CHƯƠNG 41
1930
Sau cuộc khởi nghĩa thất bại của Nguyễn thái Học.
- Tinh thần dân chúng Hà nội.
- Ðoạn đầu đài Yên Bái.
- Nguyễn thị Giang.
- Dư luận báo chí ở Huế và Saigon-Hà nội, "cuộc âm mưu của im lặng".
Sau cuộc khởi nghĩa thất bại của Việt Nam Quốc Dân Ðảng ở vài ba tỉnh Bắc Kỳ, dân chúng Hà Nội lo sợ khi biết tin viên Toàn Quyền René Robin cho lịnh hai chiếc phi cơ Morane bay đi thả bom xuống làng Cổ Am chẳng còn một nóc nhà.
Một gia đình đang ăn giỗ, có đông người làng đến dự, nghe tiếng phi cơ bay rà trên các mái nhà tranh, tò mò chạy ra sân ngước cổ lên trời xem. Hai viên phi công tưởng đó là "loạn quân“ đang tụ họp, liền thả bom và bắn súng liên thanh, giết chết không còn một mạng.
Ðây là một cuộc tàn sát đầu tiên bằng máy bay, mặc dầu lúc bấy giờ quân đội Pháp ở Ðông Dương chỉ có vài chiếc máy bay cũ kỹ kiểu 1918 mà thôi. Nạn nhân không phải là “quân phiến loạn“ mà là những nông dân vô tội, có cả ông già, đàn bà, trẻ nít.
Tàn quân VNQDÐ đã chạy trốn vào rừng núi, tìm đường sang Tàu, về ngã Lào Kay, Lạng Sơn. Các báo Hà Nội đăng tin, nhưng không dám phê bình vụ tàn sát dã man kinh khủng trên kia, trừ một tờ báo L’Argus Indochinois là có viết bài mạt sát viên toàn quyền René Robin thậm tệ. Vài tờ báo cách mạng ở Saigon cũng nổi lên đả kích kịch liệt vụ tàn sát làng Cổ Am bằng phi cơ.
Sau vụ này, Tuấn được nghe truyền tụng trong khắp các phố phường Hà Nội, một bài sấm mà người ta cho là rất linh ứng của Trạng Trình, Tuấn chép lại bài sấm để học thuộc lòng:
Kìa kìa gió thổi lá rung cây
Rung Bắc, rung Nam, rung tới Tây
Tan tác kiến kiều an đất nước
Xác xơ cổ thụ sạch am mây
Lâm giang nổi sóng mù thao cát
Hưng địa tràn dâng hóa nước đầy
Một ngựa một yên ai sùng bái
Nhắn con nhà Vĩnh bảo cho hay
(Trạng Trình NGUYỄN BỈNH KHIÊM).
Theo các cụ đồ Nho giảng dạy, thì trong bài sấm này, Trạng Trình ám chỉ rõ ràng cuộc khởi nghĩa của VNQDÐ ở Kiến An, Lâm Thao, Hưng Hóa, Yên Bái và cuộc dội bom xuống làng Cổ Am. Hai chữ Vĩnh Bảo là nói về Hoàng Gia Mô, cháu nội của Hoàng Cao Khải, làm tri huyện ở Vĩnh Bảo (tỉnh Hải Dương) bị quân VNQDÐ giết. Tuấn nhận thấy câu thơ thứ bảy bị chữ thứ sáu thất niêm, đáng lẽ phải là một chữ vần trắc, theo luật Ðường Thi, nhưng các cụ cho rằng đây là một lời Sấm, không cần phải niêm luật. Trừ một nhận xét nho nhỏ ấy về kỹ thuật thơ Ðường, Tuấn cũng như toàn thể sinh viên học sinh, giáo sư, và các tầng lớp dân chúng Bắc Kỳ, cả Trung và Nam kỳ, đều thán phục bài Sấm thần kỳ linh nghiệm của một bậc “Ðại Thánh “ Việt Nam.
Ở Saigon, tờ báo đầu tiên dám đăng bài Sấm của Trạng Trình và giảng nghĩa rõ ràng là tuần báo “Phụ Nữ Tân Văn“ của bà Nguyễn Đức Nhuận, mà chủ bút là ông Phan Khôi.
Vụ khởi nghĩa Việt Nam Quốc Dân Ðảng bị đưa ra xử tại Hội Ðồng Ðề Hình ở toà án Hà Nội. Dân chúng không được vào xem. Lính canh gác cẩn mật chung quanh Nhà Hỏa Lò (danh từ thông dụng chỉ nhà lao Hà Nội) và toà án trên đại lộ Carreau.
Phải nói đúng sự thật rằng, trừ các giới cách mạng nằm trong bí mật là đặc biệt theo dõi vụ án này, còn ngoài ra, công chúng, cả thượng lưu, hạ lưu, cho đến các giới đồng bào bình dân, lao công, đều gần như lơ là, không xôn xao, xúc động.
Lý do, có lẽ một là vì Việt Nam Quốc Dân Ðảng chỉ hoạt động thầm lén trong một phạm vi quá nhỏ hẹp, quảng đại quần chúng chưa biết tới, hai là cuộc khởi nghĩa bùng ra quá sớm chưa được chuẩn bị đầy đủ các yếu tố tuyên truyền và tâm lý để sách động quần chúng. Cho nên cái tin VNQDÐ nổi dậy đánh Yên Bái, Kiến An, Lâm Thao, hầu như không có ảnh hưởng sâu rộng ở Hà Nội là nơi trú đóng trung ương đảng bộ VNQDÐ mà lại là nơi tương đối yên tỉnh nhất. Các tỉnh khác như Nam Ðịnh, Hải Phòng, Thái Bình, Phủ Lý, Hà Ðông, Sơn Tây, Vĩnh Yên và các tỉnh ở thượng du Bắc kỳ hầu như hoàn toàn yên ổn, không mấy ai biết tới.
Mặt khác, sở Mật thám Ðông Dương tìm cách không cho tiếng vang của cuộc khởi nghĩa lan rộng ra. Các báo ở Hà Nội đều hầu hết tuân theo mệnh lệnh của Mật thám Ðông Dương và của phủ Thống sứ Bắc kỳ. Trên các tờ “Hà thành ngọc báo”, “Ðông Báo“, “Trung Bắc Tân văn“, “Thực nghiệp dân báo“, người ta chỉ đọc được những cái tin vắn tắt, đúng 2 cột, hoặc 1 cột mà không có hình ảnh. Ngay tờ “Tiếng Dân“ của cụ Huỳnh Thúc Kháng ở Huế, cũng không khai thác biến cố cực kỳ quan trọng ấy.
Những gì Tuấn biết được về vụ khởi nghĩa đều do tin tức truyền miệng của nhóm sinh viên, học sinh của Ðảng, một nhóm thiểu số mà sự tuyên truyền cách mạng thường gặp phải sự lãnh đạm sợ sệt rất đáng chán nản của giới sinh viên học sinh chỉ chăm lo học hành thi cử.
Tin anh Nguyễn thái Học, Ðảng trưởng và 12 Ðồng chí ở các cấp lãnh đạo, bị toà xử trảm, là một tiếng sét đánh vào tai những cậu học sinh và sinh viên của Ðảng, tuy ai cũng đoán trước cái định mệnh kinh hoàng đau đớn ấy.
Lúc đầu nghe nói sẽ xử bắn trong sân nhà Hỏa Lò, nhưng ngay hôm sau đã có tin 13 nhà cách mạng QDÐ sẽ bị lên đoạn đầu đài ở Yên Bái. Làm sao đi xem được. Tuấn và mấy bạn học sinh, sinh viên đồng chí đều thiết tha mong muốn được chứng kiến cảnh tượng bi hùng duy nhất ấy, được chính mắt đọc trang Lịch Sử Việt Nam vẻ vang ấy.
Nhưng làm thế nào? Một tin bí mật và chắc chắn cho Tuấn biết rằng ngày hành quyết 13 vị Liệt Sĩ VNQDÐ, sẽ là ngày 17.6.1930 tại Yên Bái.
Phải nói rõ rằng nhóm học sinh VNQDÐ, đã được tổ chức riêng biệt thành một lực lượng trừ bị, theo chiến thuật của anh Hồ Văn Mịch, vì hình như Trung Ương Ðảng Bộ còn ngại sự trẻ tuổi và thiếu kinh nghiệm của lớp thanh niên làm cách mạng tập sự, và không trao cho lớp này những công tác bí mật quan trọng.
Học sinh của Ðảng chỉ biết nhau bằng bí danh, và tổ chức chưa được chặt che, chưa có hệ thống, và thật sự chỉ mới bắt đầu họat động hăng hái thì Ðảng đã bị tan vỡ do cuộc khởi nghĩa đột ngột ở Yên Bái. Hồ Văn Mịch là linh hồn của tổ chức học sinh cách mạng của VNQDÐ và được nhóm trẻ của Tuấn coi như người anh cả. Mịch bị bắt, và nhờ bị bịnh ho lao nên được nằm nhà thương Phủ Doãn. Và không bị tra tấn nhiều. Vả lại anh có rất nhiều can đảm, không hề tiết lộ một bí mật nào của đảng. Ðó là một điều may mắn cho nhóm học sinh cách mạng không có một người nào bị tình nghi, và mật thám không biết một tí gì về tổ chức học sinh của Ðảng.
Tuấn và hai người bạn thân tín nhất rủ nhau đi Yên Bái ngày 15 tháng 6, hai ngày trước hôm Nguyễn Thái Học và 12 liệt sĩ Quốc Dân Đảng lên đoạn đầu đài. Ðể tránh mọi sự nghi ngờ, ba chàng thanh niên đi bằng xe đò, chứ không đi xe lửa.
Ðến Yên Bái đã gần khuya, Tuấn và hai người bạn lặng lẽ đi đến nhà một cô bạn gái, con một công chức làm tham tá ở Phủ Thống sứ Bắc Kỳ, ở gần chợ. Ðến đây, công việc đầu tiên của tụi trò Tuấn là nghe ngóng dư luận… Mặc dầu nhà cầm quyền dấu kín, dân chúng tại tỉnh lỵ Yên Bái cũng đã thì thầm với nhau rằng “những người Quốc Dân Đảng sẽ bị hành hình lúc 6 giờ sáng hôm sau. Nhưng số người tử tội thì không ai biết rõ. Kẻ bảo là 12 người, kẻ bảo 15 người. Có kẻ làm ra vẻ thông thạo quả quyết chỉ có 9 người tòng phạm thôi, còn hai người “chủ mưu“, là Nguyễn Thái Học và Ký Con thì đã bị chém trong nhà Hỏa Lò ở Hà Nội ngay sau phiên toà. Toàn là những lời đồn đại trái ngược, những tin tức nhiều khi mâu thuẫn mà ai loan truyền ra cũng đảm bảo tin của mình là chính thức và đúng hơn cả.
Ðêm nay Tuấn và hai đứa bạn không ngủ được và không lúc nào thấy buồn ngủ. Ba cậu học sinh nằm trên bộ ván, trùm trong một chiếc khăn bông. Họ nói thầm thì với nhau những điều thầm thì với nhau những điều ước đoán theo những câu chuyện nghe lõm và những lời đồn đãi ngoài phố.
