Diễn đàn của người dân Quảng Ngãi
giới thiệu | liên lạc | lưu niệm

 April 09, 2025
Trang đầu Hình ảnh, sinh hoạt QN:Đất nước/con người Liên trường Quảng Ngãi Biên khảo Hải Quân HQ.VNCH HQ.Thế giới Kiến thức, tài liệu Y học & đời sống Phiếm luận Văn học Tạp văn, tùy bút Cổ văn thơ văn Kim văn thơ văn Giải trí Nhạc Trang Anh ngữ Trang thanh niên Linh tinh Tác giả Nhắn tin, tìm người

  Văn (Kim văn)
TUẤN CHÀNG TRAI NƯỚC VIỆT (Ch.46-50)
NGUYỄN VỸ

CHƯƠNG 46

1932
- Một vụ ngoại tình làm sôi nổi dư luận Hà nội đến cực điểm.

- Phụ nữ Huế chống phong trào lãng mạn của phụ nữ Hà nội.

- Hội kín cách mạng nẩy nở ở Trung kỳ.

- Cộng sản nổi dậy lần đầu tiên ở Nghệ An và Quảng Ngãi.

- Lính "lê dương" của Tây từ Hà nội vào, tiêu diệt phong trào Cộng sản.

- Khác biệt giữa Cộng sản Trung kỳ, Cộng sản Bắc kỳ và Nam kỳ.

Tuấn có một người bạn thân quê ở Quảng Nam, anh Phan Thanh, nguyên là Trợ giáo, dạy tại trường Thăng Long ở góc phố Hàng Cót (rue Takou) và phố Cửa Bắc (boulevard Carnot). Một trường cao đẳng Tiểu học dạy thi “ diplôme d’études primaires supérieures (trung học đệ nhất cấp) lớn nhất ở Hà Nội. Phan Thanh giới thiệu Tuấn vào dạy trường này. Tuấn dạy mỗi tuần 2 giờ Pháp văn ở lớp đệ nhị niên, vài giờ ở đệ nhất niên.

Tuấn mặc bộ đồ tây xấu xí bằng vải nội hóa, bị học trò chế nhạo là “thầy giáo quê mùa”.Tuấn lại có thói hút thuốc Mélia nhiều quá, nên bị học trò đặt cho cái tên riêng là Monsieur Mélia. Nhưng từ hôm chàng giảng cho học trò bài "Le petit Gavroche" trích trong bộ "Les Misérables" của Victor Hugo, học trò hết chế nhạo Tuấn và trái lại thương Tuấn lắm.

Dân chúng Hà Nội lúc bấy giờ đang bàn tán xôn xao về vụ ông phán sở Bưu điện ngoại tình với một bà giáo sư, vợ của một ông phán cùng sở, bạn thân của ông. Những chuyện “bạn và vợ“ không phải là hiếm ở xã hội An nam bất cứ ở thời đại nào, nhưng vụ “Th.Kh.Th“ sở dĩ gây ra dư luận vô cùng sôi nổi không riêng ở Hà Nội, mà cả xứ Bắc kỳ, là vì bộ ba này là những nhân vật cao cấp trong hành chánh, mà người đàn bà ngoại tình lại rất có tiếng trong giới trí thức nữ lưu. Người chồng bắt được đôi gian phu dâm phụ trong một tòa nhà ở miền duyên hải. Do đó, vụ tai tiếng nổ bùng ra, làm rùm beng, gây vang dội khắp các giới trong xã hội.

Ngay trước cửa trường Thăng Long, có một nhà cho thuê xe đám ma, chủ nhân tên là Louis Chức (ông này thời Việt Minh đổi tên là Lưu Chức). Muốn lợi dụng cơ hội để quảng cáo cho cơ sở của ông, Louis Chức bèn tổ chức một cuộc dàn cảnh để đả kích vụ ngoại tình “bạn và vợ“ kia. Ðề tài của cuộc biểu diễn là “voi dày ngựa xé“, mà ông chủ cho thuê xe đám ma thực hiện bằng cách buộc nơi bốn chân ngựa và voi của ông cái hình nộm đôi gian phu dâm phụ. Voi và ngựa bước đi là hai hình nộm đó bị xé ra tơi bời. Dân chúng các đường phố đổ ra xem cảnh “voi dày ngựa xé“ của Louis Chức, bêu xấu đôi gian phu dâm phụ của giới trí thức Hà thành. Học trò lớp Pháp văn đệ nhị niên của Tuấn xin Tuấn cho làm một bài luận về đề tài thời sự hấp dẫn đó. Một dịp để đám học sinh 16, 17 tuổi đua nhau mạt sát vụ đồi phong bại tục và đề cao tinh thần đạo đức Á đông.

Bên cạnh đám thanh niên trí thức “retour de France” gây ra phong trào lãng mạn 1932 được giới tiểu thư tân thời huà theo hăng hái, có một nhóm khác gồm mấy chàng trai trẻ có óc khôi hài, tìm cách chế nhạo và mỉa mai lớp phụ nữ gọi là “tân tiến“ kia, và những kẻ đàn ông lợi dụng phong trào.

Họ đặt ra một câu lạc bộ “những người ghét đàn bà” mà họ gọi bằng tiếng Pháp là “club des misogynes” và xuất bản một tờ tuần báo bằng Pháp văn in bằng mực tím, khác hẳn các tuần báo khác về phương diện kỹ thuật, trình bày cũng như nội dung.

Một trong đám thanh niên “nghịch ngợm“ này cũng vừa du học ở Pháp về, có mở một tiệm sản xuất mũ theo phương pháp Âu tây. Chàng ký tên là Ch. Mau’s, mà Tuấn nghe nhiều người nói tên thật là Chu Mậu. Tuấn đọc tờ báo "Les Misogynes" cảm thấy thích thú vì lời văn trào phúng theo lối Pháp khá hấp dẫn. Nhưng tờ báo chỉ ra được một vài số rồi chết, có lẽ vì không được đa số bạn trẻ hoan nghênh.

Tuấn theo dõi các phong trào lãng mạn bành trướng ở Hà Nội trong lãnh vực văn nghệ, báo chí, thể thao, phụ nữ, phong tục, hầu hết đều do đám thanh niên trí thức du học ở Pháp về đề xướng, Tuấn có nhiều cơ hội làm quen với các bậc đàn anh này, và tìm hiểu họ. Nhưng chàng cảm thấy giữa họ và thanh niên trí thức trong nước, kể cả sinh viên trường Cao đẳng Ðại học Ðông dương ở Hà Nội, vẫn có một cách biệt sâu rộng khó dung hòa với nhau.

Trí thức trong nước dù có học cao học giỏi đến đâu chăng nữa, dù hấp thụ rất nhiều văn minh Âu Tây, vẫn giữ vẹn nề nếp nho phong của dòng giống Việt Nam. Trái lại, số đông trí thức du học ở Pháp về thường có mặc cảm tự tôn, hãnh diện rằng họ đã sống bên Pháp, nguồn gốc của cái văn minh mà người An nam ở “bổn xứ” đang tìm tòi học hỏi. Họ vẫn tỏ vẻ khinh trí thức ở nhà, cho đến đỗi một trong số bạn trẻ "Retour de France", Nguyễn Mạnh Tường, Tiến sĩ Văn chương Pháp, viết trên một tờ báo Pháp văn ở Hà Nội đã gọi đám thanh niên trí thức An nam là “primaires“ (tiểu học) và đã gây ra một cuộc bút chiến khá kịch liệt giữa Nguyễn Tiến Lãng với một thanh niên trí thức Hà Nội.

Phong trào lãng mạn bộc phát từ 1932 tại Hà Nội không được bành trướng ở Trung Kỳ.

Khác với Hà Nội, các cô con gái nhà quý tộc ở Huế đông hơn nhiều, và đa số xuất thân từ trường Nữ Trung Học Ðồng Khánh, nhưng vẫn giữ tinh thần giáo dục Á đông. Họ không thích hùa theo các phong trào “ tiểu thư tân thời” của lớp gái mới Hà Nội. Nhiều bài thơ Ðường luật, hoặc Cổ phong, đăng trong báo Tiếng Dân của Cụ Huỳnh Thúc Kháng, mỉa mai các “cô tân thời rỡm”, phản ảnh trạng thái tinh thần cổ kính ấy.

Sự hiện diện của cụ Phan Bội Châu, “ông già Bến Ngự” mà ảnh hưởng tinh thần hãy còn sâu rộng trong xã hội đế đô, còn bảo đảm cho đạo đức Việt Nam. Tuy cụ không còn hoạt động gì được nữa, nhưng cụ vẫn được toàn thể dân chúng, kể cả giới quan lại trong Triều đình An nam, coi như một thần tượng còn sống mà mọi người, nhất là giới trí thức tân cũng như cựu, đều tôn sùng.

Vì vậy, các phong trào lãng mạn ở Bắc kỳ, không xâm nhập được ở Huế và các thành phố lớn như Vinh, Tourane, QuiNhơn, Nha Trang.

Nếu thỉnh thoảng có một số gái mới y phục và hành động lố lăng, thì đó là thuộc giới ít học, hoặc gái làng chơi mà thôi. Sự cách biệt giới phụ nữ trí thức và loại gái tân thời rỡm rất là rõ rệt.

Trái lại phong trào “hội kí”, tức là các hoạt động cách mạng bí mật chống Pháp, lại bành trướng ở Trung kỳ, từ 1930 mạnh hơn lúc nào hết.

Phong trào này chia ra làm hai loại có tính cách khác nhau hẳn.

Loại tiểu tư sản (petite buorgeoise) gồm đa số các thầy trợ giáo, tức là giáo sư đệ nhất và đệ nhị cấp, và thông phán (công chức các công sở Bảo hộ). Những phần tử này có tinh thần quốc gia thuần tuý, thường gia nhập vào đảng Tân Việt, hoặc Việt Nam Phục Quốc Hội, nhưng hoạt động dè dặt.

Trái lại, loại bình dân, gồm đa số phú nông và điền chủ, nhất là bốn tỉnh Nghệ An, Hà Tỉnh, Quảng Nam, Quảng Ngãi, hoạt động lại cuồng nhiệt theo đảng Cộng Sản Ðông Dương.

Năm 1930, cộng sản nổi dậy đầu tiên tại phủ Ðô Lương (Nghệ An) và các phủ huyện Mộ Ðức, Ðức Phổ, Bình Sơn, Sơn Tịnh (Quảng Ngãi), thành một cuộc nổi loạn đầy máu và lửa vô cùng khủng khiếp. Ở Quảng Ngãi, người cầm đầu vụ này là Nguyễn Nghiêm, người anh con ông bác của Tuấn.

Thoạt tiên nghe tin này, Tuấn hết sức ngạc nhiên. Tuy học ở Hà Nội, Tuấn không có dịp gần gũi người anh họ, nhưng biết anh từ thuở thiếu thời, và thỉnh thoảng trong thời kỳ đi học xa Tuấn được về nghỉ hè một vài tháng ở quê nhà vẫn thường gặp Nguyễn Nghiêm.

Chàng tuyệt nhiên không ngờ người anh họ nhà quê đó lại là một tay cộng sản, hơn nữa, là người cầm đầu cuộc nổi loạn cộng sản Quảng Ngãi năm 1930.

Nguyễn Nghiêm là con trai độc nhất, tuy là con thứ mười của ông Nguyễn Tuyên, Tú tài Hán học ở làng Tân Hội, huyện Ðức phổ, Quảng Ngãi. Ông tú đã bị 5 năm tù ở Côn Lôn sau phong trào Duy Tân ở Quảng Ngãi. Mãn hạn tù, ông về làng dạy học và làm nghề đông y.

Sau khi ông qua đời, Nguyễn Nghiêm làm nghề thuốc tập sự, nối nghiệp cha. Anh vào trạc 30 tuổi, người mảnh khảnh, hiền lành và ít nói. Anh hoàn toàn là một chàng trai ở thôn quê, biết chữ Hán qua loa như những chàng trai khác ở trong làng.

Theo lối phân chia giai cấp của cộng sản thì anh thuộc về thành phần đại điền chủ, giàu ruộng đất nhất trong làng, vì anh thừa kế hai gia tài hương hỏa của ông nội và của cha.

Tuấn không biết Nguyễn Nghiêm theo cộng sản từ bao giờ. Chàng chỉ nhớ rằng năm 1929 ở Hà Nội về quê nghỉ Hè, chàng được gặp Nguyễn Nghiêm một lần khiến chàng vô cùng ngạc nhiên. Nghe Tuấn ở Hà Nội về, Nghiêm đến thăm, và đưa Tuấn xem hai quyển sách bằng chữ Pháp: ”De L’impérialisme” của Boukharin, và “Le Marxisme et le problème national” của Staline.

Nghiêm không hiểu tiếng Pháp, nhờ Tuấn dịch dùm ra chữ quốc ngữ. Sau khi đã xem hết hai quyển sách trong hai ngày, Tuấn từ chối việc dịch, vì chỉ nghỉ ở quê nhà được có 15 ngày, không có thì giờ. Nhưng Tuấn ngạc nhiên thấy Nghiêm có hai quyển sách cộng sản bằng Pháp văn. Ngoài ra, Nghiêm không hề nói chuyện gì về Chủ Nghĩa Cộng Sản mà anh cho là một hình thức của Chủ Nghĩa Quốc Gia!

