngủ được cứ nghe tiếng thầy trợ giáo ở phòng kế cận thút thít khóc cha và Tuấn cứ lập đi lập lại nhiều lần mấy câu tiếng Pháp của thầy: “Souvenez-vous que vous avez rencontré un soir un instituteur qui pleurait la mort de son père…” Tuấn nhớ lại có lần Tuấn trông thấy dán trên vách tường nhà một người bạn có theo đạo Thiên Chúa một bức ảnh màu của bà Maria ngước lên Trơì đôi mắt đẩm lệ, và ở dưới bức ảnh có chứa một câu in nét đậm: “Souviens-toi que ta Mère a pleuré” (con hãy nhớ rằng Mẹ con đã khóc) Nào là của đạo Khổng, nào là của đạo Phật, đạo Thiên Chúa, những câu danh ngôn về đạo đức, luân lý, đầy những nước mắt đã thâm nhập vào tâm hồn còn ngây thơ của Tuấn, ngay lúc Tuấn đang còn chập chững phiêu lưu vào trường đời.

Sau này, cuộc đời của Tuấn sẽ thay đổi rất nhiều, xã hội Việt Nam cũng không còn phong độ thanh cao khương kiện nữa, nhưng Tuấn vẫn không quên câu chuyện của thầy trợ giáo khóc cha, và mấy lời thầy chỉ bảo cho chàng bằng tiếng Pháp ở một quán trọ trên bước đường phiêu lãng.

CHƯƠNG 37.

1927

- Nhà tranh ba gian của cụ Phan Bội Châu ở Huế.

- Cụ Huỳnh Thúc Kháng và Báo Tiếng Dân.

- Phong trào "Nam Nữ bình quyền" của Bà Đạm Phương ở Huế và Nữ Sĩ Huỳnh Thị Bảo Hoà ở Tourane.

Lần đầu tiên đến Tourane, Tuấn trông thấy một nhà ga và một đoàn xe lửa. Trước mặt cậu học sinh 17 tuổi, thật là một vật đồ sộ và phi thường. Đứng ngoài một hàng rào xi măng ngăn cách đưòng phố với đường rầy xe lửa. Tuấn nhìn trân trân những chiếc va-gông nối dài gần một trăm thước, đậu trên đường rầy với chiếc đầu máy ghê gớm với hai con mắt lớn bằng kiếng, vàng khè, và một ống khói đen ngòm, to và thấp, đang phùn phụt nhả khói.

Tuấn sung sướng nghĩ rằng sáng sớm ngày mai, Tuấn sẽ được đi trên đoàn xe lửa này, ra đến Huế. Cũng như đếm trước, đêm nay Tuấn không ngủ được, chỉ mơ tưởng đến chuyến tàu hỏa đi Huế, hoặc nhớ lại câu tiếng Pháp của thầy Trợ giáo khóc cha.

Sáng sớm hôm sau, mua vé tàu hỏa xong. Tuấn bắt chước mấy người hành khách cất kỹ tấm vé trong túi áo Tây và lấy một cái kim băng ghim túi áo lại, sợ lỡ rớt tấm vé đến khi ông Tây soát vé không có, sẽ bị ở tù.

Tuấn theo sau mấy ông hành khách, xách chiếc va li tre ra bến xe lửa. Nhưng Tuấn chưa muốn bước lên toa tàu trước khi đứng ngoài xem cho tường tận các chiếc va-gông. Tuấn đang đứng ngó đầu máy, thì một bác lính khố xanh bước đến bảo Tuấn:

- Trò đứng gần, điện nó hút cậu vô máy, chết cha!

Tuấn vội vàng đứng ra xa. Sự thực, lần đầu tiên trông thấy tàu lửa, Tuấn cũng hơi sờ sợ. Tuy ở trường đã học về Vật Lý, và đã hiểu qua loa về nguyên tắc máy chuyển động nhờ hơi nước, nhưng Khoa học là một chuyện, còn tâm lý của trẻ con sợ sệt trước một vật to tướng phi thường, máy móc chằng chịt, gớm ghê, lại là một chuyện khác.

Đứng bên đoàn tàu dài 200 thước, với đầu máy kếch xù đang phun khói, Tuấn cảm thấy mình bé quá, thấp quá, tầm thường quá. Đi dọc theo đoàn tàu để xem qua một lượt, Tuấn để ý trên toa hạng nhất và hạng nhì chỉ toàn là ông Tây bà Đầm, và cả trẻ con Tây. Không có một người An nam mít nào ở hai toa này. Toa hạng ba, cũng có vài ông Tây và các ông An nam sang trọng giàu có. Tuấn đứng xem có ông Tây Thương Chính ôm cặp bước vào hạng ba. Một ông quan An nam đeo bài ngà “Tri Huyện” tòn ten trước ngực, đang ngồi chễm chệ trên chiếc ghế dài bọc da, vội vàng đứng dậy chấp hai tay:

- Chào Quan Lớn.

Ông Tây Thương Chính gật đầu rôì đi thẳng qua toa hạng nhì. Người lính hầu của Quan Huyện đang đứng chực ở cửa toa thứ tư. Quan Huyện khệ nệ bước ra, hỏi bằng giọng Huế:

- Thằng Ba mô rồi?

Người lính kính cẩn đáp:

- Dạ, bẩm quan lớn…

- Đem bình điếu thuốc trà cho tao hút, mi!

- Dạ.

Người lính lệ (lính hầu các quan), rất lanh lẹ bưng bình điếu sang toa hạng ba, cúi xuống nhét cục thuốc lào vào miệng điếu rồi đánh một que diêm châm lửa cho quan huyện hút. Xong người lính lệ lại bưng cái điếu xuống đứng chỗ cửa hạng tư.

Tuấn xách va-li tre bước lên toa hạng tư. Vì cửa chật và đồ hành lý của hành khách chồng chất ngay đấy Tuấn phải nhảy qua đống hành lý, vô tình để chiếc va li đụng phải chưn chú lính lệ.

Chú này trợn mắt mắng Tuấn:

- Trò này không coi trước coi sau gì hết.

- Tại chỗ cửa chật quá, chớ phải tại tôi đâu.

- Chật cậu cũng phải tránh tôi chứ.

- Thôi mà lỡ một chút, cứ kiếm chuyện hoài.

Người lính tập nổi giận quát Tuấn:

- Mày không biết tao là ai à?

Tuấn không cãi lẫy lôi thôi, làm thinh bước qua đống hành lý để kiếm chỗ ngồi.

Đối với chàng trai Việt Nam năm 1927, Huế là một thần tượng bao trùm bao nhiêu huyền bí, thiêng liêng… Những danh từ “Đât Thần Kinh”, “Đế Đô”, “Kinh Đô” v.v… có một sức hấp dẫn phi thường làm xúc động mãnh liệt trí tưởng tượng của những kẻ ở tỉnh và ở thôn quê.

Ai được đi Huế một lần, được dịp viếng đất Thần Kinh, được trông thấy Đế Đô, là một hãnh diện lớn lao vô cùng. Những kẻ chưa được thấy Huế, hằng mơ tưởng đấy là kinh thành, là nơi Vua ở, những cung điện nguy nga, những lâu đài tráng lệ, những nàng Công Chúa đẹp như tiên đi thướt tha trong vườn Thượng Uyển…Xem trong sách diễn tả, hoặc nghe người ta nói rất nhiều về những thắng cảnh của Đế Đô: cầu Trường Tiền, cầu Bạch Hổ, cửa Thượng Tứ, chợ Đông Ba, hồ Tỉnh Tâm, cửa Gia Hội, dòng Hương giang, núi Ngự Bình…Ồ, toàn là những phong cảnh trí thơ mộng làm sao! Lại thêm vào đấy những tên lâu đài rất…lịch sự: Điện Cần Chánh, điện Văn Minh, Tam Toà, Lục Bộ.. tòa Khâm Sứ, đồn Mang Cá, đền Nam Giao, chùa Thiên Mụ, chùa Diệu Đế, và lăng tẩm các Vua …cung điện của ông Hoàng bà Chúa.

Tóm lại, Huế, nơi Đế Đô, thiêng liêng, oai vệ, không giống một nơi nào phàm tục trong xứ, và cuộc sống của người Huế, những người ưu tiên được ở đất Thần Kinh không giống như các tỉnh Trung Nam, Bắc, Saigon, Hà nội có rộng lớn, xinh đẹp bao nhiêu đi nữa cũng chỉ là những đô thị thường dân , duy chỉ có Huế là Kinh Đô của các vị Hoàng đế.

Nhưng chàng trai 17 tuổi lần đầu tiên được đi hỏa xa sung sướng được sắp sửa đặt chân lên đất Đế Đô, và tha hồ được ngắm những cảnh thần tiên thơ mộng của núi Ngự sông Hương.

Ngồi trên xe lửa Tuấn tưởng tượng đến Huế sẽ được xem sông Hương nên thơ như thế nào, núi Ngự oai linh như thế nào và cả đất thần kinh của Vua Chúa có sắc thái đặc biệt như thế nào.
Và nhất là Huế lại có túp nhà tranh của cụ Phan Bội Châu ở Bến Ngự.

Nghĩ đến tất cả những kỳ thú trên Tuấn thấy rạo rực trong lòng. Trái tim của Tuấn đập rộn rịp như tiếng xe lửa chạy rầm rộ trên đường rầy. Tuấn nóng lòng chờ đến Huế, mà xem chừng như chuyến xe lửa cũng cố chạy vùn vụt cho mau đến Huế.

Đoàn xe đến ga lúc 8 giờ tố . Chữ Huế nét đậm và to lớn, ghi bằng mực đen trên mặt tiền nhà ga.

Tuấn xách chiếc va li tre của chàng theo sau những hành khách xuống Huế. Chàng để ý thấy hầu hết những hành khách đều có người nhà hoặc bạn hữu chờ nơi sân ga và rộn rịp vui mừng, kẻ đón người đưa. Tuấn đi thui thủi một mình tìm nhà trọ của một người bạn ở xóm ga, theo địa chỉ đã có.

Tuấn để ý thấy trên đường Jules Ferry từ trước sân ga đa số người đàn ông ớn tuổi đều mặc đồ An nam aó dài đen quần trắng, đầu bit khăn hay đội mũ, chân mang giày Hạ, hay đi guốc. Phần đông bạn trẻ mặc đồ Tây. Tuấn cũng mặc âu phục may bằng vải nội hóa Quảng Nam, nhưng hình như không mấy ai để ý. Hơn nữa, Tuấn vui mừng nhận thấy những chàng thanh niên Huế trông dáng điệu có vẻ học sinh như Tuấn, cũng mặc đồ Tây bằng vải nội hóa. Tuấn vừa đi vừa nghĩ rằng: thì ra phong trào mặc âu phục bằng vải nội hóa quả thật đã lan tràn khắp cả học đường, ở Huế cũng như ở Qui Nhơn. Đó là một nhận xét đầu tiên lúc Tuấn bước chân trên đường phố kinh đô.

Tuấn ở trọ nhà Quỳnh bạn học cũ ở Qui Nhơn, người cùng Tuấn đã gây ra cuộc bãi khóa ở Qui Nhơn một năm trước, và cũng bị đuổi như Tuấn. Quỳnh bây giờ học lớp Đệ Tứ Niên tư thục Pellerin của các vị Cố Đạo Huế. Quỳnh vẫn mặc bộ đồ tây may ở Qui Nhơn.

Bây giờ sáng hôm sau, nhân ngày chủ nhật, Tuấn nhờ Quỳnh đưa Tuấn đến thăm cụ Phan Bội Châu, Quỳnh bảo:

- Nhà cụ Phan ở Bến Ngự gần đây. Hai đứa mình đến thăm cụ thế nào cũng có mật thám theo dõi, rình mò. Mầy dám đến không?

Tuấn hỏi:

- Vậy chớ tụi mầy ở Huế thường ngày không đến thăm cụ sao?

- Thỉnh thoảng mới đến mà tụi tao phải rủ nhau đi một lượt bốn năm đứa để cho lính mã tà và bọn điềm chỉ ít nghi ngờ. Mầy muốn tao rủ thêm vài ba thằng bạn nữa đi với tụi mình cho vui không?

- Thôi không cần, hai đứa mình đi đến thăm cụ, chớ có làm gì mà sợ.

Đi một đoạn đường ngắn lên một dốc khá cao, đường đất đỏ nhiều bụi chưa tráng nhựa - Quỳnh chỉ một nép nhà ở ngay cuối đường:

- Nhà cụ Phan đấy.

Tuấn trông thấy trước hết một chiếc cổng sơ sài bằng hai trụ gỗ, trên đóng ngang một tấm bảng để một dòng chữ đen: Nhà đọc sách Phan Bội Châu.

Chiếc cổng dựng ngay giữa một hàng rào cây, và luôn luôn mở rộng. Không do dự, Quỳnh và Tuấn bước vào, đi rón rén, giữ lễ phép, qua một sân hẹp rồi bước lên thềm nhà tô xi măng. Nhà có ba gian rộng rãi, để trống. Tuấn hồi hộp tưởng sắp sửa được trông thấy cụ Phan. Nhưng cảnh nhà thanh vắng, không một tiếng động. Tuấn và Quỳnh đứng yên trên thềm, đợi xem có ai ra thì xin yết kiến Cụ.

Một lát, một em bé học trò độ 7 tuổi, đầu cạo trọc chừa một chỏm tóc ở giữa, từ ngoài chạy vào, nét mặt ngây thơ, nói với hai cậu học trò, bằng giọng Nghệ An:

- Cụ bán gạo ở ngoài nớ.

Bé chỉ một gian hàng gạo rất sơ sài ở góc sân, một cái chòi thì đúng hơn, lợp bằng tranh. Một cụ già mặc áo dài màu nâu, đang đứng bán vài lon gạo cho các chị nhà nghèo. Em bé chạy ra thưa với cụ một vài lời gì đó. Cụ cười giao thúng cho bé trông nom, và chống ba toong đi thủng thỉnh vào nhà. Tim Tuấn đập mạnh. Tuấn được chiêm ngưỡng lần đầu tiên nhà Chí sĩ Phan Bội Châu, với một chòm râu phong phú, mắt đeo kính trắng, vòm trán cao vút tận đỉnh đầu. Cụ bước đi thư thả, tay mặt chóng ba toong – cây ba toong của toàn quyền Varenne tặng cụ - tay trái hơi cong, bàn tay lấp dưới tà áo nâu dài.

Cụ mặc quần trắng bằng vải nội hóa, mang đôi dép da. Trông cụ không khác nào một vị Tiên lão da mặt hồng hào, đang bước thung dung ở dưới bóng cây. Cụ bước lên thềm ngó hai cậu học trò. Tuấn và Quỳnh chấp hai tay trước ngực, cúi đầu chào cung kính. Cụ cười rất tự nhiên, rất hiền lành, đưa tay chỉ gian nhà giữa:

- Mời hai cậu vào.

Tuấn và Quỳnh đợi cụ Phan vào trước, và theo sau cụ. Sau khi mời ngồi, cụ hỏi:

- Hai cậu học ở trường Quốc Học?

Tuấn đáp:

- Dạ thưa Cụ, con ở xa mới tới Huế lần đầu tiên, đến hầu thăm Cụ. Thấy Cụ được khỏe mạnh con rất mừng.

Cụ hỏi Quỳnh:

- Còn cậu nì?

- Thưa cụ, con học trường Pellerin.

Cụ còn hỏi han nhiều câu về việc học và gia đình của hai cậu học trò, rồi cụ nghiêm trang dạy bảo nhiều lời giáo huấn, về lòng yêu nước yêu dân. Cụ gọi người nhà lấy ra hai quyển sách mỏng do cụ soạn, nhan đề Nam Quốc Dân tu tri và Nữ Quốc Dân tu tri. Cụ trao cho hai đứa hai quyển và bảo:

- Các anh chị Nam Nữ Quốc Dân nên xem hai quyển sách nhỏ này để trở thành người Quốc Gia.

Sau một lúc nói chuyện lâu trên một tiếng đồng hồ, cụ thấy ngoài chòi gạo của cụ có đông đồng bào lao động đến mua gạo, cụ xin lỗi đứng dậy:

- Hai cậu ở đây chơi, một lát tôi vào. Tôi ra bán gạo, kẻo bà con cô bác chờ lâu.

Cụ Phan Bội Châu chống ba toong đi ra sân, Tuấn và Quỳnh thừa dịp, đi xem qua ba gian nhà của cụ. Một em bé hướng dẫn, bảo:

- Ba gian nhà là tượng trưng Nam Trung Bắc, cùng nhau như anh em một nhà.

Gian bên trái là phòng tắm của cụ, gian bên phải gọi là “phòng đọc sách”, Tuấn để ý rất kỹ hai bức tranh bằng mực đen do một bạn Nam học sinh trường Quốc học vẽ một chậu nước trong đó có bơi vài con cá. Dưới tranh, đề “Cá chậu”. Một bức tranh khác do một chị nữ sinh Đồng Khánh vẽ, đề là “Chim lồng”.

Ra ngoài sân, nơi góc bên phải, Tuấn thấy một ngôi miếu nho nhỏ, thờ một Nữ đồng chí của cụ.

Kinh thành Huế chia ra ba khu nhà rõ rệt. Bên tả ngạn sông Hương là Thành Nội, với các Cung Điện nhà Vua, với Tam Tòa, Lục Bộ, tất cả ở phía trong mấy lớp thành cao. Ngoài thành là các phố buôn bán và chợ Đông Ba. Bên kia cầu Gia Hội phần nhiều là dinh thự và nhà cửa của các quan.

Bên hữu ngạn sông Hương, nối bằng một chiếc cầu sắt khá rông tên là cầu Trường Tiền là khu Bảo Hộ Pháp với tòa Khâm Sứ và các cơ quan hành chánh của Pháp.

Ngôi nhà tranh của cụ Phan Bội Châu, ở xóm Bến Ngự, ngoài châu thành, nơi đây phần đông các nhà đều vào hạng trung lưu và bình dân. Nhà cụ Phan Bội Châu có thể gọi là tượng trưng cho tinh thần anh dũng của dân tộc, cho truyền thống bất khuất của nhân dân Việt Nam, mặc dù bị kềm hãm trong hoàn cảnh “cá chậu, chim lồng”.

