CON THUYỀN KHÔNG BẾN
Sáng tác: Đặng Thế Phong,
Độc tấu Dương cầm.
Sau Lão Tử khoảng hai trăm năm, có một triết gia chiêm bao thấy mình hóa bướm nhởn nhơ bay lượn tới độ khi tỉnh giấc, không biết giờ đây mình đang là bướm hay bướm chính là mình. Kẻ ấy là triết gia và văn hào Trang Tử, người để lại cho đời tuyệt phẩm Nam Hoa Kinh.
Trang Tử họ Trang tên Chu, tự là Tử Hư. Ông sinh khoảng năm 369 và từ trần năm 286 trước công nguyên, quê tại đất Mông (nay là huyện Thương Khâu, tỉnh Hà Nam, có thuyết nói là huyện Tào, tỉnh Sơn Đông nước Tống). Thuộc gia đình quí tộc sa sút, ông từng làm quan, sau đó từ chức về quê ở ẩn. Có lần ông được mời ra làm tướng quốc nhưng ông từ chối vì không muốn mất thú sống tiêu dao với cỏ cây.

Chân dung Trang Tử.
Sử ký của Tư Mã Thiên viết về ông:
-“Sở học của ông không sách gì không xem, nhưng cái gốc chủ yếu quy về lời Lão Tử, cho nên ông viết sách hơn mười vạn chữ [Nam Hoa Kinh], đại để dùng dụ ngôn... Lời ông mênh mông phóng túng để thỏa thích ý mình, cho nên vương công đại nhân không ai dùng được ông”.
Nam Hoa Kinh của Trang Tử gồm 33 thiên, chia làm ba phần. Nội thiên có 7 thiên; Ngoại thiên có 15 thiên; và Tạp thiên có 11 thiên. Xét theo tư tưởng cùng văn phong, các học giả cho rằng chỉ phần Nội thiên là do Trang Chu trước tác, hai phần còn lại do người đời sau viết và mượn tên ông. Đây là một tập quán tá danh thường thấy trong văn học Trung Hoa, để gây chú ý và gia tăng trọng lượng các phát biểu của một tác giả nào đó.
Kế thừa tư tưởng của Lão Tử, Trang Chu đi vào chi tiết hơn và phát huy chúng lên mức cực điểm. Ông cho rằng Đạo là vô vi, vô hình, tồn tại từ lúc chưa có trời đất. Và trời đất muôn vật được cấu tạo bởi Khí - “suốt thiên hạ là một Khí vậy”. Ông là người đầu tiên quả quyết rằng mọi sinh vật sống trên mặt đất có nguồn gốc từ dưới biển.
Vũ trụ của Trang Chu biến hóa vô cùng tận. Vạn vật sinh tử như nhau không khác nhịp tuần hoàn của thiên nhiên nên chúng cũng khác nhau về giá trị của phẩm tính và lượng tính. Vì tính chất biến hóa và tương đối đó, Trang Chu ôm lòng hoài nghi cực độ, đi đến tính tuyệt đối trong chủ trương của mình: tuyệt đối tự do bình đẳng, tuyệt đối tôn trọng cá nhân và tuyệt đối vô vi. Trong trạng thái tuyệt đối đó, con người không kỳ vọng, không chờ đợi, chỉ sống tiêu dao theo tháng ngày.
Lão Tử tuy vô vi nhưng còn nghĩ tới chuyện nước non, còn Trang Tử vô vi tới mức phủ định quốc gia. Ông ghét những vị được gọi là minh quân, các thể chế và các phẩm trật chính trị. Ông là người cực kỳ vô chính phủ. Khi vua Sở mời ra làm quan, ông chỉ nói:
-“Ta thích làm con rùa sống mà lết cái đuôi trong bùn, còn hơn làm con rùa thần đã chết cất nơi miếu đường, trong một cái giỏ có phủ lụa”.
Tác động của Lão Trang
Khái niệm về muôn vật biến hóa của Trang Tử đóng vai trò chủ yếu trong triết học Lão Trang. Nó thâm nhập các luồng triết học khác như Phật giáo để hợp thành Thiền tông, đi bên cạnh Khổng giáo để tạo một không gian thanh thoát trong xã hội kỷ cương chặt chẽ. Quan niệm Khí của Trang Chu cũng đi vào y học, võ thuật, dưỡng sinh, phong thủy...
Triết lý duy tự nhiên của Lão Tử với năm điểm chính phản phục, hư tĩnh, vô vi, khiêm nhu, bất tranh được hậu thế lưu giữ như một giấc mơ an lạc đã mất trong nền văn minh cơ khí, phát triển kinh tế và nhịp sống xô bồ của nhân loại sau ông hơn hai ngàn năm. Cái Hỗn mang trong Đạo Đức Kinh có cái gì đó từa tựa Chaos của Hesiod trong Theogony (Thần linh phả hệ) của Hy Lạp.