Cuộc hoạt động bí mật của Cộng sản trong toàn tỉnh Quảng Ngãi, đặt biệt trong giai cấp tư sản nông thôn, đã thành công. Và đây là một điều rất lạ, hầu hết những đảng viên sốt sắng tham gia vào đảng Cộng sản Quảng Ngãi, đều là các điền chủ, các địa chủ khá giả trong thôn quê. Dĩ nhiên, thiểu số nhà đại phú, đaị thương gia hoặc quan lại đều không tham gia vào đảng, nhưng chính những kẻ gọi là “bần cố nông” nghĩa là những người cày thuê gặt mướn, nhưng nông dân không có ruộng đất, lại cũng đứng ngoài phong trào cộng sản. Hoặc họ chỉ ủng hộ suông mà thôi, chứ không đóng vai trò trọng yếu trong các cuộc hoạt động của đảng. Ðây là Tuấn nhận xét khách quan về tính chất mâu thuẫn của cộng sản Quảng Ngãi năm 1932, lúc mới phát khởi phong trào.

Một đêm không trăng, muà Hè 1930, vào khoảng giữa canh một, cộng sản nổi dậy khắp các phủ, huyện tỉnh Quảng Ngãi. Ở huyện Ðức Phổ, cuộc khởi loạn bùng dậy ở làng Tân Hôị, quê của Nguyễn Nghiêm, vào lúc 8 giờ đêm. Cộng sản tụ họp hàng ngàn người tại một gò đất cao và đốt đuốc sáng rực cả một góc làng, nổi trống và mõ inh ỏi.

Họ bắt giết, chặt đầu bằng dao và rựa, những người làm việc “cho Tây”, trong số đó có một Phó Tổng, một người lính “phú lít” - cảnh sát – đã về hưu trí, và một ngươì nữa trong làng. Mấy người này chạy trốn ra ruộng, bị cộng sản đuổi bắt được và chặt làm ba khúc. Xong, họ kéo nhau đi xuống Huyện. Ðường quan lộ từ làng Tân Hội xuống huyện lỵ Ðức Phổ dài đến 10 cây số, họ cầm đuốc đi bộ, ào ạt một đoàn dài, đi lộn xộn không có trật tự, la hét om sòm.

Một cây cờ đỏ búa liềm của Nga Sô đi tiền phong. Trong đoàn có cả một số đàn bà con gái, tất cả đều cắt tóc cụt và mặc áo quần bà ba đen. Vợ Nguyễn Nghiêm, chỉ huy đám phụ nữ. Họ khiêng theo những thùng nước chè tươi, để giải khát, và mang đủ thứ khí giới của nông dân : dao, rựa, mác, và những cây củi, cây đòn xóc. Qua mỗi làng, mỗi xã, đều có những đoàn người khác gia nhập vào, khi đến huyện lỵ thì số cộng sản nổi loạn lên đến 4 ngàn người. Họ hò hét, diễn thuyết, xúi dục dân chúng theo họ, ùa vào đốt huyện đường, và lùng bắt ông Huyện. Nhưng ông này đã trốn thoát.

Ở các phủ huyện khác cũng đều có xẩy ra cuộc biến loạn y như ở huyện Ðức Phổ, do Nguyễn Nghiêm cầm đầu.
Nhưng cộng sản chỉ làm chủ tình hình được một đêm đầu đó thôi. Mấy hôm sau, người Pháp đem lính Lê dương (Légionnaires) mà phần đông là người Malgaches và Sénégalais chiếm đóng các phủ huyện và nhiều làng.

Tại làng Tân Hội, sau vụ biến loạn cộng sản, lính về đóng ngay tại nhà ông Nguyễn Hiền, một vị Thượng thư đang nhậm chức ở Triều Ðình Huế. Người anh ruột của ông này, ông Chủ Cát, một cụ già 70 tuổi, đã thoát khỏi nạn cộng sản, nhờ ông đã trốn được kịp thời dưới bờ suối trước nhà ông trong đêm biến loạn.

Cuộc đàn áp bắt đầu. Nguyễn Nghiêm trốn tại nhà một đảng viên cộng sản, bị bắt và bị xử tử hình trên bờ sông Trà Khúc. Hầu hết các đảng viên cộng sản bị đưa đi các nhà lao Ban Mê Thuột và Lao Bảo.
Ở Tân Hội, số cộng sản bị bắt lên đến hai phần ba dân số. Nhiều nhà bị đốt.

Mấy tháng sau, Tuấn ở Hà Nội về thăm nhà và xem xét tình hình, còn thấy lác đác đó đây những cột cháy đen thui đứng chơ vơ trên những nền nhà hoang phế, bị thiêu huỷ tan tành. Nơi đây, trước kia, là những nhà cao cửa rộng của những ông Hương, ông xã, đã vô tình theo cộng sản.

Tất cả các nhà trong mỗi xóm đều bị rào bít chung quanh chỉ còn chừa một lối đi duy nhất trong xóm. Những chòi canh cao độ 10 thước, được dựng lên trước các đình và các cổng làng. Tất cả dân làng còn sót lại đều phải đi canh gác ban đêm.

Một tiểu đội lính Lê dương được đưa từ Hà Nội vào, đóng tại huyện Mộ Ðức, cách làng Tân Hội 5 cây số. Viên quan Ba Pháp đóng bản doanh tại trường Sơ Ðẳng Tiểu Học, gần huyện. Quan Ba Pháp cần giao thiệp với các hương lý các làng đến báo cáo tin tức hàng ngày, nhưng ông không nói được tiếng An nam và không có thông ngôn. Ông phải nhờ viên Tri Huyện sở tại nhưng ông Huyện lại không biết tiếng Tây. Viên quan Ba liền làm giấy xin đổi viên Tri Huyện, và đề cử thầy Trợ giáo hiệu trưởng trường tiểu học lên làm Tri Huyện. Thầy Trợ giáo đó lại là thầy học cũ của Tuấn. Hôm Tuấn ở Hà Nội về thăm nhà, ghé qua Huyện để vấn an thầy, lính không cho Tuấn vào. Tuấn lấy giấy viết mấy giòng: “Tuấn, học trò cũ của thầy, nhân dịp ở Hà Nội về thăm nhà, xin được hân hạnh vào thăm thầy”.

Tuấn chờ ngoài cổng. Mười lăm phút sau, người lính ra bảo Tuấn:

- Quan lớn bận việc, không tiếp cậu được.

Tuấn mỉm cười, lặng lẽ quay ra đi.

Thầy Trợ giáo được viên Quan Ba Pháp chỉ huy đồn lính lê dương, cho lên làm Tri Huyện, để làm thông ngôn cho ông luôn thể, nghiễm nhiên trở thành một vị Quan lớn oai quyền hống hách. Cả Huyện đều khiếp sợ quan. Nhưng, sau đó, loạn cộng sản đã được dẹp yên, đoàn lính lê dương được rút về Hà Nội và quan Ba cũng từ giã đất Mộ Ðức, thì Quan Huyện thông ngôn của ông cũng bị cách chức luôn. Hình như quan lớn cũng không được trở về làm Trợ giáo nữa. Nhiều làng xã được tin, đều làm heo ăn mừng.

Bọn lính lê dương ra đi, để lại tại huyện Mộ Ðức một số khá đông trẻ con lai, và một số “me Tây “. Những thiếu phụ này lần lượt ẵm con đi Saigon để “làm ăn”, vì bị dân chúng ở Huyện khinh bỉ, rẻ rúng.

Ðồng thời ở Quảng Ngãi và Nghệ An, Hà Tỉnh, cộng sản cũng nổi loạn lần đầu ở Nam kỳ tại môt địa điểm không mấy quan trọng và cũng có cuộc tàn sát đẫm máu như ở Trung kỳ. Tuấn theo dõi biến cố với những nhận xét hoàn toàn khách quan về tính chất của cuộc nổi loạn cộng sản.

Ở Nam Nghĩa, Nghệ Tỉnh (bốn tỉnh Trung kỳ được nổi tiếng là có tư tưởng cách mạng xao động nhất), cộng sản tuyên truyền được trong vài giới tiểu tư sản nông thôn, mà trái lại lớp gọi là “ bần cố nông “ thì không trực tiếp tham gia, hoặc nếu có thì cũng miễn cưỡng mà thôi, không đóng vai chủ động. Hầu hết những kẻ cầm đầu cuộc nổi loạn cộng sản Trung kỳ đều là địa chủ, điền chủ và họ phất cờ đỏ búa liềm hung hăng nồng nhiệt hơn ai hết. Nhưng đến khi đề cập đến vấn đề chia ruộng đất cho đám dân vô sản thì họ lại ít hăng hái nhất và còn phản đối quyết liệt nữa.

Ở Nam kỳ, trái lại, đa số đảng viên cộng sản là nông dân và thợ thuyền, tuy rằng những thủ lãnh của họ thuộc vào hàng ngũ trí thức tiểu tư sản.

Nhưng, khác với Trung kỳ, ở Nam kỳ ngay từ lúc xuất hiện phong trào Cộng Sản Ðông Dương, đã có sự chia rẽ của hai nhóm Ðệ Tam và Ðệ Tứ quốc tế. Theo sự hiểu biết của Tuấn xem chừng mấy anh “trotkystes” – đệ tứ - như Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm, Trần Văn Thạch, được uy tín và cảm tình của các giới, cả lao động lẫn trí thức, nhiều hơn nhóm

“Stalinines” - đệ tam - của Nguyễn Văn Tạo, Dương Bạch Mai.

Tất cả mấy anh này đều là sinh viên Ðại Học “Retour de France” - ở Pháp về, và họ hoạt động công khai ở ngay Saigon nhờ sự che chở của Luật Pháp Cộng Hòa. Nam kỳ là một thuộc địa, thuộc hẳn về Pháp rồi, cho nên được sống một chế độ chánh trị theo luật pháp như công dân Pháp vậy.

Tuấn tìm thấy đó là nguyên nhân cách biệt của hai phong trào cộng sản ở Trung kỳ và Nam kỳ, tuy họ cùng chung một mục tiêu đấu tranh. Tuấn tự hỏi phải chăng đó là một hoàn cảnh ngẫu nhiên của Lịch sử, hay là một chiến thuật chủ trương bởi những lãnh tụ Cộng sản Ðông Dương mà trụ sở đặt ở bên Tàu?

Trung kỳ đặt dưới chế độ Bảo hộ, hoàn toàn theo luật pháp “An nam”. Bộ Luật Gia Long và Luật Hồng Ðức của nhà Lê – cho nên không được quyền tự do ngôn luận, tự do lập đảng, và phải hoạt động bí mật. Lãnh tụ Cộng sản ở Trung kỳ không phải là trí thức “Retour de France”, được đào tạo ở Pháp và Nga, mà chỉ là vài ba cựu Nho sĩ ở địa phương được hấp thụ học thuyết Mác-xít và ý thức hệ cộng sản qua những sách dịch của cộng sản Tàu, bằng Hán tự.

Tuấn có được dịp gặp tại Saigon và nói chuyện khá lâu với anh Trốt kít Trần Văn Thạch, và anh Dương Bạch Mai, Ðệ tam Quốc tế, một người ở trong một tiệm ăn đường Espagne (nay là đường Lê Thánh Tôn), một người ở trong hội quán A.J.A.C (Amicale des Journalistes Annamites de Cochinchine - Hội Ái Hữu các nhà báo An nam ở Nam kỳ) , đường Lagrandière (đường Gia Long). Câu chuyện trao đổi riêng biệt với mỗi người kéo dài đến vài tiếng đồng hồ. So sánh hai lãnh tụ Cộng sản ở Nam kỳ với Nguyễn Nghiêm, lãnh tụ cộng sản ở Trung kỳ, thật khác nhau một trời một vực.

Nguyễn Nghiêm tuy hăng say nhưng quê mùa chất phác, hiểu chủ nghĩa cộng sản quốc tế qua các sách tuyên truyền bằng Hán tự của cộng sản Trung hoa, và chỉ nhắm mắt tuân theo mệnh lệnh của thượng cấp mà thôi. Anh đã không hiểu được rõ rệt ý nghĩa cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản, mà anh, một đại điền chủ, đứng ra lãnh đạo ở tỉnh nhà, với một số đông đồng chí vài ngàn người toàn là ở giai cấp tư sản và địa chủ, phú nông.

Tuấn nhận xét rằng có lẽ Ðảng Cộng Sản Ðông Dương chủ trương đường lối đấu tranh khác nhau ở mỗi "xứ”, tùy theo trình độ chính trị của mỗi địa phương. Cho nên cuộc nổi loạn của Cộng sản Trung kỳ (Quảng Ngãi, Nghệ Tỉnh) trong thời kỳ 1930 -1932 không có thành phần vô sản, bần cố nông.