Nhà cụ lợp bằng tranh, ở giữa một xóm nhà tranh, và cao ráo khoáng đãng, tiền của đồng bào toàn quốc khắp ba kỳ, tự động đóng góp, chứng tỏ lòng nhiệt thành chiêm ngưỡng của đồng bào sùng bái cụ.

Có điều rất lạ, là không có một tờ báo nào ở Hà Nội, Huế, Saigon hô hào lạc quyên công khai, mà chỉ có truyền miệng với nhau người này bảo người kia, thế mà mọi người đều tự thấy có bổn phận gần như thiêng liêng, phải đóng góp một chút tiền với đồng bào, để gửi đi Huế tặng nhà Chiến sĩ cách mạng đã hy sinh tất cả vì Dân vì Nước.

Các nhà ái quốc ở Huế thu góp các số tiền ấy, để cất lên cho Cụ một ngôi nhà ba gian, sắm cho Cụ một chiếc thuyền nan để cụ có nơi nghỉ mát trên sông Hương và một số vốn, để cụ uống rượu, ngâm thơ, vừa cùng một chú tiểu đồng đi Thuận An buôn gạo về bán.

Cụ sống cuộc đời thanh bạch và nhàn hạ, chỉ giao du với các bạn đồng chí già, và cũng rất mến bạn trẻ, lao động, trí thức, sinh viên, học sinh ở Huế và khắp Bắc Trung Nam. Mọi người đều tôn sùng Cụ như một thần tượng chói lọi uy danh. Ba tiếng “Phan Bội Châu” và cả ba tiếng biệt hiệu Phan Sào Nam, gợi lên trong trí óc thanh niên hình dáng rất đáng tôn kính của một cụ già có vòm trán cao, đôi mắt sáng ngời, chòm râu tiên lão, gần như một vị thần sống của Lịch Sử Việt Nam ở đương kim thời đại.

Thế hệ thanh niên của Tuấn rất hãnh diện được một vị thần sống như thế để sùng bái, để thờ. Cho nên những bạn bè của Tuấn và Tuấn đều triệt để tuân theo những lời giáo huấn của cụ, say mê đọc các thi văn của cụ, coi những bài những sách của cụ viết ra như những lời châu ngọc.

Đến Huế ngày đầu tiên, Tuấn đến thăm cụ Phan Bội Châu, và sau khi đã được chiêm ngưỡng dung nhan của cụ, được vinh dự hầu chuyện trên ba tiếng đồng hồ với cụ, được cụ hỏi han khuyên bảo, Tuấn được hoàn toàn thỏa mãn.

Suốt mấy ngày đi thăm các thắng cảnh ở Huế, Tuấn vẫn không rời khỏi hình ảnh cao siêu lẫm liệt của cụ Phan Bội Châu. Sông Hương núi Ngự, cầu Bạch Hổ hồ Tỉnh Tâm, điện Hòn Chén, các lăng tẩm của các vị Hoàng đế quá cố đều chỉ là những cảnh đẹp nên thơ, tuy là hùng tráng, vĩ đại như không thể nào thanh cao tráng lệ bằng túp lều ba gian của cụ Phan ở Bến Ngự.

Tuấn muốn trở lại nhiều lần để được hầu chuyện cụ Phan, nhưng Quỳnh và Tố bảo:

- Mầy đến đây thường sẽ bị bọn Mật thám và lính mã tà để ý theo dõi có ngày ở tù đấy.

Tuấn ngại không dám đến nữa, nhưng mỗi buổi chiều mát thường rủ vài ba đứa lên Bến Ngự, đi ngang qua trước cổng nhà cụ để nhìn vào.

Nhớ hôm đầu tiên đến viếng cụ, cụ bảo:

- Người Tây không mở nhiều trường để dạy dỗ con dân nước Nam cho nên quốc dân còn thất học nhiều quá. Như thế bảo nước ta tiến bộ văn minh sao cho kịp với các quốc gia trên thế giới?

Do ý kiến ấy, về nhà trọ, tối Tuấn thử viết một bài luận thuyết nhan đề là: “Ở Trung Kỳ, nên cưỡng bách giáo dục”. Trong bài Tuấn đòi hỏi người Pháp bảo hộ phải mở rộng nền giáo dục cho toàn thể quốc dân, cho tất cả mọi người An nam đều phải được đi học. Tuấn đổi một chữ trong câu của chính trị gia Pháp: “Après le pain, l’instruction est le premier besoin de people” mà viết lại: “Sau cơm áo, giáo dục là nhu cầu thứ nhất của dân”. Viết rồi sửa đi sửa lại bốn tiếng đồng hồ mới xong. Tuấn đưa cho mấy đứa bạn ở cùng nhà trọ xem. Đứa nào cũng khuyến khích Tuấn, và bảo Tuấn chép lại sạch sẽ để sáng hôm sau đem đến toà báo Tiếng Dân của cụ Huỳnh Thúc Kháng, thử coi có được đăng không.

Sáng hôm sau, Tuấn đi với bốn thằng bạn đến toà báo Tiếng Dân, ở đường Đông Ba. Trước khi đến đây, Tuấn tưởng tượng tòa báo đồ sộ, oai nghiêm, có lính gác, có kẻ chầu người chực, cũng như Toà Sứ, Toà Án vậy.

Nhưng khi đến nơi, Tuấn ngạc nhiên, vì là lần đầu tiên Tuấn mới thấy một “Toà Báo”.

Tòa báo Tiếng Dân là một căn phố chật giống như các căn phố cùng một giãy ở trên lề đường Đông Ba, ngó xuống sông Đông Ba, một con sông đào, chi nhánh của sông Hương.

Đây là một căn phố hai từng trên gác có một cửa sổ mở rộng, từng dưới có một cửa lớn, chật hẹp, phía trên có treo một tấm bảng kẽ chữ in: TIẾNG DÂN. Hai bên có hai chữ nho: Dân Thanh (nghĩa là TIẾNG DÂN) Và một dòng ở trên “Huỳnh Thúc Kháng Công Ty” Tuấn sợ, không dám vào. Nhưng mấy đứa bạn cũng chẳng đứa nào dám vào. Năm đứa đi lại trước cửa Toà báo vài ba lần, thằng này xúi thằng kia, rồi cùng cả năm đứa đều vào. Tưởng là gặp ngay cụ Huỳnh Thúc Kháng, chủ nhiệm kiêm chủ bút, nhưng năm cậu học trò thấy một ông mặc y phục An nam, áo dài đen, còn trẻ. Trên tường có tấm bảng đề: Ty Quản Lý. Năm trò không hiểu ty Quản Lý là gì, nhưng Quỳnh cầm bài của Tuấn, đưa bản thảo cho ông ngồi ở đấy. Ông kia lấy xem qua rồi hỏi:
- Bài của cậu muốn gởi đăng báo phải không à?

Quỳnh chỉ vào mặt Tuấn:

- Dạ, thưa ông, bài của anh này viết, chớ không phải của tôi.
Ông quản lý gật đầu:

- Được, để tôi đưa lên gác cho cụ Huỳnh coi, nếu cụ bảo đăng được thì mới đăng, còn không thì bỏ. Các cậu không được đòi lại bản thảo nghe.

- Dạ.

Quỳnh lanh lợi nhất trong đám, chấp hai tay chào:

- Xin chào ông.

Mấy đứa khác cũng bắt chước chào ông “quản lý” như thế rồi kéo nhau ra. Tuấn chào cuối cùng và lo chạy ra trước.

Đi đường năm cậu học trò bàn tán, không biết cụ Huỳnh Thúc Kháng sẽ cho đăng bài đó hay là cụ bỏ vào sọt rác? Tuấn hồi hộp suốt ngày đó, ăn không được, và cũng không làm được gì cả. Đi đâu, ngồi đâu, nằm đâu, Tuấn cũng suy nghĩ vẩn vơ, nửa lo sợ, nửa hy vọng. Lo sợ là nếu bài đó sẽ bị cụ Huỳnh bỏ vào sọt rác, thì Tuấn sẽ mắc cỡ với mấy đứa bạn, hai là nếu đăng được thì sợ mật thám tây sẽ theo dõi.

Tuấn viết hơi hăng, công kích người Pháp ở Annam bắt dân nộp thuế mà không chịu mở nhiều trường học để mở mang giáo dục cho dân. Nhưng hy vọng rằng cụ Huỳnh coi bài đó, nếu có câu nào viết hăng quá, cụ sẽ bỏ đi… Ồ, nếu bài của Tuấn được đăng nhỉ! Đó sẽ là bài đầu tiên của Tuấn được hân hạnh đăng trên mặt báo mà lại là báo Tiếng Dân của cụ Huỳnh Thúc Kháng. Có lẽ hay lắm thì được đăng trong mục “Độc Giả Diễn Đàn” là cùng. Tuấn tưởng tượng nếu được đăng thì người bạn đã giúp Tuấn ở Qui Nhơn, là anh Phạm Đào Nguyên sẽ được đọc và sẽ viết thư khen Tuấn. Và mấy người ở tỉnh nhà cũng sẽ đọc bài đó, thật là một vinh dự lớn lao vô cùng đối với cậu học sinh 17 tuổi lần đầu tiên tập viết báo.

Mấy đêm liên tiếp hồi hộp không ngủ.

Nhất là đêm thứ năm sau đấy, Quỳnh bảo Tuấn:

- Chiều mai thứ sáu, là ngày Tiếng Dân phát hành. Nếu bài của mầy được đăng thì may ra được đăng trong mục “độc giả diễn đàn” trong số đó. Nếu không thì nó cũng sẽ hân hạnh được cụ Huỳnh xé chùi đít!

Các bạn của Tuấn nửa đùa nửa thật, nhưng chính Tuấn cũng áy náy lo bài của mình không được cụ Huỳnh chấp nhận.

Bốn giờ chiều thứ sáu, Tuấn đi ra phố một mình đón mua tờ Tiếng Dân. Đây là tờ báo duy nhất ở Huế thời bấy giờ, mỗi tuần xuất bản hai lần. Uy tín của nó rất lớn, do uy tín cá nhân của cụ Huỳnh Thúc Kháng, một đại Nho, một chí sĩ cách mạng đã bị đày đi Côn Lôn cùng một lượt với cụ Tây Hồ Phan Chu Trinh, và đã hồi hương sau khi mãn hạn tù.

Uy tín của tờ Tiếng Dân không những riêng ở Đế Đô Huế, mà vang lừng khắp trong nước, và là tờ báo đầu tiên được phổ biến sâu rộng từ thành thị đến thôn quê. Riêng ở Trung Kỳ, mỗi làng có vài nhà Nho gọi là “Tân Nho” – danh từ dùng để phân biệt với những “Hủ Nho” – Tân Nho là những ông Tú, ông Cử, hoặc các thanh niên Nho học có óc “mới”, khuynh hướng về văn minh tiến bộ. Họ đều là những người có đóng cổ phần trong Công Ty Huỳnh Thúc Kháng và được biếu Báo Tiếng Dân, hoặc có đóng tiền mua năm Báo Tiếng Dân.

Tuy hầu hết các giớ trí thức “có đầu óc quốc gia” ở khắp nước và riêng ở Huế đều mua báo Tiếng Dân, nơi đây họ thích đọc nhất những bài xã thuyết của cụ Minh Viên Huỳnh Thúc Kháng, và những bài của cụ Sào Nam Phan Bội Châu, nhưng hình như cũng có một số đông người không chịu bỏ tiền ra mua (giá mỗi số 5 xu) và chỉ mướn đọc. Có lẽ để tránh cái nạn mướn báo về xem báo cọp, cụ Huỳnh Thúc Kháng đã dùng một biện pháp đặc biệt.

Những số báo phát hành ở ngay thành phố Huế, giao cho vài chú em ôm báo đi bán dạo, đều được gấp 6 theo chiều ngang rồi gấp đôi theo chiêù dọc, và dán một giấy trắng bịt hai đầu, có dấu xanh của Toà Báo đóng một nửa trên rẻo giấy, một nửa trên mặt báo.
Như thế, tờ báo bị dán lại, chỉ những người nào trả tiền mua báo, mới xé rẻo giấy kia ra và mở tờ báo ra xem. Biện pháp này tránh được những độc giả xem báo cọp vì mọi khi rẻo giấy bị xé ra rồi, người lãnh báo bán dạo trả lại nhà báo không nhận.

Tuấn trao 5 đồng xu cho đứa bé bán báo dạo và lấy một tờ. Đó là tờ Tiếng Dân số 100. Hồi hộp vội vàng, Tuấn xé rẻo giấy có con dâú của ty quản lý tờ báo, và mở ra xem. Tuấn rất đỗi ngạc nhiên và mừng thấy ngay nơi mục xã thuyết ở trang nhất, bài của Tuấn với cái đầu đề in chữ đậm sắp đầy hai cột: “Ở Trung Kỳ nên cưỡng bách giáo dục”, Tuấn ngó liên xuống cuối bài, thấy rõ ràng tên của mình, và một bên có giòng chữ “còn nữa”. Tuấn mừng rỡ, không kịp đọc, lật đật cầm tờ báo chạy về nhà. Tụi bạn đi học trường Pellerin chưa về. Tuấn nằm dài xuống bộ ván ngực trãi nguyên tờ báo ra trước mặt và xem bài của mình. Tuấn vô cùng thích thú đọc lại những câu văn chính mình đã viết, nhà báo không thêm bớt một chữ. Những câu văn mình đã nguệch ngoạc bằng mực tím trên trang giấy học trò, bây giờ thành chữ in, đậm đà và sắc sảo trên trang giấy báo Tiếng Dân! Tuấn vô cùng sung sướng cảm động vì đây là bài báo đầu tiên của mình.

Cũng y nguyên những câu văn đó, mà lúc còn viết tay trước khi đem đến toà báo, không thấy hay, không thấy đẹp, không thấy thâm thúy bằng khi đã in trong mục xã thuyết hai cột báo Tiếng Dân.

Tuấn đọc đi đọc lại từng đoạn, cả bài, xem lại đầu đề in hai giòng chữ đậm, rồi ngó lại cái tên ký của mình cũng in bằng chữ lớn. Tuấn mĩm cười thỏa mãn, nằm ngữa trên bộ ván bóng mướt, mát lạnh, để tờ báo Tiếng Dân trên ngực, nhắm mắt tưởng tượng tất cả sự sung sướng lần đầu tiên có một bài của mình được đặng trên mặt báo, lại là tờ báo có uy tín nhất của Trung Kỳ, của cả xứ An nam tờ báo của cụ Huỳnh Thúc Kháng.

Bài của Tuấn được đăng trong mục xã thuyết, là nơi dành riêng cho cụ Huỳnh Thúc Kháng mà thôi. Tuấn không ngờ bài của Tuấn được đăng thành hai kỳ, kỳ này trong tờ báo số 100, kỳ sau trong số 101. Tuấn lại tưởng tượng vài hôm nữa số báo Tiếng Dân nầy sẽ được gửi đi khắp nơi trong nước và tất cả những người quen Tuấn ở Qui Nhơn, Quảng Ngãi v.v… sẽ đọc bài của Tuấn. Phạm Đào Nguyên sẽ đọc bài ngay sau khi cầm tờ báo ở sở về.

Và cha của Tuấn, mẹ của Tuấn ở Quảng Ngãi, các thầy giáo của Tuấn, sẽ ngạc nhiên thấy nới mục xã thuyết của tờ báo cụ Huỳnh một bài của Tuấn ký tên Tuấn.

Tuấn đang thưởng thức một mình sự khoái chí mênh mông không kể xiết, thì các đứa bạn đi học đã về, Quỳnh thấy tờ báo Tiếng Dân nằm trên ngực Tuấn, cất tiếng hỏi Tuấn:

- Báo mới đó phải không Tuấn?

- Ừ.

- Có đăng bài của mầy không?

- Có.

- Đâu?

Quỳnh vội lấy tớ báo tìm mục “Đọc giả Diễn đàn” nhưng Tuấn hãnh diện bảo:

- Ngay ở mục xã thuyết.

Quỳnh ngồi xuống ván gỗ, đọc một mạch hết bài báo, trong lúc ba đứa bạn khác đều chụm đầu vào xem bài báo của Tuấn. Đọc xong, Quỳnh cười vui vẻ:

- Sướng quá hỉ! Tuấn, mầy viết báo được rồi đấy. Được đăng trên Tiếng Dân, lại đăng ngay nơi mục xã thuyết của cụ Huỳnh, vinh dự nào bằng.

Xong rồi mấy đứa bạn xúi Tuấn đến toà báo “xin tiền nhuận bút”.

Tuấn không muốn đi:

- Tao không dám đến cụ Huỳnh để xin tiền nhuận bút. Miễn cụ đăng cho được là khoái rồi.

Quỳnh bảo:

- Cụ đăng là một chuyện, mà mình lấy tiền nhuận bút là một chuyện chớ.

- Nhưng bài đăng đã hết đâu. “Còn nữa” mà!

- Vậy đợi xem kỳ số 101 đăng hết bài của mầy, thì đến xin cụ trả tiền nhuận bút. Lấy tiền về ăn chè hột sen, mầy phải đãi mỗi đứa tao một chén, chớ tội gì không lấy, mày!

Số 101 ra, Tuấn cũng vội vàng mua một số xem. Bài của Tuấn vẩn giữ y nguyên đầu đề, với hai chữ “tiếp theo” và kỳ này đăng hết, dài hai cột xã thuyết và cũng ký tên của Tuấn.

Gặp lúc túng tiền, chưa có trò nào nhận “mandat” của gia đình gởi cho, bốn đứa bạn nhất định xúi Tuấn đến toà báo Tiếng Dân. Tuấn cùng đi, nhưng đến toà báo Tuấn đứng lấp ló ở ngoài, không dám vào. Quỳnh và ba đứa bạn đánh liều bước vào toà báo.

Tuấn đứng ngoài cửa ngó vào thấy bốn đứa bạn nói gì với ông quản lý tên là Trần đình Phiên.

