Diễn đàn của người dân Quảng Ngãi
giới thiệu | liên lạc | lưu niệm

 April 15, 2025
Trang đầu Hình ảnh, sinh hoạt QN:Đất nước/con người Liên trường Quảng Ngãi Biên khảo Hải Quân HQ.VNCH HQ.Thế giới Kiến thức, tài liệu Y học & đời sống Phiếm luận Văn học Tạp văn, tùy bút Cổ văn thơ văn Kim văn thơ văn Giải trí Nhạc Trang Anh ngữ Trang thanh niên Linh tinh Tác giả Nhắn tin, tìm người

  Y học & đời sống
PHÂN LOẠI BỆNH PHONG TÌNH
VŨ ĐỨC Âu Vĩnh Hiền
Các bài liên quan:
    NHẬN DIỆN BỆNH PHONG TÌNH.

CÁC LOẠI BỆNH PHONG TÌNH STD's.
VŨ ĐỨC Âu Vĩnh Hiền

Một cách tổng quát, bệnh chứng phong tình truyền nhiễm STD's đã được nhận diện, có hơn hai mươi lăm (25) loại khác nhau thường xuất hiện, đe dọa sức khỏe con người. Từ những bệnh thông thường, kém nguy hiểm đến những bệnh đặc biệt nguy hiểm nhất sau đây:

Những Bệnh Thông Thường. Thí dụ như:

Lát Ướt hoặc Khô (Trichomoniasis);
Chứng Bạch Huyết nơi phụ nữ (Candida Albicans, hoặc Yeast Infection);
Chứng Hạ Cam Mềm (Chancroid);
Chứng Hột Xoài, hoặc Hạch Sưng Tròn nơi Háng (Granuloma Inguinale);
Ghẻ Lở (Scabies);
Chí hoặc Rận nơi Hạ Bộ,...

Những Bệnh Nguy Hiểm Nhất. Thí dụ như:

Bệnh Lậu Mủ (Gonorrhea);
Bệnh Chlamydia;
Mụn Rộp (Herpes);
Mụt Cóc, hay Mồng Gà, hoặc Hoa Khế (Genital Wart);
Giang Mai (Syphilis);
Bệnh Viêm Gan (Hepatitis A, B, C, ); và
Bệnh Suy Kháng Thể Vĩnh Viễn (AIDS-HIV).

Lần lượt, chúng ta tìm hiểu một số bệnh trạng STD's nguy hiểm nhất như sau:

1- BỆNH LẬU MỦ (GONORRHEA):

Theo báo cáo y khoa Hoa Kỳ, hàng năm, có khoảng một triệu người Mỹ bị nhiễm bệnh Lậu Mủ (Gonorrhea). Chứng bệnh này được gây nên bởi vi trùng “Neisseria Gonorrhoeae”. Chúng sinh trưởng trong các môi trường có chứa màng nhầy và chất nhờn (Mucous Membrances), kể cả những màng mỏng có chất mủ, thuộc các vùng: miệng, cuống họng, cổ, đường tiểu, đường hậu môn, và âm đạo phụ nữ. Ngoài ra, chúng dễ bị chết trong chốc lát, nơi có chứa ánh sáng, và không khí. Do đó, bệnh này không thể truyền nhiễm, qua sự giao tiếp bởi các vật dụng hàng ngày như: khăn lau, ghế ngồi nơi công cộng,...

Đối với phái nam, thông thường, sau khi bị nhiễm bệnh, khoảng hai tới năm ngày, những triệu chứng đầu tiên thường xuất hiện các dấu hiệu nơi đường tiểu như: bị sưng (viêm), bị đau rát mỗi mỗi khi đi tiểu, đường tiểu tiết ra chất nước màu trắng vàng, có mủ đặc (như chất sữa). Sau khoảng hai tuần, mặc dù không được điều trị, những triệu chứng này tự động biến mất. Bệnh đi vào thời kỳ tiềm phục, vi trùng ngấm ngầm phát tác bên trong cơ thể. Nếu không được điều trị, với thời gian lâu dài, bệnh trở nên rất nguy hiểm đến tính mạng. Có khoảng từ 10% đến 30% bệnh nhân nam phái, đôi khi, các triệu chứng nói trên không có xuất hiện, hoặc có rất ít và nhẹ.