Yên Bái đêm ấy có cảnh tượng như một thành phố chết. Những ngọn đèn điện thưa thớt và lờ mờ đổ xuống đường những vũng ánh sáng leo lét hoang vu. Không một bóng người qua lại. Không có giới nghiêm, không thiết quân luật, nhưng dân chúng lặng lẽ ở nhà, không dám ra đường. Mới tám giờ tối, hầu hết các nhà và các tiệm buôn lớn của Hoa kiều đều đóng cửa kín mít. Năm ba nhà hàng lớn của Hoa kiều cũng để cửa hé thôi.
Bốn giờ sáng, trời còn mù mịt, thành phố Yên Bái như tê lạnh dưới một vòm sương dầy đặc, trắng lều bều… Ba cậu học sinh khẽ mở cửa ra đi, cố tình đi sớm một giờ để xem tận mặt tất cả những gì xẩy ra trước giờ hành quyết, tất cả cảnh tượng bi đát và oai hùng mà Tuấn và hai người bạn sẽ được chứng kiến trong một tiếng đồng hồ. Không được lại gần chỗ chiếc máy chém đứng lù lù, bí mật, nghêng ngang giữa khu đất trống. Tuấn dòm đăm đăm cái vật ghê tởm mầu xám xẩm phủ lên một lớp sương đêm làm tăng thêm mầu láng bóng hãi hùng ghê rợn.
Năm giờ hai mươi phút, một toán lính “Khố Xanh“ do một viên giám binh Pháp dẫn đầu, và lính “Khố Ðỏ“ dưới quyền chỉ huy của một trung uý Pháp lần lượt kéo đến, sắp hàng một, bao vây pháp trường. Công chúng hiếu kỳ kéo đến xem đông độ một trăm người, bị đuổi ra xa. Nhiều người chạy đi tìm chỗ đứng xem cho rõ. Tuấn và hai đứa bạn cũng bị lính đuổi đi, nhưng rồi cả ba cậu học trò vẫn tìm được một chỗ tạm nấp trong bóng tối nhưng ở đây được trông thấy tường tận.
Sau này, có vài quyển sách và bài báo chép rằng chị Nguyễn thị Giang, người vợ đồng chí của Nguyễn Thái Học, có đứng trong đám đông người để nhìn thấy mặt của đảng trưởng một lần cuối cùng. Nhưng Tuấn quả quyết rằng chị Nguyễn thị Giang không có đứng trong đám đông người, buổi sáng tinh sương mà nhà chí sĩ trẻ tuổi vĩnh biệt cuộc đời để bước vào lịch sử. Người ta không thấy chị Giang đâu cả. Sự thực, chị đã cải trang thành một người đàn ông, và đứng nép bên một gốc cây, chỉ 10 phút thôi, từ lúc chiếc xe sơn đen của nhà lao Yên Bái đưa anh Nguyễn Thái Học ra pháp trường cho đến lúc anh không còn nữa.
Nguyễn Thái Học bước lên đoạn đầu đài có hơi khác Nguyễn Thái Học lúc hoạt động cách mạng. Lần này đầu anh bị cạo trọc, đôi mắt anh sâu hóm như hai cái lổ thẳm. Má anh cóp và người anh gầy đi nhiều. Anh không ngó ai cả, đăm đăm bước rất mau lên bàn máy chém, hai tay bị trói còng ra sau lưng. Anh đứng trên bục sắt đen ngòm, la lên với một giọng run run mà những kẻ tò mò được chứng kiến đứng ngoài vòng lính, ít người được nghe rõ. Sương còn buông xuống nhiều, Tuấn cố lắng tai nghe tiếng anh “Việt Nam vạn…vạn …tuế. Hai tiếng “Việt Nam“ và tiếng “tuế” sau cùng thì hét lớn lên, còn hai tiếng “vạn …vạn“ rất nhỏ, chỉ nghe thoáng như hơi thở cuối cùng. Lưỡi dao sắc bén rơi mạnh xuống cổ anh, kêu một tiếng “phập“. Ðầu anh rơi xuống một chiếc thùng mạt cưa kê ở dưới bàn máy chém.
Chính trong phút đó, chị Nguyễn thị Giang dưới lớp áo đàn ông, chùm chiếc pardessus đen, biến đi đâu mất.
Tuấn và hai đứa bạn hình như bị nghẹn cổ, không thở được Tuấn lấy khăn tay lau sương và nước mắt chảy ướt đẩm trên đôi má tái mét rồi nhắm mắt đứng yên, không nhúc nhích, như một pho tượng, và không trông thấy gì nữa. Tuấn không thấy những người khác lần lượt chết sau anh Học, 6 giờ 20 phút, là xong. Tuấn và hai đứa bạn đi thật nhanh ra bến xe đò về Hà Nội.
Ít lâu sau hôm xử tử anh Nguyễn thái Học, Tuấn được tin chị Nguyễn thị Giang tự tử bằng súng lục ở ngay làng quê của người yêu.
Hai biến cố ấy làm đảo lộn tinh thần của đám thanh niên học sinh có theo dõi và tham gia chút ít hoạt động của VNQDÐ. Dư luận dân chúng Bắc Kỳ rất xôn xao, nhất là ở Hà Nội. Nhưng người ta chỉ bàn tán thầm thì với nhau trong gia đình chớ không dám nói lớn. Các báo Việt ở Hà Nội chỉ làm nhiệm vụ thông tin hoàn toàn khách quan. Không có một tờ báo nào viết ca ngợi các liệt sĩ VNQDÐ hoặc tỏ tình trong lúc viết tin tức, hay bình luận thời cuộc. Thỉnh thoảng một đôi tờ báo có đăng một bài thơ của một cụ nhà nho, nói về Nguyễn Thái Học và Nguyễn thị Giang, nhưng đại ý cũng chỉ tỏ lòng thương hại, hay trách móc, chứ không có bài nào tán dương hay khâm phục việc làm VNQDÐ và Nguyễn Thái Học, lãnh tụ cuả đảng.
Ở Trung Kỳ có hai luồng dư luận trái ngược nhau: đa số trong giới quan lại của triều đình Huế, dĩ nhiên là mạt sát Nguyễn Thái Học và VNQDÐ, lại còn cười chế nhạo là “trẻ lòng non dạ“, “châu chấu đá voi“. Giới thanh niên trí thức và trung học thì rất cảm phục lòng ái quốc hăng say và hy sinh cao cả của Nguyễn Thái Học và Nguyễn thị Giang. Hầu hết dân chúng miền trung chỉ nghe tin tức qua báo “Tiếng Dân“ của cụ Huỳnh Thúc Kháng, nhưng chính cơ quan tranh đấu độc nhất ở Trung kỳ, do nhà cách mạng nổi danh làm chủ nhiệm kiêm chủ bút, vẫn hết sức dè dặt không hăng say mấy.
Duy có Saigon, cả báo Tây lẫn báo Việt đều nói đến nhiều nhất. Nhưng ở đâu dư luận báo chí và dân chúng chia làm 3 phe: một phe gồm toàn các báo thực dân Pháp và một số báo Việt của các nhà tư bản, điền chủ, đốc phủ sứ, công kích việc “phiến loạn“ của VNQDÐ. Một phe trung lập như báo Phụ Nữ Tân Văn, do Phan Khôi làm chủ bút, thì chỉ nhận xét vụ VNQDÐ theo bài Sấm của Trạng Trình. Tờ tuần báo Phụ nữ tân văn cho rằng biến cố VNQDÐ chỉ là một sự kiện tiền định của Lịch Sử, là không khen không chê.
Trái lại, có một số báo chính trị bằng Pháp văn của những người thanh niên trí thức, thì nhiệt liệt tán thưởng cuộc Khởi Nghĩa của VNQDÐ.
Giới học sinh Hà Nội, phần đông ở hai tư thục lớn nhất, Thăng Long (của người Việt), Gia Long (của người Pháp) và trường (trung học bảo hộ) của Nhà Nước, xôn xao khá nhiều trong một tháng đầu. Nhưng rồi người ta thấy thấy có nhiều tụi học sinh làm dọ thám, chuyên môn đi nghe ngóng các câu chuyện thì thầm của bạn bè hoặc thường đi xe đạp rảo qua các nhà trọ của học sinh, hay vờ vĩnh đến nhà bạn chơi để lục soát sách vở vì thế mà dần dần có một cuộc “âm mưu của im lặng” theo chữ Pháp thông dụng lúc bấy giờ trong trường hợp đó “une conspiration du silence”.
CHƯƠNG 42
1930
- Tuần báo Phụ Nữ Tân văn, Saigon bán ra Hà nội.
- Ảnh hưởng của các báo tranh đấu cách mạng ở Saigon bằng Pháp Văn đối với sinh viên, học sinh Hà Nội (La Lutte, La Cloche Felée, L’Echo Annamite...)
Nhà trọ của Tuấn ở 77C đường Maréchal Pétain có đến 7 trò, hầu hết là học trường Thăng Long, Gia Long, hoặc trung học Pháp Lycée Albert Sarraut, cũng thường có vài đứa bạn đến chơi, và thừa lúc anh em vô ý, lục soát các sách vở và bàn học để kiếm tài liệu “quốc sự“.
Một lần, đúng ngày 24 tháng 3 dương lịch, Tuấn và các bạn tổ chức ở trên gác một buổi lễ kỷ niiệm cụ Phan Chu Trinh tạ thế. Các cậu đặt một chiếc bàn thờ tạm, treo bức chân dung của cụ, có đèn hương, hoa quả, bày biện đầy đủ trên bàn. Bảy anh em học sinh và sinh viên cùng ở trọ trong nhà, đều hăng hái và thành kính làm lễ. Tuấn đọc một bài điếu văn kể lại tiểu sử và sự nghiệp cách mạng của cụ và cổ võ anh em nên soi gương ái quốc của cụ, nguyện sau này sẽ đem học vấn và tài năng của mình để phụng sự quốc gia. Xong bài điếu văn, anh em lần lượt từng người ra lạy trước bàn thờ nghi ngút trầm hương. Buổi lễ đơn giản, nhưng rất cảm động. Anh em ai cũng bùi ngùi, có người lạy rồi lạy nữa, ba bốn lần.
Thình lình, một cậu học trò, chỉ quen sơ với Tuấn, cũng như các sinh viên học sinh khác trong nhà, cũng quê quán ở Trung kỳ đi xe đạp đến, và lật đật leo cầu thang lên gác. Hắn bắt gặp cả một đám học sinh, sinh viên đang đứng im lặng trước bàn thờ có treo ảnh cụ Phan Chu Trinh, còn khói hương trầm, cặp nến trắng còn đang cháy liu hiu. Hắn cười, hỏi Tuấn:
- Tụi các anh làm gì thế?
Hắn đăm đăm nhìn ảnh cụ Phan, rồi nhún vai, bảo:
- À, hôm nay là 24 Mars, ngày giỗ cụ Phan Chu Trinh …Thế mà tôi quên mất chứ! Tụi các anh nhớ giỏi nhỉ!
Nói xong, nó ngoay nguẩy chạy xuống cầu thang, và ra cửa lên xe đạp phóng một mạch về phía bờ hồ.
Tụi trò Tuấn vội vàng dọn cất chiếc bàn, tắt đèn, tắt hương, sau khi lạy cụ Phan một lần nữa.