Một lúc khá lâu, hình như ông Phiên đi lên gác thưa với cụ Huỳnh Thúc Kháng, rồi trở xuống một cầu thang chật hẹp, kế phòng quản lý, ông hỏi:

- Tuấn là ai?

Quỳnh vội chạy ra cửa gọi Tuấn vào. Nhưng Tuấn mắc cỡ và nhút nhát, khẽ bảo Quỳnh:

- Mày cứ lấy tiền đi. Tao không vào đâu.

Một lát sau, bốn đứa bạn đi ra. Quỳnh cười bảo:

- Tao phải ký cái biên lai nhận dùm mầy đó.

- Cũng được chứ sao.

Quỳnh đếm bạc trao lại cho Tuấn 4 đồng, và bảo:

- Ông Trần Đình Phiên nói cụ Huỳnh Thúc Kháng khen bài mầy viết hay và biểu trả tiền nhuận bút bấy nhiêu đó.

Tuấn vui mừng quá chừng, nở mũi cười hí hởn, 4 đồng bạc! Ồ chu choa! Sao nhiều quá vậy? Tuấn ước độ 4, 5 giác thôi – 1 giác (tiếng Trung), một cắc (tiếng Nam), một hào (tiếng bắc) – chớ, ngờ đâu được 4 đồng, món tiền to như thế! Sẵn dịp đi ngang qua phố Đông Ba, Quỳnh mượn hai xu để mua một quyển vở, ba đứa bạn kia cũng mượn tiền mua viết chì, mực v.v…Tuấn còn 3 đồng 4 giác.

Tối hôm đó cơm xong, nghe thấy cô hàng bán chè hột sen rao trước cổng, mâý đứa bạn chạy ra gọi. Tuấn vui vẻ đãi mỗi đứa hai chén chè hột sen, mỗi chén một xu.

Nghe nhiều đứa bạn bảo cho biết ở Hà nội, thanh niên sinh viên tham gia các cuộc hoạt động “Hội Kín” rất đông. Tuấn muốn đi Hà nội. Chàng viết thư ra hỏi ý kiến một người bạn học cũ ở Qui Nhơn bây giờ học trường Thăng Long, Hà nội, và ở trọ nhà một công chức ở đường Général Bichot.

Trong khi chờ thư trả lời, Tuấn đi thăm các thắng cảnh Đế Đô, và xem tình hình sinh hoạt ở đây, với mấy đứa bạn học trường Pellerin. Nhóm học sinh này đưa Tuấn đến thăm Nữ công học hội do bà Đạm Phương điều khiển.

Đạm Phương nữ sử là một vị phụ nữ quí phái tiếng tăm lừng lẫy ở Huế. Bà rất thông giỏi chữ Hán và thường viết bài bằng Quốc Ngữ và Hán Ngữ đăng trong Nam Phong Tạp Chí của Phạm Quỳnh ở Hà nội. Bà là vợ góa của một vị cựu thượng thư Triều đình Huế, giòng họ thế phiệt Nguyễn Khoa. Bà là mẹ của nhà văn trẻ tuổi Hải Triều, cậu con trai quý tộc này lại chịu ảnh hưởng học thuyết mác-xít, và có khuynh hướng đệ tứ quốc tế. Bà, thì trái lại, vẫn là một môn đồ trung thành của Khổng giáo, nhưng vẫn theo trào lưu mới. Bà rất tôn sùng cụ Phan Bội Châu và tiêm nhiễm tư tưởng ái quốc của cụ. Bà rất được giới nữ trợ giáo và nữ sinh trường Trung học Đồng Khánh khâm phục lắm. Biệt thự cổ kính của bà là nơi gặp gỡ của các giới nữ lưu “tân tiến” cả nam giới trí thức của đất thần kinh.

Do theo lời hô hào trong quyển “Nữ quốc dân tu tri” của cụ Phan Bội Châu, bà có đứng ra lập “Nữ công học hội” để dậy các thiêú nữ ở Đế Đô về các môn nữ công, và dạy cả khoa luân lý “tứ đức tam tòng” của Khổng giáo. Bà có mời cụ Phan Bội Châu đến khánh thành Hội trong một buổi lễ rất giản dị nhưng rất long trọng với sự hiện diện của hầu hết các giới thượng lưu trí thức và nữ sinh Huế.

Tuấn thắc mắc mãi về hai chữ “nữ sử” kèm theo tên Đạm Phương của bà, Tuấn hỏi một vị giáo sư giỏi chữ Hán, vị ấy giảng nghĩa “nữ sử” là chức vị của một quan phụ nữ trong Triều đình, chuyên lo về các nghi lễ của Hoàng Hậu.

Bà cũng viết trong Phụ Nữ Tân Văn tuần báo nổi tiếng ở Saigon và đôi khi trong báo Tiếng Dân của cụ Huỳnh. Đạm Phương nữ sử có viết một cuốn sách về giáo dục phụ nữ, được các giới nữ lưu Huế hoan nghênh lắm.

Nhân tiện nói về báo Tiếng Dân của cụ Huỳnh Thúc Kháng, là tờ báo “cách mạng” (nhưng chủ trương rất ôn hòa) của các giới Lão Nho và thanh niên cách mạng ở Trung Kỳ, ở Huế lúc bấy giờ còn có hai tờ báo khác: tờ Thần Kinh tạp chí của giới quan lại và tờ Phụ Nữ tân tiến của bà Lê Thanh Tường, vợ ông bí thư của quan Khâm Sứ Trung Kỳ, Yves Châtel. Tờ phụ nữ tân tiến trình bày và khuôn khổ cũng na ná như tờ Phụ nữ Tân Văn ở Saigon, nhưng bán không chạy. Ngay ở Huế cũng chỉ các bà mệnh phụ và một số phụ nữ trí thức mua mà thôi.

Bà Lê Thanh Tường, người Nam Kỳ, cũng là một nữ sĩ hay làm thơ Đường Luật có danh tiếng ở Huế thời bấy giờ. Sẵn nói đến nữ giới ở Trung Kỳ, Tuấn còn nghe phương danh một nữ sĩ rất có danh tiếng ở Tourane. Tên bà là bà Vương Khả Lãm, tác giả một bộ tiểu thuyết khá hấp dẫn, nhan đề là “Tây Phương Mỹ Nhân” thuật chuyện có thật của một cô Đầm ở Pháp theo chồng An nam về sống cuộc đời thôn quê trong một làng tỉnh Quảng Nam. Người đàn bà đẹp Tây phương ấy rất sung sướng với người chồng An nam quê mùa, nghèo khổ, mặc dầu bà bị các quan Tây ở Tourane hăm dọa và xúi dục bà bỏ thằng chồng An-na-mít vì danh dự và lòng kiêu căng của người Pháp.

Theo gương Đạm Phương nữ sử, bà Vương Khả Lãm cũng có mở một hội nữ công tại thành phố Tourane, và cũng có mời cụ Phan Bội Châu ở Huế vào khánh thành. Lễ khánh thành này vì sự có mặt của nhà chí sĩ Bến Ngự và do sự tuyên truyền rầm rộ của bà hội truởng và các hôị viên toàn là các cô gái tân thời, là một biến cố rất long trọng và xôn xao náo nhiệt.

Bà Vương Khả Lãm là người tân tiến nhất ở Tourane thời bâý giờ. Bà rất hăng hái chủ trương “Nam nữ bình quyền” do cụ Phan Bội Châu đề xướng theo phong trào Âu Mỹ. Bà là người phụ nữ An nam đầu tiên ở Tourane đi xe máy đầm. Bị dư luận dân chúng xầm xì bàn tán quá bà phải để chiếc xe máy đầm của bà cho ông chồng ngày hai buổi cỡi đi đến sở, và cỡi về. Phu quân là ông Vương Khả Lãm làm tham tá nhà Douane (thương chánh) Tourane. Sau này, vì quá tân tiến, giao du rộng, bà hút thuốc phiện và trở thành người ghiền.

Những buổi tối nóng bức, người ta thấy bà nằm bên bàn đèn tự tiêm thuốc phiện lấy và quan tham, chồng bà, cầm chiếc quạt ngồi cạnh quạt cho bà mát. Bà ghiền nặng lắm, có khi nằm hút đến 12 giờ khuya, và ông chồng cũng còn ngôì quạt hầu bà cho đến khi bà dẹp bàn đèn đi ngủ. Bà sẵn sàng tuyên bố với mọi người rằng bà cụ thể hoá học thuyết “nam nữ bình quyền”.

Về nữ giới, phái trẻ tuổi nhất lúc bấy giờ, có hai cô trợ giáo mới tốt nghiệp bằng Thành Chung (diplôme d’Études primaires-supérieures franco-indigène) cựu nữ sinh trường Trung học Đồng Khánh: cô Trần thị Như-Mân và cô Nguyễn thị Du. Hai cô này đều có công lớn trong vụ bãi khóa năm 1927 ở Huế. Sau đỗ tốt nghiệp xong, cô trợ giáo Như-Mân kết hôn với thầy trợ giáo Đào Duy Anh, ông này đã xin nghỉ dạy để làm trợ bút (nay gọi là ký giả) báo Tiếng Dân. Ông Đào Duy Anh và cô Như Mân, họp tác dịch các sách về chính trị, kinh tế và tự xuất bản, thành lập “Quan Hải Tùng Thư”. Các sách của Quan Haỉ tùng thư hồi đó được các giới trí thức và thanh niên học sinh rất hoan nghênh, và bán rất chạy.

CHƯƠNG 38.

1927

- Hà Nội "Kinh đô trí thức" của Đông Dương.

- Phong trào đi du học Hà Nội.

- 2 bài thơ cam kết của đôi bạn trẻ cùng chí hướng.

- Một Quan Huyện làm thơ ca ngợi chiếc xe lửa trên đường Hỏa-xa tốc hành Saigon-Hà Nội.

- Lần đầu tiên đến Hà Nội.

- Xe kéo Hà Nội Hà Nội! Thăng Long!

Đối với Tuấn, chàng thư sinh 17 tuổi, quê quán ở một làng hẻo lánh, nhỏ bé, ở miền núi Trung Kỳ, đi Hà Nội là một việc trước kia không bao giờ chàng dám nghĩ đến.

Dù sao Huế cũng còn gần gũi hơn, Huế mới chỉ là Đế Đô của nhà Nguyễn, Huế hãy còn là một thủ đô của xứ Trung Kỳ mà thôi. Chứ Hà Nội! Ồ! Hà Nội, tên cũ là Thăng Long, đó là cái gì khác xa Huế, lớn hơn Huế, xưa hơn Huế, đồ sộ hơn Huế. Đó là kinh đô của Lịch sử! Đi Hà Nội, tức là đi về cái nguồn gốc của Lịch sử!
Cố cựu hơn Huế, mà tân tiến hơn Huế. Huế chỉ có ông Khâm Sứ, ông vua An Nam, Hà Nội có ông Toàn Quyền, có thành cũ Thăng Long, có trường Cao Đẳng Đông Dương, có cầu Doumer, có Hồ Hoàn Kiếm, có đền Bà Trưng, có tượng Paul Bert! Tất cả bốn nghìn năm lịch sử “An-nam-quốc” đều có mặt ở Hànội, Thăng Long.

Tuấn, chàng trai nước Việt ở thế hệ giao thừa, mới 17 tuổi đã bị đuổi khỏi học đường quá sớm, đã phải tạm biệt thôn quê và tỉnh nhà để đi tìm hoài bão tương lai. Chàng trố mắt nhìn xã hội An-nam với tất cả tâm hồn ngây thơ mơ mộng, lại ngơ ngác trước những cái mới mẻ lạ kỳ, tò mò tìm hiểu bao nhiêu điều cần học hỏi. Tuấn đã thấy thật nhiều ở Huế, nhưng Huế chật hẹp quá, Tuấn mới ở đây một tuần lễ đã cảm nghĩ rằng mình đã biết gần hết Huế rồi.

Bây giờ lên đường đi Hànội, lòng Tuấn hồi hộp vô cùng. Tuấn rất buồn vì mình không phải con nhà giàu. Sinh trưởng trong một gia đình lao động, cha làm thợ mộc, mẹ không có buôn bán gì, được người anh học giỏi làm việc cho Tây - Trần Anh Tuấn, Phán Sự Tòa Sứ, thì lại bị bắt bỏ tù! Anh bị bắt cùng một lúc với thầy Đổng sĩ Bình, phán sự tòa sứ Qui Nhơn về tội “tạo yêu thơ yêu ngôn”. Theo bản án của triều đình Huế, tội tạo yêu thơ yêu ngôn nghĩa là sáng tạo ra văn chương và ngôn ngữ phi pháp, chống chính phủ.
Hôm ông Phán Tuấn bị bắt và đưa đi Ban-mê-thuột thì Tuấn không hay biết gì cả vì Tuấn đang học ở Qui Nhơn. Kỳ nghỉ hè về nhà, Tuấn nghe cha mẹ và hàng xóm kể lại, mới biết rằng ông Phán Tuấn có chân trong một hội kín gọi là “Thanh niên cách mạng đảng” và có góp tiền “mua súng để đánh Tây”. Tuy bề ngoài làm việc ở Tòa Sứ rất chăm chỉ, đối với người Pháp ông rất lịch sự, nhã nhặn, nhưng không ai ngờ ông Phán Tuấn lại là một đồng chí hăng hái nhất của một đảng cách mạng. Ông hoạt động bí mật trong tỉnh nhà đã hai ba năm rồi mà không ai biết cả, trừ những đảng viên.

Nghe các thầy thông thầy ký thuật lại, hôm có lính Tập vây nhà và bắt thầy phán Tuấn, rồi dẫn đến quan Công Sứ Pháp, ông này hết sức ngạc nhiên hỏi Tuấn là người cộng sự đắc lực nhất và quí nhất của ông:

- Taị sao anh vào đảng chống Pháp?

Thầy Phán Tuấn đáp:

- Thưa ông Sứ, tôi chỉ làm bổn phận của một người dân vong quốc.

- Nhưng anh biết rằng người Pháp đem văn minh qua cho người An nam?

- Người Pháp làm bổn phận của họ. Chúng tôi làm bổn phận của chúng tôi.

- Anh nghĩ sao khi chính tôi đây đã đối xử rất tốt đối với anh và đồng bào của anh?

- Vâng, ông nói đúng và tôi xin cảm ơn ông. Nhưng tôi làm cách mạng không phải chống cá nhân của ông, mà chống nước Pháp, chống chế độ thực dân của Pháp.

Ông Sứ làm thinh. Một lúc, ông bắt tay phán Tuấn trước khi truyền lịnh đem giam Tuấn vào lao:

- Dù sao, anh cũng là một người có chí khí (Quand même, vous êtes un brave!) Khi các quan An nam đem phán Tuấn ra xử theo luật Gia Long, tội của Tuấn là “tạo yêu thơ yêu ngôn” (tạo ra thơ văn và lời nói phi pháp) và kết án khổ sai chung thân. Ông Công sứ Pháp phản đối, đề nghị giảm xuống còn 9 năm tù, đày lên Ban-mê-thuột.

Lúc xét nhà phán Tuấn, lính có bắt được một tập thơ do ông phán Tuấn làm, nhan đề là “Vần thơ nước mắt”, trong đó có nhiều bài đả kích các quan và vua An Nam. Tập thơ này, chính Tuấn-anh cũng có đưa cho Tuấn-em xem và Tuấn-em có chép riêng trong một quyển sổ con mấy bài như sau đây:

Quan đi lọng
Khéo trò võng lọng, khéo trò quan!
Chẳng biết hổ ngươi, chẳng ngỡ ngàng!
Mất nước muôn dân còn oán hận,
Làm thân tôi mọi cũng nghêng ngang!


Làm vua thua bù nhìn.
Biết nhục không, vua? Vua hỡi vua!
Bù nhìn còn biết giữ bờ dưa
Ngai vàng chẳng hổ thân nô lệ ,
“Hoàng đế An nam” khéo vẽ bùa!


Khuyên cậu học trò.
Trò ơi! ôm sách đi đâu?
Học bài toán đố, học câu vẹc-bờ
Ngày nay tuổi cậu còn khờ,
Miếng cơm manh áo còn nhờ mẹ cha,
Mai sau khôn lớn, đẩy đà
Làm trai phải nhớ Nước Nhà, mang ơn.
Hai vai gánh vác giang sơn
Bẻ dây xiềng xích , thoát cơn tôi đòi .
Khí thiêng nung đúc giống nòi
Rồng Thiêng muôn thuở muôn đời tự do!


14-7 (cách-tót-duy-dê)
Cách-tót-duy-dê, đã tới đây
Là ngày Quốc Khánh của ông Tây
Tỉnh thành loe loét cờ ba sắc
Áo mão vêng vang khỉ một bầy
Đại Pháp câu mồi, vui thích hỉ!
An nam liếm chảo, tức cười thay!
Làng quê kẻ chợ đi xem hội,
Cờ bạc, rượu chè, lắm kẻ say!

Khóc cụ Phan Chu Trinh.
Ôi cụ Tây Hồ, ới cụ ơi!
Nước nhà đau đớn, cụ buông xuôi!
Gông cùm nô lệ, dân còn oán
Quân chủ chuyên quyền, hận chửa nguôi!
Đất nổi phong ba, trời thảm lụy
Dân không cha mẹ, Nước mồ côi!
Hương lòng một nén, thơ năm vận,
Khóc cụ Tây Hồ, ngấn lệ rơi!


Gởi Tuấn-em.
Nhắn nhủ em trai, óc dại non
Đôi lời mực thước, nhớ châm ngôn
Học làm nô lệ, thà đừng học
Khôn việc Nước Nhà, ấy mới khôn
Cam khổ không sờn, noi lý tưởng
Thanh bần cố giữ, vẹn tâm hồn
Công danh sự nghiệp do mình tạo
Khí khái anh hùng, để tiếng thơm.

TRẦN-ANH-TUẤN
(Vần thơ nước mắt ) 1924-1926

Nhất là bài thơ sau đây, như bản chúc thư của người anh ruột yêu qúi, mỗi lần nhớ đến là Tuấn buồn và lo.