Đối với phái nữ, có khoảng 80% nữ bệnh nhân, các triệu chứng bệnh Lâu Mủ (Gonorrhea) thường không sớm xuất hiện như nam giới, với thời gian lâu dài về sau, các dấu hiệu của bệnh, dần dần, được tìm thấy như: Âm đạo tiết ra chất nước trắng vàng có mủ (như chất sữa, đôi khi, bị lầm lẫn với chất nước vàng bình thường tiết ra, do tác dụng sự rụng trứng nơi phụ nữ), đường tiểu bị ngứa rát khó chịu, vùng bụng dưới bị đau.

Bệnh Lậu Mủ (Gonorrhea) có thể được trị lành nhanh chóng, với các loại thuốc kháng sinh (Anti-biotics) như: Penicillin, Tetracycline,... Nếu không được điều trị sớm, bệnh trở nên kinh niên, vi trùng phát tác bên trong cơ thể, và gây nên nhiều hậu quả nguy hiểm như bệnh Viêm Vùng Khung Chậu (Pelvic Inflammatory Disease, PID) nơi phụ nữ.

2- BỆNH CHLAMYDIA:

Bệnh Chlamydia và Lậu Mủ (Gonorrhea) thường có những triệu chứng tương tự như nhau. Vì thế, người ta thường bị lầm lẫn giữa hai chứng bệnh này.

Với nam bệnh nhân, triệu chứng của sự nhiễm bệnh nơi đường tiểu là sự đau đớn, mỗi khi đi tiểu, và đường tiểu thường tiết ra chất nước vàng đục. Sau đó, chứng viêm hòn dái (Testicles) (Epididymitis) có thể xảy ra.

Với nữ bệnh nhân, khi bị nhiễm bệnh, không thấy có triệu chứng xuất hiện sớm như nam bệnh nhân. Đây là yếu tố giúp cho bệnh Chlamydia trở nên trầm trọng cho phái nữ. Sau khi bị nhiễm bệnh, nếu không khám phá sớm, từ hai tháng trở lên, bệnh có thể gây thêm nhiều tổn thương như: Sưng (Viêm) cổ tử cung và vòi trứng (Fallopian Tubes) một điều kiện được biết của chứng bệnh viêm vùng khung chậu (Pelvic Inflammatory Disease, PID), sẽ gây nên tính chất cằn cỗi nơi người phụ nữ. Ngoài ra, các nữ bệnh nhân đang mang thai, vi trùng Chlamydia sẽ gây cho bé sơ sinh lúc chào đời, bị viêm mắt, viêm tai, và viêm phổi. Bệnh Chlamydia được điều trị với loại thuốc kháng sinh như: Tetracyline, Doxycycline, và Erythromycin.

3- BỆNH GIANG MAI (SYPHILIS):

Bệnh Giang Mai (Syphilis) được gây nên bởi vi trùng Spirochete, có dạng hình xoắn ốc. Môi trường ấm áp, và ẩm ướt bên trong cơ thể là nơi sinh trưởng của chúng. Cho nên, khi ra ngoài cơ thể, vi trùng này bị chết nhanh chóng. Bệnh được truyền nhiễm qua việc giao hợp tình dục với người nhiễm bệnh. Các thai nhi cũng bị truyền nhiễm, bởi những nữ bệnh nhân trong thời kỳ mang thai. Bệnh Giang Mai (Syphilis) tiến triển trong cơ thể, qua ba thời kỳ như sau:

3.1- Thời Kỳ Thứ Nhất:

Sau khi giao hợp bị nhiễm bệnh, trong vòng khoảng từ 10 đến 90 ngày, thường khoảng 3 tuần, bệnh nhân phát hiện những mục hạ cam (Chancres), thường không đau, có dạng hình bằng đồng xu (Dime), nổi lên những nơi trên cơ thể, thông thường, ở vùng bộ phận sinh dục, cũng có thể nơi miệng, lưỡi, môi, nách, ngực, hay các ngón tay. Sau đó, ít tuần, triệu chứng này tự động biến mất.