Ở Bắc kỳ, trong thời gian ấy cộng sản chưa hoạt động. Một nhóm đảng viên lãnh đạo, hầu hết là trí thức trung lưu như Võ Nguyên Giáp, Ðặng Xuân Khu, Trần Huy Liệu (anh này nguyên là Việt Nam Quốc Dân Ðảng, rời bỏ hàng ngũ quốc gia để gia nhập cộng sản) chỉ hoạt động trong lãnh vực tuyên truyền mà thôi. Võ Nguyên Giáp vừa đỗ tú tài toàn phần Pháp và ghi tên vào Cao đẳng Luật khoa năm thứ nhất. Ðồng thời, anh dạy môn Sử ký tại trường Trung Học Thăng Long. Ðặng Xuân Khu đỗ bằng Thành Chung và tham gia vào Hội Truyền Bá Quốc Ngữ mà hội trưởng là ông Nguyễn Văn Tối, phó giám đốc trường Viễn Ðông Bác Cổ, Hà Nội. Trần Huy Liệu viết báo.

Ở Bắc kỳ cũng như ở Trung kỳ, Cộng sản Ðệ tam thuần nhất không có Ðệ Tứ. Mãi đến năm 1936 họ mới có vài ba tờ tuần báo làm cơ quan tuyên truyền công khai. Và cùng lúc đó, người ta mới thấy xuất hiện ra một nhóm Trốt-kít nhưng không quan trọng bằng nhóm Ðệ Tứ ở Saigon.

Tuấn được tiếp xúc với đám thanh niên lãnh tụ cộng sản ở Saigon, Quảng Ngãi, Quảng Nam, Hà Nội, đặc biệt rất quen thân với nhóm Cộng sản Hà Nội. Nhưng nặng về tinh thần quốc gia, chàng không chấp nhận lý thuyết mác-xít và hoàn toàn không tán thành những hoạt động của phái cộng sản.

Dù sao, sau cuộc khởỉ nghĩa thất bại của Việt Nam Quốc Dân Ðảng, cộng sản hoặc bí mật như ở Bắc kỳ, hoặc công khai như Nam kỳ, vẫn tỏ ra những dấu hiệu hoạt động hăng hái hơn cả đảng phái Quốc gia.
Nhưng phong trào Ðông Dương Cộng Sản chỉ nổi bùng lên ở Trung và Nam kỳ trong hai năm 1932-33 rồi bị đàn áp gắt gao không còn hoạt động công khai được nữa.

Ðảng viên cộng sản bị bắt rất nhiều ở Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Nam, Quảng Ngãi, và bị đày đi Côn Lôn, Ban Mê thuột, Lao Bão.

Trong thời kỳ này xuất hiện ra cái “một“ của người Cộng sản viết chữ F thay Ph (thực dân Fáp, fản đối, fê bình) và DZ thay vì D (tự dzo, dzân chủ…) bằng cách nhấn mạnh chữ d thật nặng, như chữ z của Pháp.
Ngoài ra, quảng đại quần chúng ở thành thị cũng như ở thôn quê, khắp ba kỳ Trung Nam Bắc, rất thờ ơ với những vấn đề “quốc sự“ mà ngày nay chúng ta gọi là “vấn đề chính trị “.



CHƯƠNG 47

1932

- Tuần báo " Phong Hoá" chế nhạo ông nhà quê "Lý Toét".

- Người Pháp đưa Bảo Ðại (du học ở Paris) hồi hương về làm vua ở Huế, tạo ra mầm mống "lãng mạn chính trị".

- Hai phong trào Tân tiểu tư sản và phong kiến lãng mạn (néo-bourgoise et Feodalité-romantique) đi song hàng để tiêu diệt các khuynh hướng cách mạng. Sinh viên Cao đẳng Hà Nội và học sinh Trung học có đầu óc Quốc gia ở cả ba kỳ đều chán nản vì các phong trào “cách mạng” bị liên tiếp thất bại. Không còn gì làm phấn khởi tinh thần thanh niên nữa. Trừ một thiểu số vẫn giữ vững lý tưởng ái quốc của mình, còn hầu hết lớp trẻ lớn lên sau thế hệ Nguyễn Thái Học và Nguyễn An Ninh, đều đổ xô vào các phong trào lãng mạn do lớp thanh niên trí thức “Retour de France” đề xướng trong các lãnh vực xã hội.

Hai biến cố sôi nổi nhất vừa xẩy ra trong lúc này: tờ tuần báo “Phong Hóa” của một Cử nhân Khoa học ở Pháp mới về tên là Nguyễn Tường Tam, xuất bản ở Hà Nội, và Bảo Ðại đỗ Tú tài Pháp ở Paris cũng vừa về Huế để làm Vua, lên ngôi nhà Nguyễn, kế vị phụ hoàng Khải Ðịnh.

Tôn chỉ đầu tiên của tuần báo “Phong Hóa” là đả kích những gì cũ kỹ của xã hội Việt Nam, và chủ trương một đời sống trưởng giả mới, thích hợp với phong trào lãng mạn của thời đại.

Cái khôn khéo tuỳ thời của Nguyễn Tường Tam, chủ nhiệm báo Phong Hóa, là biết lợi dụng đúng lúc sự chán nản của tinh thần thanh niên và dân chúng sau các vụ “ Hội Kín”, liên tiếp thất bại, gây ra máu lửa hãi hùng và tang tóc, của Việt Nam Quốc Dân Ðảng, Cộng sản nổi dậy, để phát hành tờ báo Phong Hóa, chuyên về hài hước, cốt làm cho độc giả cười, thành một trò vui nhộn.

Nhưng ông còn lại dùng giọng cười trào phúng đó để đả kích cái phong hóa cũ kỹ của xã hội Việt Nam. Do đó ông đặt ra hai nhân vật lố bịch mà ông gọi tên là “Lý Toét” và "Xã Xệ” để tượng trưng cho tất cả những gì hủ lậu, “quê muà” ngơ ngẩn, của người An nam trước cái văn minh tân tiến của Pháp.

Ngay từ những số đầu, tờ báo Phong Hoá đã bán chạy như tôm tươi, chính là nhờ những tranh vẽ Lý Toét đầy cả mấy trang báo, và những mục khôi hài chê cười nhân vật điển hình ấy. Lý Toét là nguyên nhân chính của tờ Phong Hoá.

Tuấn là một độc giả siêng năng của tờ báo ấy. Dù trong túi không còn tiền, Tuấn cũng mượn người này người nọ để mua cho được tờ báo phát hành mỗi tuần một lần. Nhưng Tuấn nhận xét khách quan thấy phản ứng của độc giả báo Phong Hoá chia làm hai loại. Các giới trí thức bảo thủ và cách mạng cực đoan đều không tán thành cái chủ trương người Việt Nam công khai kích bác và mỉa mai chế nhạo người Việt Nam trong lúc người Pháp đã khinh rẽ người An nam mình nhiều quá rồi. Họ gọi người An-nam bằng một danh từ xuyên tạc đểu giả “nhaque” (nhấc cờ), do chữ nhà quê không bỏ dấu. Nhà văn và nhà báo có trách nhiệm giáo hoá dân chúng, đưa dân chúng lên con đường văn minh, tiến bộ, chứ không có quyền châm biếm, chê cười những phong tục cổ truyền của dân tộc. Người ta kết án cái chủ trương của báo Phong Hoá ở điểm đó.

Nhưng phản ứng thứ hai, của thanh niên và các giới bình dân thì có tính cách tiêu cực, dễ dãi hơn. Họ chỉ biết vỗ tay cười, cười vô ý thức, như khi họ xem một chú hề làm trò cười trước khán giả.

Báo Phong Hoá trong mấy tháng đầu đều đã gây ra hai luồng dư luận như thế trong dân chúng. Nhưng nói tổng quát về kỹ thuật làm báo, thì Nguyễn Tường Tam và bộ biên tập của ông đã gặt được kết quả rất khả quan.

Tờ Phong Hóa lúc đầu in lem luốc, sơ sài trên 4 trang, sau đó một năm đã sáng sủa hơn nhiều và tăng lên số trang.

Nguyễn Tường Tam với bút hiệu Nhất Linh, hồi đó chưa thành lập nhóm Tự Lực Văn Ðoàn, và thật sự báo Phong Hoá chưa có tham vọng đó. Mục đích của Phong Hoá chỉ là “cải cách phong hoá Việt Nam”.

Mãi một thời gian sau, khi số độc giả đã đông đảo, các nhà văn trong toà soạn đã sản xuất một vài tiểu thuyết được hoan nghênh, nhóm Tự Lực Văn Ðoàn mới ra đời và xoay chiều hướng về Văn Nghệ. Những trận cười vui nhộn chung quanh Lý Toét, Xã Xệ nhạt dần, người ta bắt đầu chán ngấy lối cười vô ý thức đó, thì các tiểu thuyết của Khái Hưng bắt đầu lôi kéo được một số đông độc giả. Người ta khao khát một lối sống tình cảm lãng mạn phóng đạt hơn để thoát khỏi những khắc khe của thành kiến.

Ðồng thời báo Phong Hoá làm cả công việc “lancer” các “mốt” áo tân thời cho phụ nữ. Một chàng thợ may tên là Cát Tường vẽ trong Phong Hóa mỗi tuần một kiểu áo mới, rất được các cô “tiểu thư tân thời” hưởng ứng.

Phong trào áo “Lemur “được các cô vũ nữ hoan nghênh trước nhất. “ Le Mur” là do chữ “Tường” dịch ra tiếng Pháp (tiếng Pháp Le Mur là bức tường). Các kiểu áo Lemur được báo Phong Hóa phổ biến rầm rộ đúng theo chủ trương của nhóm Nguyễn Tường Tam đả kích và chê cười cái cũ, đưa ra cái mới theo trào lưu văn minh Pháp.

Trên phương diện chính trị, chính phủ thuộc địa Pháp, và thực dân Pháp ở An nam nhìn các hoạt động rộn rịp của Nguyễn Tường Tam và nhóm Phong Hoá, với cặp mắt đầy thiện cảm. Vì sau những vụ bùng nỗ đẩm máu của Việt Nam Quốc Dân Ðảng của Nguyễn Thái Học, ở Bắc kỳ và Ðông Dương Cộng Sản Ðảng của Nguyễn Ái Quốc ở Trung Kỳ, chính phủ thực dân Pháp rất bằng lòng thấy đa số thành phần trí thức, thanh niên thiếu nữ An nam chạy theo các phong trào lãng mạn của nhóm Nguyễn Tường Tam và các mốt áo quần mới do nhóm Phong Hoá cổ động.

Nhạo báng người An-nam-mít lố bịch tên là Lý Toét, Xã Xệ, vừa gây ra trận cười vui nhộn khắp các từng lớp dân chúng, vừa để quên các biến cố cách mạng vừa xẩy ra, và thờ ơ lãnh đạm của tất cả các vấn đề “quốc sự”, đó là rất hợp với chánh sách thực dân Pháp thời bấy giờ.

Ðồng thời, người Pháp vội vàng cho Bảo Ðại hồi hương, để cho phong trào thanh niên lãng mạn được cụ thể hoá một cách tưng bừng náo động hơn, hấp dẫn hơn.

Lúc vua Khải Ðịnh chết năm 1925, thì Bảo Ðại mới có 12 tuổi, được kế vị lên ngôi hoàng đế. Nhưng viện lẽ Bảo Đại còn nhỏ tuổi nên chính phủ Nam triều được Pháp ủy nhiệm cho một “Hội Ðồng Phụ Chánh” (conseil de régence) dưới quyền của Nguyễn Hữu Bài, Phụ chánh đại thần, và Tôn Thất Hân, chủ tịch Tôn Nhân Phủ.
Bảo Ðại được chánh phủ thuộc địa cho đi du học bên Pháp từ hồi 8 tuổi, năm 1925 về để tang cho vua cha, rồi lại được trở qua Pháp tiếp tục việc học.

Năm 1932, vua Bảo Ðại, 19 tuổi, vừa thi đỗ tú tài liền được người Pháp cho về Huế để cầm quyền cai trị. Về phương diện lịch sử thì như thế. Tuy nhiên những kẻ theo dõi sát tình hình biến chuyển trong nước, thì nhận thấy sự hồi hương của vị vua hào phóng ấy có một tác dụng chính trị khôn khéo và sâu rộng hơn.
Tuấn còn nhớ rõ năm 1921, Tuấn còn học lớp Ba trường “ Ecole de Plein-Exercice de Quang Ngai”, một buổi chiều toàn thể học trò phải đứng sắp hàng hai bên đường từ Cửa Tây đến cổng Toà Sứ, để phất cờ (cờ Pháp) cho Hoàng Thái Tử Vĩnh Thụy, một cậu bé 8 tuổi. Vào khỏang 4 giờ, một đoàn xe citroen 5 chiếc, đen bóng, từ Huế vào (chắc có ghé Tourane) định nghỉ đêm ở Toà Sứ Quảng Ngãi để sáng hôm sau tiếp tục cuộc hành trình vào Saigon, đáp tàu thủy qua Pháp du học.