Buồn, vì Tuấn đã không làm được việc gì cho có tiền để phụng dưỡng mẹ cha, mà lại còn muốn trốn gia đình để đi Huế, đi Hà Nội thì thật là một đứa con bất hiếu, một đứa em không nhớ lời khuyên dạy của anh. Tuấn biết vậy, nhưng làm sao được khi tính phiêu lưu mạo hiểm, chí khao khát học hỏi, và lý tưởng cách mạng đã được nung đúc từ ba năm qua, như đa số học sinh thời bấy giờ, tất cả những yếu tố ấy mạnh hơn Tuấn, thúc đẩy Tuấn đi tìm một lẽ sống thích hợp cho tâm hồn của chàng trai đang say sưa với thời buổi mới.

Tuấn lại lo vì Tuấn không biết rồi đây tương lai của Tuấn sẽ như thế nào? Có thể giữ được không những ý nguyện thầm kín của Tuấn, theo lời dạy bảo của anh? Làm sao cho trở thành một Đất Nước, với Giống Nòi? Làm sao cho tâm hồn giữ được thanh cao, cho đạt được lý tưởng của đời sống khí khái anh hùng mặc dầu sẽ chịu nhiều cam khổ?

Tuấn cảm thấy mình hãy còn bé quá , khờ dại quá. Anh cả của Tuấn, cột trụ của gia đình, bây giờ đã đi ở tù tại nhà lao Ban-mê-thuột chính vì lý tưởng cách mạng. Tuấn là con trai duy nhất còn lại với cha mẹ, thì đã bị nhà trường đuổi vì quá hăng say trong cuộc bãi khóa vừa rồi, từ nay làm sao tiếp tục học được nữa? Đành rằng anh cả nhắn nhủ: “Học làm nô lệ thà đừng học”, Tuấn cũng quyết định sẽ không bao giờ làm nô lệ, nhưng Tuấn cần phải học giỏi để có căn bản văn hóa vững chắc mới thực hiện được lý tưởng của đời Tuấn , mới đạt được sự nghiệp tương lai.
Tuấn trằn trọc suốt đêm trước giờ ra ga xe lửa để đi Hà Nội, cứ nhớ lại mấy bài thơ của anh cả, từng chữ như những lời khuyên răn, mà cũng là những lời tâm huyết, vừa cảnh cáo, vừa khuyến khích …vừa đề phòng …Tâm sự của Tuấn đêm nay là tâm sự của một chàng trai của Đất Nước, đang bơ vơ, ái ngại, lo sợ trên đường đời vô định.

Hầu hết những chàng trai nước Việt, cùng lứa tuổi của Tuấn, trong thời gian 1926-1927 cho đến 1931-1932, tuy hoàn toàn mỗi người mỗi khác, nhưng tâm sự lo lắng cho tương lai, cho đất nước, đều như thế cả.

Bởi đó là thế hệ trai trẻ đang chịu ảnh hưởng sâu đậm của trào lưu cách mạng do hai nhà chí sĩ họ Phan đã gây ra, và do lớp trí thức đàn anh noi theo gương hai cụ, tiếp tục đề cao tinh thần cách mạng trong các giới sĩ phu… Tuấn chỉ đủ tiền mua vé xe lửa từ Huế ra Hà Nội còn dư trong túi được vài chục tờ giấy bạc 1 đồng, do vài đứa bạn gom góp cho thêm, mỗi đứa cho mười giác, hoặc hơn nữa.

Chiếc xe lửa cũ kỹ, dơ bẩn từ ngoài đến trong, kéo gần hai chục cái toa, cái gòn (wagon), thành một đoàn dài đậu sừng sững từ đầu đến cuối sân ga, cao như một bức thành mầu nâu, bẩn thỉu.
Lần đầu tiên được đi Hà Nội mà đi trên chiếc tàu hỏa ghê tởm như thế kia, Tuấn không được vui lắm, Tuấn mua vé hạng tư, ngồi trong một toa đầy nghẹt hàng hoá, hành khách chen lấn nhau, đủ hạng người. Tuấn chỉ có một chiếc va li nhỏ bằng mây rất đơn giản, trong đó sắp xếp mấy bộ quần áo tây và An nam, toàn đồ cũ và năm bảy quyển sách Pháp, Tuấn đút va li dưới gầm ghế ngay chổ Tuấn ngồi để dể canh chừng, sợ thất lạc. Mấy đứa bạn của Tuấn có mua cho Tuấn để ăn dọc đường: một trái bưởi Huế, một khúc bánh mì và một gói kẹo thèo lèo để ăn tạm với bánh mì.

Nên nhớ rằng ở Huế và cả miền Trung vào khoảng đó (1926-1927) bánh mì vẫn chưa được thông dụng trong dân chúng An nam. Nó thuộc về các món ăn của Tây, và phần nhiều những người ở giới thân cận với Tây mới thỉnh thoảng dùng đến. Còn quần chúng An nam chỉ thích ăn các món bánh truyền thống như bánh bèo và bánh hỏi. Bánh mì là một thứ bánh lạ, người An nam ăn một vài lần cho biết thế thôi, chớ không ham chuộng lắm, cho nên nó không được bình dân, và các tiệm ăn An nam ít có bán.

Mấy đứa bạn của Tuấn muốn cho Tuấn được món ăn đặc biệt trên xe lửa đi Hà Nội, đã phải đến nói riêng với anh bồi của nhà hàng Morin là nhà hàng độc nhất của Pháp ở Huế để nhờ anh mua dùm một khúc bánh mì chánh hiệu của Tây. Vì hình như bánh mì bán ra cho người An nam thì có pha bột khoai mì.

Anh bồi của nhà hàng Morin có lòng tốt, nhờ quen với một cậu học trò, bán cho mấy đứa bạn của Tuấn một chiếc bánh mì lớn bằng trái bắp với giá tiền 5 xu (bằng 50 đồng bạc ngày nay). Quỳnh hãnh diện trao chiếc “bánh mì Morin” cho Tuấn với mấy lời trịnh trọng sau đây:

- Nè, chiếc bánh mì Morin, mầy cất kỹ trong vali để dành ăn trên tàu hỏa. Trên tàu có bánh mì để bán cho Tây chớ không có đủ để bán cho An nam đâu.

Tuấn nghe lời, cất kỹ khúc bánh mì bằng trái bắp trong va li quần áo. Bánh mì để ăn với…kẹo thèo lèo cũng do mấy đứa bạn mua cho.

Một việc không ngờ cho Tuấn là lúc tàu huýt còi sắp sửa chạy, Tuấn đứng thò đầu ra cửa ngoắc tay từ giã tụi bạn thì Quỳnh chồm lên nhét vào tay Tuấn một miếng giấy, với nụ cười cảm động:

- Để tàu chạy rồi hãy coi!

Tàu chạy xong ra khỏi ga Huế. Tuấn mở giấy ra xem, thì là một bài thơ của Quỳnh:


Tiễn Bạn Trần Tuấn.
Tiển bạn ra đi, dạ thẫn thờ
Chút tình ghi lại mấy vần thơ
Học đường, nhắc bạn đừng xao lãng,
Chí khí làm trai chớ bỏ ngơ
Tổ quốc đang mong bầy tuổi trẻ
Thân tằm phải nhả những dây tơ
Mấy lời tâm nguyện tôi cùng bạn
Non nước ngày mai …há hững hờ?


Tuấn xem lại bài thơ của Quỳnh hai ba lần và đã thuộc lòng. Từ đó, trên ghế dài của toa xe lửa phần thì bị lắc qua lắc lại với tiếng động rầm rầm của những bánh xe lăn trên đường sắt, phần bị ép chặt cứng giữa một bà lão ngồi ngủ gục luôn chạm mạnh đầu bà vào đầu chàng, và một ông cụ nhà nho miệng nhai trầu và hút thuốc không ngớt, chốc chốc rung đùi như cảm hứng một mình, Tuấn cũng nghĩ ra được một bài thơ để họa lại bài tiễn bạn của Quỳnh.

Mãi khi tàu hỏa ra khỏi Quảng Trị, khỏi ga Đồng Hới, Tuấn mới nghiền ngẫm xong bài thơ họa, nhưng vẫn âm thầm trong trí óc, không chép ra được vì không có giấy, không có bút, trong lúc xe lửa chạy vùn vụt, rầm rầm, nhức đầu, ù tai, mũi Tuấn hít đầy than và khói.

Thơ của Tuấn họa như sau đây:

Gởi bạn Phan Quỳnh.
Xa quê, lạ cảnh, óc bơ thờ
Thăm thẳm đường đời, ngại tuổi thơ
Văn học trau dồi tuy cố gắng
Non sông tủi nhục khó làm ngơ
Gọi hồn, chiếc hạc bay tung cánh,
Vương kiếp con tằm nhả phím tơ.
Đất rộng trời cao duyên cát bụi.
Biết đâu thân thế chỉ mong hờ!


Lúc ra Hà Nội, chép lại bài thơ gửi vào Huế cho Phan Quỳnh, Tuấn chứa ở dười bài thơ:

Câu đầu làm lúc tàu băng qua cầu Bạch Hổ, Huế. Câu cuối làm xong sau khi tàu ra khỏi ga Đồng Hới.

Tuấn, 28 Septembre 1928

Chàng thiếu niên tự cho là thích thú, đọc thầm lại bài thơ của Quỳnh và bài họa của chàng. Ngâm mãi trong miệng một lát, chàng tủm tỉm cười một mình và quên những người ngồi chung quanh, chàng ngâm lớn lên hai câu mà chàng khoái nhất:

Gọi hồn, chiếc hạc bay tung cánh
Vương kiếp con tằm nhả phím tơ.


Ông cụ nhà nho ngồi sát cạnh, ngó chàng:

- Cậu ngâm thơ của ai đấy?

Tuấn giựt mình, như sực tỉnh giấc mộng, lễ phép đáp:

- Dạ, thưa cụ, con ngâm hai câu thơ của thầy con dạy ở trường.

- À, tôi cũng làm thơ. Buồn ngủ quá. Làm thơ để khỏi ngủ gà ngủ gật như người ta. Thơ tôi là thơ Đường luật, bát cú, cậu có nghe không? Thơ tôi thì xuất sắc lắm. Tôi đọc cậu nghe nhé!

- Dạ.

Ông cụ nói tiếng Quảng Bình, hơi khó nghe một tí đối với Tuấn chưa quen nghe. Nhờ được cái là ông cụ khoái chí, rung đùi, ngâm đi ngâm lại hai ba lần nên Tuấn nghe rõ và nhớ được hết.

Đây là bài thơ cuả cụ:

Chiếc Tàu Hỏa
Khen thầy Đại Pháp thật văn minh
Tàu hỏa bầy ra, ai cũng kinh
Sức mạnh ầm ầm ghê máy móc
Chạy nhanh vùn vụt, tựa cung tên!
Ăn mây, nuốt gió, tung trời đất,
Trèo núi, băng sông, vượt thác ghềnh.
Huýt tiếng còi vang, rung vũ trụ,
Đến ga, kẻ xuống có người lên!


Rất tiếc là ông cụ không cho biết tôn danh, và Tuấn không dám hỏi. Nhờ nói chuyện một lúc, cụ mới cho cậu thiếu niên biết cụ làm Tri-huyện ở Do Linh. Tuấn không thuộc địa dư, không nhớ Huyện Do Linh ở tỉnh nào, nhưng Tuấn không dám hỏi nhiều, chỉ thích ngồi nghe. Cụ nói chuyện vui vui. Cụ giảng nghĩa bài thơ của Cụ, từng câu từng chữ cho cậu thiếu niên nghe, để cậu thưởng thức thi vị của bài thơ mà cụ cho là xuất sắc, là kiệt tác trong loại thơ Đường luật bát cú.

Tuấn hơi ngạc nhiên là ông cụ nhà nho làm đến chức quan Tri huyện thì đáng lẽ cụ mua vé hạng ba, hoặc hạng nhì, sao cụ lại mua vé hạng tư! Có lẽ quan Huyện muốn tiết kiệm tiền, vì thời bấy giờ lương quan Huyện An nam không hơn lương một ông quan Phán đầu tòa.

Quan Huyện là nhà nho học, nhưng cũng biết tiếng Tây, nói được tiếng Tây tuy không đúng văn phạm lắm. Quan hỏi chàng thiếu niên một câu tiếng Tây:

- Vous savez pourquoi je parle le Francais comme les Francais, mais je chique toujours du bétel aussi?

Tuấn thấy câu tiếng Pháp của quan không được Tây lắm, nhưng miễn chàng hiểu nghĩa: “Anh biết tại sao tôi nói tiếng Pháp như người Pháp, nhưng tôi vẫn ăn trầu?”.

Tuấn cũng trả lời bằng tiếng Pháp:

- Non.

- Parce que le bétel c’est le quốc hồn quốc túy des Annamites.

Tuấn không nhịn cười được nữa, vì cụ nói “trầu là quốc hồn quốc tuý của người An nam”. Có lẽ vì cụ không biết dịch bốn chữ “quốc hồn quốc tuý” ra tiếng Pháp như thế nào, nên cụ để nguyên tiếng Việt trong câu tiếng Pháp của cụ. Cụ còn nói thêm, vẫn nói tiếng Pháp, đại ý: người An nam phải giữ quốc hồn quốc tuý của mình, không nên bắt chước người Tây hết, như mặc áo dài, bịt khăn đóng, ăn trầu v.v… là những cái hay cái đẹp mà không nên bỏ…

Nhờ câu chuyện vui vui với quan Huyện Do Linh mà Tuấn không buồn ngủ và quên nỗi mệt nhọc trên tàu. Hình như quan cũng thấy Tuấn ngoan ngoãn, nên quan ưa nói chuyện. Ngồi một mình trên tàu không ai nói chuyện với ai, buồn chịu sao nỗi? Nhưng nói mãi cũng chán, và Quan Huyện nói nhiều lắm, chắc cũng thấm mệt. Quan thiu thiu ngủ, gục đầu vào thành xe… Tuấn ra hành lang đứng xem phong cảnh… Tuấn hồi hộp vô cùng. Trái tim của Tuấn rung động mạnh, giống như chuyến tàu chuyển đi vùn vụt trong đêm khuya.

Tuấn lo nghĩ lan man về cuộc viễn du cũng như cuộc đời vô mục đích mà không biết ngày mai sẽ ra thế nào? Tuấn còn nhỏ, đường còn xa, năm tháng còn dài thăm thẳm, rồi đây Tuấn ra Hà Nội sẽ làm được gì? Sẽ đạt được gì?

Lơ lửng giữa một xã hội nửa cựu, nửa tân, tuổi của Tuấn chưa un đúc được cái cũ, chưa thấm nhuần được cái mới, Tuấn tự cảm thấy bơ vơ lạc lỏng không ai chỉ dẫn. Hầu hết những chàng trai đất Việt đồng lứa với Tuấn, của thế hệ 1925-1932, đều phân vân nơi ngã ba đường của Lịch sử. Ghét Tây mà sợ Tây, mà phải học chữ Tây, đọc sách Tây. Một số thi đậu ra làm việc cho Tây để kiếm tiền nuôi mình, nuôi vợ con, giúp cha mẹ để đền ơn sanh thành, báo đáp công ơn dưỡng dục, ôm chữ hiếu để thờ mẹ kính cha, lấy chữ an thường thủ phận để bảo vệ đời mình.

Còn một số khác vẫn âm thầm óan hận, kết bạn kết bè, lê la những bước sống phiêu lưu ở ngoài rìa xã hội. Họ là thanh niên trí thức, học rộng biết nhiều. Ngoài những sách vở của nhà trường, họ còn tìm hiểu thêm trong các ngưỡng cửa của trí óc, mở rộng nhãn tuyến của học vấn vô biên, của tư tưởng bao la, của kiến văn vô tận. Tuấn thèm thuồng đời sống tự do bay nhảy của hạng trẻ tài hoa tuấn tú ấy. Nhưng làm sao đây? Tuấn sợ rằng mình bé nhỏ quá. Mình vô tài? Mình bất lực? Mình không có khả năng gì quán xuyến hơn người? Nên rời ghế học đường, Tuấn đi phiêu lưu nơi “nghìn năm văn vật” mà lòng ái ngại, trí lan man, chưa có gì ổn định cả.

Tàu hỏa đã qua nhiều ga, đã ghé nhiều tỉnh, nhiều thành phố mà Tuấn đã học thuộc lòng trong sách địa dư của nhà trường: Quảng Trị, Quảng Bình, Hà Tĩnh, Nghệ An, Vinh, Thanh Hóa, Ninh Bình, Nam Định… Người ta cho biết 6 giờ chiều tàu sẽ đến Hà Nội. Khỏi ga Văn Điển là ga gần Hà Nội, Tuấn đã thấy những trụ “giây thép gió” cao ngòng lố nhố tận nơi xa. “Hà Nội đấy! Giây thép gió Bạch Mai đấy!”. Một ông cụ người Bắc trả lời cho Tuấn, khi Tuấn hỏi cụ.

Trên tầu, hành khách nhộn nhịp, sửa soạn hành lý, khỏi phải dọn dẹp gì cả, nhưng chàng cũng lo sợ, lỡ trong lúc lộn xộn xuống tầu, ai xách chiếc va li của chàng thì nguy… Chàng xách va li đứng nơi cửa sổ, nhìn phong cảnh đất Bắc, gần đến ngoại ô Thăng Long.

Tầu vùn vụt chạy ngang qua một cánh đồng, rồi bắt đầu chầm chậm, rú lên một hồi còi thánh thót …Một ao sen trắng …một ao sen hồng …rồi một dãy phố …một dãy phố …Tàu chầm chậm …chầm chậm …nhả khói …phịch… phịch… phịch…như một người thở hổn hển sau khi đã chạy hết một đường trường xa lắc xa lơ, hết hơi, mệt đứ đừ, vừa đến đích.