3.2- Thời Kỳ Thứ Hai:

Khoảng sáu tuần, sau khi những mục hạ cam (Chancres) xuất hiện, cơ thể trở nên nóng sốt (Fever), khó chịu, buồn phiền, đau cổ họng, nhức đầu, biếng ăn, giọng nói trở nên khàn khàn, và rụng tóc. Sau đó, chứng ban ngứa (Rash) xuất hiện trên cơ thể, nhất là nơi lòng bàn tay, và lòng bàn chân; ngoài ra, nơi môi, gò má, lưỡi, cổ họng, và thanh quản cũng có thể bị ban ngứa tấn công. Chứng ban ngứa (Rash) này gây nên những mụn, hoặc màng có mủ. Sau đó, những vết thương có mủ bị bể, tiết ra chất nước mủ, có vi trùng lan rộng trong cơ thể. những vết thương trên da mặt thường tự động lành lại, trong khoảng 2 đến 10 tuần lễ. Nếu không được điều trị, bệnh sẽ phát tác, tiến đến thời kỳ thứ ba.

3.3- Thời Kỳ Thứ Ba:

Trong thời kỳ này, vi trùng ngấm ngầm phát tác, để tàn phá các cơ quan nội tạng, và hệ thống trung khu thần kinh. Sự biểu hiện chính yếu của sự thương tổn đến trung khu thần kinh là điều kiện tê liệt của các chứng bệnh liệt nhẹ (Paresis), bệnh tê liệt (Paralysis) một phần, hay toàn phần cơ thể, và dần dần làm thoái hóa tâm thần, một cách vĩnh viễn, dẫn đến chết người.

Những triệu chứng ở thời kỳ thứ ba bao gồm sự rung rẩy nơi mặt, lời nói lấp vấp, thị giác suy yếu, nhức đầu, chứng động kinh, tay chân bị co giật phản ứng quá đáng, trí nhớ suy kém, ảo giác, tinh thần chán nản, mất trí nhớ.

Đối với nữ bệnh nhân đang mang thai, vi trùng tiến vào thai nhi, vào tuần lễ thứ mười, trong thời kỳ mang thai. Hậu quả có thể khiến thai nhi bị chết khi chào đời, hay thân thể bị biến dạng bẩm sinh (quái thai). Trẻ sơ sinh bị bệnh có thể bị què quặt tay chân, mù mắt, điếc tai, môi bị chẻ đôi (sức môi), mặt mũi có dạng không được bình thường.

Bệnh Giang Mai (Syphilis) được điều trị với các thuốc kháng sinh như: Penicillin, Tetracycline và Erythromycin. Các thuốc này có thể gây phản ứng phụ (side effect) cho bệnh nhân. Khi bệnh được trị lành, sau đó bốn tuần lễ, bệnh nhân phải được tái khám nghiệm và tiếp theo, mỗi ba tháng một lần tái khám nghiệm, để bảo toàn việc chống lại sự tái phát của vi trùng.

4- BỆNH MỤN RỘP (HERPES):

Tại Hoa Kỳ, hàng năm, có hơn năm trăm ngàn (500,000) trường hợp bị nhiễm bệnh Mụn Rộp Loại 2 (Herpes-Type 2), và tổng số trên hai chục triệu người Mỹ bị nhiễm bệnh Mụn Rộp (Herpes). Vi trùng Mụn Rộp (Herpes) đã tác động ảnh hưởng trầm trọng đến phần lớn số trẻ sơ sinh.

Các nhà nghiên cứu chưa tìm ra loại thuốc chủng ngừa, và điều trị hữu hiệu, vì bệnh Mụn Rộp (Herpes) không thể trị dứt hẳn. Sau lần nhiễm bệnh đầu tiên được trị lành, cơn bệnh thường bị tái phát, vì nhiều yếu tố khác nhau. Mỗi lần bộc phát, bệnh càng trở nên khó khăn hơn, trong việc ngăn ngừa truyền nhiễm cho những người khác.