Trò Trần Kiên Mỹ tức giận nói to:
- Thằng khốn nạn, quê ở Quảng Nam, bạn đồng hương mà đi làm chó săn.
Trò Long bảo bằng tiếng Pháp:
- C’est un mouton dangereux (một thằng do thám -nghĩa bóng- nguy hiểm).
Tuấn không nói gì chỉ lấy tấm hình đem gói vào tờ giấy dấu dưới miếng ngói ở mái nhà bếp.
Tất cả đều hồi hộp lấy bài vở ra học, và chờ mật thám đến xét nhà, không có ai sợ trốn đi. Nhưng chờ mãi không thấy mật thám tới. Tuấn đứng trong cửa sổ, ngó xuống đường Maréchal Pétain, chỉ thấy thằng khốn nạn đạp xe lượn qua lượn lại nhiều lần trước nhà.
Lần cuối cùng, vào khoảng 12 giờ trưa, hắn ghé vào. Tuấn không muốn cho hắn lên gác, vì có mấy đứa bạn, nhất là Long Lycée (thường gọi là Long Toét) hăm đánh hắn "vỡ mặt”.
Tuấn xuống dưới nhà, gặp hắn sắp sửa lên cầu thang. Tuấn nắm tay hắn giữ lại:
- Mi lên trên đó thế nào cũng bị mấy người đập chết. Mi ở đây với tao. Tại răng lúc nãy mi có thái độ lạ rứa?
Tao hỏi thiệt mi, mi làm mouton cho mật thám Tây, phải không?
Hắn run sợ, bảo:
- Không có. Ai bảo với anh thế ?
- Tao bảo. Vì thái độ của mi chứng tỏ rằng mi là một agent de recherche, một thằng điềm chỉ cho Tây. Tụi tao làm lễ truy điệu cụ Phan Chu Trinh chứ có gì bí mật đâu mà tụi bay đi rình? Mi cũng là dân Quảng Nam, răng mi đi làm chuyện tồi bại rứa? Mi không sợ tụi bạn đồng hương của mi đập mi nát óc à?
Hắn cười giả lả:
- Anh đừng nghi oan cho tui chứ. Tôi đâu có làm agent de sureté cho Tây. Lúc nãy tôi đến là định hỏi anh có được mandat ở nhà gửi ra chưa, nếu có thì cho tui mượn tạm 5 đồng để trả tiền trọ. Nhưng tôi thấy các anh bận việc, tôi đi về, thế thôi. Tôi thề với các anh rằng tôi không làm điềm chỉ cho Tây đâu.
Tuấn bảo:
- Mi cần tiền thiệt không ?
- Thiệt. Tui định đến mượn anh 5 đồng.
- 5 đồng đây, mầy cút đi.
Tuấn lấy 5 đồng đưa cho thằng khốn nạn, nó cảm ơn rồi ra đi.
Tuấn theo dõi dư luận của một số báo chí Pháp ngữ ở Hà Nội (L’Echo Annamite, La Tribune Indochinois, La Jeune Indochine) công kích kịch liệt viên toàn quyền René Robin về vụ y ra lệnh cho máy bay ném bom làng Cổ Am, nơi mà bị tình nghi dung dưõng tàn quân Việt Nam Quốc Dân Ðảng.
Ở Hà Nội không có tiệm sách nào bán báo Saigon, Tuấn cùng với một nhóm bạn thân toàn là sinh viên học sinh nghèo, góp tiền gởi vô Saigon mua năm các tờ báo cách mạng của người “ Annam“ hầu hết là viết bằng chữ Pháp, như tờ La Lutte của Tạ Thu Thâu (đệ tứ quốc tế), La Jeune Indochine của Vũ Đình Duy (Phục Quốc hội), La Tribune Indochinois của Bùi Quang Chiêu (thủ lãnh đảng Lập Hiến Ðông Dương). L’Écho Annamite của Nguyễn Phan Long (đảng Lập Hiến Ðông Dương), Parti constitutionnaliste Indochinois v.v… Ðiều đó không có gì lạ đối với tình thế lúc bấy giờ. Vì báo viết bằng Pháp Ngữ, dù là của người An nam do người An nam làm chủ nhiệm, cũng được theo chế độ tự do của báo chí Pháp. Còn báo chí Annam dù là xuất bản ở Saigon và Nam kỳ, là thuộc địa Pháp, cũng phải theo một chế độ riêng, bị hạn chế và bị chính quyền thuộc địa bóp chẹt.
Cho nên những tờ báo cách mạng ở Hà Nội (rất ít) ở Huế (không có) đặc biệt nhiều nhất ở Saigon, đều viết bằng tiếng Pháp, và theo qui chế báo chí Pháp quốc cộng hòa: tự do báo chí, tự do ngôn luận, y như các báo ở bên Pháp vậy.
Vụ đưa lên đoạn đầu đài mười ba nhà liệt sĩ VNQDÐ ở Yên Bái cũng như vụ toàn quyền Robin cho phi cơ ném bom làng Cổ Am, đã gây cho các báo cách mạng Pháp ngữ ở Hà Nội và Saigon một luồng dư luận vô cùng phẩn nộ. Các báo ấy công kích kịch liệt sự trả thù vô nhân đạo của “bọn thực dân cầm dùi cui” (des colonialistes à la trique) theo danh từ rất thông dụng thời bấy giờ.
Ðọc những tờ báo đó, những người trí thức, và đám sinh viên học sinh “có đầu óc cách mạng” đều khoái vô cùng. Nhưng không phải là ai cũng đọc. Ðại đa số đồng bào không biết, hoặc không thông thạo tiếng Pháp không đọc được, đó là lẽ dĩ nhiên và điều thiệt thòi rất lớn. Nhưng ngay trong đám trí thức và công chức, mà học lực từ bằng diplôme (thành chung) trở lên nghĩa là đã đọc và nói được tiếng Pháp lưu loát lắm cũng chỉ có số rất ít, trong một trăm người hoạ may có 1 người, đọc các tở báo cách mạng bằng Pháp ngữ hoặc nếu có đọc cũng chỉ đọc lén mà thôi. Vì họ sợ “quan Tây, quan thầy Pháp lang Sa“. Nhà Nước Ðại Pháp để ý đến họ, hoặc bắt bớ, giam cầm, tù đày khổ sở.
Một tuần báo Việt Ngữ bán chạy nhất lúc bấy giờ và có uy tín nhất, không những riêng ở Saigon, Lục tỉnh mà cả Trung kỳ, Bắc kỳ nữa (như ở Hà Nội có rất nhiều gia đình mua cả năm) là tờ Phụ Nữ Tân Văn của một bà triệu phú người Nam, có cửa hàng tơ lụa lớn nhất ở Saigon, tên là bà Nguyễn Đức Nhuận và chủ bút là ông Phan Khôi. Ngoài bìa in màu, có hình vẻ ba thiếu phụ Nam, Trung, Bắc, đầu tóc riêng biệt theo mỗi địa phương, nhưng ngồi sát nhau ra chiều chị em thân ái lắm. Dưới hình có ghi hai câu thơ đầy ý nghĩa: Phấn son tô điểm sơn hà Làm cho rõ mặt đàn bà nước Nam. Tuấn thuộc lòng hai câu châm ngôn bằng thơ ấy, mỗi tuần đúng vào sáng thứ Hai là chàng nhận được tập báo ấy do một người bạn gái ở Saigon gửi tặng. Hai câu châm ngôn rất mới mẻ và rất hấp dẫn kia tỏ rõ lập trường ái quốc của tờ tuần báo duyên dáng độc nhất của Nam Kỳ. Ông chủ bút Phan Khôi là một tay văn học cừ khôi nhất ở Saigon lúc bấy giờ. Thế mà tuần báo ấy không hề có một bài nào phản đối việc toàn quyền Robin cho máy bay ném bom dã man xuống làng Cổ Am.
Ðể nêu gương ái quốc của mình, và để cổ võ lòng ái quốc của người An nam, tờ Phụ Nữ tân văn chỉ làm được hai việc có thể gọi là vĩ đại nhất lúc bấy giờ. Một, là báo ấy mở cuộc thi “Danh Nhân Việt Nam“. Nhà báo chọn một danh sách không quá 25 người, tức là “25 danh nhân“ trong lịch sử Việt Nam, không theo thứ tự nào cả. Mỗi tuần, nhà báo đăng tiểu sử và sự nghiệp của một người, đại khái như: Trần Hưng Ðạo, Nguyễn Trãi, Trần Bình Trọng, Quang Trung, Trưng Trắc, Phan Thanh Giản, v.v… Xong rồi nhà báo nhờ độc giả sắp hạng, căn cứ trên sự nghiệp của mỗi vị danh nhân, để ai trên ai dưới, thành một bản danh sách dự thi. Những bản danh sách nào gần giống nhau nhất sẽ được coi như trúng giải.
Cuộc thi Danh nhân Lịch Sử ấy không có kết quả tốt đẹp, vì sự lựa chọn của độc giả rất là lộn xộn, phiền phức, không theo tiểu chuẩn nào cả.
Việc làm thứ Hai có tính cách “ái quốc “ của Tuần Báo Phụ nữ tân văn là mở cuộc lạc quyên giúp bốn học sinh nghèo du học sang Âu châu.
Số tiền lạc quyên không có mấy nhưng tiền của ông bà Nguyễn Đức Nhuận bỏ ra lập bốn học bổng thì cũng khá nhiều. Có rất nhiều học sinh dự thi. Ban chấm thi cho một bài thơ Việt Nam để thi giảng giải và bình luận. Bài thơ có năm vần như sau đây:
Lò, Mò, Lo, Cho, Trò. Kết quả có 4 thí sinh đậu, và buổi tiệc tiễn bốn cậu lên tàu thủy để qua Pháp rất là long trọng. Theo thể lệ học bổng cậu nào thành tài và sẽ có công việc làm, sẽ phải đóng góp mỗi tháng một số tiền để thành học bổng cho người lớp sau. Nhưng sau đó, các trò học đại học Pháp, cưới vợ đầm, và chẳng có một cậu nào tôn trọng thể lệ học bổng, theo lời cam đoan danh dự trong buổi tiệc tiễn đưa trước khi xuống tàu.
Học bổng của báo Phụ Nữ tân văn chỉ được một lần đó thôi và không có điều kiện tiếp tục hằng năm. Tờ phụ nữ tân văn cũng phát hành trong một thời gian vài năm rồi đình bản, sau khi ông Phan Khôi nghỉ việc.
Ở Hà Nội, sau vụ VNQDÐ, tình hình trở lại yên ổn. Nhóm sinh viên học sinh đã có hoạt động ít nhiều trong hội kín Quốc Dân Ðảng, tiếp tục học thi tú tài hoặc vào các ngành khác.
Ðời sống bề ngoài hoàn toàn yên tĩnh, cũng như ở Trung và Nam Kỳ. Người ta bắt đầu quên lần vụ khởi biến VNQDÐ và ở thành thị cũng như thôn quê, nhiều nơi dân chúng không hề nghe nói đến cái tên Nguyễn Thái Học.
Người ta lo “làm ăn” để có tiền nộp thuế cho Tây.
Sau một thời gian, im hơi lặng tiếng, hình như một vài uỷ ban trung ương đảng bộ bắt đầu tái lập để hoạt động trở lại, nhưng một cách hết sức dè dặt và hãy còn rời rạc.