Đối với Tuấn, thiếu niên 17 tuổi, quê ở một tỉnh nhỏ miền Trung, ga Hà Nội to lớn “ghê hồn”, kiến trúc đồ sộ hơn ga Huế, mặt văn minh hùng vĩ hơn. Ga Hà Nội làm cho Tuấn sợ, Tuấn thấy mình bé bỏng quá.

Chàng xách va li đứng yên trên bến tàu một lát để ghi vào trí nhớ những giây phút đầu tiên chàng để chân trên đất Thăng Long.
Rồi chàng len lỏi theo sóng người hành khách tay xách, tay cầm, chảy ào ạt ra cửa "sortie”.

Ồ Hà Nội! Hà Nội! Giấc mộng say mê của chàng trai phiêu lãng đã hiện ra trong thực tế rồi đây! Hà Nội rồi đây!

Tuấn đủng đỉnh bước xuống mấy bực thềm xi-măng của nền hè ga cao rộng. Xuống đến sân, chàng gọi chiếc xe kéo, hỏi người phu xe một câu ngớ ngẩn:

- Bác ơi bác, bác biết đường Général Bichot không?

Người phu xe nhanh miệng đáp:

- Phố nào lại chả biết. Mời cậu lên xe, tôi đưa cậu đến nơi ngay.
Tuấn mừng quá, xách va li lên ngồi trên chiếc xe kéo không khác gì xe kéo ở Huế hay ở Quảng Ngãi, Qui nhơn. Nhưng bác “cu li” Bắc kỳ lanh lợi hơn và có vẻ sốt sắng hơn. Xe chạy qua mấy đường phố rộng thênh thang, và chạy mãi …Tuấn hỏi:

- Bác ơi, đường Général Bichot tới chưa?

- Đường gì cơ?

- Général Bichot.

- Ở đây có phố Ni-Sô, tiếng An nam tức nà phố Quán Sứ ấy, chứ nàm gì có phố Bi-Sô.

Tuấn rất ngạc nhiên. Đúng theo địa chỉ trong thư người bạn, thì anh ấy ở Général Bichot, mà sao bác phu xe bảo không có. Bác ấy kéo đến đường Richaud (phố Quán Sứ) hỏi số nhà 27 thì không đúng. Tuấn bắt đầu phân vân lo sợ. Nhưng bác phu xe vẫn bình tỉnh, điềm nhiên bảo cậu khách trẻ tuổi ở quê xa:

- Cậu đừng có no …Tôi đưa cậu đến phố gì Sô ấy, chả việc gì mà no!

Tuấn cố hiểu lời nói của bác phu xe mà lần đầu tiên chàng nghe nói tiếng “L” thành ra “N”. Ngồi trên xe, Tuấn vẫn không yên lòng. Chàng suy nghĩ mãi làm sao cái bác “cu li xe kéo” này không biết đường Général Bichot ở đâu mà cứ bảo chàng đừng lo, thế nào bác ấy cũng đưa chàng đến nơi đến chốn?

Bác “cu li xe” chạy ba hồi bảy chập, loanh quanh các đường trong thành phố, rồi rốt cuộc, đến một ngã tư đại lộ, bác đặt gọng xe xuống lề đường, để Tuấn ngồi đấy. Bác chạy đến chỗ có hai ông “đội xếp” đứng gác đường, nói gì với họ. Một ông đội xếp tiến đến gần Tuấn:

- Cậu tìm phố nào?

- Dạ thưa ông, đường Général Bichot.

Ông đội xếp trố mắt nạt bác cu li:

- Bichot, tức là phố Cửa Đông, không biết à?

Bác cu li khúm núm trả lời:

- Vâng, thưa thầy con biết ạ.

- Biết sao còn hỏi vớ vẩn?

Ông đội xếp bỏ đi. Bác cu li kéo Tuấn đến một đại lộ ngắn nhưng rộng lớn. Tuấn ngó lên tấm bảng xanh đề chữ trắng tên đường đóng trên lưng chừng một cột đèn điện nơi góc phố: “Avenue Général Bichot”. Tuấn mừng quýnh, tìm số nhà 27. Đúng là nhà trọ của anh bạn của Tuấn. Tuấn hỏi phải trả bao nhiêu tiền xe, người bạn nói ngay:

- Từ ga xe hỏa về đây đúng tariff 3 xu.

Bác cu li không bằng lòng:

- Sao nại 3 xu? Tôi đưa cậu ấy đi chơi mát xuống tận mãi dưới Chợ Hôm, nên đến Yên Phụ rồi về đây, mà 3 xu nà thế nào?
Bạn Tuấn cãi nhau với bác ấy một lúc khá lâu, dĩ nhiên là bác cu li cãi bướng và dùng rất nhiều lời thô tục. Trẻ con hàng xóm, cả người lớn nữa, bu đến thật đông để nghe câu chuyện. Rốt cuộc bạn của Tuấn lấy trả cho bác ấy năm hào. Bác vứt tiền xuống đất quát lên:

- Chạy khắp 36 phố Hànội mà bố thí cho người ta dăm hào?

Tuấn sực nhớ có đọc trong tác phẩm của một văn hào Pháp chuyện một người Ba Tư tới Paris. Tuấn, cậu học trò ở tỉnh, lần đầu tiên đến Hà Nội, tay xách chiếc va li mây của nhà quê, đứng ngơ ngác trước đám đông người, y như chàng Ba Tư đến kinh đô Paris vậy… Sau cùng người bạn phải trả cho bác cu li xe một đồng bạc y như lời bác ấy đòi.

CHƯƠNG 39.

Hà Nội - 1927

- Lỗ đạn đại bác "Souvenir de 1882" trên thành Cửa Bắc.

- Các thắng cảnh. Hà-Nội so sánh tổng quát với Saigon.

- Nhà cụ Ngô Đức Kế ở Bạch Mai. Đám táng cụ Ngô Đức Kế.

- Sinh viên, học sinh. Báo chí.

- Toà soạn báo L Argus Indochinois, báo cách mạng của người Pháp chống thực dân Pháp, hô hào An Nam độc lập.

- Đảng Độc Lập An Nam Tuấn quyết định để một tuần lễ, hoặc mười ngày, đi xem cho hết tất cả Hà Nội về tất cả mọi mặt, nhất là về phương diện lịch sử, phong tục, xã hội, văn hóa.

Tuấn nhờ một người bạn đồng hương, ở Hà Nội đã lâu học trường Cao đẳng Sư phạm, hướng dẫn Tuấn đi chơi khắp các phố phường nơi “nghìn năm văn vật”. Tuấn tự hứa sẽ tiếp tục lo học sau khi biết qua bộ mặt của kinh đô Thăng Long.

Một di tích làm cho Tuấn chú ý hơn cả ở đại lộ Carnot dọc theo bức thành Hà Nội cũ, kế cận Cửa Bắc đã bị bịt kín lại, có một lỗ thủng khá sâu và trên độ 5 tấc đường kính, ở phía trên có một tấm biển đồng đóng vào thành, chạm mấy chữ Pháp: Souvenir de 1882.

Vết lủng lớn bên trái cửa thành là do đạn đại bác của Pháp từ chiếc thuyền đậu trên sông Nhị Hà bắn vào thành lúc 5 giờ sáng ngày 8-3-1882, trước khi đổ bộ chiếm thành. Vua Tự Đức phải ký hòa ước chịu để cho Pháp đô hộ toàn lãnh thổ “An Nam” sau khi thất thủ Hà Nội, Tổng Đốc Hoàng Diệu thắt cổ tự tử trong thành ngay sáng hôm đó. Người Pháp giữ y nguyên Cửa Bắc và vết đại bác trên thành để làm kỷ niệm cuộc chiến thắng và đô hộ của họ. Phía dưới lỗ đại bác có gắn tấm đồng: SOUVENIR DE 1882. Tuấn hỏi người bạn:

- Nếu tôi nhớ không lầm thì năm 1882, hải quân Pháp của đại tá Henri Rivière đậu ngoài sông Hồng Hà bắn đại bác vào thành Cửa Bắc trong lúc quân Pháp đổ bộ lên chiếm Hà Nội. Tổng đốc Hoàng Diệu thấy thành Hà Nội bị thất thủ liền treo cổ tự tử, có lẽ người Pháp đóng tấm biểng đồng nơi đây là để kỷ niệm một viên đạn của Pháp đã làm thủng thành Cửa Bắc, và do đó mà thành Hà Nội bị thất thủ, và vua Tự Đức phải ký hiệp ước nhìn nhận nước Pháp bảo hộ xứ Bắc kỳ. Tấm biểng bằng đồng đó, theo cảm nghĩ của Tuấn, là một cái nhục lớn cho nước Việt Nam và cho dân Việt Nam. Tuấn không hiểu sao cho đến năm 1927 người Pháp vẫn còn để y nguyên kỷ niệm ấy trên thành Cửa Bắc? Tại sao các báo và các nhà trí thức An nam ở Hà Nội không có lên tiếng yêu cầu viên Toàn Quyền Pháp cho gỡ tấm biểng ấy đi?

Có lẽ người Hà Nội thường qua lại trên đại lộ Carnot (tục gọi là phố Cửa Bắc) trông thấy tấm biểng đồng kia đã quen mắt rồi nên không còn cảm thấy chút sỉ nhục nào nữa chăng?

Tuấn ngắm tượng Paul Bert ở vườn hoa ở cạnh tòa Đốc lý, tên Bờ Hồ, tượng “Bà Đầm Xoè” ở vườn hoa Cửa Nam, cũng như đài kỷ niệm trận vong chiến sĩ Pháp ở vườn hoa Puginier, chỉ thấy có mỹ thuật mà không thấy có gì là khêu gợi Quốc hận và Quốc sỉ như hai giòng chữ vắn tắt khắc trên tấm biểng đồng Cửa Bắc.
Phong cảnh thiên nhiên ở Hà Nội theo người bạn cho Tuấn biết thì nghìn năm không thay đổi. Chung quanh Bờ Hồ có vài chục cây dương liễu, từ trước đến giờ vẫn buông rủ những “màn tơ” thơ mộng. Tháp Bút, cầu Thê Húc, đền Ngọc Sơn, vẫn là nơi gặp gỡ của những khách thừa lương, mà phần đông dĩ nhiên là những bạn trẻ.

Buổi chiều, từ khoảng 5-6 giờ, trên một khoảng đất trống trên Bờ Hồ sau ga “tàu điện” (tramway), và đầu phố Cầu Gỗ, người ta bày la liệt những bàn vuông nho nhỏ để bán kem và kẹo dừa cho khách nhàn du. Bọn trẻ con chơi trên các bãi cỏ gần đấy thường hát một bài hát khôi hài, theo điệu một bài hát Tây rất được phổ biến trong dân gian hồi đó:

Mình ơi có đi Bờ Hồ
Cùng nhau chén kẹo kem dừa
Xin mình (là mình) đừng từ chối
Túi ta có mười đồng xanh
Cứ đi là đi mình nhé!
Nếu cô mình muốn sắm cái chi
Áo vàng, ô tây, bít tất phín, giầy cườm, ô đầm!


Tuy là bài hát của học sinh và trẻ em nhưng Tuấn vẫn thường nghe sinh viên vui mồm hát chơi luôn và cả người lớn nữa.
Cũng trên đường Francis Garnier dọc theo Bờ Hồ, gần hiệu sách Nam Kỳ, có một tiệm kem, rất đông khách, nơi hẹn hò của những đôi trai gái có chút ít tiền xốc-xếch trong túi. Đây là hiệu kem đầu tiên bài trí “vui vẻ trẻ trung” và cũng là tiệm kem độc nhất của cả thành phố Hà Nội.

Khác hơn Sàigon, Hà Nội có vẻ một thành phố văn hóa nhiều hơn, và không có những tiệm ăn ở khắp các ngã tư đường như ở Saigon. Cả Hà Nội chỉ có vài tiệm ăn sang trọng của Hoa Kiều ở phố Hàng Buồm, phố Hàng Long, bán toàn các món ăn Tàu. Tuấn chưa có lần nào bước chân vào đây vì lẽ không có tiền. Rải rác có những hàng phở ở các phố gần chợ, như phố Chợ Hôm, Ô Chợ Dừa v.v… Ở Ô Chợ Dừa, có một tiệm con con chuyên bán thịt chó. Ở phố Hàng Cân có vài tiệm bán chả cá. Phố Hàng Nén có một tiệm phở đông khách nhất, là tiệm Nghi Xuân, đặc biệt có phở tái sách.

Sở dĩ Hà Nội có rất ít tiệm ăn vì người Hà Nội ít thích đi ăn tiệm. Cơm khách, tiệc tùng, đều đãi ở gia đình. Các món qùa vặt, ngoài các bữa ăn, đều mua của các gánh hàng rong, nhiều nhất là phở, mỗi tô 3 xu.

Sau khi Tuấn đến Hà Nội một vài hôm, Tuấn bảo một người bạn:

- Tôi muốn đi thăm cụ Ngô Đức Kế. Anh biết địa chỉ của cụ không?

Bạn Tuấn biết, nhưng chưa đến thăm cụ lần nào, chỉ nghe danh cụ là bạn thân của cụ Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng. Cụ có ở tù ở Côn Lôn với cụ Huỳnh, và sau khi được phóng thích về Hà Nội cụ mở tờ tạp chí Hữu Thanh.
Bạn Tuấn dắt Tuấn đi ngã tư Bạch Mai. Lên tàu điện từ đầu Bờ Hồ, mua mỗi vé 1 xu, Tuấn được bạn chỉ cho dọc đường đại lộ Francis-Garnier, Đồng Khánh, Dốc Hàng Gà, Route de Huế (chợ Hôm) Ô-cầu-dền rồi thẳng xuống ngã tư Trung Hiền, Bạch Mai, nơi cuối đường tàu điện. Nơi đây có nhà cụ Nghè Ngô Đức Kế. Hai cậu học trò quê mùa thấy nhà Cụ đóng kín, đứng mãi một lúc ngoài hè, không dám gọi cửa.

Một lúc, một thiếu nữ đi chợ về, hỏi:

- Hai cậu tìm ai?

Tuấn đáp:

- Thưa cô, chúng tôi từ Trung kỳ ra Hà Nội học, muốn đến viếng cụ Nghè Ngô.

Thiếu nữ mặc y phục Bắc, đầu quấn vành khăn nhung đen, bỏ thòng xuống một đuôi tóc ngắn sau ót, áo cổ thấp, vạt dài đến quá đầu gối. Dĩ nhiên hai cậu học trò cũng mặc quần áo “An nam” như hầu hết học sinh lúc bấy giờ. Thiếu nữ mở cửa:

- Mời hai cậu vào.

Nhà dưới trống trơn, không có người. Đi thẳng ra sau, cô đưa hai cậu học trò bước cầu thang lên gác. Vào cửa, cô bảo hai cậu ngồi ghế. Đây là một chiếc bàn khách với bốn chiếc ghế. Trên tường treo bốn bức ảnh lồng kính: hai cụ Phan, cụ Huỳnh và cụ Ngô.

Hai cậu học trò nghe tiếng một ông già ho sù sụ ở phía sau bức bình phong. Cô thiếu nữ vào đấy một lát rồi trở ra khẽ bảo:

- Cụ tôi mệt, phải nằm nghỉ trên ghế xích đu, phía sau bình phong, mời hai cậu vào.

Tuấn và bạn Tuấn đi guốc nhè nhẹ, rón rén vào. Trông thấy một cụ già ốm yếu ngồi trên ghế xích đu bằng mây và đang ho, hai cậu cúi đầu chào:

- Lạy cụ ạ.

Cụ Ngô Đức Kế nói tiếng Nghệ An, rất yếu ớt:

- Mời hai cậu ngồi.

Có sẵn hai chiếc ghế kê sát tường.

Tuấn lễ phép:

-Thưa cụ, trước khi ra Hà Nội con có đến toà báo Tiếng Dân thăm cụ Huỳnh Thúc Kháng. Cụ Huỳnh có trao con một bức thư để đưa lại cụ.

Tuấn lâý trong túi áo ra một phong thư có tên và địa chỉ báo Tiếng Dân in nơi góc trên, trao cụ Ngô. Cụ mở ra xem rồi nói:

- Cụ Huỳnh nhờ tôi viết bài cho báo Tiếng Dân, nhưng cụ không biết là dạo này tôi yếu lắm, viết lách gì được đâu.

Xong cụ Ngô hỏi han việc học hành của hai cậu khách trẻ tuổi, và có đôi lời khuyên bảo:

- Các cậu học theo tây học, nhưng nên nhớ rằng ta chỉ học theo cái hay của họ, mà đừng học theo cái dở. Học mà không trọng đạo đức và tinh thần ái quốc, như cái bọn Phạm Quỳnh, thì thà đừng học…Nói bấy nhiêu đó, xem chừng cụ đã mệt, nên cụ không nói nữa. Cụ cúi đầu xuống ho một hồi lâu, trông rất đáng thương.

Hai cậu học trò kính cẩn cáo biệt, sau khi để lại địa chỉ cho cụ theo lời cụ bảo. Không ngờ hai hôm sau, cô thiếu nữ là cháu gọi cụ bằng bác, đến nhà hai cậu để tin cho biết cụ Ngô Đức Kế vừa từ trần. Đám táng sẽ cử hành ngay chiều hôm đó theo lịnh của Sở Mật Thám bắt buộc.

Tuấn và bạn Tuấn vô cùng xúc động, liền nhờ bà chủ nhà trọ đi mua gấp dùm cho mấy thước vải trắng, hai cậu lấy một que tre lớn chấm vô bình mực viết trên vải mấy chữ:

“Khóc cụ Ngô Tập Xuyên”.

Tập Xuyên là bút hiệu của cụ.