Bệnh Mụn Rộp (Herpes) được gây bởi một trong sáu loại vi trùng Mụn Rộp (Herpes) sau đây:

4.1- Các Loại Vi Trùng Herpes:

- Vi Trùng Herpes Simplex-Type 1: Vi trùng này gây nên những cơn sốt lạnh, Mụn Rộp phồng da ở các vùng như: môi, miệng, trên mặt, đôi khi ở bộ phận sinh dục. Đây là hậu quả của sự giao tiếp giữa miệng và vùng bộ phận sinh dục.

- Vi Trùng Herpes Simplex-Type 2: Vi trùng này tường xuất hiện ở vùng bộ phận sinh dục, đôi khi còn truyền nhiễm nơi môi, miệng, và mắt.

- Vi Trùng Varicella-Zoster: Vi trùng này thường gây nên bệnh đậu mùa (Chicken Pox) cho các trẻ em, và bệnh ghẻ lở ở thân mình, hoặc bệnh Zôna (Shingles) nơi người lớn.

- Siêu Vi Trùng Epstein-Barr Virus (E.B.V.): Loại siêu vi trùng này ẩn tàng trong cơ thể, dễ gây nên chứng bệnh tăng trưởng số lượng Bạch Huyết Cầu Đon Nhân (Mono-Nucleosis), và trước đây, nó còn có liên quan đến chứng bệnh Burkitt's Lymphoma, và chứng ung thư vùng mũi-yết hầu (Nasopharyngeal Cancer).

- Siêu Vi Trùng Cytomegalo Virus (C.M.V.): Nó gây nên sự nhiễm bệnh trầm trọng nơi phổi, não bộ, ruột già, và mắt, trong cơ thể của người bị suy kháng thể (kể cả người bệnh AIDS-HIV), và tạo sự khuyết tật nơi các bé sơ sinh.

- Siêu Vi Trùng Herpes Virus- 6 (H.H.V6): Siêu vi trùng này là một loại mới được các nhà y khoa nhận diện, trong những năm gần đây.

4.2- Triệu Chứng Bệnh Herpes:

Những dấu hiệu phồng da có chứa nước là những vết thương của Mụn Rộp Herpes, thường được thấy nơi vùng nhiễm bệnh trên cơ thể. Nếu vết thương nhỏ và nhẹ, sau đó, nó có thể tự động lành và biến mất; đôi khi, không cần dùng thuốc. Tuy nhiên, vi trùng Herpes vẫn còn ẩn tàng phía dưới lớp da nơi bị thương, chờ cơ hội tái phát. Nếu bệnh nặng hơn, các vết thương thường trở nên đau rát. Đồng thời, với những tuyến hạch nơi háng, hoặc nách bị sưng lên. Thông thường, các vết thương Mụn Rộp (Herpes) xuất hiện thuộc các vùng: môi, miệng, trên mặt, và nơi bộ phận sinh dục, hoặc bàn tọa.

4.3- Điều Trị Bệnh Herpes:

Bệnh Mụn Rộp (Herpes) không thể trị dứt hẳn, nó có tính chất tái phát nhiều lần, vì nhiều yếu tố khác nhau. Nhất là khi sức khỏe cơ thể bị suy yếu, mức độ sức kháng thể bị xuống thấp. Trong cách điều trị, vi trùng Herpes có thể được kiểm soát, để cơn bệnh trở nên giảm thiểu. Với thuốc Acyclovir, vết thương có thể được trị lành sớm, và kềm chế được sự tấn công của vi trùng trong một thời gian dài. Ngoài ra, vết thương bị dơ bẩn và ẩm ướt là điều kiện giúp cho vi trùng Mụn Rộp (Herpes) tăng trưởng, khiến cho vết thương trầm trọng, và lan rộng ra thêm. Do đó, bệnh nhân nên thường xuyên giữ cho vết thương được sạch sẽ và khô ráo, sau khi được rửa sạch bằng xà phòng.

4.4- Phòng Ngừa Bệnh Herpes:

Để ngăn ngừa sự lây nhiễm bệnh Mụn Rộp (Herpes), người ta nên học biết để nhận diện những vết thương do các triệu chứng bệnh Herpes gây nên, và tránh giao hợp tình dục trong lúc có các triệu chứng Herpes xuất hiện. Trong lúc ân ái, người ta nên dùng bao cao su (Condoms), vì vi trùng Herpes có thể hiện diện, mặc dù không có dấu hiệu triệu chứng trên cơ thể. Người ta nên rửa tay thật sạch bằng xà phòng, sau khi đụng chạm vào vết thương Herpes. Trong đời sống hàng ngày, người ta nên biết dưỡng sức, để tránh sự cố gắng căng thẳng quá sức dễ gây nên Stress. Vì Stress có thể gây nên sự bộc phát bệnh Herpes nơi những vết thương cũ của bệnh Herpes.