Đọc Lão Tử, người ta hiểu rõ hơn vũ trụ quan trong các Upanishad của kinh Veda, mà có người như Will Durant và Ngô Tất Tố nói là ông đã lấy cảm hứng từ đó. Lối sống trở về thiên nhiên theo Đạo Đức Kinh và Nam Hoa Kinh cũng khiến ta nhớ tới chủ trương của Jean Jacques Rousseau của Pháp và Henry David Thoreau của Mỹ. Tiểu quốc của Lão Tử đầy vẻ ảo tưởng không kém Utopia của Plato, nhưng giấc mộng an lạc và thuần phác của nó vẫn ám ảnh người công dân hiện đại, nhất là những lúc quốc gia chẳng may không có được giới lãnh đạo xứng đáng. Và mỗi khi mỏi mệt vì cuộc sống thường nhật, hoặc tới một tuổi nào đó trong đời người, ta lại nhìn thấy hình ảnh ông thầy già cưỡi trâu chầm chậm đi trong hoa cỏ và gió nhẹ của đất trời, hoặc ta muốn chập chờn vào giấc mộng hóa bướm của vị trung niên ẩn sĩ.
Lão Trang và Đạo giáo
Tuy nhiên, những quảng diễn từ Đạo Đức Kinh và Nam Hoa Kinh, kết hợp với Kinh Dịch đã bắt gặp niềm tin vào thần tiên của dân gian để trở thành một tôn giáo, bị người đời gọi nôm na là Lão giáo hay Đạo giáo.
Trước hết là đạo Hoàng Lão. Ngay giữa thời Chiến Quốc (478-221), trung tâm Tắc Hạ của nước Tề, nơi gặp gỡ của cả ngàn chư tử thuộc nhiều học phái Đạo, Nho, Pháp, Danh, Binh, Âm Dương, v.v… để chuẩn bị điển chương cho việc trị thiên hạ, học thuyết Hoàng Lão của Đạo gia nổi bật nhất. Kinh điển của học phái này là Đạo Đức Kinh của Lão Tử và những sách được truyền tụng là của Hoàng Đế, một vị vua trong huyền sử, trước cả Nghiêu Thuấn.
Đời Hán Vũ Đế Nho học độc tôn nên Hoàng Lão từ phép trị quốc trở thành pháp môn tu tâm dưỡng tính. Kế đó, kết hợp tính thần bí tiềm ẩn trong ngôn từ của mình với phương thuật thần tiên, Hoàng Lão trở thành tiền thân của Đạo giáo thời kỳ đầu. Tới khoảng nửa sau thế kỷ thứ ba sau công nguyên, thời Đông Hán, đạo Hoàng Lão trở thành cơ sở cho đạo Thái Bình của Trương Giốc và đạo Ngũ đẩu mễ (năm đấu gạo) của Trương Lăng sau này. Lão giáo được định chế hóa với các đạo sĩ, chân nhân, tịnh thất và các địa điểm thờ phượng, nghi lễ phụng vụ cùng một hệ thống thần linh từ Ngọc hoàng Thượng đế tới Tây Vương Mẫu và vô số thần tiên cùng ma quỉ khác.
Dần dà, người ta xem Lão giáo là một tôn giáo bản địa của Trung Hoa với người khai triển là Trương Lăng kể trên, lúc này được gọi là Trương Đạo Lăng hay Trương Thiên sứ. Đạo thần tiên này cũng có những nghi thức luyện đan, cúng bái, trừ tà, bùa chú và đặc biệt thuật tu tiên để tự giải thoát mình hay tìm chốn bồng lai tiên cảnh ngay chính giữa hoặc lơ lửng bên trên trần thế. Cuộc tương tranh giữa hai phái thần tiên Xiễn giáo và Triệt giáo là nền của Phong thần diễn nghĩa, một bộ truyện cho đến nay vẫn chưa gặp người giải mã.
Nói chung, Lão giáo chứa đựng nhiều huyền học, được thể hiện bằng huyền thuật và phép phù thủy, hơn bất cứ tôn giáo nào khác khiến nó có một năng lượng cá biệt hấp dẫn và kích thích người bình dân. Lúc bình thường, kẻ hoang mang hoặc mê tín có thể đến các đạo sĩ xin các phương thuốc chữa trị các bệnh tác động lên nguồn khí lực của họ. Gặp buổi bất thường, Lão giáo từng là niềm hứng khởi và tự tin cho một số hội kín hoặc phong trào nông dân nổi dậy thời phong kiến Trung Hoa như giặc Hoàng Cân (khăn vàng), loạn Quyền phỉ, Bạch liên hội, Thiên địa hội, v.v. Ngày nay, có lẽ nó đang là luồng cảm hứng cho những phép thực hành dưỡng sinh luyện khí của Pháp Luân Công.