Phơi nắng vài giờ đã khô, hai cậu học trò cuốn tấm vải rôì đi Bạch Mai để kịp phúng điếu và đưa đám cụ. Theo cô cháu cụ cho biết thì sở Mật thám Pháp bắt buộc đám táng cụ phải cử hành lúc 5 giờ chiều hôm đó (cụ chết lúc 5 giờ sáng) nhưng lúc 3 giờ chiều hai cậu học trò đến nhà cụ thì được biết là đám táng đã đi lúc 2 giờ. Vì Mật thám đã trở lại lúc 12 giờ trưa, bắt buộc phải đổi thời khắc biểu, không cho phép cử hành lúc 5 giờ, sợ dân chúng đi đưa cụ đông đảo. Nghe bà u gìa nói lại thì đám táng của cụ Ngô chỉ có nhân viên mật thám đi đưa mà thôi, còn tất cả bạn bè thân thuộc đều không được phép đi theo quan tài cụ. Ba vòng hoa cườm được đem theo. Còn tất cả các vòng hoa tươi, và đôi liễn, trướng, đều phải để lại nhà.

Hai cậu học trò thất vọng và tức tối, chỉ được vào lạy bốn lạy trước bàn thờ của cụ rồi ra về.

Tuấn nghe các cụ đi phúng điếu nói với nhau rằng Mật Thám Pháp bắt buộc gia đình cụ Ngô Đức Kế phải tống táng cụ vội vàng, lúc 2 giờ thay vì 5 giờ như đã báo trước, là vì họ rút kinh nghiệm ở đám táng của cụ Lương Ngọc Can, cũng là một bậc lão Nho cách mạng trứ danh ở Bắc Hà, cùng một lớp với các cụ Phan Bội Châu, Nguyễn Thượng Hiền, Ngô Đức Kế.

Một nhà lãnh đạo của Đông Kinh Nghĩa Thục, bị kết án lập “hội kín” mục đích phá rối cuộc trị an của nhà nước bảo hộ, cụ cử Lương Ngọc Can cũng bị tù đày và mãn hạn tù về ở căn phố của cụ, bán tơ lụa phố Hàng Đào (rue de la Soie). Vì cụ là một bậc bô lão cách mạng đã nổi tiếng, lại là một nhà nho uyên bác, một danh nhân có cốt cách quân tử, rất được dân chúng Hà thành kính phục, cho nên hôm cụ mệnh chung, cả thành phố Hà Nội đều xôn xao xúc động. Trong không khí cách mạng còn đang sôi nổi lúc bấy giờ, đám táng của cụ Lương Ngọc Can tự nhiên thành ra một đám táng lớn nhất nước, có cả hàng vạn người tham dự, nhất là sinh viên trường Cao đẳng Đông Dương (Đại học Hà Nội) và học sinh trường Trung Học Bảo Hộ, tục gọi là trường Bưởi (collège du Protectorat), trường Trung học Pháp-Việt duy nhất của Hà Nội thời bấy giờ.

Tuy không được vĩ đại như đám táng của cụ Phan Chu Trinh ở Saigon mấy năm về trước, nhưng cụ Lương Ngọc Can cũng được đám táng cực kỳ long trọng, mà ý nghĩa chính trị và cách mạng là một thách đố đối với chính quyền Pháp, nhất là sở Mật thám Bắc kỳ.

Ai cũng biết rằng đám táng Lương Ngọc Can là một tượng trưng đúng hơn là một sự kiện lịch sử: ban tổ chức gồm những nhà cách mạng lão thành và những sinh viên ái quốc hăng hái nhất của trường Cao đẳng, muốn tỏ cho người Pháp thấy rằng mặc dầu ở dưới quyền cai trị của Bảo hộ Pháp, dân chúng Việt Nam vẫn sùng bái những nhà chí sĩ của họ, những bậc lão nho cách mạng đã bị Pháp kết án tù đày. Dĩ nhiên là người Pháp căm giận lắm và sở Mật thám Bắc kỳ tìm cách hăm dọa ban tổ chức sau khi đám táng đã xong.

Rút bài học kinh nghiệm đó, họ đã ngăn cản đám táng cụ Nghè Ngô Đức Kế không cho cử hành long trọng. Hơn nữa, họ túc trực ngay tại nhà cụ Ngô và làm xáo trộn hết chương trình các lễ nghi, không kịp để thì giờ cho những người đến phúng điếu. Họ truyền lịnh đem chôn cụ vội vàng, tức tốc, sau khi lịệm xong, vào quan tài, và buộc con cháu cụ làm lễ phục tang nội buổi sáng ấy.
Cho nên lúc 3 giờ chiều, Tuấn đi với ba bạn học sinh quê quán miền Trung đến phúng điếu cụ, thì các cậu ngơ ngác bị một người lính mã tà ngồi gác cửa nhà cụ Nghè Ngô, cho biết đám táng đã đi từ lâu. Ba đứa bạn ở lại đây, còn Tuấn hỏi thăm, người ta chỉ đường, lật đật chạy đến mộ cụ. Tuấn tới trong lúc đã chôn xong. Đi đưa đám, trừ con cháu của cụ độ năm ba người chít khăn trắng và khóc nức nở, chỉ còn toàn là nhân viên sở Mật thám Bắc kỳ, người An nam, mặt mũi người nào cũng dữ tợn, đôi mắt như cú vọ đăm đăm ngó Tuấn. Nhưng Tuấn lì lợm, tự xét rằng mình đi đưa đám ma một ông cụ già, chớ không làm điều gì nên tội, nên cóc sợ.

Thanh niên học sinh thời bấy giờ hiền lành lắm. Chỉ có đám sinh viên Cao đẳng là hăng hái mà thôi. Cả thành phố Hà Nội chỉ có một trường Trung học Bảo Hộ của Nhà Nước và trường Nữ Trung học đường Đồng Khánh. Không kể trường Trung Học Pháp Lycée Albert Sarraut mà đại đa số là học sinh Pháp, còn học sinh An nam toàn là con nhà giàu và con các quan. Ngoài ra chỉ có hai Trung học tư thục An nam: “Thăng Long, Gia Long và một trường Trung học tư thục Pháp, Lycée Hồng Bàng".

Còn thì toàn là các trường Tiểu học cả. Phải nói ngay rằng toàn thể các học đường ở Hà Nội cũng như ở các thành phố khác, đều có một kỷ luật rất nghiêm khắc.

Các trường tư cũng thế. Tất cả học trò đều lo chăm chỉ học hành, và luôn luôn giữ gìn hạnh kiểm rất đứng đắn. Phong trào “cao bồi”, “lưu manh” chưa có. Đa số học sinh hãy còn mặc quốc phục: quần trắng, áo dài đen, mang guốc. Số học sinh mặc âu phục cũng bắt đầu khá đông, nhưng hầu hết là mặc nguyên bộ costume, áo veste, đeo cravate, chớ không bao giờ mặc áo sơ mi trần. Lý do là theo phong tục người Bắc, ra đường phải y phục chỉnh tề. không thể cẩu thả được. Cũng vì lý do ấy, các trẻ em thiếu niên 9, 10 tuổi ra phố cũng mặc áo dài. Thiếu nữ không bao giờ được mặc áo cánh, áo cụt, áo “bà ba” kiểu Saigon, dù là con nhà lao động nghèo khó.

Trò Tuấn mặc âu phục loại vải rẻ tiền, và tiếp tục học thi tú tài Pháp (Baccalauréat metropolitain. Gọi tắc là: Bac Métro). Trò học thêm Anh ngữ trong quyển sách Anh ngữ tự học dạy bằng tiếng Pháp "L’Anglais Sans Maitre” hơn 30 bài của giáo sư Xavier de Bouge. Học trong 6 tháng, chuyên cần mỗi ngày 2 tiếng đồng hồ là có thể viết được thông thạo, đọc được, nói được tiếng Anh.
Ngoài ra, Tuấn được giới thiệu với hiệu sách Nam Đồng thư xã, ở góc phố Hàng Bồ (rue des Paniers) kế rạp chớp bóng Ciné Moderne. Hiệu sách này là một căn phố hẹp chuyên bán sách Quốc ngữ về các loại Lịch sử và Chính trị. Sách mỏng, bìa mỏng đủ các màu và bán rất chạy.

Tuấn mua nơi đây những cuốn sách được dân chúng nhất là những thanh niên học sinh và sinh viên hoan nghênh nhất thời bấy giờ. Sách của Nam Đồng thư xã được phổ biến sâu rộng về các nhân vật của Lịch sử Cách mạng Trung Hoa Quốc Dân Đảng, dịch trong các sách Tầu xuất bản ở Thượng Hải như: Hồng Tú Toàn, Tam Dân chủ nghĩa, Tôn Trung Sơn, Trình Dục Tú, Hồng Hiên đế chế, Ẩm băng của Lương Khải Siêu, Mã Chiếm Sơn, Tưởng Giới THạch, Lịch sử Hoàng Hoa Cương v.v… Nhiều câu thơ Tàu, dịch ra thơ Việt. Có tính chất cách mạng, được thanh niên An nam học thuộc lòng, như bốn câu thơ in trên bìa Trịnh Dục Tú:

Chàng như mây mùa Thu,
Thiếp như khói trong lò
Cao thấp tuy có khác,
Một thả cùng tuyệt vời.


Có thể nói rằng thanh niên của thế hệ 1927 rất ham đọc những sách của nhà xuất bản Nam đồng thư xã, và hầu hết đều tiêm nhiễm tư tưởng chính trị và cách mạng của Trung Hoa Quốc Dân Đảng.

Song song với việc học tiếp tục chương trình “tú tài Tây”, Tuấn tìm đọc vồn vập lấy, như khao khát thèm thuồng, các sách của Nam Đồng thư xã, Hà Nội, chuyên về chính trị và cách mạng do lớp trí thức đàn anh viết, hoặc dịch ra. Đồng thời, các sách của Quan Hải Tùng Thư ở Huế, và của Nữ Lưu thư quán ở Gò Công (Nam kỳ), đều được các thanh niên học sinh, như Tuấn, dùng làm sách để đầu giường.

Ba loại sách khác hẳn nhau về nội dung cũng như hình thức, nhưng tựu trung vẫn đào tạo cho thanh niên một tinh thần cách mạng, và bồi dưỡng lòng ái quốc hăng say.

Loại sách Nam Đồng Thư xã của Nhượng Tống phần nhiều là dịch thuật theo các sách cách mạng của Trung hoa dân quốc. Sách Quan Hải tùng thư của Đào Duy Anh và Trần thị Như Mân chuyễn dịch, hoặc biên soạn sơ lược, về đại cương các vấn đề phổ thông, về chính trị kinh tế, lịch sử theo các tác giả Tây phương.
Loại sách này, có lợi ích cho sự giáo hóa chánh trị, được các học sinh Trung Kỳ và Bắc Kỳ hoan nghênh nhiều hơn. Trái lại, sách của Nữ Lưu thư quán ở Gò Công mỗi tháng xuất bản hai quyển, bìa vàng in chữ đỏ, do cô Phan thị Bạch Vân và một nhóm chủ trương, được bán ở Nam Kỳ chạy hơn ở Trung và Bắc. Đây là loại sách mỏng khuôn khổ một tờ giấy báo gấp thành 32 trang, và hoàn toàn sáng tác về những đề taì chính trị và cách mạng. Ngoài ba loại sách kể trên, thanh niên học sinh còn ham đọc các báo chính trị như:

- L’Argus Indochinois (Pháp văn) do ông Amédée Clémenti xuất bản ở Hànội.

- Tiếng Dân của cụ Huỳnh Thúc Kháng ở Huế.

- La Cloche Fêlée (Pháp văn) của Nguyễn An Ninh ở Saigon.

Đó là ba tờ báo nổi danh nhất và được giới thanh niên học sinh “có đầu óc” và một số sinh viên trường Cao đẳng Hà Nội ham thích nhất.

Nhưng lần đầu tiên, Tuấn bị một thất vọng chua-chát trong lúc tuổi trẻ còn những nhận xét trong trắng, ngây thơ. Vốn là độc giả trung thành từ lâu của tờ báo L’Argus Indochinois, từ lúc còn là một cậu học trò lớp Đệ Tam Niên ở “Collège de Qui Nhơn” Tuấn bây giờ học ở Hà Nội, tìm đến toà báo L’Argus Indochinois ở số nhà 12 đường Doudart-de-Lagrée, người Việt gọi là phố Hàm Long. Chàng đến đây có hai mục đích: để trả tiền mua tiếp tục 1 năm báo, và để được “yết kiến” ông chủ nhiệm Amédée Clementi mà chàng vẫn tôn kính và khâm phục những bài báo hăng hái đòi độc lập cho nước An nam, và kịch liệt công kích chính sách thuộc địa Pháp ở Đông Dương.

Sở Mật Thám Pháp ở Hà Nội ghét ông ấy lắm. Đáng phục hơn nữa vì ông là người Pháp, mà ông viết bài chửi Pháp và bênh vực người An namcòn mạnh hơn người An nam nữa.

Tuấn đến nơi cổng số 12 đường Doudard de Lagrée thấy cổng cài then, đóng chặt. Nếu không có tấm bảng bắc ngang qua hai trụ ngõ thì Tuấn không thể biết đó là toà báo. Trên bảng được ghi bằng những nét đậm mấy giòng chữ sau đây:

L’Argus Indochinois Journal de combat contre l’injustice et l’oppression.

Directeur: AmédéeClémenti. (Minh Trĩ Đông Dương, tờ báo chống bất công và áp bức) Trên trụ cổng bên phải, lại còn có đóng chặt một tấm bảng quảng cáo như sau đây:

L’argus Indochinois est un journal d’opposition, car il crie: Vive l’ Indochine! (Minh Trĩ Đông Dương là một tờ báo đối lập, vì nó kêu lên: Đông Dương vạn tuế!). Tuấn bấm chuông điện. Một lúc lâu, một u già đủng đỉnh ra mở cổng. Tuấn vào sân. U già bảo:

“Muốn gặp ông chủ thì cậu cứ đi lên gác. Đi vòng ngã sau có cầu thang”.

Tuấn hơi lo lo… Ai mà chả lo khi tìm đến “yết kiến” ông chủ nhiệm một tờ báo lớn, lại là tờ báo cách mạng của một ông Tây mà trí thức toàn quốc ai cũng kính phục?

Tuấn rón rén bước lên cầu thang, mong đừng có ai nghe tiếng bước của chàng. Chàng gõ cửa phòng đang được khép kín. Có tiếng đàn bà từ trong nói vọng ra:

- Entrez! (mời vào).

Tuấn khẽ mở cánh cửa ra, thấy một ông Tây đang nằm hút thuốc phiện và một người đàn bà An namtrẻ đẹp ngồi bên cạnh. Tuấn hết sức ngạc nhiên, và bỡ ngỡ chưa biết là ai, nhưng cũng lễ phép cúi đầu chào. Người đàn bà An nam nhã nhặn đáp lễ rồi hỏi bằng tiếng Pháp - một tiếng Pháp rất lưu loát, giọng nói rất hay, tuy là giọng Bắc:

- Anh đến có mục đích gì?

Tuấn cũng trả lời bằng tiếng Pháp. Và từ đây câu chuyện toàn bằng tiếng Pháp giữa ông Tây, người đàn bà An nam kia và Tuấn:

- Thưa bà, tôi đến mua tiếp một năm báo (Tuấn móc túi lấy tiền đưa cho bà).

- À ra thế?

Bà nhận tiền và nói tiếp:

- Để tôi sẽ viết biên lai ngay bây giờ cho anh. Anh chờ một phút.
Ông Tây nằm cạnh bàn đèn thuốc phiện, ngó Tuấn:

- Độc giả trung thành mua báo L’Argus Indochinois và trả tiền song phẳng như anh, thật là hiếm lắm. Có khi chúng tôi gửi liên tiếp ba lá thư nhắc nhở, họ mới chịu mua bưu phiếu gửi cho chúng tôi.

Người đàn bà An nam tiếp lời:

- Vì thế nên chồng tôi chán lắm, nhiều khi muốn giải nghệ. Làm báo ở Đông Dương là một nghề rất bạc bẽo. Cũng may là có tôi ở đây để lên giây tinh thần cho nhà tôi (Đúng câu của bà: Heureusement que je suis là pour remonter le moral de mon mari) Trong lúc ông chồng Pháp tiếp tục hút thuốc phiện, bà vợ An nam trẻ đẹp đứng dậy, lại bàn ngồi viết. Xong bà trao cho Tuấn một tấm biên lai nhận tiền mua báo 12 tháng, với tên ký rất đẹp: “Mme Amédée Clémenti“.

Bấy giờ Tuấn mới biết chắc rằng ông Tây nghiền á-phiện đích là Amédée Clémenti, và người đàn bà An nam nói tiếng Tây giỏi kia là vợ chính thức của ông.

Tuấn rất phục bà vợ, nhưng rất thất vọng về ông chồng. Một nhà báo Pháp cự phách, thần tượng cả một thế hệ thanh niên cách mạng An nam, lại là một dân nghiện thuốc phiện đáng khinh.
Từ thuở bé, Tuấn đã ghê tởm những người nghiện thuốc phiện. Nguyên nhân là ở ngay trong làng của Tuấn có một người chú họ làm nghề buôn quế, thường đi tỉnh này tỉnh nọ, mà Tuấn rất ghét và luôn luôn xa lánh vì người ấy nghiện thuốc phiện lại còn đau bịnh “tim la”. Mỗi lần về quê nghỉ hè, Tuấn đi dạo chơi trong xóm, hễ trông thấy “ông nghiền” ấy chỗ nào là Tuấn tránh đi chỗ khác. Cho nên Tuấn có thành kiến thực là ngây thơ rằng chỉ hạng người bần tiện, những kẻ ăn chơi, đĩ điếm, bọn thất học mới ghiền thuốc phiện.

Không ngờ ông chủ nhiệm L’Argus Indochinois, một nhà cách mạng Pháp, tranh đấu không ngừng cho nền độc lập của Việt Nam, một người mà Tuấn rất kính phục, tôn sùng mỗi khi đọc những bài xã luận đanh thép trên tờ báo Pháp-văn của ông, người ấy, hôm nay chính mắt Tuấn trông thấy, lại là một tên nghiền thuốc phiện như người chú đau tim-la ở nhà quê.

Ôi, Tuấn thất vọng xiết bao!