CHƯƠNG 43
1930 - Một cuộc du lịch qua các tỉnh Trung kỳ, vô Saigon, để xem xét tình hình.
- Tinh thần cầu an của thượng lưu, trung lưu "An nam"
- Một xu-hướng Tân V.N.Q.D.Ð.
Một buổi tối thứ bẩy, một người bạn đồng chí rất thân đến nhà trọ rủ Tuấn đi Bờ Hồ chơi. Hai người ngồi trên ghế đá trống dưới gốc cây phượng. Người bạn hỏi Tuấn:
- Anh có quen với ai ở Saigon không?
Tuấn nghĩ một lúc rồi bảo:
- Có một người bạn học cùng lớp ở Qui Nhơn, hiện giờ làm công chức sở Bưu Ðiện Saigon. Có một bạn nữa, người đồng hương, hiện làm trợ bút một tờ nhật báo lớn.
- Anh vô Saigon tiếp xúc với hai người đó được không? Thử đặt một cơ sở kỳ bộ thanh niên VNQDÐ ở Saigon, trong giới trẻ cách mạng rồi anh trở Hà Nội liền.
- Ði Saigon thì được. Nhưng còn tiếp xúc với hai người bạn đó sẽ có kết quả gì hay không, tôi không dám chắc. Người bạn làm Bưu Ðiện, thì lúc còn học ở Qui Nhơn, đã tỏ ra là một trong những đứa nhát gan nhất và sợ tây nhất. Còn cái anh trợ bút báo Công Luận thì hoạ may …Trong vụ lễ truy điệu cụ Phan Chu Trinh, hắn cũng khá hăng hái…Nhưng hiện giờ mình không thể bảo đảm gì cả. Ðã mấy năm rồi mình không gặp hắn.
- Không hề gì. Anh cứ đi Saigon một chuyến xem. Thử tiếp xúc, và dọ dẫm tình hình, rồi sẽ liệu.
- Hôm nào đi?
- Hôm nào cũng được, tùy anh.
- Ðể tôi sắp đặt công việc học hành của tôi xem sao đã. Thời khóa biểu của tôi tháng này nặng lắm. Nhưng tôi có thể đi một tuần lễ.
Hôm sau, người bạn của Tuấn đến trao Tuấn 200 đồng (200 đồng hồi 1930 giá trị bằng 20.000 đồng năm 1970) và hai người thì thầm trò chuyện rất lâu. Rồi một buổi chiều, vào lúc 5 giờ, Tuấn xách chiếc va li nhỏ ra ga xe lửa mua vé tàu suốt Hà Nội – Saigon.
Tàu suốt cũng gọi là Tàu Tốc Hành (train-express) chạy đúng hai ngày hai đêm, chỉ ghé những thành phố lớn, 7 giờ tối ngày sau tàu đến ga Saigon.
Tuấn xuống một khách sạn gần ga, đường Amiral Roze (nay là đường Trương Công Ðịnh). Ðưa giấy căn cước cho người bồi khách sạn ghi vô sổ, rồi chàng đi tắm.
Trở lại phòng thay đồ đạc xong, Tuấn ra đi, ghé ăn qua loa trong một tiệm cơm “các chú“ nơi góc đường, rôì đi bách bộ xem cảnh tượng thành phố ban đêm.
Saigon rộn rịp hơn Hà Nội nhiều. Thoạt tiên, Tuấn để ý đến hai điểm khác nhau giữa hai thủ đô: Saigon có quá nhiều tiệm, ăn, tiệm café, xe mì, hầu hết là của các chú và tiệm nào cũng đông đặc khách hàng. Ngoài ra còn có hàng quà vặt của phụ nữ bình dân ngồi bán đầy các lề đường.
Dân chúng ngồi ăn ngoài đường đông đảo và vui vẻ tự nhiên. Trái lại, ở Hà Nội, những tiệm ăn rất hiếm, các hàng quà vặt rất ít. Cả phố hàng Long trước ga chỉ có một tiệm ăn lớn của Hoa Kiều, Nam Kinh Tửu Lâu. Phố hàng Bông, hàng Gai dài từ chợ của Nam xuống đến chợ Cầu Gỗ, và phố lầu Gỗ xuống đến bờ sông, không có một tiệm ăn nào cả.
Trước kia, năm 1928, có tiệm ăn: Việt Nam ở phố hàng Bông, do Việt Nam Quốc Dân Ðảng mở ra làm nơi kinh tài bí mật của đảng, nhưng sau khi bị bắt và đóng cửa luôn Phố Hàng Da, Hàng Cót, Nhà Hồn cũng thế. Phố Hàng Ðào, từ Bờ Hồ lên đến chợ Đồng Xuân, qua phố hàng Giấy, lên phố hàng Ðậu, hàng Than cũng chẳng có một tiệm ăn. Chỉ có phố Hàng Cân có vài tiệm bán chả cá, phố hàng Nón, có độc nhất một tiệm phở Nghi Xuân. Trừ phố hàng Buồm mà đa số cửa hàng là của Hoa kiều, có hai ba tửu lầu lớn, còn hầu hết các phố phường Hà Nội đều vắng bóng tiệm ăn, tiệm rượu, tiệm café. Thỉnh thoảng có một vài quán quán cơm bình dân ở ngoại ô.
Theo Tuấn, có lẽ vì người Hà Nội thích ăn cơm trong gia đình, và không ưa đi tiệm. Chỉ khổ cho những người từ các nơi đến Hà Nội phải ở khách sạn, tìm được chỗ ăn là cả một vấn đề. Có lẽ tại vì phong tục ngoài Bắc là tránh những nơi “ tửu điếm trà đình “ cho nên trừ những trường hợp đặc biệt, còn thì không có cảnh tượng ngoài phố như Saigon.
Hà Nội thời Tiền chiến, là kinh đô cổ kính, nơi “nghìn năm văn vật đất Thăng Long” hãy còn giữ hầu hết những nét truyền thống của Nho phong.
Saigon khác hẳn, dù là Saigon lúc Tuấn từ Hà Nội vào, ngơ ngác giữa cảnh rộn rịp đêm ngày như tự cảm thấy mình thất lạc vào một thành phố hoàn toàn xa lạ.
Quen nếp sống thường ngày ở Hànội, Tuấn đến Saigon và đi xem phố xá cũng mặc áo veste và đeo cravate, Tuấn cảm thấy khó chịu ngay vì chung quanh mình công chúng toàn mặc áo bà-ba hoặc sơ mi trần. Cho đến các cô thiếu nữ 19, 20 tuổi đi ngoài phố cũng mặc áo bà-ba, khác hẳn với Hà Nội. Tất cả đều ngó Tuấn với cặp mắt tò mò. Tuấn ngơ ngác ngượng nghịu như một người ở tỉnh lần đầu tiên bước chân lên đô thị Saigon.
Sáng hôm sau, để thiên hạ khỏi để ý đến mình, Tuấn mặc sơ mi trần, không đeo cravate, ra đường gọi xe kéo xuống nhà Giây thép, có vẻ tự nhiên như một người dân Saigon.
Ðến Bưu điện hỏi thầy N. người ta chỉ qua phòng “colis postaux” (bưu kiện) ở bên hông. Tuấn sang phòng này, may mắn trông thấy ngay N. người bạn học cũ ở Qui-Nhơn. Ðầu tiên, N. bỡ ngỡ hỏi:
- Ủa, Tuấn đi đâu đây?
Tuấn bảo khẽ, sợ người ngoài nghe:
- Mình ở Hà Nội mới vô hôm qua, muốn gặp N. nói chuyện chơi.
N. cười gượng:
- Ừ, nhưng bây giờ mõa đang bận việc. Ðể chiều nay được hông?
- Ðược - Toa vô Saigon ở trọ nhà ai?
- Ở khách sạn Hồng Hoa, đường AmiraL Roze.
- Vậy thì chiều nay cơm nước xong, độ 8 giờ mõa chờ toa trước cửa ga xe lửa. Nhớ hỉ! Rồi bọn mình đi ra hóng gió ở Pointe des blagueurs, tha hồ nói chuyện. Nhớ hỉ !
- Pointe des blagueurs ở đâu?
- Chỗ cột cờ Thủ Ngữ ngoài bờ sông.
Ðúng 8 giờ tối, Tuấn kêu xe kéo ra bờ sông tìm đến chỗ Pointe des blagueurs (bây giờ là tiệm ăn Ngân Ðình của Hoa kiều), Tây và Ðầm ăn uống đông nghẹt. N. dắt Tuấn đi dọc theo bờ sông. Sau những câu chuyện hàn-huyên, Tuấn kể lại cho N. nghe về cuộc khởi nghĩa thất bại của VNQDÐ. Tuấn dò ý của người bạn cũ, thấy anh ta có vẻ rất khâm phục Nguyễn Thái Học và các đồng chí của Học trong VNQDÐ. Anh nói hăng lắm, khác hẳn lúc còn là học sinh ở Qui Nhơn. N. ca tụng Nguyễn Thái Học và Nguyễn thị Giang, hai nhà anh hùng “xứng đôi vừa lứa“ đã đi vào trong lịch sử.
Tuấn khấp khởi mừng thầm, hỏi N.:
- Thí dụ bây giờ có một chi nhánh VNQDÐ ở Saigon đây anh có tham dự không ?
N. trố mắt ngó Tuấn:
- Không ! Moả làm vậy, họ bỏ tù mõa thấy mẹ !
Tuấn cười:
- Vậy sao anh vừa khen Nguyễn Thái Học với Nguyễn thị Giang quá vậy?
- Mõa khen họ nhưng mõa không làm như họ được, vì moã còn phải lo giữ cái nồi gạo của mõa chớ.
Tuấn cười:
- Nếu vậy thì thôi.
Ðể N. khỏi nghi ngờ về nhiệm vụ bí mật của Tuấn, chàng nói tiếp:
- Mõa hỏi đùa toa cho vui đấy thôi, chớ tụi mình còn con nít quá, làm gì được đại sự như Nguyễn Thái Học!
Không hy vọng thuyết phục được người bạn công chức chỉ yêu nước bằng lỗ miệng. Tuấn đi tìm người bạn thứ hai, trợ bút tờ báo “Công Luận“, tức là L’Opnion bằng Pháp ngữ, là của một công ty người Pháp, và dĩ nhiên là một tờ báo triệt để thân Pháp.
Người bạn học cũ của Tuấn là trợ bút ở báo này chắc là phải theo đường lối của chủ, nghĩa là của Pháp, không thích hợp với chủ nghĩa quốc gia của người Việt Nam. Tuấn biết như thế nên rất thận trọng trong câu chuyện tiếp xúc với người bạn cũ.
Thời bấy giờ các nhựt báo ở Saigon phát hành vào khoảng 9 giờ đêm để bán đến sớm hôm sau, và toà soạn làm việc từ 5 giờ chiều, báo lên khuôn lúc 7, 8 giờ tối.
8 giờ, Tuấn gặp người bạn tại trước cửa toà soạn. Anh bạn trợ bút dắt Tuấn đi ăn “ bánh đập “ ở góc đường Frère Louis và uống xá xị. Ðường Frère Louis nay đổi tên là đường Võ Tánh, và tiệm bánh đập ở trên một khoảng đất trống khá rộng nay là chợ Thái Bình. Ðây là tiệm bánh đập có tiếng nhất ở Saigon thời bấy giờ, lúc nào cũng đông khách, người tới lui tấp nập. Loại bánh đập này là món ăn bình dân rất được dân chúng Saigon ham thích trước đây 30 năm, không hiểu vì sao ngày nay biến mất, không còn thấy ai bán nữa.