Lão Trang hóa thần hiển thánh
Đã gọi là tôn giáo thì phải có thần thánh, nhất là để đối trọng với các tôn giáo khác và có chỗ cho tín đồ ngưỡng vọng. Vì thế, Lão Tử và Trang Tử hóa thần hiển thánh.
Lão Tử bắt đầu được thần thánh hóa từ thời Đông Hán, đánh đồng với “Đạo” và trở thành một vị thần có trước cả trời đất. Đạo giáo phong Lão Tử làm Thái thượng Lão quân và tôn làm giáo chủ, xem Đạo Đức Kinh là kinh điển chủ yếu. Nhà Đường của Lý Thế Dân tuyên bố rằng Lão Tử là tổ phụ của mình, phong ông làm Thái thượng Huyền nguyên Hoàng đế, sau đó lại mấy lần gia phong là Đại thánh tổ Cao thượng Đại đạo Kim khuyết Huyền nguyên Thiên hoàng Đại đế. Sang triều đại Tống, vua Chân Tông lại phong tiếp Lão Tử là Thái thượng Lão quân Hỗn nguyên Thượng đức Hoàng đế.
Địa vị của Trang Tử tuy không cao sang bằng nhưng cũng cực kỳ tôn quí. Sách Chân cáo, thời Nam triều, thế kỷ thứ bảy, do Đào Hoàng Cảnh chép lại theo lời thần tiên công bố rằng Trang Tử sau khi uống đan dược, ban ngày lên trời được bổ làm Thái cực vi biên lang. Vua Đường Huyền Tông phong ông là Nam Hoa chân nhân. Sang đời Tống Chân Tông, ông được phong là Vi diệu Nguyên thông chân quân.
Đạo giáo tại Việt Nam
Suốt ngàn năm Bắc thuộc, đất Giao châu không thể tránh ảnh hưởng của Đạo giáo, nhất là trong đời Đường với Thái thú Cao Biền. Cũng như Phật giáo và Khổng giáo, Lão giáo tại Việt Nam không có tính hệ thống thuần nhất với giới tăng lữ được gọi là đạo sĩ, đạo trưởng chuyên luyện đan và những danh gia nghiên cứu kinh điển học thuật như ở Trung Hoa. Tuy thế, từ chân núi đền Hùng với đền Ngọc Hoa cho tới khắp nước, nó vẫn sinh động có lẽ suốt mấy ngàn năm nay, cả trong khoa cử lẫn trong sự thờ phượng của dân gian. Tư tưởng Lão Trang tạo cảm hứng tiêu dao cho giới có học, còn các sinh hoạt Đạo giáo biến thể của nó đáp ứng khuynh hướng cầu viện tha lực của dân giả.
Thời Đinh Tiên Hoàng, Lão giáo đã bành trướng mạnh. Vua phong cho Trương Ma Ni là Tăng Lục đạo sĩ. Đời Lý Anh Tông dùng cả tam giáo làm đề thi khoa cử.
Một số hình tượng thờ trong chùa và nghi lễ của Phật giáo Bắc Tông như giải oan, cầu siêu, xin xăm, trừ tà, bùa chú, gọi hồn, v.v... có phần nào kết hợp với lối thờ phượng của Lão giáo. Có chùa còn dựng Điện ngay trong khuôn viên mình. Riêng với đạo Cao Đài, một tôn giáo thành lập vào thập niên 30 của thế kỷ 20 có chủ trương Tam giáo Đồng nguyên và Ngũ chi Hiệp nhất, ta có thể bắt gặp thoang thoảng phong vị Lão giáo trong nghi lễ và phương cách tu luyện, thí dụ Luyện Tam huê tụ đảnh. Vị Giáo tông vô vi của Cao Đài là Lý Thái Bạch, một thi hào mà theo truyền thuyết là hậu duệ của Lão Tử.
Dàn rộng hơn hết là các phủ, đền, điện với các thần linh cá biệt như Cửu Thiên Huyền nữ, Liễu Hạnh Công chúa, Thượng Ngàn Công chúa, Sơn thần Tản Viên. Tiên Dung Chữ Đồng Tử, Trần Hưng Đạo, Phạm Ngũ Lão, v.v. Hằng năm, đạo Mẫu hoặc Thiên tiên Thánh giáo có các ngày húy nhật và các nghi lễ như ngồi đồng hầu bóng, sai hồn gọi hồn, xin xăm đoán thẻ, v.v... Len lỏi vào dân gian nước ta có các thầy cúng, thầy phù thủy, các tông phái sử dụng ma thuật, phù thủy, tà thần như các bà chúa, v.v...
Nguyễn Ước