Dĩ nhiên là cảm tình của Tuấn đối với ông Amédée Clémenti bị sút đi nhiều, và Tuấn cứ thắc mắc về cá nhân của nhà báo cách mạng ấy. Trẻ tuổi và ngây thơ, Tuấn cứ tưởng rằng một người làm cách mạng, có những tư tưởng siêu việt tất nhiên là một người hoàn toàn đáng kính đáng quí, một vĩ nhân siêu quần bạt chúng.

Tuy nhiên Tuấn vãn tiếp tục đọc tờ báo L’Argus Indochinois. Nhờ đó mà Tuấn hấp thụ được rất nhiều tư tưởng mạnh mẽ, trong sạch, cao siêu, về chính trị, về cuộc tranh đấu chống bất công và áp bức, chống chủ nghĩa thực dân. Tuấn quí tờ báo đó cho đến nổi mỗi tuần nhận được nó, vào lúc 8 giờ sáng mỗi ngày thứ tư, do người phát thư Chà Và của nhà Bưu điện đưa đến tận nhà là Tuấn bỏ buổi học, nằm nhà đọc nghiền ngẫm cho hết bốn trang báo lớn. Cái đặc điểm của báo L’Argus Indochinois là in trên giấy satiné xanh , trong lúc tất cả các tờ báo khác đều in trên giấy trắng.

Mỗi năm xuất bản một lần, và số nào cũng đăng toàn những bài cách mạng chửi Tây kịch liệt, công kích chính sách thực dân Pháp thậm tệ, và luôn luôn hăng hái hô hào cho An nam độc lập. Có một số báo đăng kín cả 8 cột trang nhất một bài dài của ông Amédée Clémenti, nhan đề là “Le Parti de l’Indépendance Annamite” (đảng Độc Lập An nam). Trong bài ấy, ông chủ nhiệm kiêm chủ bút người Pháp đưa ra đề nghị thành lập một chính phủ Độc Lập An nam với những nhân vật sau đây:

- Tổng Thống: Phan Bội Châu

- Thủ tướng: Huỳnh Thúc Kháng

- Và các bộ trưởng: Dương bá Trạc, Nguyễn Thế Truyền, Nguyễn An Ninh, Phan Văn Trường v.v… Toàn là những nhà cách mạng Việt Nam, danh tiếng nhất lúc bấy giờ.

Bài báo đó, làm xôn xao dư luận các giới trí thức và sinh viên cả Tây lẫn Nam, không những ở Hà Nội, mà cả ở Huế và Saigon. Sau đó, xẩy ra hai vụ khiến báo L’Argus Indochinois càng quyết liệt đã kích phủ Toàn Quyền, phủ Thống Sứ và ty Mật Thám Bắc Kỳ.

Vụ thứ nhất là đêm thứ bảy tuần đó có người lẻn đến dán trên cổng tòa báo một tờ “cảnh cáo” của một bọn người vô danh tự xưng là “nhóm người ái quốc” hăm giết Amédée Clémenti.

Ông chủ nhiệm báo L’Argus Indochinois, làm bản kẽm tờ “cảnh cáo ấy” đăng lên báo và nhất quyết rằng tác giả mạo danh “một nhóm người ái quốc” không ai khác hơn là viên Chánh Mật Thám Bắc Kỳ với sự đồng lõa của Phủ Toàn Quyền và Phủ Thống Sứ.
Vụ thứ hai, là một buổi sáng thứ bảy, ông Amédée Clémenti được tin đêm hôm trước người chef typo (cai ê-kíp thợ sắp chữ) của báo L’Argus Indochonois bị mẹ mìn dụ dỗ đem đi mất tích. Ông Clémenti loan tin ấy trên báo của ông và cũng quả quyết rằng “tên mẹ mìn” ấy không ai xa lạ hơn là Chánh Mật Thám Bắc kỳ.

Nên nói thêm rằng lúc bấy giờ Hà Nội đang xôn xao về phong trào “mẹ mìn”. Mẹ mìn là những con mẹ đàn bà bình dân, đi lang thang các phố và dùng một thứ bùa ngải bí mật gì đó làm mê những người đi đường, khiến những ngươì này đi theo họ. Đó là một hình thức bắt cóc bằng bùa ngải. Thường thường mẹ mìn hay bắt người lao động đem bán cho các “Hội Đồn Điền Cao Su và Hầm Mỏ” Pháp để các Hội này chở họ qua Tân Thế Giới dùng làm nhân công rẻ tiền.

Nguyên nhân phong trào mẹ mìn, theo dư luận các giới cách mạng An nam là người Pháp mộ phu đồn điền khó khăn lắm, vì bị đi làm phu đồn điền (các đồn điền cao su của Pháp ở Nam Kỳ), không khác nào bị đi đày khổ sai chung thân vậy. Đó chỉ là một luồng dư luận ở Bắc Kỳ. Thỉnh thoảng mẹ mìn cũng bắt trẻ con đem đi bán ở nơi xa. Nhưng chưa ai nghe mẹ mìn bắt đàn bà con gái.

Phong trào mẹ mìn chỉ sôi nổi một dạo, rồi dần dần biến biến mất vì một số “mẹ mìn” đã bị “lính mã tà“, tức là lính mật thám theo rõi, bắt được quả tang và bị tù.

Đặc biệt về vụ anh cai thợ sắp chữ của báo L’Argus Indochinois, thì dư luận cho rằng anh ta bị lính mật thám bắt, rồi phao tin là bị mẹ mìn. Có lẽ anh bị mật thám bắt cóc để điều tra về tờ báo L’Argus Indochinois và ông Amédée Clementi.

Nhưng tờ báo này vẫn tiếp tục ra đều đều mỗi tuần, không bị lôi thôi hay thiệt hại gì cả.

Tuấn để dành báo L’Argus Indochinois trọn bộ, không mất một tờ. Vẫn để các bạn bè chuyền tay nhau xem, nhưng rồi Tuấn cũng cố đòi lại cho kỳ được, để giử đủ số. Nghỉ hè, Tuấn dồn hết mấy chồng báo ấy vào va li đem về quê, giấu kín trong cái rương lớn của gia đình, rương này mẹ của Tuấn dùng để cất những vật được coi như quí giá: tiền bạc, đồ đồng, đồ vàng, quần áo đắt tiền v.v… Tuấn yên chí rằng cất mấy chồng báo L’Argus Indochinois cũ trong cái rương rộng lớn và đóng kín này, thì chắc chắn không bao giờ mất được, để ngày sau, khi Tuấn lớn lên, sẽ coi lại và sẽ dùng làm tài liệu lịch sử.

Ba năm sau, Tuấn đang học ở Hà Nội, được giây thép trong nhà gởi ra báo tin cha của chàng qua đời. Tuấn vội vàng về quê. Đến nhà thì gặp ngay lúc người ta đang liệm xác cha. Mẹ chàng vô tình đã lấy tất cả chồng báo L’Argus trong rương, trên 200 tờ, đưa hết cho mấy người dân làng dùng lót trong quan tài và đệm hai bên để cha chàng được nằm “chặt chẽ ấm cúng” trong hòm.
Trông thấy thế, Tuấn không dám phản đối. Nhưng, trong lúc chàng đau đớn khóc cha, gục đầu trên nắp quan tài, chàng khóc luôn cả 200 tờ báo quí của chàng sẽ bị chôn vùi với cha và sẽ mục nát thành ra đất bụi.

CHƯƠNG 40.

1927 - 1930

- Thế hệ Nguyễn-Thái-Học.

- Sách báo cách mạng của Việt Nam Quốc Dân Đảng.

- 9-2-1929, chiều 30 Tết, tiếng súng lục nổ ở đường Chợ-Hôm, giết chết Tây René Bazin - Léon-Sanh ở toà báo L Ami du Peuple Indochinois.

- V.N.Q.D.Đ. khởi-nghĩa.

Thế hệ sinh viên và học sinh Việt-Nam từ ngày cụ Phan Bội Châu về nước, năm 1925, đến ngày khởi nghĩa của Việt Nam Quốc Dân Đảng, năm 1930, có thể gọi là thế hệ Nguyễn Thái Học. Mặc dù Tuấn hãy còn là một cậu học sinh quê mùa ngây ngô, nhưng chàng đã bắt đầu lớn lên trong thế hệ đó nên đã chịu rất nhiều ảnh hưởng của các trào lưu ái quốc đang ngấm ngầm xáo trộn các từng lớp tuổi trẻ, hoặc đã vùng dậy, đã bùng lên, trong các lớp đàn anh.

Tuy đa số học sinh, sinh viên chăm lo học hành, chỉ cốt thi đậu ra “làm việc Nhà Nước“, lánh xa các phong trào cách mạng, hầu hết là bí mật, nhưng những phần tử thanh niên được tiêm nhiễm tư tưởng ái quốc đã biết kết hợp lại với nhau mặc dù không tổ chức và thiếu người dẫn dắt. Mạnh nhất và sâu đậm nhất là ảnh hưởng của văn hóa và lịch sử. Hầu hết lớp thanh niên Trung Học ấy đều nghiền ngẫm say sưa các triết học Pháp của thế kỷ XVIII, J.J Rousseau, Montesquieu, Voltaire mà các nhà cách mạng lão thành Việt Nam thường nhắc đi nhắc lại hằng trăm nghìn lần bằng những danh từ phiên âm theo Hán Tự: Lư Thoa, Mạnh Đức Tư Cưu.

Thanh niên học sinh cũng ưa học lịch sử cách mạng Pháp từ 1789 đến triều đại Napoléon, mà họ say mê những giai thoại hấp dẫn nhất: cuộc đánh ngục Bastille, các cuộc biểu tình của dân chúng Paris, xử tử vua Louis XVI và hoàng hậu Marie Antoinette, các trận chiến thắng vẻ vang của Bonaparte, v.v… Thanh niên học sinh của thế hệ Nguyễn Thái Học còn ham đọc lịch sử cuộc chiến đấu dành độc lập của nhân dân Hoa Kỳ. cũng như tiểu sử của George Washington, lịch sử cuộc cách mạng Trung Hoa 1911 do Tôn Dật Tiên cầm đầu, các tác phẩm của nhà học giả cách mạng Lương Khải Siêu, nhất là quyển: “Ẩm băng” lịch sử nước Nhật từ đời vua Minh Trị đến chiến tranh Nhật-Nga 1904-1905, và cuộc chiến thắng vẻ vang của Nhật tại eo biển Tsushima.

Ngoài ra, các loại sách mỏng, bán với giá bình dân, bằng quốc ngữ, của Nam Đồng Thư Xã, Hà Nội, của Nữ Lưu thư quán, Gò Công, của Quan Hải Tùng Thư, Huế, các báo cách mạng tích cực bằng Pháp văn ở Saigon, do những thanh niên trí thức cách mạng chủ trương, lừng lẫy tiếng tăm, như La Jeune Indochine, của Vũ Đình Duy, La Cloche Fêlée của Nguyễn An Ninh, L’Echo Annamite của Nguyễn Phan Long, La Lutte của Tạ Thu Thâu, cả tờ La Tribune Indochinoise của Bùi Quang Chiêu, chủ tịch “đảng Lập Hiến Đông Dương“, và sau nữa là tờ L’Argus Indochinois của Amédée Clémenti, ở Hà Nội, đã tạo ra một không khí sôi nổi trong các giới trí thức thượng lưu và trung lưu, nhất là giới thanh niên trí thức cách mạng ở hai đô thị lớn ở Hà Nội và Saigon, hai thủ đô hành chánh và chánh trị của Đông Dương.

Bỗng nhiên, giữa không khí náo nhiệt ấy, nổ lên một tiếng súng lục càng làm cho tình hình xao động thêm lẹn. Tiếng súng nổ chiều ngày 30 Tết, tức là ngày 9-2-1929, tại Route de Huế (phố chợ Hôm) ở ngoại ô Hà Nội, cùng một lúc với vài tràng pháo tất niên lẻ tẻ trong thành phố.

Ngay tối hôm đó, trong đêm Giao thừa Xuân Kỷ Tị, Tuấn nghe vài bạn thầm thì cho biết dư luận đồn rằng hình như kẻ bắn mấy phát súng lục hồi 5 giờ 30 chiều ở phố chợ Hôm là một chàng thanh niên độ 18, 19 tuổi, khá đẹp trai và nạn nhân đã chết tại chỗ là một người Pháp tên là René Bazin, có người vợ An nam đẹp lắm. Dư luận cho rằng đây chỉ là “cuộc án mạng vì tình“ và có lẽ vì dành nhau cô “me tây“ kia mà chàng thanh niên An nam bắn chết ông Tây Bazin. Chàng thanh niên có lẽ con nhà giàu và “vào dân Tây“ cho nên mới có súng lục.

Nhưng Tết xong, một tháng sau, lại có dư luận trong giới sinh viên, học sinh đồn rằng, thủ phạm đã bị Mật thám bắt, là một học sinh An nam của trường Trung Học Pháp (Lycée Albert Sarraut) đã đỗ tú tài 1, tên là Léon Sanh. Nạn nhân, René Bazin, là chủ sở mộ phu đồn điền, nhà ở phố chợ Hôm, ngay nơi xảy ra án mạng bằng súng lục.

Hắn là một tên thực dân Pháp bị nhiều người An nam thù ghét vì hắn chuyên môn bốc lột những dân nghèo ở thôn quê Bắc kỳ, lừa gạt bắt họ ký giao kèo đi làm các đồn điền tư-bản ở “Tân thế giới“ bằng một gía tiền rẻ mạt. Sự thực, không phải đi Tân Thế Giới, mà là Tân Đảo, Nouvelle Calédonie một đảo lớn của Úc châu, và thuộc địa Pháp.

Sau đó vài tháng, Tuấn được biết rõ hơn một tin rất quan trọng: Léon Sanh là con trai cụ Cả Mộc, một bậc nữ lưu trí thức có danh tiếng ở Hà thành, hội trưởng một hội Dưỡng nhi ở phố Sinh Từ, và vụ ám sát René Bazin có dính líu với Việt Nam Quốc Dân Đảng, của anh Nguyễn Thái Học.

Lúc bấy giờ giới học sinh Hà Nội “có đầu óc cách mạng” thường gọi Nguyễn Thái Học bằng anh, vì anh là sinh viên Cao đẳng Thương Mại. Anh đã 27 tuổi, Việt Nam Quốc Dân Đảng hãy còn là một đảng bí mật.

Léon Sanh bị giam mấy tháng rồi được trả tự do vì không có một bằng chứng cụ thể nào tỏ rằng anh là thủ phạm. Sau đó anh ta vào làm ký giả ở một nhật báo Pháp, L’Ami du Peuple Indochinois của ông Tây Michel.

Mặc dầu Léon Sanh được sở Mật thám trả tự do, vụ Léon Sanh vẫn tiếp tục gây xúc động mãnh liệt trong giời sinh viên học sinh.
Tuấn có đến tòa báo L’Ami du Peuple Indochinois để hỏi thăm Léon Sanh. Tuấn muốn biết mặt người bạn thanh niên ấy và hỏi về các chi tiết tong vụ anh ta bị bắt, bị giam như thế nào. Nhưng Tuấn không gặp anh ta.

Không khí Hà Nội sau vụ ám sát Bazin, rất là nghẹt thở. Bộ mặt của thành phố ban ngày vẫn hoạt động như thường lệ, nhưng ban đêm có vẻ lặng lẽ bí mật.

Suốt cả năm 1929, dân Hà Nội đã có cảm giác rằng có một biến cố gì trầm trọng sắp sửa xảy ra.

Đồng thời, Chánh phủ thuộc địa Đông Dương (gồm 5 xứ: Bắc kỳ, Trung kỳ, Nam kỳ, Ai lao, Cao miên), bị các báo Pháp ngữ của các thanh niên cách mạng Saigon tấn công và đả kích hăng hơn lúc nào hết.

Hà Nội thì lặng lẽ. Báo chí An nam ở Hà Nội không sôi động như Saigon, nhưng có những hăm dọa ngấm ngầm và trầm trọng, nguy hiểm hơn đối với chính quyền thuộc địa.

Cái Tết năm Canh Ngọ (1930) vẫn tưng bừng vui vẻ trên khắp lãnh thổ Việt Nam như mọi năm. Phong trào cách mạng sôi nổi do vụ án cụ Phan Bội Châu, tại Hà Nội, các cuộc diễn thuyết của cụ Phan Chu Trinh ở Saigon, và sau đó, cái chết và đám tang của cụ, chỉ còn lại một dư luận yếu ớt trong lòng người dân nước Việt. Tuy vài ba tờ báo cách mạng ở Saigon vẫn tiếp tục tung ra những luận điệu hăng say, gây hấn đối với chánh quyền Pháp ở Đông Dương, nhưng thật ra chỉ có ảnh hưởng phần nào trong một vài giới trí thức trung lưu và vài giới học sinh Trung học mà thôi. Còn đại đa số đồng bào từ Bắc chí Nam, đều thờ ơ, hưởng thụ cảnh thanh bình mà bề ngoài vẫn có vẻ “quốc thái dân an“. Không khí chánh trị đã trở lại hầu như êm dịu.

Ngay ở Hà Nội, dân chúng “ăn Tết” năm Canh Ngọ với đủ những nghi lễ và tập tục cổ truyền hân hoan, ấm cúng, hỷ lạc trong những tràng pháo rộn rã khắp mấy ngày xuân.

Phần đông, có thể nói là gần hết, học sinh ở các tỉnh Bắc kỳ, cũng như ở Trung kỳ và Nam kỳ ra trọ học ở Hà Nội, đều theo thường lệ trở về ăn Tết ở quê nhà. Đáng lẽ Tuấn cũng đã về miền Trung, nhưng đặc biệt năm nay Tuấn và một ít bạn sinh viên đồng chí ở lại ăn Tết ở Hà-thành. Nhóm học sinh này không phải cố tình ở lại để hưởng cái hương vị mấy ngày xuân của đất Bắc, nhưng vì họ đã biết tin bí mật sắp có “đại sự” ở toàn lãnh thổ Bắc kỳ trong dịp Tết Canh Ngọ.