Tuấn thấy rõ cậu bé Hoàng Tử ngồi trong chiếc xe thứ hai, và theo lệnh thầy giáo, học trò phải phất cờ khi đoàn xe qua.

Chiều tối, sau buổi học, Tuấn lúc đó 10 tuổi, còn đứng lảng vảng trước cổng Toà Sứ, dòm thấy cậu bé Hoàng tử mặc áo gấm thêu, đứng trên bao lơn, rỡn cười với một vị triều thần. Ngoài y phục hào nhoáng của con Vua, cậu bé Hoàng tử không có gì đặc biệt hơn các cậu học trò thường. Tuấn hỏi thầy Trợ giáo được thầy cho biết “Hoàng tử” mới học đến chương trình lớp Ba. Tuấn tự an ủi con Vua không giỏi gì hơn mình.
Năm 1932, Tuấn đã thi đỗ Tú tài ở Hà Nội, xem báo Pháp thấy hình của Bảo Ðại đăng nơi trang nhất, khuôn khổ 24x18. Lần này Bảo Ðại vừa thi đổ tú tài ở Paris, hồi hương về Huế để cai trị dân. Tuấn biết rằng tuy Bảo Ðại mang danh hiệu “Ðại Nam Hoàng Ðế”, và các báo Pháp - Việt ở Hà Nội đăng bài đề cao nhà vua trẻ ấy (19 tuổi).

Nhưng Bảo Ðại chỉ làm vua ở Trung kỳ mà thôi. Nam kỳ đã bị vua Tự Ðức ký hiệp ước nhường hẳn cho Pháp làm thuộc địa, “Cochinchine Francaise”, không còn dính líu mảy may gì với Triều đình Huế.

Còn Bắc kỳ, tuy rằng theo hiệp ước 1884, vẫn là đất của triều Nguyễn, chính thức vẫn gọi là “ Protectorat du Tonkin “ như Trung kỳ, nhưng về thực tế, từ lâu rồi, đã hoàn toàn đặt dưới quyền cai trị trực tiếp của người Pháp. Tuấn đã nhận thấy điều cách biệt đó ngay ở danh từ chỉ vị thủ hiến Pháp ở Trung kỳ, Résident supérieur en Annam, là Khâm sứ, mà vị Thủ hiến Bắc kỳ, Résident supérieur du Tonkin lại là Thống sứ.

Trước kia, đại diện ở Bắc kỳ là một vị Kinh lược như Kinh lược Hoàng Cao Khải. Nhưng từ ngày Khải Ðịnh chết, chức vụ Kinh lược An nam cũng bị người Pháp chiếm đoạt và giao cho Thống sứ Bắc kỳ, chức vị Thống sứ Ðại thần, cũng như ở Trung kỳ là Khâm sứ Ðại thần vậy. Theo sự thay đổi ấy, trái với hiệp ước 1884, tất cả các quan An nam ở Bắc kỳ, Tổng đốc, Tuần vũ v.v…đều trực thuộc uy quyền của “Cụ Thống Sứ” Pháp, chớ không còn tuỳ thuộc về Triều đình Huế và Hoàng đế An nam nữa.

Năm 1932, chính phủ thuộc địa theo đề nghị của viên Toàn quyền Pasquier, cho Bảo Ðại hồi hương, với dụng ý để vị “hoàng đế” trẻ tuổi và dễ sai khiến ấy đóng một vai trò chính trị, mà mục đích là phản ứng lại những hoạt động chống Pháp của các “ Hội Kín “ cách mạng ở trong nước, và gây phong trào lãng mạn sùng kính một “thần tượng mới” ở Pháp về.

Giới thanh niên có tư tưởng quốc gia cách mạng, Tuấn đều nhận thấy rõ những cuộc vận động giả tạo của chính sách thực dân Pháp. Nếu đòn chính trị tâm lý ấy thành công được đôi phần mong manh trong các giới quan lại và thanh niên lãng mạn, thì trái lại nó không có chút ảnh hưởng nào đối với giới trí thức cách mạng, và quảng đại quần chúng.

Nói một cách khác, Bảo Ðại đã đóng rất đúng một vai trò “Hoàng tử đẹp giai” ở Tây mới về. Một thần tượng hợp thời nhất của các cô tiểu thư Hà Nội mặc áo “Lemur” của báo Phong Hoá, cũng như các cô gái phong kiến của núi Ngự, sông Hương, và của đám thanh niên quan lại và trác táng, sẵn tiền sẵn địa vị, chỉ lo hưởng thụ ăn chơi.

Trái lại, vai trò lịch sử trên trường Chính trị của “Ðại Nam Hoàng đế” con nuôi của người Pháp, trông thấy ngớ ngẩn làm sao, vô duyên vô vị làm sao!

Bảo Ðại về nước lên ngôi Hoàng đế chưa được bao lâu thì Phủ Toàn Quyền Ðông Dương dàn cảnh một cuộc “ngự du Bắc hà“ rất tưng bừng náo nhiệt. Ðể đón tiếp “Hoàng Thượng”, Phủ Toàn Quyền Bắc kỳ bắt buộc tất cả dân chúng Hà Nội phải treo cờ “An Nam” trước cửa nhà suốt trong tuần lễ mà “Hoàng đế Bảo Ðại” viếng kinh đô xứ Bắc.

Cờ An nam là gì? Dân chúng Hà thành từ trước đến giờ chỉ treo cờ tam tài của Pháp, có thấy bóng dáng lá cờ An nam bao giờ đâu? Bỗng dưng toà Ðốc lý Hà Nội ra lịnh dân chúng hãy may gấp rút lá cờ mới để đón mừng Hoàng đế Bảo Ðại: hai sọc đỏ, ba sọc vàng.

Dân chúng gọi luôn là “Cờ Bảo Ðại” … Thủ đô Hà Nội thật là rộn rịp ngay từ hôm đầu tiên Bảo Ðại đi chuyến xe lửa tốc hành từ Huế ra. Tuấn và hai người bạn ở Cao đẳng Luật khoa đi xe máy khắp ba mươi sáu phố phường để xem bộ mặt Hà Nội đổi mới. Cờ Bảo Ðại mới may, bay phất phới trước cửa nhà, rực rỡ mầu vàng màu đỏ.

Riêng ở Hội quán Khai Trí Tiến Ðức, thường được gọi bằng tiếng Pháp là AFIMA (Association pour la Formation Intellectuelle et Morale des Annamites) càng rộn rịp hơn cả. Hội quán được tạm dùng làm nơi hành cung để các Quan An nam cai trị ở khắp các tỉnh Bắc kỳ sẽ tề tựu đông đủ nơi đây để làm lễ bái triều hoan nghênh Hoàng Thượng.
Tuấn được mục kích các lễ phong kiến kiểu cách ấy đầy màu sắc rực rỡ và nhạc bát âm. Bảo Ðại, đẹp trai với thân hình thể thao, mập mạp, gương mặt tròn và duyên dáng, rất hào hoa phong nhã, với y phục Hoàng đế : chiếc áo gấm dài thêu rồng, quần lụa trắng, giày dừa thêu rồng đỏ, và chiếc khăn vàng chit trên đầu, đã làm cho các cô tiểu thư tân thời Hà Nội say mê mơ ước, và các cậu trai lãng mạn thèm thuồng.

Người ta biết rằng Bảo Ðại là một ông vua “Bù nhìn” do người Pháp đào tạo ra, và hoàn toàn hấp thụ văn minh Pháp, nhưng thân hình trai trẻ, mập mạp và lộng lẫy của ông vua mới ấy vẫn gây được cảm tình của một số thanh niên. Số ấy tin tưởng rằng biết đâu ông sẽ là một ông vua tiến bộ, sẽ thực hành một chánh sách thân dân, tân tiến, hợp thời, hơn các vị hoàng đế tiền triều.

Hôm ông đi thăm thành phố, ghé vào nhiều tiệm buôn lớn của người An nam ở các hàng Bông, hàng Gai, hàng Ðào, hàng Da, hàng Bạc, hàng Nón, v.v…dân chúng bu lại xem đông nghẹt, để chiêm ngưỡng long nhan. Bảo Ðại mỉm cười thoải mái.

Nguyễn Văn Vĩnh không ưa Bảo Ðại mà cũng đã phải viết trong báo L’Annam Nouveau, của ông: “J’ai vu dans les tribunes des jeunes Hanoiennes se pâmer d’extase…” (tôi đã thấy trên khán đài những cô gái Hà Nội đê mê đắm đuối…) Bảo Ðại đến dự cuộc đua ngựa long trọng ở Trường Ðua.

Có thể nói một cách rất khách quan rằng Hànội đã sống một tuần lễ Hoa đăng tưng bừng hoan hỉ trong dịp Bảo Ðại “ngự du” thủ đô Thăng Long tân thời. Nhưng các phần tử thanh niên trí thức cách mạng thì rất thờ ơ lãnh đạm, nếu không nói là khinh rẻ, coi Bảo Ðại chỉ là một món đồ chơi của người Pháp ở Ðông Dương.
Cuộc “Bắc tuần” của Bảo Ðại tuy được phủ Toàn Quyền tổ chức rền rang tại Hà Nội, nhưng ngoài phong độ khá hấp dẫn của một Hoàng tử trẻ tuổi và đẹp trai đối với một số thanh niên và thiếu nữ lãng mạn, Bảo Ðại không gây được một ảnh hưởng chính trị sâu rộng nào trong quảng đại quần chúng cũng như trong các giới trí thức ở Bắc kỳ. Ngươì ta thấy rõ rệt một cuộc dàn cảnh của người Pháp, và ai cũng biết rằng Bảo Ðại là một thiếu niên được người Pháp đào tạo và che chở, hoàn toàn theo Pháp, chứ không được là một vị vua ái quốc như các Hoàng đế Hàm Nghi, Thành Thái, Duy Tân.

Phủ Toàn Quyền đưa Bảo Ðại ra trình diện với dân chúng Hà Nôị với mục đích gây lại phong trào tôn quân, phục hưng ý thức quân chủ đã bị chánh sách bảo hộ xoá mờ từ lâu.

Phạm Quỳnh, Học giả nổi tiếng, chủ nhiệm kiêm chủ bút tạp chí Nam phong, được triệu vào Kinh (kinh đô Nam triều) làm Ðổng lý văn phòng cho Bảo Ðại. Ông là một người thân Pháp, và bảo hoàng phong kiến. Ông viết Pháp văn cũng như Hán văn và Việt văn. Dù là bạn hay là thù của ông, ai cũng phải công nhận ông có công lớn trong việc bồi đắp nền văn hóa Việt Nam trong khỏang 15 năm đầu thế kỷ, từ 1915 đến 1930.
Nhưng trên lập trường chính trị, ông đã tỏ ra quá trung thành với “Nhà Nước Ðại Pháp”. Ông đã đem ngòi bút văn hoa của ông phụng sự chính sách thực dân chống lại các phong trào ái quốc. Ông là một nhà trí thức thông thái, một nhân tài hiếm có (mặc dầu ông là một người tự học - autodidacte – không có một bằng cấp đại học nào cả), nhưng các nhà cách mạng lão thành cũng như thanh niên, của phái Nho học cũng như Tây học, đều coi ông như là một kẻ tôi tớ của người Pháp không hơn không kém.

Bảo Ðại không phải vì phục nhân tài mà triệu Phạm Quỳnh về Huế, làm “Ðổng Lý Ðại thần”. Phạm Quỳnh không hẳn là người của Bảo Ðại. Ông là người của Toàn Quyền Pierre Pasquier và của Khâm Sứ Yves Châtel. Người Pháp rút kinh nghiệm ở Hai vị Hoàng đế trẻ tuổi Hàm Nghi và Duy Tân, sợ rằng Bảo Ðại sẽ có thể chịu ảnh hưởng thầm kín cúa các đảng phái cách mạng đang hoạt động lén lút khắp Bắc kỳ và Trung kỳ, và ngay ở trong đám quan lại của Triều đình Huế. Bộ thuộc địa Pháp ở Paris cũng như Phủ Toàn quyền Ðông Dương ở Hànội và toà Khâm sứ của Huế không tin tưởng hoàn toàn nơi vị vua 19 tuổi ấy, chưa trưởng thành về chính trị và thiếu kinh nghiệm trong nghệ thuật trị quốc, dù đây chỉ là một nghệ thuật “tài tử” (amateur).

Cho nên bên cạnh Bảo Ðại, người Pháp muốn để một kẻ thân tín của họ, và kẻ ấy không thể ai hơn là Phạm Quỳnh. Tin đồn Phạm Quỳnh sẽ về Huế làm quan, giới trí thức Hà Nội và Huế biết đã lâu rồi. Có hai luồng dư luận đều không tốt cho nhà học giả của Nam Phong tạp chí. Ðám quan lại đã có dòng dõi mấy đời làm quan ở Triều đình Huế, vì ganh ghét, chê Phạm Quỳnh là một kẻ “bạch đinh” được “Nhà nước Bảo Hộ” cân nhắc lên ngang hàng với họ, và chắc chắn là sẽ còn lên cao hơn họ nữa. Trong đám này, có Ngô Đình Diệm, con của cựu thần Ngô Ðình Khả và đương thời làm Tuần Vũ Phan Thiết, vừa được Bảo Ðại triệu về Kinh làm Thượng Thư. Tư tưởng chống đối Phạm Quỳnh của gia đình họ Ngô chính là mầm mống sự chống đối Bảo Ðại.

