MÍA ĐỒNG KÈ, TRE TÂN PHÚ
Hồi ký của Văn Lang
Đèo Eo Gió trên tỉnh lộ Quảng Ngãi - Minh Long như điểm phân ranh giữa đồng bằng phía đông với miền sơn cước phía tây. Đứng trên đỉnh đèo hun hút gió, trông về phiá tây-nam là đồng bằng xanh ngát mút tầm mắt của vùng trung du, có dòng sông uốn khúc và núi cao chớn chở vây bọc chung quanh. Dân quê hát rằng:
Đèo nào cao bằng đèo Eo Gió,
Cỏ nào xanh bằng cỏ Hố Cua.
Bao giờ cho đến gió mùa
Trèo đèo vượt suối dám đua bạn cùng.
Ngó lên hòn núi Chóp Vung,
Ngó xuống cánh đồng lúa trĩu những bông...
Đấy là một vùng đất màu mỡ của huyện Nghĩa Hành, được gọi tên là 2 xã Hành Thiện và Hành Tín (tức Nghĩa Thuận và Nghĩa Phú, tên thời Việt Nam Cộng Hòa) bao gồm đến 12 thôn ấp. Trên bản đồ, nơi đây là trung tâm điểm của tỉnh Quảng Ngãi, đồng thời cũng là điểm giao tiếp khá đặc biệt với 2 huyện miền núi là Minh Long và Ba Tơ ở phía tây, với 3 huyện bình nguyên là Đức Phổ ở phía nam, Mộ Đức ở phía đông và Tư Nghĩa ở phía Bắc. Do địa thế đặc biệt dễ bung ra tứ hướng, dễ cố thủ nhờ núi vây quanh, nên các thủ lãnh phong trào Văn Thân và Cần Vương chống Pháp đã có dự định dùng thung lũng trung du nầy làm căn cứ địa; còn gặp lấn cấn với quân Sơn phòng của Nguyễn Thân theo Pháp đóng tại Vạn Lý sát bên, thì chủ tướng Lê Trung Đình đã sớm đền nợ nước! Giá như kế hoch căn cứ địa được thực hiện thì Hành Thiện Hành Tín được biết tên như một Trùng Khánh của Trung Hoa trong thời chống phát xít Nhật.
Trương đã có cơ duyên ngồi dạy học ở trường Nghĩa Thuận (nay là Hành Thiện) giữa lúc cuộc chiến Quốc - Cộng đang giành dân lấn đất rất ác liệt tại vùng nầy. Thấm thoắt đã 37 năm qua, mọi sự đều thay đổi. Vì vậy, Trương cố vẽ lại đây vùng không gian vẫn trường tồn của 2 xã Hành Thiện - Hành Tín và ghi nhận những đứa con của nó, từng hiện hữu trong khoảnh khắc của thời gian một thế kỷ. Chỉ nhắc tên những người quen biết có cùng chính kiến, Trương chỉ có thể làm đến chừng ấy!
Trước nhất, ai cũng cảm thấy “ông mặt trời” đến vùng trung du nầy rất đường bệ. Ban mai sáng tỏ, dân chúng làm lụng dưới bóng núi thu ngắn dần dần, mới thấy mặt trời lên ngôi trên đỉnh núi phía đông. Buổi chiều, mặt trời rực rỡ hào quang, ngự trên dãy Trường Sơn phía tây; mặt trời vừa chìm khuất là bóng tối như trong núi đổ ra nhuộm thẫm cả thôn làng.
Đường tỉnh lộ từ Thị xã Quảng Ngãi chạy lên huyện Minh Long. Sau khi qua huyện lỵ Nghĩa Hành rồi vượt đèo Eo Gió là vào địa phận xã Hành Thiện, nơi 2 thôn Phú Lâm Đông và Phú Lâm Tây nằm bên tả ngạn sông Vệ. Ngày xưa, huyện đường Nghĩa Hành trú đóng tại Phú Lâm Tây, nơi ngã ba của tỉnh lộ: một nhánh chạy lên Minh Long, một nhánh chạy vào nam qua Hành Thiện, Hành Tín nối liền với tỉnh lộ Thạch Trụ đi Ba Tơ. Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa đã xây dựng nên cầu Cộng Hòa bắt ngang qua sông Vệ tại ngã ba nầy, giúp cho xe cộ lưu thông rất thuận lợi. Vượt qua dòng sông Vệ rộng lớn kể từ nguồn cho đến biển vào thuở ấy có được 3 cây cầu: cầu Cộng Hòa nằm trên đầu dòng, đến cầu xe lửa tại Hòa Vinh Tây và cầu trên quốc lộ 1 tại thị trấn sông Vệ. Nhưng! đến những năm đầu của thập niên 1960, Việt cộng nhiều lần lén đánh mìn đã phá sập cầu Cộng Hòa! Cũng từ đó một đồn binh được dựng lên trên đỉnh núi đầu cầu, cạnh huyện lỵ cũ - cũng mang tên là đồn Cộng Hòa - trong thế liên hợp với đồn trên núi Đình Cương ở xã Hành Đức, để giữ an ninh toàn vùng và lưu thông trên tỉnh lộ.
Từ thôn Phú Lâm Đông qua đèo Đá Bàng thấp và ngắn để xuống An Chỉ, về quốc lộ 1. Đối diện đèo Đá Bàng, về phía hữu ngạn sông Vệ có đèo Quán Thơm trên tổng lộ từ An Ba, Xuân Đình dẫn vào Hành Thiện. Đèo Quán Thơm chạy bên chân núi, nơi dòng sông dội vào núi đá tạo nên vực nước xoáy sâu thẳm rợn người, cho nên thuyền bè qua lại nơi đây thường đốt hương cầu khẩn cho được bình an. Nhiều người còn tin rằng nước sông Vệ và sông Trà Khúc thông nhau, vì đã được biết có trái bòng mang hình dáng đặc biệt bị cuốn hút vào hố nước xoáy Quán Thơm, lại thấy trồi lên nơi vực sâu trên dòng Trà Khúc.