Tuấn và anh em trợ bút (nay gọi là ký giả) báo Công Luận, ngồi riêng một bàn nhỏ ở góc sân gần trong bóng tối. Vừa ăn, vừa nói chuyện về “quốc sự”. Một đề tài bị người Pháp cấm ngặt thời bấy giờ, nên phải nói chuyện thì thầm lén lút, giữa đám đông người.
Câu chuyện kéo dài đến 10 giờ đêm, nhưng anh trợ bút báo “Công Luận” xem chừng không hăng hái chút nào đối với công việc dự định tổ chức một kỳ bộ Thanh niên VNQDÐ Ở Saigon. Anh ta nói thì hùng hồ lắm, nhưng lại nhát gan, không dám tham gia một cuộc phiêu lưu cách mạng nguy hiểm. Cuối cùng, anh ta định giới thiệu cho Tuấn một giáo sư bạn thân của anh, cũng là một người có “đầu óc”.
Tuấn gặp ông giáo sư, người Nghệ An, trước dạy trường collège de Vinh, bị đuổi vì tham gia các cuộc bãi khóa của học sinh năm 1927. Ông trốn vào Saigon, dạy tư tại “ Trường tư thục Phan Bá Lân“ và có tiếng là một tay “quốc sự” hăng hái nhất. Nhưng ông đã có chân trong một “hội kín” gọi là “Thanh Niên Cách Mạng Ðồng Chí Hội”. Ông công kích VNQDÐ, cho rằng QDÐ, “làm việc hồ đồ” thiếu kỷ luật và tổ chức không chặt chẽ”. Thay vì hường ứng kế hoạch thiết lập Kỳ bộ Thanh niên VNQDÐ của Tuấn ông giáo sư lại muốn lôi kéo Tuấn về thành lập Kỳ bộ Thanh Niên Cách Mạng Ðồng Chí Hội tại thủ đô Bắc kỳ.
Tuấn từ chối và nhất định trung thành với VNQDÐ. Nhân dịp viếng thăm Saigon, Tuấn được hân hạnh quen biết thêm một vài bạn trẻ ở “Hội Kín Nguyễn An Ninh” và “Tân Việt Cách Mạng đảng”, hai Hội cách mạng mới thành lập.
Nhưng đời sống quá rộn rịp của “Kinh đô Ánh Sáng” không thích hợp với Tuấn chút nào cả. Mới ở được 5 hôm, một buổi tối Tuấn đi chơi về khách sạn, gặp anh bôì phòng ngồi trên chiếc ghế đẩu trước cửa vào. Anh bồi phòng cho Tuấn rõ có tên lính mã tà mướn phòng ở đối diện với phòng số 9 của Tuấn, và thừa lúc Tuấn đi vắng hẳn lẻn mở cửa phòng của Tuấn. Hắn có chìa khóa mở được phòng của Tuấn và lục soát đồ đạc của Tuấn để trong phòng. Ðồ đạc của Tuấn thì có chi! Một chiếc va li cũ kỹ đựng vài bộ quần áo Tây và An nam. Ngoài ra Tuấn có đem theo một mớ tiểu thuyết Pháp ngữ và Anh ngữ để đọc trong lúc rảnh, và một quyển tự điển Larousse, một quyển tự điển Anh mới mua ở Saigon.
Tuấn không một chút lo ngại, và còn mong người lính mã tà khám xét thiệt kỹ phòng ngủ của chàng để thấy rõ rằng chàng không có gì khả nghi, và chàng là nột người hoàn toàn lương thiện. Nhưng chiều hôm sau, Tuấn hết sức ngạc nhiên nhận được giấy gọi đến Sở Mật Thám Pháp ở Saigon.
Tại đây một viên thanh tra Pháp xem căn cước của Tuấn rôì hỏi:
- Cậu là sinh viên ở Hà Nội, cậu vô Saigon có việc chi?
Tuấn trả lời liền:
- Tôi vô Saigon để tìm việc làm.
- Ở Saigon không có việc làm cho cậu. Tốt hơn là cậu nên trở về Hà Nội.
- Tôi cũng định ở Saigon vài ba hôm nữa rồi trở về Hà Nội.
Viên thanh tra Mật thám Pháp ngó thẳng vào mắt Tuấn và truyền lịnh:
- Không, cậu phải mua vé xe lửa về Hà Nội ngay 7 giờ tối hôm nay.
- Thưa ông, tại sao tôi phải đi tối nay?
- Không tại sao cả. Nếu cậu còn ở lại Saigon đêm nay, tôi sẽ cho lính mã tà đến bắt cậu.
Tuấn không có đồng hồ. Ngó lên vách tường, đồng hồ của phòng giấy mật thám đã 5 giờ 30, Tuấn chỉ còn 2 giờ để sửa soạn hành lý và mua vé về Hà Nội. Tuấn đi ăn cơm ở tiệm các chú, ra đến ga chỉ còn 5 phút. Tuấn vội vã mua vé và xách va li, len lỏi đám đông hành khách ra bến tàu.
Một tên lính mã tà đứng soát giấy căn cước ngay tại chỗ cửa. Sợ trể tầu, không muốn cho hắn xét giấy, Tuấn xách va li đi thẳng. Người lính mã tà gọi Tuấn lại, và chạy theo Tuấn vừa gọi :
- Ê! Cậu kia!
Tuấn chỉ kịp bước lên tầu trong lúc Tàu suốt Saigon-Hà Nội hụ lên một tiếng chát tai và từ từ lăn trên đường sắt. Nghiêng đầu ra cửa sổ hạng tư ngó xuống bến, Tuấn còn thấy tên lính mã tà đứng hằn học chỉ ngón tay lên Tuấn, miệng chửi thề
- Ð. mẹ mầy!
Trên đường về Hà Nội, Tuấn có ghé lại vài thành phố quen thuộc ở Trung Kỳ: Nha Trang, Qui Nhơn, Tourane, Huế.
Mỗi nơi Tuấn chỉ ở hai hôm, hoặc ba hôm, và tìm lại các bạn cũ để dọ hỏi về tình hình địa phương. Hầu hết các bạn cũ của Tuấn, cùng học trước kia ở Quảng Ngãi, Qui Nhơn, những cậu học trò tinh nghịch, phá phách nhất, bây giờ đã trở thành những thầy Thông, thầy Phán, thầy Ký, thầy Trợ Giáo – những công chức Nhà Nước, oai vệ trong bộ Quốc phục, khăn đen áo dài, hoặc đàng hoàng trong bộ âu phục theo thời trang.
Mới xa cách ba năm (1927-1930), mà không khí đã đổi khác rất nhiều. Phong độ học trò không còn nữa trên nét mặt của những người bạn cũ. Tuấn rất ngạc nhiên là chính những bạn hăng hái nhất trong cuộc bãi khóa năm 1927 và các cuộc hoạt động quốc sự, một khi đã từ giã ngưỡng cửa học đưòng, đã trở thành những người công chức hiền lành ngoan ngoãn nhất. Gặp lại Tuấn, họ rất niềm nỡ vui vẻ, mời Tuấn về nhà dùng cơm vơí họ, ở chơi với họ một vài buổi, săn đón hỏi han rất thành thật hăng hái về Việt Nam Quốc Dân Ðảng và cuộc khởi nghĩa ở Yên Bái, về Nguyễn Thái Học, Nguyễn thị Giang v.v… Với một chút hãnh diện rất tự nhiên của kẻ đã được may mắn chứng kiến vài biến cố quan trọng của Lịch Sử hiện đại ngay trên đất ngàn năm văn vật, ở Thăng Long huyền bí xa xưa. Tuấn thuật lại cho người bạn cũ nghe vài ba chi tiết đặc biệt về các hoạt động của VNQDÐ trong giới trí thức và sinh viên học sinh ở Hà Thành. Các bạn Tuấn nghe hồi hộp say mê, gần như bị kích thích mạnh bởi những chuyện mạo hiểm ly kỳ, dũng cảm của tuổi trẻ hăng say vì lý tưởng.
Nhưng đêm đã khuya, khi Tuấn bắt đầu đưa ý kiến nên tham gia trực tiếp vào những hoạt động cụ thể nhằm mục đích phụng sự Cách Mạng ở ngay địa phương, thì các người bạn, kiếm cách từ chối. Họ sợ công việc sẽ đổ bễ, họ sẽ bị giam cầm tù tội, sẽ mất “nồi gạo”, và sợ liên lụy đến cha mẹ, vợ con.
Sự thật Tuấn rất thông cảm với thái độ hoàn toàn thụ động của các công chức ăn lương của Nhà Nước Bảo Hộ, nên không dám hoạt động chống Nhà Nước Bảo Hộ. Họ không thể bạt mạng như hồi còn là học sinh. Bây giờ mỗi người là chủ một gia đình, có bổn phận và trách nhiệm đối với vợ con, nhiều khi với cả cha mẹ, anh em nữa, vì đa số công chức Việt Nam thuở ấy làm việc để nuôi cả một gia đình đông đảo, tuy tiền lương không được dồi dào rộng rãi.
Vấn đề lương bổng liên quan trực tiếp đến đời sống hàng ngày của giới trung lưu. Trách nhiệm vật chất của người công chức đối với gia đình bên nội, bên ngoại là những trở ngại rất lớn cho lớp người trai trẻ có lý tưởng quốc gia, có chân tâm ái quốc, có chí hướng phụng sự cách mạng và tranh đấu cho độc lập tự do.
Hầu hết những bạn cũ có tâm huyết, đồng chí hướng với Tuấn lúc ở nhà trường đã từng mơ tưởng những giấc mộng phiều lưu mạo hiểm, muốn noi gương các bậc anh hùng trong Lịch sử, nuôi chí hồ-thỉ tang bồng, đều bị kẹt vào những hoàn cảnh thực tế và nhu cầu cần thiết của gia đình. Sau khi thi đỗ mảnh bằng Thành Chung, những thầy Thông, thầy Ký, các bạn ấy hưởng ứng sốt sắng và nhiệt thành khuyến khích, ủng hộ, nhưng chỉ trong tinh thần mà thôi.
Học đường đã đào tạo những cậu học sinh sinh viên tuấn tú, với một căn bản trí thức khá đầy đủ, vững vàng. Tổ quốc đã rèn đúc thành những chành trai có chí khí, có hoài bão, nhưng khi người bạn trẻ từ giã mái trường, thì gia đình lại đòi chàng về đễ phụng sự cho đời sống của gia đình trước đã.
Tuấn, vô tư nhận thấy rằng chính tình trạng “cầu an” của giới thượng lưu và trung lưu của xã hội An nam trước đây là nguyên nhân sự phát triển chậm chạp và khó khăn của các đảng Cách Mạng Quốc gia, mà đầu tiên là Việt Nam Quốc Dân Ðảng.