Luồng dư luận thứ hai cũng không có thiện cảm với nhà học giả Nam phong, là ở trong các giới trí thức và cách mạng. Con người tài ba lỗi lạc, mà họ gọi là Kiến Trắng tiên sinh, có phong độ nho nhã của một triết gia Ðông phương, luôn luôn khăn đen áo dài, giầy escarpin, và đôi kiếng trắng chễm chệ trên đôi mắt nho nhỏ đầy tinh ranh và kiêu ngạo, con người ấy đã dùng văn học làm bàn đạp để nhảy lên hoạn trường, làm “tay sai“ cho chế độ thuộc địa.

Sự thật, Phạm Quỳnh không đếm xỉa gì đến thái độ chống đối của phe quan lại ganh ghét nhỏ mọn, và Ngô Đình Diệm đã phải từ chức Thượng Thư vì tự thấy mình không đủ uy tín và thế lực để đương đầu với địch thủ họ Phạm.

Nhưng trước dư luận chê cười của giới trí thức độc lập, và khinh rẻ của giới cách mạng, Phạm Quỳnh đã đưa ra một quan điểm chính trị để tự bào chữa cho lập trường của mình. Trong “France – Indochine”, một tờ nhật báo của Pháp ở Hà Nội, Phạm Quỳnh có viết một loạt bài bằng Pháp văn để trình bày chương trình “tranh đấu” chính trị của ông.

Tuấn có đọc hết những bài báo ấy, và cả những bài của các đối thủ đăng trong báo khác chống lại quan điểm của Phạm Quỳnh. Quan điểm ấy có thể tóm tắt như sau:

- Cần phải trở lại Hiệp ước 1884, và thi hành đứng đắn những điều khỏan của hiệp ước ấy. Nghĩa là phải trao trả lại Trung Kỳ và Bắc kỳ cho Hoàng đế An nam, và chính phủ Nam triều. Nước Pháp chỉ đóng vai trò bảo hộ mà thôi, không nên xâm phạm đến chủ quyền của Hoàng đế.

Trong một bài báo, Phạm Quỳnh có kết luận bằng một câu: “Ce que les Annamites demandent, c’ est une Patrie à servir” (Cái mà người An nam đòi hỏi, là một Tổ quốc để phụng sự). Cái “tổ quốc” đó, theo ý của Phạm Quỳnh, là một xứ An nam kết hợp lại Trung kỳ và Bắc kỳ, đặt dưới quyền hành thực tế và đầy đủ của Ðại Nam Hoàng Ðế Bảo Ðại với tất cả những yếu tố của một vương quốc lập hiến (Monarchie constitutionnelle), đặt dưới quyền bảo hộ của Pháp quốc cộng hòa.

Phê bình loạt bài của Phạm Quỳnh trong France – Indochine với một nhóm bạn hữu, Tuấn bảo : “Với giọng nói văn hoa và tha thiết, lại muốn tỏ ra có trí óc tinh ranh, Phạm Quỳnh chìa tay ra xin người Pháp bố thí cho một “ Tổ quốc để phụng sự “. Nhưng vì ông phụng sự quá trung thành với người Pháp nên ông đã quên rằng người “An nam”đã có một tổ quốc mà người Pháp đã cướp mất. Bây giờ chỉ phải làm cách mạng, người An nam mới thu hồi được Tổ quốc của mình, chứ không phải đi ăn mày tổ quốc theo kiểu Phạm Quỳnh. "
Vả lại, lập trường của Phạm Quỳnh cũng không được người Pháp tán thành, Phủ Toàn Quyền đặt Phạm Quỳnh bên cạnh Bảo Ðại, chính là để kèm vị cua non nớt ấy chứ đâu phải để ông làm xáo trộn cái “ trật tự “ mà người Pháp đã sắp đặt đường lối thực dân của họ.

Phạm Quỳnh - với sự hợp tác tài chánh của Phạm Lệ Bổng, nhà buôn pháo ở phố hàng Nón, và hội trưởng hội Dân biểu Bắc kỳ - mở ra tại Hà Nội một tuần báo Pháp văn nhan đề là “La Patrie Annamite” (Tổ Quốc An nam), mà chủ bút là Tôn Thất Bình, người rể của Phạm Quỳnh, một trong những sáng lập viên trường trung học Thăng Long… Phong trào Bảo Ðại hoàn toàn do người Pháp tạo ra, được sôi nổi một thời gian hai ba năm sau khi vị “ hoàng tử đẹp giai” ở Pháp về lên ngôi Hoàng đế, nhưng rồi dần dần bị chìm trong sự lãnh đạm của toàn dân vì danh hiệu “ông vua bù nhìn” mà các phe cách mạng đã gán cho ông.

Sự ông lấy vợ, tôn lên ngôi Hoàng hậu nước Nam, cô Henriette Nguyễn Hữu Hào, một bạn gái của ông cùng du học ở Paris, con một đại điền chủ ở Nam kỳ, vẫn không tăng uy tín của ông một chút nào. Bởi lẽ, Nam Phương Hoàng Hậu (danh hiệu này do Phạm Quỳnh đặt ra) là một cô gái đầm (có quốc tịch Pháp) lại dòng dõi đạo Thiên Chúa, mà nghiễm nhiên được suy tôn lên bậc “mẫu nghi thiên hạ", khiến cho dư luận của đại đa số dân chúng theo Phật giáo và Khổng giáo chỉ trích gắt gao.

Các báo ở Saigon và Hà Nội lại bắn tin rằng, trước khi nhận lời cầu hôn của Bảo Ðại, cô Henriette Hào có đưa ra một điều quan trọng, là một khi cô được lên ngôi Hoàng hậu, cô phải được quyền tham gia việc nước, giúp Hoàng đế trị dân, chứ cô không chịu đóng vai trò Hoàng hậu trong cung cấm chỉ có chức vị mà không có quyền hành.

Các báo không có nói là Bảo Ðại có chấp nhận “điều kiện” đó hay không, vì chính Bảo Ðại cũng chưa biết mình có quyền hành gì trong việc trị quốc, nhưng dư luận dân chúng rất xôn xao, nhất là trong các thôn quê và các giới quan lại bảo thủ. Họ xầm xì với nhau :” Nếu một cô gái dân Tây và theo đạo Thiên Chúa lên làm Hoàng hậu, mà đòi nắm quyền trị quốc, thì vận nước An nam sẽ như thế nào ?"

Nhưng đó chẳng qua là dư luận thầm kín, lén lút, và sự đòi hỏi chính trị của cô gái Nam kỳ cũng chỉ là một điểm danh dự mà cô nêu ra để làm quà cho “ quốc dân An nam “ đó thôi, chứ không có chi là quan trọng, thực tế cả.

Vì sau khi cô Henriette Nguyễn Hữu Hào được tôn lên ngôi Hoàng hậu An nam, điện Thái Hòa ở Huế đô vẫn chỉ có một ngai vàng độc nhất của hoàng đế, và theo phép nước, Nam Phương Hoàng Hậu không được một chỗ ngồi bên cạnh chiếc ngai của Nguyễn triều.

Dân chúng biết rằng vì khác tôn giáo, cô Henriette Nguyễn Hữu Hào muốn thành hôn với Bảo Ðại đã phải xin phép đức Giáo Hoàng ở La Mã, và cố nhiên điều đó không khó gì. Giáo hoàng Pierre XI đã ban cho cô cái đặc ân ấy. Nhưng đồng thời, có tin do triều đình Huế loan ra để dân chúng khỏi thắc mắc, là con trai của Bảo Ðại và Nam Phương, hoàng tử An nam sẽ không được theo đạo Thiên Chúa, để đúng với thủ tục nghi lễ đối với các vị tiên đế Nguyễn triều.


CHƯƠNG 48

1932-1933

- Các đảng cách mạng ở Saigon phát động mạnh hơn ở Bắc và Trung.

- Các báo loan tin Nguyễn Ái Quốc chết ở Hồng kông.

- Hà Nội và Huế : Cộng sản hoạt động ngầm, V.N.Q.D.Ð hoàn toàn im lặng.

- Bửu Ðình, người Hoàng tộc làm cách mạng, bị Hội Ðồng Tôn Nhân Phủ bắt đổi tên họ là Tạ Ðình. Trong lúc ở Trung kỳ và Bắc kỳ, phong trào Bảo Ðại bắt đầu lắng xuống, Phủ Toàn Quyền Hà Nội cũng như tòa Khâm Sứ Huế không làm gì hơn để tăng uy tín của ông vua, thì các Hội Kín Cách Mạng vẫn âm thầm hoạt động : Thanh Niên Cách Mạng đồng chí Hội (gọi tắt là thanh niên), Tân Việt Cách Mạng Ðảng (gọi tắt là Tân Việt), và Ðông Dương Cộng sản Ðảng. Một số đảng viên Thanh niên Cách Mạng đồng chí hội lại tách ra lập riêng một đảng có khuynh hướng cộng sản, lấy tên là An Nam Cộng Sản Ðảng.

Một số đảng viên của Tân Việt, trong đó có Võ Nguyên Giáp và Ðặng Thái Mai, cũng tách riêng ra, lập một đảng gọi là “Ðông Dương Cộng Sản Liên Hiệp”. Ba đảng cộng sản trên đây đều theo chủ nghĩa Mác Lê (Marx-Lénine), nhưng khác nhau trong các chi tiết tổ chức, và chống chỏi nhau, không hợp tác với nhau trên đường lối đấu tranh.

Vả lại, An nam cộng sản đảng và Ðông Dương cộng sản Liên Hiệp chỉ hoạt động ở Trung kỳ. Ðông Dương cộng sản đảng có kỳ bộ ở Trung Nam Bắc, nhưng hoạt động mạnh nhất ở Trung kỳ. Chính Ðông dương cộng sản đảng đã tổ chức hai phong trào nổi loạn riêng biệt: Ðồ Lương (Nghệ An) năm 1931, và Quảng Ngãi – 1932.

Theo dư luận của các đảng quốc gia chống cộng, căn cứ trên một vài tin tức của một số đồng chí bên Tàu về, thì hai cuộc khởi loạn trên kia “Soviet Nghệ An” và “Soviet Quảng Ngãi” đều do lịnh của Nguyễn Ái Quốc, là người chỉ huy Ðông Dương cộng sản đảng mà tổng hành dinh được đặt bí mật ở Trung Hoa.

Một số bạn bè trong giới thanh niên sinh viên Hà Nội có rủ Tuấn vào đảng Cộng sản Ðông Dương, lúc bấy giờ vẫn được gọi bằng tiếng Pháp là Parti Communiste de L’Indochinois. Tuấn do dự chưa nhận lời vì thấy chủ trương Mác Lê không thích hợp với lý tưởng thuần tuý quốc gia của Tuấn.

Kế đó, Tuấn có dịp nghĩ hè về miền Trung, một hôm ghé chơi ở Qui Nhơn lại gặp một bạn cũ rủ Tuấn vào “An nam cộng sản đảng” (Parti Communiste Annamite). Tuấn ngạc nhiên và tìm hiểu sự bất đồng quan điểm giữa hai đảng cộng sản, và sự xuất hiện mới nhất của một đảng cộng sản thứ ba là Ðông Dương Cộng Sản Liên Hiệp, mà người bạn cho biết là Tổng bộ chỉ huy ở bên Xiêm (Thái Lan).

Trước những mâu thuẫn đó, Tuấn từ chối khéo và hứa chỉ hợp tác trên một vài điểm chung có tính cách tranh đấu cho quốc gia dân tộc mà thôi. Tuấn cương quyết không gia nhập một đảng cộng sản nào riêng rẽ ở Trung, Nam, Bắc.

Cuộc nổi dậy của cộng sản Quảng Ngãi, nhất là đêm máu lửa hãi hùng ở Ðức Phổ, Mộ Ðức, năm 1932, do anh Nguyễn Nghiêm cầm đầu, khiến cho Tuấn suy nghĩ nhiều, và càng củng cố lập trường quốc gia thuần tuý của chàng, tránh những hành động đấu tranh giai cấp của cộng sản.

Cuối năm 1933, Tuấn đọc mấy tờ báo Pháp và An nam xuất bản ở Saigon và Hà Nội, thấy ở trang 4, trong một cột chữ nhỏ, một tin vắn tắt đại khái như sau đây:

Nguyễn Ái Quốc đã chết tại Hồng Kông vì bịnh lao "Tin người Anh cho biết vừa rồi Nguyễn Ái Quốc, kẻ phiến loạn cách mạng An nam (agitateur révolutionnaire annamite) bị chết vì bịnh lao phổi trong ngục thất ở Hồng Kông”. Cái tin ngắn chỉ có mấy dòng chữ nhỏ như thế, đăng ở cuối trang tư như một tin vặt không mấy quan trọng, nhưng đã gieo vào đầu óc của tất cả những người An nam làm cách mạng hồi đó, Quốc gia cũng như Cộng sản, sự tin chắc rằng cái tin kia là thật.