5- BỆNH MỤT CÓC hay MỒNG GÀ, HOA KHẾ (GENITAL WARTS):

Bệnh Mụt Cóc (Genital Warts) còn có tên là “Venereal Warts” hoặc “Condyloma”, được gây nên bởi loại siêu vi trùng “Human Papilloma Virus” (HPV). Bệnh này sinh ra những mụt cóc (Warts) lớn nhỏ, có tính chất khô, cứng, và nhám, màu xám hoặc hồng. Chúng có hình dạng khác nhau như; bằng phẳng hoặc nhô lên, thường xuất hiện ở vùng bộ phận sinh dục. Những mụt cóc này, hầu hết, là những mụt rất nhỏ, ở bên trong đường nước tiểu, và bên ngoài dương vật của phái nam.

Đối với phái nữ, chúng thường xuất hiện bên trong âm đạo, hoặc bên ngoài âm hộ. Nếu không được sớm điều trị, những mụt cóc này sẽ phát triển lơn hơn, và tập trung thành chùm có nhiều mụt giống như cái mồng trên đầu của con gà, hay giống như chùm hoa khế, hoặc như bông cải. Trong khi phát triển, chúng gây nên sự ngứa ngáy và chảy máu, thường gây nên sự đau đớn, mỗi khi đi tiểu, và đường tiểu thường tiết ra chất nước vàng. Ngoài ra, những mụt cóc (Genital Warts) còn tìm thấy nơi vùng hậu môn, hoặc bên trong ruột già.

Trước khi triệu chứng được nhận diện, vi trùng này có thể ẩn tàng nhiễm bệnh kéo dài từ bốn (4) đến sáu (6) tuần lễ, hoặc từ hai (2) đến ba (3) tháng. Vì vậy, người bạn tình có thể bị nhiễm bệnh mà không hay biết. Bệnh này có tính hay lây. Càng ngày càng gia tăng trong giới trẻ tuổi từ 16 đến 25. Nếu không được điều trị sớm, lâu ngày, bệnh này sẽ gây nên tình trạng ung thư. Nhất là bệnh ung thư cổ tử cung nơi phụ nữ. Vi trùng này sống trong vòng vết thương nơi bị nhiễm bệnh, chúng không có tính di chuyển trong khắp cơ thể.

Những Mụt Cóc (Genital Warts) càng sớm càng dễ điều trị hơn. Việc điều trị nhằm xóa bỏ những mụt cóc đang phát triển, bằng cách ứng dụng thuốc hóa học Podophyllin để thoa trực tiếp lên vùng vết thương. Nếu cần thiết, thuốc có thể làm cháy mô tầng chung quanh vết thương, và lập lại phương thuốc như thế, trong nhiều lần đến khi mụt cóc bị triệt tiêu. Ngoài ra, còn có những phương cách điều trị khác như: triệt tiêu mụt cóc bằng cách đốt điện (Electro-Cautery), hay bằng chất khí đông lạnh (Cryosurgery), cắt mổ, hoặc đốt bằng tia hồng ngoại tuyến (CO2 Laser Therapy), và một loại thuốc mới 1989 là Alpha Interferon./.

VŨ ĐỨC Âu Vĩnh Hiền.

Nếu độc giả, đồng hương, thân hữu muốn: 

* Liên-lạc với Ban Điều Hành hay webmaster 
* Gởi các sáng tác, tài liệu, hình-ảnh... để đăng 
* Cần bản copy tài liệu, hình, bài...trên trang web:

Xin gởi email về: quangngai@nuiansongtra.net 
hay: nuiansongtra1941@gmail.com

*  *  *

Copyright by authors & Website Nui An Song Tra - 2006


Created by Hiep Nguyen
log in | ghi danh