Cho nên lòng Tuấn nôn nao, cùng với các bạn chờ đón những tin ghê gớm trong mấy ngày tân niên ở Hà Nội. Đã có liên lạc với anh Hồ Văn Mịch, sinh viên Cao đẳng Thương Mại, bạn thân của anh Nguyễn Thái Học và cũng là đảng viên Việt Nam Quốc Dân Đảng, phụ trách về tuyên truyền và thanh niên học sinh, nhóm “Học sinh cách mạng” của Tuấn thưởng Xuân trong một không khí hồi hợp chờ đợi.

Tuấn năm ấy mới 18 tuổi và các đứa bạn “bí mật” của Tuấn cũng chưa ai quá 20. Lần đầu tiên tham gia vào vài ba việc mạo hiểm ghê sợ, tuy không quan trọng, nhóm học sinh này, nói đúng ra, chỉ có hăng say với lý tưởng cách mạng mà thôi, chứ chưa có một chút kinh nghiệm nào cả, và cũng chưa được huấn luyện đầy đủ trong vai trò đảng viên “hội kín“.

Phần nhiều những gì Tuấn biết với nhóm bạn ấy đều là những tin không chắc chắn, và sự kiện xẩy ra sau đó thường không đúng với sự chờ mong trong hồi hộp lo âu.

Chiều 30 tháng Chạp, có tin đúng ngày Mồng Một Tết sẽ có cuộc khởi nghĩa ngay ở thành phố Hà Nội, nhưng rốt cuộc không có gì cả. Có điều Tuấn và mấy người bạn ở trên căn gác nhà trọ đường Général Bichot, để ý thấy lần đầu tiên vài tốp lính Tây cưỡi ngựa đi tuần phòng các phố Cửa Đông, Bichot Henri d’Orléans, hàng Da, hàng Cót, v.v… Nhưng đêm Giao Thừa chỉ có tiếng pháo nổ khắp nơi …Tuấn lạnh người, tưởng như tiếng súng.

Sáng Mồng Một thành phố vắng cho đến 9 giờ mới thấy lác đác những nhóm người y phục ngày Tết, nét mặt tười cười, hoặc trịnh trọng đi “chúc mừng năm mới“ các nhà thân thuộc Tuấn không thấy lính Tây cưỡi ngựa đi tuần phòng các phố nữa.
Thế rôì 3 ngày Tết trôi qua …chỉ còn lại những xác pháo ngập vỉa hè.

Bỗng đùng một cái, như tiếng sét đánh, sáng ngày 11 tháng Giêng, tin truyền khắp Hà Nội rằng lúc khuya (đêm 9-2-1930) quân của Việt Nam Quốc Dân Đảng đã đánh Yên Bái, Phú Thọ, Lâm Thao, cũng khởi nghĩa đêm ấy. Người chỉ huy là anh Nguyễn Khắc Nhu. Lại có tin là anh Phó Đức Chính. Tuấn chạy đến người bạn học Cao đẳng Y Khoa, ở căn lầu 77C đường Maréchal Pétain, gần bờ sông. Anh này mĩm cười kéo Tuấn nằm xuống chiếc chiếu trên sàn gác. Đôi bạn trẻ đồng chí nói thì thầm cả buổi sáng.

Thành phố Hà Nội hình như vẫn rộn rịp theo nhịp sống hàng ngày, tổng quát không có gì thay đổi, nhưng lính Tây và lính tập đi tuần phòng đông hơn mọi khi. Từ ngày ấy, bộ mặt Hà nội đã khác thường, đâu đâu dân chúng cũng xầm xì bàn tán về vụ khởỉ nghĩa của Việt Nam Quốc Dân Đảng. Quân của VNQDĐ tiếp tục đánh nhiều nơi, cuộc Tổng Khởi Nghĩa đã nổ bùng ở từng khu.

Nguyễn khắc Nhu đánh Yên Báy, Lâm Thao, Nguyễn Thái Học đánh Bắc Ninh, Đập Cầu, Hải Dương. Vũ Văn Giản (tức Vũ Hồng Khanh) đánh Kiến An. Nhiều nơi khác như Hưng Hóa, Sơn Tây, cũng đã nổ súng.

Dân chúng lúc bấy giờ không dám gọi công khai là “khởi nghĩa” mà gọi là “nổi loạn”. Tuy cuộc dấy binh của Việt Nam Quốc Dân Đảng đã nổ bùng ra khắp Bắc Kỳ, các báo Hà Nôị vẫn đăng tin sơ sài của Phủ Toàn Quyền Pháp gọi là “đảng kín nổi loạn một vài nơi”. Dân chúng đọc báo bàn tán thì thầm, không dám có một phản ứng công khai nào cả.

Trong các gia đình, câu chuyện “Việt Nam Quốc Dân Đảng” nổi loạn, và các tin đồn phần nhiều là bất lợi cho cách mạng, đều được “bảo khẽ” lẫn nhau, và chỉ trong vòng thân mật mà thôi. Những biện pháp đề phòng của quân Pháp bắt đầu thật là ráo riết. Dân chúng bàng hoàng kinh hãi.

Sau đó, có nhiều tin truyền khẩu rằng cuộc khỏi nghĩa thất bại vì một đảng viên, là đội Dương, Phạm Thành Dương phản bội, đã tố cáo cho sở Mật thám Pháp biết trước tất cả chương trình khởi nghĩa của Việt Nam Quốc Dân Đảng.

Dân chúng lại nghe đồn rằng sở dĩ có cuộc thất bại là vì lệnh ở trung ương đảng bộ truyền ra không được tuân theo nhất trí về ngày giờ. Chỗ thì muốn đánh trước, chỗ thì đánh sau. Quyết định lần đầu tiên là khởi binh ngày Mồng Một Tết An Nam (30.2.1930) và do Vũ Văn Giản gọi là giáo Giản tức Vũ Hồng Khanh, phát động ở Kiến An nhưng bị Mật thám biết, nên đảng dời ngày 12 tháng Giêng (10-2-1930). Nhưng Nguyễn Khắc Nhu không chịu ngày ấy và đã tự động khởi nghĩa trước một ngày, tức là ngày 9.2.1930. Anh hạ lệnh giết hết các sĩ quan Pháp hồi 1 giờ đêm hôm ấy. Nhưng rồi anh bị đạn và chết vài giờ sau.

Hà Nội khởi cuộc tấn công sau Yên Bái và Lâm Thao, nhưng đã làm cho nhiều đảng viên thất vọng. Vì thực ra, cuộc khởỉ nghĩa ở Hà Nội không được chuẩn bị sẳn sàng. Thành phố vẫn hoạt động yên tỉnh như không có gì. Có thễ nói là cuộc cách mạng đã bị chết ngay trong trứng, tại thủ đô Bắc Kỳ. Trái lại, ở huyện Vĩnh Bảo nghĩa quân của VNQDĐ đã dánh lớn và gây được tiếng rộng cũng như ở Yên Bái, tuy rằng cuộc khởi nghĩa trễ hơn 5 hôm sau Yên Bái (14.2.1930).

Bấy giờ dân Hà Nội mới thật là xôn xao. Cái tên của Nguyễn Thái Học mới bắt đầu được nói đến ở khắp nơi, khắp các từng lớp đồng bào, với một lòng chiêm ngưỡng sâu xa, như một vị anh hùng của lịch sử. Nhưng 8 giờ sáng ngày 20.2.1930 có tin đồn Nguyễn Thái Học và ông Sư Trạch, một đồng chí, vừa bị bắt ở trên đường Cổ Vịt, gần đồn Chi Ngãi, tỉnh Hải dương.

Nghe tin ấy, Tuấn và nhóm sinh viên học sinh ”Hội Kín” nhao nhao lo sợ, và đau khổ vô cùng. Giả vờ nóng lạnh, Tuấn nằm trên lầu đường Général Bichot, trùm chăn kín mít, âm thầm khóc một mình. Tuấn thấy cả một sự đỗ vỡ kinh hoàng, với cảm giác gần như Lịch sử Việt Nam bị đứt đoạn nơi đây, không còn kế tiếp nữa.

Trưa, một đứa bạn đồng chí của Tuấn hớt hơ hớt hãi đến đến hỏi thầm Tuấn:

- Anh ốm hả?

- Ừ.

- Tụi mình nên đi ẩn núp một dạo ở nhà chị Hồng trên Bưởi.

- Anh đi trước đi. Chiều tôi mới đi được.

Trưa, Tuấn chỉ giả vờ nóng lạnh, không ngờ đến chiều sau khi người bạn đi rồi, Tuấn bị nóng lạnh thiệt. Cơn sốt rét hành hạ cậu học sinh 18 tuổi lên gần 40 độ, Tuấn nằm run cầm cập, mê man bất tỉnh. Một người bạn cùng ở gác trọ nghe Tuấn trong cơn mê hoảng nói lảm nhảm những câu “dể sợ”: “Anh Học bị bắt rồi…ai cũng bị bắt hết…Hết rồi…chắc Tây nó giết…” 8 giờ tối, có người bạn đến lôi cổ Tuấn ra ngồi xe cyclo đạp, lên đường Quan Thánh để đón tàu điện đi Bưởi. Nhưng Tuấn muốn đi một vòng trong thành phố để xem tình hình, mặc dầu còn nóng liên miên và chỉ xức dầu khuynh diệp.

Đường phố vắng teo, tuy không có giới nghiêm, không có lính canh gác. Hình như thiên hạ bảo thầm nhau ở nhà, ít ai dám ra đường. Duy có các phố Hàng Đào, Hàng Gai, Hàng Bông và quanh bờ hồ phía cầu Gỗ và đền Ngọc Sơn là có người, qua lại, dạo mát hoặc mua bán, nhưng khộng rộn rịp như thường lệ, trái lại có vẻ trầm lặng, bí mật, nặng nề, như có một hiểm họa gì bay lượn trong không khí.

Đồng bào trong thành phố đều có bộ mặt sợ sệt. Nhưng có điều thật lạ, là chỉ có “lính mã tà”, “lính kín” của sở mật thám là đi rảo khắp nơi đông đảo, và lẩn lộn tong đám quần chúng, chứ tuyệt nhiên không thấy có biện pháp quân sự nào cả. Nghe nói tòan thể binh sĩ bị cấm trại, thế thôi!

Khuya và khoảng 1 giờ, có một chiếc xe tank cũ kỹ, kiểu 1918, đi rầm rầm chầm chậm qua các đường phố Cửa Đông, Bichot, hàng Cót, nhà Hỏa, Boulevard Carnot, rồi trở về thành Cửa Bắc. Ngoài ra, khắp nơi đều yên tỉnh. Ở phố Huế, chợ Hôm cũng vắng người.
Tuấn đi thui thủi một mình khắp các phố phường Hà Nội, tuy trong người chàng hãy còn sốt. Chàng dòm ngó chung quanh, dưới ánh các trụ đèn điện chỉ có bóng cây, bóng lá rung rinh trong gió buốt. Trời đầu xuân, nhưng còn bao phủ mây đen, sương mù buông rủ trên thành phố một màn tang tẽ lạnh.

Rét thấu xương, nhưng may lạ, Tuấn không bị thương hàn.

Chàng chỉ nghe mạch máu chảy phừng phừng hai bên màng tang, tai kêu ù ù, môi khô, tay chân bủn rủn. Chàng vừa bước thong thả trở về gác trọ, vừa khóc âm thầm. Nước mắt chảt ròng ròng trên đôi má lạnh… Chàng nhớ lại hình dáng gầy còm của anh Hồ Văn Mịch bị bắt trong lúc mang bịnh ho lao, nằm nhà thương Phủ Doãn, đã chết trong một đêm rét mướt. Chàng nhớ đến cái tin sét đánh về anh Nguyễn Thái Học đã bị bắt ở Hải Dương và anh Viên bị bắt trên gác trọ Gia Lâm… Tuấn gần như tuyệt vọng.

Tuấn nghe được nhiều chuyện đồn đãi về đời sống của cặp tình nhân Nguyễn Thái Học và Nguyễn Thị Giang. Có một câu chuyện mà Tuấn nghe vài đồng chí trong “Hội Kín” kể lại, muốn biết chắc là đúng với sự thật hay không, thì chỉ có hỏi anh Nguyễn Thái Học, hoặc chị Giang, nhưng không làm sao gặp được hai người ấy. Dù sao, giai đoạn sau đây, cũng là truyền khẩu rất rộng rãi trong đám thanh niên sinh viên Hànội, vào khoảng 1930-1932.

Cô Nguyễn thị Giang - nữ sinh - mới 18 tuổi lúc bắt đầu quen biết Nguyễn Thái Học, sinh viên trường Cao Đẳng Thương Mại và đã là Đảng Trưởng Việt Nam Quốc Dân Đảng còn ở tong thời kỳ bí mật tổ chức và tuyên truyền. Giang yêu Học, mặc dầu chàng đã có vợ để ở quê nhà. Giang yêu Học, chính vì lý tưởng cách mạng, cho nên sau khi được chàng chấp thuận vào đảng. Giang quyết chí hy sinh đời nàng cho hai mối tình thiêng liêng: Tổ Quốc và Người Yêu.

Một hôm, hai người họp kín, chàng bảo nàng: ”Đảng chúng ta cần có sự tham gia của binh lính để sau này tính việc khởi nghĩa mới thành công. Nếu anh truyền lệnh cho em phải làm thế nào để quyến rũ được một viên Quản, hoặc một viên Đội Nhất, Đội Nhì, có nhiều uy tín nhất trong đám Lính Khố Xanh Yên Bái, để họ gia nhập vào đảng ta, và họ sẽ lôi kép toàn thể hoặc đại đội số binh sĩ gia nhập vào Đảng, thì em sẽ thi hành được nhiệm vụ ấy không? Nguyễn thị Giang không do dự, trả lời: “Anh là Đảng trưởng. Anh ra lệnh là em xin tuân theo ngay”. Nguyễn Thái Học nghiêm nghị nét mặt bảo: “Thế thì anh lấy tư cách đảng trưởng, giao phó cho em công tác sau đây, bất cứ bằng cách nào, dù phải hy sinh cả tính mệnh, cả thể xác, để quyến rũ được đồn lính Khố Xanh Yên Bái, gia nhập vào đảng ta. Anh kỳ hẹn cho em là một thời gian 3 tháng để thành công nhiệm vụ quan trọng ấy. Suốt thời gian công tác, em không được liên lạc với anh, bất cứ ở nơi nào”.

Cô nữ sinh Nguyễn thị Giang mỉm cười, nhưng cương quyết: “Em xin tuân lịnh”.

Bấy giờ là mùa đông. Ở Yên Bái cũng như ở Hà Nội và các tỉnh ở miền Bắc, mùa Đông trời rét lắm và ban đêm thường có các chị hàng rong bán mía lùi, một loại mía được chặt ra từng khúc dài độ hai gang tay, và lùi trong than lửa. Hoặc cũng có kẻ bán mía luộc. Hai món quà mía ấy ăn vừa ngọt vừa ấm miệng, cho nên người lớn trẻ con, đều thích. Mỗi khúc mía luộc hay mía lùi chỉ bán 1 xu.

Cô nữ sinh Nguyễn thị Giang bắt đầu bỏ học để làm nghề bán rong ban đêm với một gánh hàng đặc biệt. Một bên là một thùng thiết đựng đầy mía luộc đặt trên một chiếc lò thay cháy ầm ĩ vừa đủ giữ nhiệt độ cho nước nấu mía đừng sôi quá. Một bên là một nồi than đỏ hực để cô hàng lùi những khúc mía tươi. Mỗi khi có người mua, cô lùi khúc mía vào than hồng, trở qua trở lại khúc mía độ năm lần là “mía chín”. Cô trao mía cho khách hàng, và lấy 1 xu bỏ vào môt hộp “bích quy” cũ, két tiền của cô.

Cô Giang chuyên môn ngồi bán hàng, nơi một gốc cây cao, cách cổng đồn lính Khố Xanh vài ba chục thước. Cứ 7 giờ tối là đã có cô ngồi đấy, với “gánh mía” đặc biệt của cô. Hình như cô có bỏ một nắm hoa bưởi trong thùng nước mía, cho nên mía luộc của cô vừa ngọt vừa nóng, lại vừa thơm.

Toàn thể sĩ quan, hạ sĩ quan và binh sĩ đồn lính Khố Xanh Yên Bái đều ăn mía và mía luộc của cô Giang.

Nhiều người đã nghiện, trong số đó có một thầy Đội Nhất đã hoàn toàn say mê hương vị của cô Giang và chắc chắn đã say mê cả cô Giang, vì nhan sắc của cô hàng mía, hơn cả các thiếu nữ ở tỉnh này không ai so sánh kịp.

Dần dà những lóng mía thơm, những lóng mía ngọt, cho đến hết thảy mọi người với một nụ cười duyên dáng, với một ánh mắt ấm áp vương vấn sầu mơ. Cô bắt đầu tuyên truyền khéo léo, kín đáo những tư tưởng cách mạng cho mọi người. Đặc biệt là thầy Đội Nhất được cô huấn luyện ráo riết hơn cả, và không quá một tháng, thầy Đội đã trở thành một đồng chí hăng say nhất của cô, trong số các binh sĩ Khố Xanh.

Dần dần cô hàng mía đã lôi kéo được toàn thể đồn lính vào Việt Nam Quốc Dân Đảng.

Ba tháng sau, đúng kỳ hạn đã chỉ định của Đảng trưởng Nguyễn Thái Học, và là người yêu của cô, nữ sinh Nguyễn thị Giang giới thiệu với thành viên Đội Nhất: “Thưa Anh, đây là một đồng chí mới của chúng ta đại diện một số lớn đồng chí gồm 350 người của đồn lính Khố Xanh Yên Bái”.

(Xem tiếp chương 41).




Nếu độc giả, đồng hương, thân hữu muốn: 

* Liên-lạc với Ban Điều Hành hay webmaster 
* Gởi các sáng tác, tài liệu, hình-ảnh... để đăng 
* Cần bản copy tài liệu, hình, bài...trên trang web:

Xin gởi email về: quangngai@nuiansongtra.net 
hay: nuiansongtra1941@gmail.com

*  *  *

Copyright by authors & Website Nui An Song Tra - 2006


Created by Hiep Nguyen
log in | ghi danh