Ðối với thanh niên sinh viên như Tuấn trong trí óc nẩy ra ý nghĩ thực thà rằng Nguyễn Ái Quốc đã thuộc về thế hệ tiền bối như các cụ Phan Chu Trinh, Phan Bội Châu thì sự chết về tuổi già là lẽ thường. Huống chi cụ Nguyễn Ái Quốc lại bị bịnh lao phổi, cụ chết vì bịnh đó cũng là lẽ tất nhiên.

Nói đúng ra, thời bấy giờ ở An nam ít có ai biết rằng Nguyễn Ái Quốc là cộng sản. Cái tên “Ái Quốc” của cụ để cho các lớp người thanh niên yêu nước tưởng rằng cụ là một nhà cách mạng quốc gia lão thành, ở hải ngoại lâu năm như các cụ Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh vậy thôi.

Cái tin Nguyễn Ái Quốc chết vì bịnh lao phổi ở Hồng Kông đã làm xôn xao các giới cách mạng một thời gian rồi cũng chìm trong quên lãng. Dần dần không ai nói đến Nguyễn Ái Quốc nữa.

Mãi đến tháng 8 năm 1945, nghĩa là 12 năm sau, cũng như tất cả những người Việt Nam trong nước và hải ngoại, Tuấn nghe thấy lần đầu tiên cái tên Hồ Chí Minh và dư luận trong giới cách mạng quả quyết rằng “ Hồ Chí Minh” chính là Nguyễn Ái Quốc. Tuấn hoàn toàn ngạc nhiên!

Vài năm sau đó, Tuấn được đọc ba bốn quyển sách ngoại quốc:

• Le VietMinh của Bernard Fall (Paris)

• Cinq hommes et la France của Jean Lacouture (Paris)

• From colonialism to communism (New York) của Hoàng Văn Chí.

• Le Mystérieux Hồ Chí Minh (Paris) của Hồ Văn Tạo mới biết rõ sự thật.

Sau khi Tưởng Giới Thạch tuyệt giao với Nga, năm 1927, Nguyễn Ái Quốc, nhân viên sứ quán Nga, theo lãnh sự Nga là Borodine phải từ giã Trung quốc trở về Moscou, để Hồ Tùng Mậu (tức là cố Mậu, T.S 40 “ xến xáng”, bị giam ở trại an trí Trà Khê (Phú Yên) từ năm 1940 đến năm 1945) ở lại thay thế làm Tổng Bí Thư Ðông Dương Cộng Sản Đảng.

Cuối năm 1929, Nguyễn Ái Quốc được lịnh trở lại (từ Nga) Hồng Kông tiếp tục hoạt động, nhưng bị người Anh bắt bỏ tù ngày 6 tháng 6 năm 1931. Bắt rồi được tha, Nguyễn Ái Quốc lẻn đi Singapore, nơi đây ông lại bị người Anh bắt lần thứ hai, đưa về Hồng kông, vào bịnh viện vì bịnh lao phổi.

Cuối năm 1933, Nguyễn Ái Quốc bổng dưng biến mất. Nhà cầm quyền Anh ở Hồng Kông không hề cho biết Nguyễn Ái Quốc mất tích trong trường hợp nào. Có lẽ ông thoát ngục trốn đi chăng?

Dù sao họ cũng đã loan tin rằng Nguyễn Ái Quốc chết vì bịnh lao ở ngục thất Hồng Kông. Tờ báo Daily Worker, của đảng Cộng Sản Anh ở Luân Ðôn, cũng đăng tin xác nhận rằng Nguyễn Ái Quốc, lãnh tụ Cộng sản An nam, bị bịnh lao phổi đã từ trần trong ngục thất Anh ở Hồng Kông.

Ðồng thời bộ Thuộc địa Pháp ở Paris và Phủ Toàn Quyền Ðông Dương ở Hà Nội cũng nhận được tin ấy. Trong hồ sơ của Nguyễn Ái Quốc tại sở Mật Thám Pháp cũng có ghi rằng Nguyễn Ái Quốc chết vì bịnh lao phổi ở Hồng Kông năm 1933.

Sự thật, chỉ có một đôi người quan trọng của Komintern (cơ quan đầu não của cộng sản Ðệ Tam – Nga), là biết Nguyễn Ái Quốc ở đâu và làm gì trong thời gian từ 1933 thoát ngục Hồng Kông, đến năm 1941, năm mà ông lại xuất hiện đột ngột ở Moscou.

Ngoài ra, chính những đảng cộng sản ở Moscou và ở khắp thế giới, và toàn thể đảng viên cộng sản An nam đều tin rằng Nguyễn Ái Quốc đã chết vì bịnh lao ở ngục thất ở Hồng Kông, như nhà cầm quyền Anh đã tuyên bố, và báo Daily Worker của đảng cộng sản Anh ở Luân Đôn đã đăng tin xác nhận.

Theo các tài liệu chính xác mới được tiết lộ sau nầy, thì Staline rất bất bình Nguyễn Ái Quốc vì ông chủ trương cuộc nổi loạn quá sớm của cộng sản Nghệ An năm 1931, và Quảng Ngãi năm 1932, gây thất bại lớn lao cho đảng Cộng sản Ðông Dương trong thời kỳ phôi thai.

Do đó, năm 1933, Nguyễn Ái Quốc đang ở Hồng Kông được lịnh của Staline triệu về Moscou và bí mật bị đày đến miền Ðông Sibérie. Mãi đến mùa xuân năm 1941, Nguyễn Ái Quốc mới được Staline gọi về Moscou và được lịnh cùng đi với Nguyễn Khánh Toàn sang gấp Yenan, nơi đây Mao Trạch Ðông giúp Nguyễn Ái Quốc những phương tiện trở về biên giới Hoa - Việt, lập mặt trận Việt-Minh với các phần tử cách mạng ở Trung Quốc.

Lần đầu tiên, năm 1941, xuất hiện nơi đây tên “Hồ Chí Minh”, vì Nguyễn Ái Quốc vẫn còn dấu bí mật lai lịch và tên tuổi thật của ông. Mãi đến năm 1958, vài tờ báo của chính phủ Hà Nôị mới được phép chính thức đăng rõ ràng Hồ Chí Minh là Nguyễn Ái Quốc.

Tạp chí tranh ảnh “Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa” do Thông tấn xã Việt cộng phát hành, số tháng 8 năm 1960, đăng ảnh Nguyễn Ái Quốc với câu đề phía dưới “Ðồng chí Nguyễn Ái Quốc (Hồ Chí Minh) lúc 30 tuổi đang hoạt động ở ngoại quốc.” Nhưng năm 1933, Tuấn đọc báo Hà Nội và Saigon, cứ yên trí rằng Nguyễn Ái Quốc đã chết vì bịnh lao phổi ở Hồng Kông. Chính một số đông lãnh tụ cộng sản ở Hà Nội lúc bấy giờ là Võ Nguyên Giáp, Ðặng Xuân Khu (Trường Chinh), Trần Huy Liệu, cũng đều tin chắc như vậy.

Các phong trào hội kín chỉ còn hoạt động bí mật và đa số thuộc về thành phần trí thức, hoặc gọi là trí thức. Ở Saigon, vài đảng hoạt động công khai theo chế độ công hòa Pháp, vì Nam kỳ là đất Pháp, người Nam kỳ là dân Pháp. Nhưng không nên lẫn lộn : ở đây người Pháp vẫn đặt ra sự ngăn cách giữa hai hạng người dân Nam kỳ thuộc Pháp.

Dân Pháp (Sujets francais) không được hưởng đầy đủ quyền lợi tinh thần và vật chất như “dân nhập tịch Pháp” (sujets naturalisés francais). Những người này cần phải có địa vị và thích nghi xã hội khá cao mới được chính quyền Pháp chấp nhận ngang hàng với người Pháp như ngững công dân Pháp, cùng theo dòng dõi của họ, được hưởng những quyền lợi ưu tiên như họ. Dĩ nhiên trước pháp luật, họ mất hẳn quốc tịch “An nam”. Họ không còn là người An nam nữa.

Trái lại, “dân Pháp” (sujets francais), là tất cả những người dân Nam kỳ, sinh trưởng trên đất Nam kỳ, được hưởng đôi chút luật lệ tự do của Pháp - (citoyen francais) – trên nhiều phương diện, Nhưng họ không được hưởng những quyền lợi ưu tiên đặc biệt của người nhập tịch Pháp.

Ở Trung kỳ và Bắc kỳ, chỉ có một số rất ít, có thể nói là rất hiếm, người An nam nhập tịch Pháp. Những người này cũng được hưởng quy chế công dân Pháp (statut de citoyenneté francaise), như những người có quốc tịch Pháp ở Nam kỳ.

Ngoài ra, tất cả người dân Trung kỳ và Bắc kỳ đều là “thần dân của Hoàng đế An nam – sujets de sa Majesté l’Empereur d’ Annam, - và phải theo chế độ bảo hộ và pháp luật Nam triêù, luật Hồng Ðức của nhà Lê và luật Gia Long của nhà Nguyễn.

Nhưng theo danh từ thông dụng nhất,thì người Pháp gọi người Trung kỳ là Annamites de Centre, người Bắc kỳ là Annamites de Nord hay là Tonkinois, người Nam kỳ là Cochinchinois hay là Annamites de Cochinchine.
Hậu quả của chế độ cách biệt ấy, là những kẻ “phạm tội” ở Trung -Bắc kỳ đều bị xử theo luật Nam triều. Sau đây là hai thí dụ rõ rệt nhất lấy trong trăm nghìn thí dụ.

Một người dân Trung kỳ, vừa là người trong “Hoàng tộc” tên là Bửu Ðình, vào Saigon viết báo đối lập chống chính phủ Bảo hộ, vào khỏang năm 1925-26-27, và bị trục xuất về Trung kỳ. Toà án Nam triêù chiếu theo luật Gia Long xử ông 9 năm tù khổ sai, đày đi Côn lôn, và đổi họ “Bửu” thành ra họ “Tạ”. Bửu Ðình bị xóa tên trong sổ Hoàng tộc, đổi ra thành Tạ Ðình, một kẻ bạch đinh thuộc về hàng “bá tánh”.

Một người khác quê ở Huế, Ðồng sĩ Bình, nguyên làm Phán sự tòa sứ Qui Nhơn, có làm một bài thơ chữ Hán dán trên mộ bia của cụ Mai Xuân Thưởng, một nhà kháng chiến chống Pháp ở Bình Ðịnh. Bài thơ ấy có những câu hăng hái chống Pháp, bị toà án Nam triều xử vầ tội “tạo yêu thư, yêu ngôn”, và bị 9 năm tù khổ sai, lưu đày đi Ban Mê Thuột. Một tội như thế nếu thủ phạm là người Nam kỳ, dân Tây, được xử tại toà án Pháp thì chỉ bị 6 tháng tù treo là quá lắm. Có thể được trắng án cũng nên.

Sự cách biệt của hai quy chế tư pháp là nguyên nhân do các đảng phái chính trị được hoạt động công khai và các báo chí đối lập được xuất bản tự do ở Saigon, và Nam kỳ, "terres francaises”, trong lúc ở Trung kỳ và Bắc kỳ tất cả các đảng phái đều là “hội kín”, hoạt động lén lút trong bóng tối. Các báo đối lập cũng không được xuất bản tự do.

Tuy nhiên ở Saigon, dưới chế đô tự do của Pháp, chỉ có hai khuynh hướng chính trị đáng kể mà thôi.
Một là đảng Lập Hiến Ðông Dương (parti constitutionnaliste Indochinois) gồm toàn những địa chủ, điền chủ có nhiều ruộng đất ở các tỉnh Nam kỳ, các nhà kỹ nghệ, các công chức cao cấp “trí thức thượng lưu, đốc phủ sứ v.v…" hầu hết là có quốc tịch Pháp. Ngoài Bùi Quang Chiêu, Kỹ sư Cầu cống là chủ tịch, và Nguyễn Phan Long, nghị viên và nhà báo, đảng Lập Hiến còn có những đảng viên danh tiếng như Nguyễn Phú Khai, Trương Văn Bền, Lê Quang Liêm, tự Bảy,v.v… Tờ báo của họ là La Tribune Indigène sau đổi lại là La Tribune Indochinois. Nguyễn Phan Long còn làm chủ nhiệm tờ L’ Echo Annamite, từ sau năm 1945 được đổi lại là L’ Echo du Vietnam.

Chương trình hoạt động của đảng Lập Hiến chỉ nhằm mục đích bảo vệ quyền lợi tinh thần và vật chất giới tư bản Nam kỳ.

Hai, là nhóm Cộng sản Ðệ Tam và Ðệ Tứ Quốc tế, tranh đấu cho giới thợ thuyền.