Trái lại, nhờ cuộc đi Saigon và lúc trở về ghé thăm mấy thành phố lớn của Trung Kỳ, Tuấn rất ngạc nhiên thu lượm những tài liệu bí mật chứng tỏ rằng Ðảng Cộng Sản Ðông Dương (Ðông Dương Cộng Sản Ðảng) đã bành trướng mau lẹ hơn và sâu rộng hơn trong giới đồng bào bình dân. Những cán bộ tuyên truyền Cộng sản đã chạm phải thái độ cầu an của các cấp Trung lưu, nên họ chỉ hoạt động mạnh trong các giới Công Nông mà thôi.
Nếu Cộng sản thành công hơn các đảng phái Quốc gia, chính là nhờ sự ủng hộ cuồng nhiệt của một số tín đồ trung kiên trong hai giới sau.
Về Hànội, Tuấn tường thuật rõ ràng cuộc du lịch vô Saigon và qua các tỉnh Trung kỳ cho các thanh niên đồng chí nghe. Tuấn kết luận như sau đây:
- Phải cải tổ chương trình hành động của VNQDÐ, làm cho thích hợp không những với hoàn cảnh của các giới thượng lưu và trung lưu, mà còn với giai cấp Công Nông nữa. PHẢI GẮT GAO TRANH DÀNH ẢNH HƯỞNG VỚI Đông Dương Cộng Sản đảng, vì chắc chắn sau này VNQDÐ sẽ phải đương đầu với Ðông Dương Cộng Sản đảng, VÌ HAI HỆ THỐNG LÝ TƯỞNG CHỐNG CHỌI NHAU TRÊN KHẮP CÁC PHƯƠNG DIỆN CHÍNH TRỊ, KINH TẾ, ÐẠO ÐỨC, LUÂN LÝ, GIA ÐÌNH, XÃ HỘI.
Sự thất bại đau đớn của VNQDÐ do cuộc khởi nghĩa quá sớm mà chưa kịp chuẩn bị kỹ càng về mặt tuyên truyền chánh trị cũng như kỷ thuật cách mạng, là bài học kinh nghiệm cho các hoạt động kể tiếp sau này.
Nếu cần, nên giao hết cho thanh niên trí thức, sinh viên cao đẳng và cao đẳng tiểu học, nhiệm vụ cải tổ hệ thống tuyên huấn của Ðảng.
Nhưng ý kiến của Tuấn đưa ra không được chấp nhận. Một số người mới của VNQDÐ phần nhiều ở trong giáo giới thủ cựu, những người có thiện chí nhưng vẫn theo mực thước cũ, không quan niệm được một sự cải tổ cấp tiến, và nguy hại hơn nữa là họ có mặc cảm tự ái và tự tôn đối với tuổi trẻ của thế hệ đang lên.
Xem thành phần của nhóm người mới, Tuấn không thấy một người nào có thể so sánh được, dù chỉ được 5 phần 10, với Nguyễn Thái Học. Không có ai vừa cứng rắn vừa sáng suốt như Ký Con. Nói thật ra không sợ mếch lòng, trong nhóm người đứng ra tiếp tục tranh đấu cho lý tưởng VNQDÐ sau khi anh Học chết, cho đến 1939, không có ai xứng đáng làm một lãnh tụ, một chân chính lãnh tụ.
Anh em sinh viên học sinh, thanh niên trí thức, không tín nhiệm nơi những người này nữa. Họ phân tán, sáp nhập vào những đảng khác, nhất là vào nhóm Thanh Niên Cách Mạng Ðồng Chí Hội có khuynh hướng cộng sản. Và cũng bắt đầu từ đấy Cộng sản hoạt động mạnh hơn trước nhiều, còn VNQDÐ thì bị chìm dần cho đến thời Nhật thuộc mới phát động mạnh trở lại. Nhưng VNQDÐ về sau sẽ bị một số người lợi dụng và chia rẻ hàng ngũ, không còn phong độ Cách mạng thuần tuý của Nguyễn Thái Học và Ký Con.
Ngay từ 1931, sau cuộc Khởi nghĩa thất bại, cũng như một số thanh niên trí thức, văn sĩ, sinh viên cao đẳng, học sinh trường Bưởi, Tuấn không muốn để ai lợi dụng lòng yêu nước thuần túy của mình.
Tuấn nhận thấy rất rõ rằng hoạt động chính trị được phát triển chừng nào thì đảng phái chính trị lợi dụng chừng nấy. Những người lợi dụng là những anh hùng cá nhân bất tài bất lực, chuyên dùng thủ đoạn vặt để tranh dành nhau làm lãnh tụ, gây uy tín và quyền lợi cá nhân trên lưng các đồng chí.
Ðó là nhận xét chung của một số thanh niên trí thức đã tha thiết say sưa với lý tưởng VNQDÐ, nhưng đã thất vọng nhiều với lờp người lãnh tụ mới, sau 1930.
CHƯƠNG 44
1931
- Phong trào chấn-hưng Phật Giáo - Ở Saigon - Ở Huế - Ở Hà-nội
- Châm ngôn " Phi cao đẳng bất thành phu phụ " của giới " tiểu thư lãng-mạn" Hà-thành.
Một hậu quả không ngờ của sự giác ngộ về chính trị, và tinh thần ái quốc phấn khởi của các giới chức Việt Nam, từ khi hai cụ Phan về nước và sau cuộc khởi nghĩa của Việt Nam Quốc Dân Ðảng là phong trào “Chấn hưng Phật giáo” bộc phát ở Saigon năm 1931.
Theo dõi các biến chuyển trong đời sống xã hội của Dân Tộc, Tuấn tìm hiểu đến tận gốc nguyên nhân cụ thể của các phong trào mới. Từ khi người Pháp đô hộ Việt Nam ta gần một thế kỷ, đạo Thiên Chúa đã gây được một thế lực khá rộng rãi và bành trướng khá mạnh. Ðồng thời đạo Phật bị hạn chế nghiêm khắc, bị khinh rẻ bởi triều đình Huế và bởi các quan An nam tôi tớ trung thành của Nhà Nước Bảo Hộ.
Nhưng từ năm 1920, ở Trung Hoa Dân Quốc đã nổi lên phong trào “bài ngoại “ chống văn minh tây phương, do đó chống cả Thiên Chúa Giáo. Một cuộc vận động chấn hưng Phật giáo được cổ xuý khắp nước Tàu, khởi điểm từ Nam Kinh, do các nhà trí thức đề xướng. Cuộc vận động ấy tràn qua Việt Nam được một số các nhà lão Nho hưởng ứng. Nhưng uy quyền của Pháp đang mạnh, thế lực Thiên Chúa Giáo mà thực dân Pháp coi như Công Giáo, được che chở, kính nể, đang bành trướng khắp nơi, nên các cuộc vận động chấn hưng Phật Giáo ở Việt Nam bắt nguồn từ Trung Hoa Dân Quốc năm 1920 đều bị ngăn trở và cấm đoán.
Phải đợi đến mười một năm sau, các trào lưu cách mạng làm xáo động tinh thần ái quốc của các giới trí thức ngấm ngầm đả kích các hình thức văn minh Pháp, lấy câu “ bảo vệ Quốc hồn Quốc Tuý” làm châm ngôn cách mạng, đạo Phật mới gặp cơ hội thuận tiện để vùng dậy, bắt đầu từ Saigon, nhượng địa của Pháp.
Ngày Tuấn vào Saigon lần thứ nhất, cuối năm 1930, phong trào chấn hưng Phật Giáo đã được cổ động khá rầm rộ trên các mặt báo Saigon. Theo phong trào này, Tuấn thân hành đến chùa Linh Sơn, đường Douaumont (nay đổi tên là đường Cô Giang) là trụ sở của “Nam Kỳ Nghiên Cứu Phật Học Hội”, Tuấn được gặp vị trụ trì ở đây, Hòa Thượng Lê Khánh Hòa, vị Sư ái quốc, chủ trương chấn hưng Phật Giáo và hội trưởng Nam Kỳ Nghiên Cứu Phật Học Hội.
Tuấn được Hòa thượng biếu một mớ Kinh Phật mới in xong. Hầu hết các nhân viên của Hội Phật Học này đều là cư sĩ, trí thức thượng lưu nam nữ, như đệ nhứt Phó Hội Trưởng Commis Chấn.
Phong trào Chấn hưng Phật Giáo ở Saigon được truyền bá ra Trung Kỳ rất mau chóng, và ngay năm sau, 1932, một Hội Phật Học được thành lập Huế, gọi bằng tiếng Pháp là : "Société d’ Encouragement à l’ étude de la Religion Bouddhique en Annam”, viết tắt là S.E.E.R.B.A.
Tuấn không hiểu sao người ta lại đặt cho Hội một cái tên Pháp dài dòng như vậy : “Hội Khuyến học Phật Giáo Trung Kỳ”. Tại sao không rút ngắn lại thành hội Phật Học Trung Kỳ chẳng hạn, vừa giản dị vừa đầy đủ ý nghĩa hơn.
Tuấn tò mò hỏi một vài người bạn làm Tham Tá ở toà Khâm thì họ giải thích rằng : Nhà Nước Bảo Hộ sợ có những người lợi dụng danh từ “Hội Phật Học” quá rộng nghĩa để phát triển mạnh mẽ phong trào Phật Giáo, cho nên bắt buộc những người sáng lập Hội rút hẹp phạm vi hoạt động. Mục đích của Hội chỉ là “Khuyến Học” Phật giáo mà thôi.
Vì thế, cho nên hội S.E.E.R.B.A. chỉ được coi như là một hội khuyến học đặt dưới quyền kiểm soát chặt chẻ của Chính quyền, theo những luật pháp bó buộc của chánh thế Bảo Hộ. Tất cả mọi hoạt động của Hội, dù là có tính cách hoàn toàn tôn giáo đều bị hạn chế trong khuôn khổ học Ðạo, và riêng trong lĩnh vực Trung Kỳ mà thôi.
Tuy vậy, phong trào chấn hưng Phật giáo ở Nam kỳ và Trung kỳ vẫn ngấm ngầm truyền bá ra đất Bắc. Năm 1934, một số trí thức Phật tử có tinh thần bài Pháp và chống Thiên Chúa giáo, đứng ra lập một hội Phật Giáo Bắc Kỳ và tôn Sư Cụ Vĩnh Ngiêm ở Bắc Giang làm Pháp chủ. Hội quán của Hội được đặt tại chùa Quán Sứ, đường Richaud, Hà Nội. Hội lại mở một nhà in và nhà xuất bản.
Tạp chí Ðuốc Tuệ của Hội được khá đông tín đồ hoan nghênh.
Hội Khuyến Học Phật Giáo Trung Kỳ cũng xuất bản tại Huế một tạp chí Phật Học lấy tên là Viên Âm.
Tuấn học ở Hà Nội, nhận thấy rằng các phong trào Chấn Hưng Phật Giáo không được bành trướng mạnh, một phần vì bị luật pháp của Nhà Nước Bảo Hộ hạn chế, một phần vì chính các Hội kia không có đủ phương tiện phát triển. Ngân quỷ rất nghèo nàn với tiền cúng dường của số ít hội viên giàu.
Song song với phong trào Chấn Hưng Phật Giáo năm 1931 ở Saigon, một “Thông Thiên Hội” cũng được thành lập do một nhóm người chủ trương, ở đường Vassoigne, Tân Ðịnh. Tạp chí Niết Bàn của nhóm ấy phát hành cũng được giới tín đồ Phật giáo hoan nghênh.