Hai nhóm cộng sản này là đôi anh em thù địch lẫn nhau, thường chống nhau quyết liệt trên các báo ngôn luận của họ. Họ tố cáo lẫn nhau là tay sai của đế quốc, và trong các cuộc tranh luận Hội đồng thành phố, họ bút chiến và đấu khẩu rất kịch liệt, gây ra không khí vô cùng sôi nổi. Giới thợ thuyền thấy bên nào nói hay, nói khéo là họ theo.

Ngoài ra, “Hội kín Nguyễn An Ninh“ là một phong trào tuy cũng khuynh hướng về thợ thuyền và nông dân, nhưng có tính chất quốc gia hơn là quốc tế. Một phong trào cách mạng địa phương mà cả Ðệ Tam lẫn Ðệ Tứ quốc tế đều cố tìm cách khai thác và thu phục để lợi riêng cho họ. Tờ báo của Nguyễn An Ninh là La Cloche Fêlée mà sáng lập viên là một người Pháp tên là Dejean de la Batie, và quản lý là một người Pháp gốc Nga.
Từ khi Nguyễn An Ninh bị tù, hội kín của ông bị tan rã. Hội kín Nguyễn An Ninh cũng như đảng Lập Hiến Ðông Dương đều hoạt động riêng biệt trong giới hạn Nam kỳ của Pháp và hoàn toàn bị cấm ở Trung Kỳ và Bắc Kỳ.

Tất cả các hoạt động chính trị ở Saigon đều náo nhiệt hơn ở Hà Nội và Huế, vì thủ đô Nam kỳ được hưởng chế độ tự do hơn, nhưng chỉ ở trên bề mặt mà thôi. Như những đợt sóng xao động trên mặt biển, không có sóng thần vùng dậy ở bể sâu.

Thỉnh thoảng có những trận bão lớn làm cho biển động, nhưng không có “lames de fond”. Quảng đại quần chúng không được tổ chức mạnh mẽ, cho nên sau những ngày sôi nổi, rầm rộ, hầu như giả tạo, do một vài nhóm trí thức tiểu tư sản gây ra mà không có sự hưởng ứng nồng nhiệt của các từng lớp nhân dân, người ta thường thấy không khí nguội dần và tẻ ngắt.

Vì thế nên người Bắc kỳ và Trung kỳ thường phê bình người Nam kỳ là “lửa rơm”.

Cho đến năm 1945, thành kiến đó vẫn còn.

Ở Trung kỳ và Bắc kỳ, thì là “lửa than“, nhưng không có cơ hội cháy bùng lên, cho nên cứ âm ỉ dưới lớp tro nóng. Phải công nhận rằng sau năm 1945, không khí đã đổi hẳn, ở "Nam bộ” cũng như ở “Trung bộ” và “Bắc bộ”.

CHƯƠNG 49

- Thực lực của quân đội thuộc địa Pháp chiếm đóng ba xứ Bắc Trung Nam.

- Cuộc diễn binh ngày 14-7-1939.

- Trong lúc đó, lực lượng quân sự của người Pháp ở Ðông Dương như thế nào ? Lúc Tuấn còn là một cậu “lắc léo mè dòng lô” ở trường tỉnh, mà “Nhà nước Bảo Hộ” gọi là “ Ecole Franco Indigène “ (trường Pháp - bổn xứ), thì Tuấn thấy trong tỉnh chỉ có một đồn lính Khố Xanh, tiếng Pháp gọi là La Garde Indigène, dịch đúng nghĩa là Lính Bổn xứ. Ðây là toàn là lính An nam đặt dưới quyền một viên chỉ huy Pháp, L’Inspecteur de la Garde Indigène (quan Giám Binh). Những người lính Bổn xứ ấy cũng thường được gọi là “les miliciens”, mà không biết ai dịch ra thành danh từ chính thức rất vô nghĩa, là “Lính Tập”. Danh từ "Lính tập" lại rất thông dụng trong dân gian hơn là “Lính Khố Xanh”.

Nhận thấy rằng trong tỉnh chỉ có ba hạng lính, lính “Phú lít” (Police, cảnh sát), lính Lệ (lính của các quan An nam), lính Khố Xanh, mà hai hạng lính trên khỏi phải tập luyện gì cả. Tuấn nghĩ rằng có lẽ vì chỉ riêng có lính Khố xanh của Tây khi mới vào làm lính là phải tập đi, tập bước, tập nhẩy, tập bắn, nên người ta gọi là Lính Tập chăng?

Tuấn đã chứng kiến việc mộ lính Khố xanh như thế nào ở Trung Bắc Kỳ.

Thí dụ mỗi làng nhận được giấy của Phủ, Huyện gởi về truyền lịnh phải tuyển chọn 2 người nông dân để đưa ra tỉnh làm lính Tập. Thường ông xã kiếm hai người tình nguyện trong đám dân nghèo không có ruộng đất, nhưng khoẻ mạnh.

Sự lựa chọn không khó khắn lắm vì đám dân nghèo khá đông. Hoặc có những gia đình khá giả nhưng đông con trai, thì một người tình nguyện ra lính Tập, vì tính phiêu lưu, vì có tham vọng làm thầy Cai, thầy Ðội, hoặc vì một lý do nào khác.

Có những thanh niên tuấn tú đã học giỏi chữ Nho, thuộc làu kinh sử, nhưng vác lều chõng đi thi mấy lần đều rớt, hoặc những chàng thất vọng vì tình duyên, hay uất hận vì gia đình, họ tình nguyện đi lính tập với tin tưởng sẽ được nhiều an ủi. An ủi nhờ công danh, quyền uy, chức tước, tuy là làm lính Tập cho nhà nước Bảo Hộ, nhưng vẫn được hưởng địa vị và phẩm hàm của triều đình An nam ban cho.

Từ một chú lính trơn lên được lon Quyền (lon vàng bằng một ngón tay), rồi lên chức :

- Cai nhì (lon vàng bằng hai ngón tay) - Cai nhứt (lon vàng bằng hai ngón tay, kèm theo một rẻo) được hưởng hàm Chánh cửu phẩm của Triều đình.

- Ðội Nhì (lon bạc bằng một ngón tay) được hàm Tùng Bát phẩm của triều đình.

- Ðội Nhứt (lon bằng bằng hai ngón tay) được hàm Chánh Bát phẩm.

- Quản (hai lon bạc) được hàm Tùng Thất Phẩm.

Một người cậu của Tuấn, họ Bùi, chữ Nho khá, chữ Quốc Ngữ thạo, con thứ mười của một gia đình Phú Nông, tình nguyện đi lính tập để lập công danh. Hôm đầu tiên ra tỉnh, cậu mặc áo dài đen, quần vải trắng, đầu bới tóc, đúng như con nhà Nho giáo, theo nề nếp Nho phong. Nhưng vào đồn, cậu được lãnh bộ áo quần kaki của lính Tập, hớt tóc và bắt đầu tập bước với các tân binh khác dưới sự huấn luyện hùng hồ oai vệ, của một thầy Cai :

- Ấc, đơ!…Ấc, đơ!…Ấc, đơ!…(Một, hai!…) - Ất-xoong…Han tờ! (Coi chừng…đứng lại!) - A oách!…oách! (quay bên phải)!

- Rơ pô (Nghỉ) - Ga-ra-vu! (nghiêm) - Ăn-na-văng …mạc! …(bước tới) - Ấc, đơ! Ấc, đơ ! Ấc, đơ!… Một năm sau, cậu lính Tập Bùi được đóng lon Quyền. Hai năm sau được đóng lon Cai Nhì, và được gọi là thầy Cai Nhì … Rồi lên thầy Cai Nhứt …Bị phạm tôị thiếu kỷ luật, bị xuống lon Cai Nhì. Hai năm sau mới được lên lại lon Cai Nhứt.


Về làng, thầy Cai Bùi được “ăn trên ngồi trưóc“ và được gọi là “thầy Cửu“, Cửu phẩm của Triều Ðình.

Toàn tỉnh chỉ có ba bốn đồn lính Tập đóng những nơi hiểm yếu mà thôi. Nhiều Phủ, nhiều Huyện, không có đồn lính Tập, nghĩa là không có lính, trừ năm bảy chú lính Lệ, của Phủ, Huyện, để hầu hạ ông quan An nam. Lính này không có tập luyện, không có súng, không có khí giới gì cả. Thỉnh thoảng chú ra chợ, tay cầm một chiếc roi tre hay roi mây, để bắt nạt mấy chị bán hàng và mấy anh “culi” xe kéo.

Theo lời ông ngoại của Tuấn kể lại cho Tuấn nghe, thời kỳ Nguyễn Thân đi đánh giặc Phan Đình Phùng, ông ngoại của Tuấn lúc bấy giờ là một nông dân vào hạng trung lưu, bị tuyển mộ vào đoàn quân của Nguyễn Thân. Ðây là một cơ binh riêng biệt của Triều đình An nam, lính mặc áo kẹp nẹp đỏ, bên cạnh đội Lính tập chính quy của Nhà Nước Bảo Hộ Phú Lang Sa.

Lính khố xanh của Bảo hộ bị Nghĩa quân cách mạng của Phan Đình Phùng và Cao Thắng bắn chết khá nhiều trong nhiều trận oanh liệt.

Lúc Tuấn ra Huế, ở Huế một tháng, Tuấn thấy một đồn lính Khố Xanh ở đường Jules Ferry (nay là đường Lê Lợi) gần trường nữ trung học Ðồng Khánh.

Một đồn lính Tây, dân chúng gọi là lính Sơn đá (do chữ Soldat của Pháp=lính), đóng ở Mang Cá, để đề phòng những cuộc khởi nghĩa ở Huế, hơn là để bảo vệ Kinh đô.

Ngoài ra, trong Thành Nội, vua An nam “Ðại Nam Hoàng Ðế” có riêng một đội lính Khố Vàng, để hầu vua.
Dưới thời Khải Ðịnh, triều đình An nam có 6 Bộ (Lục Bộ): Bộ Lại, Bộ Lễ, Bộ Học, Bộ Hình, Bộ Công, Bô Binh.

Nhưng các bộ ấy không có nhiệm vụ nào thực tế, hay quan trọng. Như Bộ Công (công chánh) chỉ lo gìn giữ những con đường trong Thành Nội cho sạch cỏ. Còn quan Thượng Thư Bộ Binh, Binh Bộ Ðại Thần, thì chỉ huy lính Khố Vàng mà phận sự là khiêng kiệu, cầm cờ cầm quạt, che lọng cho Vua khi Vua đi tế Trời Ðất trên Ðài Nam Giao.

Sau khi Khải Ðịnh chết (động từ dành riêng cho Vua là “băng hà”), viên Khâm Sứ Huế, thủ hiến của Nhà Nước Bảo Hộ, bỏ hẳn Bộ Công và Bộ Binh.

Quan Binh Bộ Thượng Thư cuối cùng của triều Nguyễn, một cụ già đáng kính, có chòm râu bạc phất phơ hiền lành và nho nhả, không hề biết số lính của Triều đình là mấy chục hay mấy trăm người.

Bảo Ðại về lên ngôi, “cải tổ nội các”, cũng bỏ luôn bộ Binh, và đổi danh từ cho vài Bộ khác:

- Bộ Giáo dục thay vì Bộ Học.

- Bộ Tư Pháp (Hình) - Bộ Nghi Lễ (Lễ).

Ở Hà Nội, Tuấn để ý đến đồn lính Khố Xanh (ở Bắc kỳ không gọi là Lính Tập, chỉ gọi lính Khố Xanh), ở đường Ðồng Khánh.

Ngoài ra còn nhiều đồn lính Khố Ðỏ mà người Pháp gọi là Tirailleurs Tonkinois ở Hà Nội, Ðáp cầu, Tống (Sơn Tây), Lạng Sơn.

Lính này theo một quy chế khác hẳn lính Khố Xanh.

Ngoài hai hạng lính Bổn xứ ấy mà cấp bực chỉ đến chức Quản (Adjudant) là hết, và đặt dưới quyền chỉ huy của một sĩ quan Pháp cũng ở cấp bực nhỏ, quân đội chính quy Pháp ở Ðông Dương gồm có Lục quân thuộc địa (Infanterie Coloniale) và “Lê Dương“ (Légion Étrangère). Binh chủng này gồm đa số là người của các thuộc địa Phi châu của Pháp, nhiều nhất và nổi tiếng dữ nhất là người Sénégalais (quê ở Sénégal), Marocains (quê ở Maroc), Malgaches (quê ở Madagascar) và bọn phiêu lưu ngoại quốc Đức, Áo, Tiệp v.v… Chính phủ thuộc địa dùng các đạo quân này để đánh dẹp các phong trào khởi nghĩa quốc gia, hoặc các cuộc nổi loạn của cộng sản.

Về vũ khí, có thể nói là chẳng có gì đáng kể. Hầu hết là các khí giới kiểu cũ đã dùng trong trận Thế chiến 1914-1918 còn ứ đọng lại, đem phân phối cho lính thuộc địa ở Ðông Dương. Thông dụng nhất là loại súng Mousquetons, được gọi là “súng trường“, và một số ít súng liên thanh kiểu cũ. Súng đại bác, có thể nói là rất hiếm. Một vài khẩu 75 đã xưa mà hỏa lực chỉ mạnh hơn chút ít loại súng “ thần công “ của các vua An nam thời Tự Ðức. Xe tăn được 5, 7 cái loại 1918. Tầu bay lỗi thời kiểu Morane và Potez độ vài chục chiếc với một động cơ, không bao giờ dám chở đi xa các vị thượng cấp, Toàn quyền, Khâm sứ, Thống đốc, hoặc Hoàng đế, Thượng thư. Các vị này đi đâu dù là từ Saigon ra Hà Nội cũng chỉ đi bằng xe lửa mà thôi.

Tuấn có đi xem cuộc diễn binh lớn nhất ở Hà Nội, nhân dịp lễ Quốc khánh của Pháp, ngày 14 tháng 7 năm 1939. Lúc này chiến tranh sắp bùng nổ ở Âu châu, do những lời hăm dọa thường xuyên của Hitler. Ở Ðông Á, Nhựt Bổn cũng lăm le dòm ngó thuộc địa Ðông Dương của Pháp.

Có lẽ vì tình thế khẩn trương, nên chính phủ thuộc địa nhân ngày “Quốc Khánh“ 14-7-1939, muốn tổ chức một cuộc diễn binh vĩ đại, để phô trương lực lượng quân sự của Pháp ở Hà Nội trước mắt người dân bổn xứ.
Cuộc diễn binh đặc biệt này được cử hành long trọng trên Quai Clémenceau (đường Bờ Sông) dưới quyền chủ tọa tối cao của đại tướng Catroux. Toàn quyền Ðông dương. Dân chúng xem rất đông, đứng chật cả bờ đê sông Hồng Hà, theo một khoảng dài trên một kí lô mét và trên lề đường Clémenceau và đường Thống chế Pétain.

Sau cuộc nghi lễ quân sự, cuộc diễn hành bắt đầu lúc 9 giờ. Theo tiếng nhạc hùng tráng của đội quân Lê dương, các đơn vị binh chủng sắp hai hàng dõng dạc qua trước khán đài danh dự. Nhưng quân số rất ít, tổng cộng cả lính Khố Xanh, Khố Ðỏ, Lục quân thuộc địa, Lê dương, Thiếu sinh quân không quá 1000 người.
Ðội quân cơ giới không quá 5 chiếc xe thiết giáp nhỏ, và 4 xe tăn (người Bắc gọi là tàu bò) cũ kỹ mà hai cái vừa bò ì ạch đến trước khan đài thì bị panne, nằm chình ình giữa đại lộ. Năm chiếc tàu bay Morane một động cơ, cánh dài hình chữ nhật, sắp thành chữ V bay chậm chậm trên trời xanh, được một vòng rồi biến mất về phía phi trường Gia Lâm.

Xem xong cuộc diễn binh, dân chúng ra về, mỗi người phê bình mỗi cách, nhưng tựu trung không aí có cảm giác hào hứng lắm.

Nói về hiệu quả tâm lý, thì cuộc biểu diễn của quân đội thuộc địạ Pháp ở Hà Nội ngày 14-7-1939 là một thất bại lớn trái với dự tính của nhà cầm quyền Pháp.

Năm giờ chiều, Tuấn trở lại đường Bờ Sông, thấy hai chiếc “tàu bò” hỏng máy còn nằm vạ nơi đó, do hai người lính Pháp hì hục sửa mãi chưa xong.

Hai tháng sau, ngày 3-9 -1939, Thế giới Chiến tranh bùng nổ ở Âu châu.

Hà Nội cũng như tất cả thành phố Ðông dương, bị đặt vào tình trạng báo động. Dư luận tổng quát của dân chúng là biết trước rằng ở Âu châu Pháp đánh với Ðức thì Pháp chắc sẽ thua. Ở Á Đông, nếu Pháp chống lại Nhật thì thế nào Pháp cũng sẽ bị bẹp. Dân chúng không tin tưởng nơi lực lượng quân sự Pháp ở thuộc địa này.

Với một lực lượng quân sự có thể gọi là yếu ớt và sơ sài như thế, tại sao người Pháp nắm vững được thuộc địa của họ và đàn áp được tất cả phong trào chính trị, các mưu toan khởi nghĩa của các đảng phái quốc gia ở Bắc kỳ, Trung kỳ, Nam kỳ, và các cuộc nổi loạn cộng sản ở một vài địa phương Trung kỳ và Nam kỳ ?
Chúng ta tìm hiểu nguyên nhân ở chương sau.


CHƯƠNG 50

1933-34-35

- Thực lực và khuyết điểm của các đảng cách mạng Bắc Trung Nam. Nghiên cứu về tình hình riêng của mỗi “ xứ “, và tình hình chung của toàn thể lãnh thổ Việt Nam, Tuấn nhận thấy rõ rệt sự kiện say đây, là thiếu hẳn đoàn kết giữa các đảng phái quốc gia hoạt động cách mạng.

Tất cả các đảng phái đều tranh đấu cho những mục phiêu chung :

- Ðộc lập của Tổ quốc.

- Chủ quyền của quốc gia.

- Tự do của dân tộc.

Tất cả các chương trình hoạt động của đảng phái, trừ đảng cộng sản - đều dựa trên ba yếu tố đó làm căn bản. Ðó là nhu cầu của thực trạng một dân tộc vong quốc từ cuối thế kỷ trước mà chưa có một vị anh hùng, chí sĩ nào thực hiện được suốt 50 năm dưới quyền thống trị Pháp. Thay vì một đảng cách mạng duy nhất, tổ chức trên bình diện rộng rãi có sự tham gia hăng hái và trung thành của đại đa số nhân dân ở khắp các từng lớp xã hội, thay vì môt lực lượng tranh đấu đoàn kết được các phần tử ái quốc của ba Kỳ, các đảng phái thành lập dưới hình thức “ hội kín “ lại thích hoạt động riêng rẽ với một số hội viên hiếm hoi, tuyển mộ trong vòng bạn hữu, quen thuộc, chứ không lan rộng được ra quảng đại quần chúng.

Một vài “lãnh tụ” làm cách mạng theo lối tài tử nhiều hơn là chiến sĩ chân chính. Họ nói rất hùng hồn nhưng hành động không có phương pháp thực tế.

Bậy nhất là họ có nhiều tự ái, có tác phong anh hùng cá nhân, không chịu chấp nhận những lời phê bình đứng đắn của các đồng chí, hội viên.

Do đó mà “Hội kín” nào hay “Ðảng” nào cũng chỉ sống được một thời gian ngắn, dần dần bị các hội viên bỏ rơi, chỉ còn lại vài ba anh “ lãnh tụ “ hoạt động trong phạm vi lý thuyết suông mà thôi. Sự kết hợp long trọng của một vài đảng cũng chỉ có trong lý thuyết, vì thực tế rất trống trãi nghèo nàn.

Tuấn có đưa một vài anh bạn xem quyển “Le Réveil de l Asie” của René Grousset, xuất bản ở Paris năm 1925.

Bạn xem xong, trả sách, Tuấn bảo:

- Nếu Việt Nam ta có một Ðảng Cách Mạng duy nhất như đảng Swaraj (parti de Congrès) của Ấn Ðộ, và một lãnh tụ duy nhất có đầy đủ uy tín đối với quốc nội và quốc ngoại như Mahatma Gandhi, hoặc đảng Warfd của Ai Cập, hoặc đảng Jeunes Turcs của Thổ Nhĩ Kỳ dưới quyền lãnh đạo cương quyết và sáng suốt của Mustapha Kemal, thì người Pháp phải kiêng nể dân tộc ta.

Nếu các “Ðảng phái” của chúng ta hợp nhất lạị thành một đảng duy nhất mà tầm hoạt động được lan rộng khắp 3 kỳ đặt dưới quyền lãnh đạo của một Phan Bội Châu, hay một Nguyễn Thế Truyền, thì cách mạng Việt Nam mới có thể tranh đấu công khai và đi đến thành công được.

Nhưng đám bạn trẻ của Tuấn và Tuấn nhận thấy tư tưởng đại đoàn kết dân tộc, và hợp nhất đảng phái quốc gia không thể nào thực hiện được, vì óc “lãnh tụ”, “anh hùng cá nhân” đầy lòng tự ái của mấy người anh làm “cách mạng tài tử”, là một trở ngại lớn lao không thể nào đả phá được.

Ðó là một định mệnh vô cùng tai hại cho ý chí quật cường của dân tộc Việt Nam.

Phải đợi đến 1945, nhờ hoàn cảnh thuận tiện cả trên lãnh vực quốc gia và quốc tế. Việt Minh (Việt Nam Ðộc Lập Ðồng Minh) lên nắm chính quyền mới thực hiện được cuộc tranh đấu toàn diện, trên toàn thể lãnh thổ quốc gia.

Nhưng ngay trong hệ thống tổ chức của Việt Minh, các đảng phái quốc gia cũng không hợp nhất nhau lại thành một khối, không đoàn kết lại thành lực lượng, để cho cộng sản lợi dụng và tiêu diệt dần dần các hình thức cách mạng dân tộc, và các lãnh tụ quốc gia phải trốn hết qua Tàu.

Vài ba năm sau họ trở về qui thuận dưới bóng cờ Bảo Ðại.

Nhưng đó là chuyện khác.

Trở lại tình trạng chính trị của nước An nam trong những năm 1933-34-35.

Như chúng ta đã biết, lực lượng quân sự của chánh phủ thuộc địa Pháp lúc bấy giờ ở đây rất sơ sài yếu ớt, không đáng kể. Nhưng sở dĩ người Pháp vẫn nắm vững được tình hình, chính trị vì lực lượng chính trị và quân sự của nhân dân Việt Nam là con số không.

Trở về những năm 1933-34-35, có thể nói rằng không có hoạt động chính trị nào đáng kể từ Bắc đến Nam, và dân tộc Việt Nam sống rất “yên ổn”. Sau những đêm máu lửa hãi hùng ở Yên Bái, Phú Thọ, Vĩnh Yên (Bắc kỳ) năm 1930 của V.N.Q.D. Ð, và ở Hóc Môn, Cai Lậy (Nam kỳ), Quảng Ngãi, Nghệ An, Hà Tỉnh (Trung kỳ) năm 1932-33 của cộng sản, toàn cõi Ðông Dương sống trở lại phong cảnh thanh bình mà thực dân hãnh diện gọi là “La paix francaise” (thái bình của Pháp ban cho).

Tuy nhiên dân chúng vẫn không quên được vài hình ảnh ghê tởm nhất của những năm tao loạn vừa qua. Như việc dân chúng Nam kỳ đồn rằng Ðốc Phủ Tâm ở Cai Lậy mỗi khi bắt được các dân biểu tình Cộng sản, thì ông sai lính lấy sắt nhọn nung lửa cho thật đỏ, dùi thành lổ giữa những bàn tay của phiến loạn, rồi lấy giây kẽm xỏ vào, cột thành từng chùm bốn năm người, chở ghe ra xô trọn xuống sông.

Như chuyện lính Lê dương đốt nhà và hiếp dâm các thôn nữ ở Quảng Ngãi, Nghệ An, như chuyện viên Toàn quyền René Robin cho hai chiếc phi cơ đến ném bom xuống làng Cổ Am ở Bắc kỳ, giết chết toàn dân lành, ông già bà cả, trẻ con để trả thù cuộc khởi nghĩa của VNQDÐ.

Ngoài mấy chuyện rùng tợn dã man như thế mà dân chúng truyền khẩu cho nhau, cuộc sống hàng ngày rất là yên tỉnh, không có biến cố nào xao động nữa.

Hội chợ Hà Nội được tổ chức ba năm một lần, tại Khu Hội Chợ rộng rãi, huy hoàng với sự tham dự đông đảo của các tỉnh Trung, Bắc kỳ và ba xứ Nam kỳ, Ai Lao, Cao Mên.

Có cả gian hàng trưng bày rất Mỹ thuật, đầy đủ hàng hoá của các nước láng giềng: Nhật, Xiêm (Thái Lan), Trung Hoa, và nhất là các hãng kỹ nghệ lớn của Pháp. Ðây là một dịp để cho các từng lớp thanh niên thiếu nữ chưng diện bảnh bao, nô đùa nhởn nhơ suốt một tháng, đêm nào cũng đông nghẹt. Họ ném lẩn nhau lên tóc những nắm confettis (hoa giấy), quấn vào nhau những giây serpentines, tặng cho nhau những que kem 1 xu của hãng kem Bờ Hồ.

Nếu độc giả, đồng hương, thân hữu muốn: 

* Liên-lạc với Ban Điều Hành hay webmaster 
* Gởi các sáng tác, tài liệu, hình-ảnh... để đăng 
* Cần bản copy tài liệu, hình, bài...trên trang web:

Xin gởi email về: quangngai@nuiansongtra.net 
hay: nuiansongtra1941@gmail.com

*  *  *

Copyright by authors & Website Nui An Song Tra - 2006


Created by Hiep Nguyen
log in | ghi danh