Phong trào chấn Hưng Phật Giáo bồng bột trong những năm 1931,1932, 1933, 1934, xét kỹ ra thì chỉ thích hợp với những lớp trí thức từ 40 tuổi trở lên và có tinh thần chống Pháp tiêu cực, nhất là ngấm ngầm chống ảnh hưởng và uy quyền của Thiên Chúa Giáo, lúc bấy giờ được Chánh Phủ Bảo hộ rất kiêng nể. Ðồng thời các nhà Sư chủ trương phong trào ấy cũng có tinh thần ái quốc kín đáo, khéo che đậy dưới một cuộc hoạt động tôn giáo hoàn toàn vì Ðạo Pháp.
Những nhân vật nổi bật của Phong Trào Chấn Hưng Phật giáo là Sư Cụ Lê Khánh Hòa, trụ trì chùa Linh Sơn, Saigon và ông Commis Chấn. Hội trưởng và đệ nhất phó Hội trưởng Hội “Nam Kỳ Nghiên Cứu Phật Học Hội” – sau đổi là “Linh Sơn Nghiên Cứu Phật Học Hội” – Hòa thượng Thích Mật Thể và ông Lê Đình Thám, Y-sĩ Ðông Dương (médecin Indochinois) ở bệnh viện Trung ương Huế, Hội trưởng Hội S.E.E.R.B.A (Trung Kỳ Phật Giáo Khuyến Học Hội) và ở Hà Nội là ông Nguyễn Văn Vĩnh và Sư Tổ Vĩnh Nghiêm.
Về sau, Chính phủ Bảo hộ muốn kiểm soát phong trào Phật Giáo Bắc kỳ, đã tìm cách đưa ông Nguyễn Năng Quốc, tổng đốc hưu trí, vào làm Hội trưởng Hội Phật Giáo Bắc kỳ.
Tuấn, chàng trai trưởng thành trong thế hệ Nguyễn Thái Học, đầu óc bị kích thích quá mạnh, và tinh thần tò mò qúa độ, chuyện gì cũng muốn biết, muốn xem, muốn học hỏi, nhân đi Saigon để tính lập một Kỳ bộ Thanh Niên Việt Nam Quốc Dân Ðảng nhưng không thành, đã tìm hiểu về các đảng cách mạng khác, và đồng thời cũng ghé thăm chùa Linh Sơn.
Ði ngang Trung Kỳ, chàng ghé thăm Huế và viếng thăm chùa Từ Ðàm, chùa Bảo Quốc, chùa Linh Mụ và gặp ông Lê Đình Thám.
Về Hà Nội, chàng tìm hiểu những hoạt động của Hội Phật Giáo Bắc kỳ ở chùa Quán Sứ.
Chàng nhận xét hai điều:
- Một là thanh niên không tham gia vào các phong trào này. Thấy trên bàn của chàng những tạp chí Ðuốc Tuệ (Hà Nội), Viên Âm (Huế), Niết Bàn của Hội Thông Thiên học Saigon, và các sách Phật của Hội Nam Kỳ. Nghiên cứu Phật học, nhiều bạn của chàng chế nhạo chàng là “gàn”. “21, 22 tuổi mà muốn đi tu”… Vả lại, đối với đa số thanh niên không nghiên cứu đến Phật giáo, những tạp chí trên quả thật là khó hiểu. Chúng thuộc về các loại sách mà giới sinh viên học sinh thời bấy giờ gọi là “sách nhồi sọ” (bourrage de crâne). Chỉ có những kẻ ương ương, gàn gàn thích những triết lý vẩn vơ, mới đọc những sách báo nhồi sọ ấy. Tuấn bị một số đông bạn bè liệt và hạng “cụ non” bất hủ.
Những ngày Rằm. Mồng Một hoặc những ngày Vía Phật, Tuấn đến chùa Quán Sứ chỉ thấy toàn là các cụ, các ông, các bà, với vẻ mặt thành kính, tin tưởng. Thỉnh thoảng mới có một cô thiếu nữ đi theo các bà cụ, nhưng để bưng các quả đèn hương, oản, chuối, để cúng nhà Chùa. Trên điện thờ, tượng Phật ngồi điềm nhiên, lặng lẽ, mắt nhắm như không muốn thấy cảnh tín ngưỡng nhộn nhịp chung quanh.
Các nhà Sư cũng vậy, không niềm nở sốt sắng, ông nào cũng có vẻ trầm ngâm, đạo mạo, như tách hẳn ra ngoài vòng thế tục.
- Hai, là Phật giáo như một thế giới riêng biệt, huyền mơ trong sương khói, không trực tiếp liên quan gì đến Ðời Người. Phong trào Chấn Hưng Phật Giáo có lẽ vì thế mà không được bành trướng sâu rộng trong xã hội.
Tuấn suy nghĩ về tình hình tổng quát của Nước Nhà, nhận thấy rằng sau một cuộc chiến tranh, hay một biến cố rung rợn khủng khiếp như cuộc khởi nghĩa đầy máu lửa của Việt Nam Quốc Dân Ðảng ở các tỉnh Bắc kỳ (người Pháp Albert de Pouvourville có viết một quyển sách nói về đêm khởi nghĩa ở Yên Bái, nhan đề là “La nuit rouge de Yên Bái” và cuộc xử chém Nguyễn Thái Học và 12 đồng chí, lòng người dân Việt Nam đâm ra chán nản, tự nhiên quay về tìm Ðạo Từ Bi, Hỷ Xã để được yên tỉnh trong tâm hồn.
Những người đến chùa lạy Phật, không có quan niệm chen đua với đời, nên phong trào Chấn Hưng Phật Giáo chỉ có đôi chút nôn nao trong khung cảnh lặng lẽ của Nhà Chùa, ít có tiếng vang xao động ngoài trần thế.
Phái thanh niên, cả nam lẫn nữ, ở Bắc kỳ cũng như ở Trung và Nam kỳ, không những đã không tha thiết tham gia vào công cuộc trùng hưng Phật học, mà trái lại họ còn hùa theo các phong trào lãng mạn vừa chớm nở, sau 1931.
Tuấn cũng theo sát những biến cố gây ra phong trào này. Nói đúng hơn, đây là một cuộc phục hưng của phong trào lãng mạn (renaissance du courant romantique de 1925).
1925, Tuấn còn học ở Qui Nhơn, mới 13 tuổi chưa biết gì, hãy còn là một cậu học trò quê mùa, ngớ ngẩn, thì ở Hà Nội, trường Cao đẳng Ðông Dương (Université Indochinois) - Ðại học “lô can” – đang đào tạo một lớp sinh viên Tây học hoàn toàn theo ảnh hưởng văn học Pháp.
Một trong đám sinh viên trẻ tuổi ở lớp Sư Phạm, là Hoàng Ngọc Phách, có viết một quyển tiểu thuyết nhan đề là “Tố Tâm”. Ðó là quyển tiểu thuyết lãng mạn đầu tiên, do nhà sách Nam Kỳ ở Bờ Hồ, xuất bản.
Trong lúc các sinh viên trường Cao đẳng Hà Nội được trọng vọng và phong trào các cô “tiểu thơ “ khuê các chỉ ham lấy chồng Cao đẳng được lan tràn trong giới Nữ Lưu (Phi Cao đẳng bất thành phu phụ) thì tiểu thuyết Tố Tâm ra đời, vừa đúng lúc để đưa phong trào ấy lên đến tuyệt đỉnh.
Tác giả Song An Hoàng Ngọc Phách, sinh viên Cao đẳng Sư phạm, trở thành thần tượng của tất cả các cô gái Hà Nội, Tố Tâm thành quyển truyện đầu giường của toàn thể thanh niên nam nữ vào lứa tuổi từ 18,19 đến 30. Tố Tâm được bạn trẻ thế hệ 1925 hoan nghênh nhiệt liệt, chính vì nó là quyển truyện ái tình, trong đó diễn tả tình yêu của một sinh viên Cao đẳng với một “ tiểu thư“ khuê các, tượng trưng cho những tình yêu lãng mạn trưởng giả thời bấy giờ.
Phong trào tiền lãng mạn (mouvement pré-romantique) của Tố Tâm còn dư âm đến những năm 1926-1930 thì bỗng dưng ngưng hẳn lại vì cuộc khởi nghĩa đẩm máu của Việt Nam Quốc Dân Ðảng ở các tỉnh Bắc Kỳ, và nhất là vụ 13 liệt sĩ QDÐ bị lên đoạn đầu đài ở Yên Bái, tháng 6.1930.
Ngưng chỉ ngưng được 2 năm, thời gian Phật giáo muốn nổi lên dưới hình thức “ chấn hưng và khuyến học “ của các nhà tu sĩ lão thành nặng lòng vì nước muốn bảo tồn một truyền thống quý báu của Dân Tộc.
Lớp thanh niên trí thức lứa tuổi của Tuấn, chỉ theo dõi với nhiều thiện cảm phong trào Phật Giáo, như một phong trào có khuynh hướng bảo vệ “Quốc Hồn Quốc Tuý”. Nhưng họ không sốt sắng hưởng ứng những hoạt động tiêu cực mà tuổi trẻ cho rằng có tính cách yếm thế, có lý tưởng quá mờ mịt cao xa.
CHƯƠNG 45
1931
- Hoàng Tích-Chu và " Le Retour de France "
- Phong trào " Tiểu thư đi bộ "
- Hai tiệm khiêu vũ đầu tiên mở ra ở Hà Nội.
- Phản ứng của báo chí và dân chúng.
- "Tiểu Thư Tân Thời" và các bài danh ca của ca sĩ Pháp Tino Rossi.
- Hội Ái Tino, phố hàng Bún.
Giữa lúc đó, vài phần tử thanh niên trí thức du học ở Pháp về khoảng năm 1930 nhưng có những lý tưởng khác nhau, đã biến đổi nếp sống thầm lặng, còn đầy cổ điển của Hà Nội, thành một không khí lãng mạn hoàn toàn mới hẳn.
Tuấn tìm cách tiếp xúc với những phần tử ấy, cốt để hiểu họ. Một phần vì tính tò mò của Tuấn, muốn học hỏi những mới lạ của những người đáng tuổi anh mình đi du học từ Pháp mới về, một phần vì những phong trào do họ gây ra đã làm sôi nổi dư luận của người Hà Nội. Những thanh niên du học ở Pháp mới về, được gọi chung bằng một danh từ “Retour de France “.
Một buổi sáng mùa hè, một tờ tuần báo mới ra đời, một lối trình bày độc đáo, khác hẳn tất cả các báo xuất bản từ trước ở Hà Nội, Huế, Saigon, và được giới sinh viên, học sinh hoan nghênh nhiệt liệt. Ðó là tờ Ðông Tây mà chủ nhiệm kiêm chủ bút là Hoàng Tích Chu. Vừa trông thấy tờ Ðông Tây, manchette in đỏ tươi, treo bán sau tủ kiếng tiệm sách Nam Kỳ ở Bờ Hồ Hoàn Kiếm, Tuấn vội vàng mua ngay một tờ (lúc bấy giờ ở Hà Nội không có các sạp báo trên lề đường. Các tuần báo được treo sau tủ kiếng các tiệm sách và bán trong tiệm. Báo hằng ngày, chỉ có ba bốn tờ, được tụi con nít ôm đi bán rong).
Tờ Ðông Tây không những khác biệt các tuần báo trong xứ bằng cách trình bày các mục, mà khác cả ở lối viết văn. Ấn loát tinh vi, tiến bộ hơn nhiều. Văn viết rất gọn gàng, câu văn ngắn chứ đựng đầy đủ ý nghĩa, không dài lê thê như trong các sách báo hiện hành.
Tuấn say mê đọc những đoạn văn như sau đây trong một số báo Ðông Tây, của Hoàng Tích Chu: “Ðông Tây không gặp nhau” Rudyard Kipling nói đúng, nhưng không đúng hẳn. Ðông trọng về tinh thần, Tây quá trọng về vật chất. Nhưng Ðông Tây đã gặp nhau. Tinh thần vật chất hòa hợp. Triệu chứng loài người tiến bộ …" Ðó, một mẫu văn của Hoàng Tích Chu. Ít khi một câu dài quá một dòng. Những ý tưởng cô đọng trong những chấm và phết. Tuấn có đến thăm Hoàng Tích Chu một buổi sáng tại toà soạn báo Ðông Tây, với tư cách một độc giả trẻ tuổi có nhiều cảm tình. Cảm tình vì trong lúc hầu hết thanh niên trí thức An nam đi du học bên Pháp đều học làm bác sĩ, trạng sư, kỹ sư, thì Hoàng Tích Chu và Ðỗ Văn, bạn của anh, ở Paris mấy năm học nghề nhà in và viết báo. Ðỗ Văn về một lượt với anh và cùng anh hợp tác mở tờ Ðông Tây để thi thố kỹ thuật mới về ấn loát và văn nghệ.
Hoàng Tích Chu là một nghệ sĩ tài hoa, phong nhả. Rất tiếc đời anh quá ngắn ngủi. Thời gian làm Chủ bút báo Ðông Tây, anh không giàu, nhưng anh được tình yêu trung thành cảm động của một Kỹ Nữ ở Khâm Thiên, lừng danh khắp Bắc kỳ và Trung kỳ: cô Ðốc Sao.
Cô Ðốc Sao, xưa kia, là một ả đào có giọng hát trong như ngọc, gương mặt đẹp như tiên, nụ cười “ nghiêng nước nghiêng thành “đã làm sụp đổ biết bao nhiêu gia tài của khách làng chơi sang trọng. Những công tử, công tôn từ các nơi tìm đến, những Quan lớn từ Huế và những Ðốc Phủ Sứ từ Saigon Lục tỉnh ra, say mê giọng hát và nụ cười của cô, có khi ăn dầm nằm dề ở nhà cô cả tháng. Nhưng không bao giờ cô ban cho ân huệ tối hậu như họ thèm thuồng van lơn. Ấy thế mà cô yêu Hoàng Tích Chu, một văn sĩ nghèo, một nhà báo kiết. Và cô say mê anh, xin làm vợ anh, lo tươm tất cho đời sống của anh, cho cả tờ báo của anh.
Một hôm Tết, Tuấn nhận được thiệp của cô Ðốc Sao:
Madame Hoàng Tích Chu. Chữ “Madame” đó khiến cho Tuấn vô cùng cảm động. Khi anh Hoàng Tích Chu đã qua đời, danh thiếp của cô Ðốc Sao đổi lại:
Mme Veuve Hoàng Tích Chu (Bà quả phụ Hoàng Tích Chu) và một băng tang trên góc.
Hoàng tích Chu là người đã tạo ra phong trào lãng mạn Văn nghệ I -1930-1932, rồi sau đó mới kế tiếp nhóm Phong Hóa của Nguyễn Tường Tam và các nhóm Thi Văn sĩ lãng mạn từ 1932 trở về sau.
Ðồng thời, một nhóm khác gây được phong trào lãng mạn trong giới thể thao phụ nữ, và tổ chức rầm rộ một cuộc phụ nữ đi bộ từ Hà Nội xuống Hải Phòng.
Một số trên mười cô, phần đông là nữ sinh “tân thời” hưởng ứng phong trào và được các hội thể thao các tỉnh ở dọc đường đón tiếp long trọng mỗi khi đoàn bộ hành đi tới một thành phố nào. Từ Hà Nội đến Hải Phòng đường dài 100 cây số. Ðể chứng tỏ rằng các cô thuộc về thế hệ thiếu nữ tân tiến và đính chánh danh từ “phái yếu”, mặc dầu các cô chân yếu tay mềm các cô quyết định đi bộ hết con đường thiên lý ấy. Nhưng các cô đi mất ba ngày mới đến đích.
Vài ba cô bỏ cuộc ở dọc đưòng, vì đi không nổi nữa. Các cô khác đến Hải Phòng đều mệt lả, phải trở về Hà Nội bằng xe lửa.
Phong trào này được dân chúng và nhất là giới thanh niên cả nam lẫn nữ theo dõi với một nụ cười chế nhạo. Người ta đặt ra danh từ “tiểu thư đi bộ“ rất được thông dụng với ý nghĩa khôi hài. Một giáo sư Thiên Chúa Giáo, rất giỏi về tiếng La Mã và Hy Lạp, nhưng phải tính hơi gàn gàn, Pétrus Lê Công Ðắc, có viết ra một hài kịch nhan đề là “Tiểu thư đi bộ”, suýt bị mấy cô đón đánh ngoài phố.
Dư luận chung của đồng bào các giới thì chê cười rằng: "có lẽ mấy cô tiểu thư kia, con nhà quyền quý, ít có dịp đi bộ cho nên mới cho rằng việc đi bộ là mới lạ, và cổ động rùm beng, chứ chị em thôn nữ đi bộ hằng ngày từ xưa đến nay có cần cóc gì phong trào tân tiến lãng mạn đó đâu."
Cuộc “ tiểu thư đi bộ “ chỉ gây được một tiếng cười mỉa mai chứ không có ảnh hưởng gì đến đời sống của các cô gái được gọi là “ tiểu thư tân thời”.
Tuấn theo sát các phong trào của thời đại, nhận xét rằng danh từ “tiểu thư” có ý nghĩa rõ rệt là chỉ có các thiếu nữ con nhà trâm anh thế phiệt, phần nhiều là con các quan, hoặc con nhà giàu, mới tham gia các phong trào lãng mạn mới nẩy nở, chỉ sốt sắng theo các cải cách về y phục (kiểu áo mới, giầy cao gót v.v…). Hầu hết con gái bình dân và trung lưu đều bảo thủ nề nếp nho phong cổ cựu.
Ðồng thời ở Khâm Thiên, ngoại ô Hà Nội, Tuấn thấy mở ra hai tiệm khiêu vũ đầu tiên, hai thanh niên du học ở Pháp mới về. Một tiệm do người em cô Ðốc Sao làm chủ, tên là Vũ Ðình Hải, và một tiệm do một chàng có cái tên “ lãng mạn “ là Jean Dod Khang. Những vũ nữ đầu tiên của hai tiệm này phần nhiều là các cô ả đào.
Hai tiệm “ nhẩy đầm” vừa mở ra, lôi kéo được một số công chức làm thông phán ở Phủ Toàn Quyền, phủ Thống Sứ, hoặc ở các công sở khác, phần nhiều là những ông ăn lương cao, và chưa có vợ. Giới giáo sư và sinh viên chưa muốn đến các nơi này, trừ những người du học ở Pháp về.
Các báo mở ra một trận bút chiến khá sôi nổi chung quanh đề tài : “Người An nam có nên khiêu vũ không ?”. Một số dư luận đông đảo đều kịch liệt công kích môn nhẩy đầm. Trái lại, có những bài rất tán thành khiêu vũ, và tác giả đã viện ra những lý do về nghệ thuật, coi đó là môn giải trí tao nhã của văn minh Tây phương.
Ðại đa số sinh viên, học sinh, đều công kích khiêu vũ. Nhưng dần dần chính nhiều cậu sinh viên đã công kích hăng hái nhất lại bị lôi cuốn mau nhất bởi cái mà trước kia họ cho là đồi phong bại tục.
Tuấn là một trong số sinh viên “muốn tập” nhẩy đầm thử xem sao, và Tuấn đã thường đi nhẩy những bản Tango, Fox-trot, Valse, cùng vài người bạn, trong những tối chủ nhật.
Phong trào khiêu vũ bị công kích mỗi ngày một kịch liệt, nhưng nó vẫn lan tràn mỗi ngày mỗi mạnh trong giới thanh niên trưởng thành từ 21, 22 tuổi đến 40 tuổi.
Tuấn nhận thấy rằng trong vài năm đầu, vũ nữ toàn là những cô ả đào hoặc những cô gái làng chơi. Giới nữ sinh dù là phái tiểu thư tân thời, vẫn còn tránh xa các vũ trường. Thành kiến khiêu vũ là bất lương, là đồi phong bại tục vẫn còn ăn sâu trong quan niệm của phụ nữ Hà Nội thời bấy giờ.
Tuy nhiên, để bù lại, các cô đã bắt đầu say mê “nhạc cải cách” danh từ rất thông dụng để chỉ về tân nhạc, theo điệu những bài hát Tây. Tài tử ca sĩ Pháp được các giới thanh niên nam nữ, nhất là nữ, mê say lúc bấy giờ là Tino Rossi.
Khắp các thành phố Hà Nội, Nam Ðịnh, Hải Phòng, và sau đó tràn lan vào Huế, Saigon, Mỹ Tho, Cần Thơ, ở các thành phố lớn số đông các cô “tiểu thư tân thời”, các bài hát của Tino Rossi được phổ biến rất nhanh. Ở Hà Nội, đi đường nào Tuấn cũng nghe các cô hát: "J’ai deux amours, mon pays et Paris - Je t’aimerai toujours – C’est à Capri que je l’ai rencontrée, v.v…"
Một hôm, Tuấn được một cô bạn học cùng lớp đưa đến một căn gác trọ ở Rue des Vermicelles, nơi tụ họp của “ Hội Ái Tino”, gồm toàn các nữ sinh viên yêu Tino Rossi, thờ Tino như một thần tượng. Các cô nhóm họp mỗi tuần một lần, tối chủ nhật, để hát những bản của Tino Rossi, dưới một bức ảnh của Tino đẹp trai rọi lớn và lồng kính đóng khung vàng.
Tuấn đuợc các cô cho biết rằng “Hội Ái Tino“ không nhận hội viên đàn ông con trai, vì các cô chỉ “ thờ” người đàn ông duy nhất là thần tượng của họ.
Số hội viên của Hội Ái Tino không quá 20 người. Tuấn được giới thiệu đến đây là một trường hợp đặc biệt, nhưng không nhận vào Club (thường các cô gọi bằng tiếng Pháp lai Anh Việt Pháp là: Club Ái Tino). Vả lại, Tuấn không thích hát và cũng không phải là một “admirateur” của Toni Rossi.
Quyển tiểu thuyết Tố Tâm của Song An Hoàng Ngọc Phách đã mất thời gian tính và đã bị các phong trào lãng mạn mới vượt qua. Tiểu thuyết ái-tình lãng mạn bán chạy nhất trong thời kỳ 1930-1932, là quyển Tuyết Hồng Lệ Sử dịch của Tàu, và quyển Mồ Cô Phượng. Ngày nay, ít ai có nhớ tên tác giả.