Phía tây đèo Quán Thơm, mở ra vùng đồng lúa rộng bát ngát của 4 thôn Mễ Sơn, Ngọc Dạ, Vạn Xuân và Bàng Thới của xã Hành Thiện, bên hữu ngạn sông Vệ. Dải đất phù sa ven sông của thôn Bàng Thới (tục gọi là Đồng Kè) trồng mía rất tốt, có hàm lượng đường rất cao, được nổi tiếng là “Mía Đồng Kè, tre Tân Phú”. Thôn Tân Phú là sinh quán ông Trần Vạn Phiên, nguyên là một giáo sư Trung học, có ra sách toán trong thời kháng chiến chống Pháp, sau làm Quận trưởng Nghĩa Hành rồi Dân biểu Quốc Hội thời Việt Nam Cộng Hòa. Ông Phiên hiện định cư tại thành phố Philadelphia, Hoa Kỳ. Em ông Phiên là cô Hương, một trong số hiếm hoi nữ huấn luyện viên thanh niên của tỉnh Quảng Ngãi thời Việt Nma Cộng Hòa. Từ chỗ quen biết, nên Trương thường đến thăm ông bà Cửu Thâm là bố mẹ của 2 người trên, để được đãi nước dừa tươi và hái trái cà phê chín trồng quanh vườn.
Thôn Vạn Xuân dựa lưng vào núi Đụn ở phía đông (trên sách địa lý là núi Giàng) có dáng dấp như cánh dơi, được bao phủ bởi cây lá xanh thẫm của rừng già. Đồng ruộng Vạn Xuân rất phì nhiêu, nước từ khe núi và từ sông Vệ thấm nhuần quanh năm. Có những người chôn nhau cắt rún ở đất Vạn Xuân, nay đã cao niên như ông Nguyễn Trọng Phu là giáo chức trung tiểu học thời kháng Pháp, đến thời Việt Nam Công Hòa thường lịch lỵ nhiều nơi: ở tòa Hành Chánh tỉnh Quảng Ngãi, lên Tóa án Đà Lạt, về bộ Ngoại giao. Ông Phu hiện sống tại thành phố Toronto, Canada. Có người đã thành thiên cổ vào giờ thứ 25 của cuộc chiến oan nghiệt như ông Vũ Hồng. Ông Hồng nguyên là quận phó rồi chủ sự ty Tài chánh Quảng Ngãi thời VNCH. Sau 1975, ông bị tù cải tạo tại trại Gia Trung cùng lúc với Trương; tính ông bất khuất nên bị cai ngục Việt cộng giam cùm đến chết, rồi vùi xác giữa rừng. Người cùng trang lứa và thân thiết với Trương là ông Nguyễn Duẫn. Ông Duẫn là Trưởng viện Bài lao Quảng Ngãi thời VNCH, hiện nay vẫn hành nghề như một bác sĩ mát tay và có tài năng tại Quảng Ngãi. Con trai con gái của ông cũng là bác sĩ, trong đó có anh Nguyễn Tiến Dũng hiện sống tại Washington State, USA, vốn là một học sinh giỏi của Trương tại Trung học Trần Quốc Tuấn. Thôn Vạn Xuân còn một học sinh xuất sắc của Trương là Nguyễn Thị Kim Tuyến, con của thầy Lang.
Tiếp tục đi theo nhánh tỉnh lộ cán đá, về hướng tây nam là địa phận xã Hành Tín (tức Nghĩa Phú thời VNCH). Núi Nứa nằm ven hữu ngạn sông Vệ, nơi có 2 thôn là Thiên Xuân và Nhơn Lộc. Từ thôn Nhơn Lộc, vượt đèo Đồng Ngổ (tên chữ là đèo Đại Lộc) để xuống Đồng Ngổ của xã Đức Sơn rồi chạy về quốc lộ 1 tại thị trấn Đồng Cát. Người con gái xóm trên ngỏ ý với chàng trai thôn dưới, giữa cảnh trí quê nhà:
Đèo nào cao bằng đèo Đồng Ngổ,
Bộ nào rộng bằng bộ An Ba.
Thấy anh ăn nói thật thà,
Muốn vô gầy dựng cửa nhà cùng anh.
Thật ra, đèo Đồng Ngổ không cao bằng đèo Eo Gió, nhưng đường lên đèo Đồng Ngổ đi thẳng nên dốc dựng, xe hơi không thể qua được, khác dốc thoai thoải chữ Z của đèo Eo Gió. Lúc mới vào đời, Trương đã đi xe đạp 45 cây số , vượt đèo tìm giống hoa mai ở thôn Nhơn Lộc, được ông giáo Nhuận và ông giáo Thiệu cho một cây mai con mang về trồng trước nhà. Cây mai đó đơm hoa bao mùa Xuân rồi, mà Trương chưa một lần trở lại thăm Nhơn Lộc, có chăng chỉ gặp Đại úy Khiêm (con ông giáo Nhuận) là quản lý Bệnh viện I dã chiến, hiện nay anh định cư tại Hoa Kỳ.
Thôn Thiên Xuân là nơi chào đời của thầy Nguyễn Vỹ, sau đó thầy dời sang thôn Tân Phú của phía vợ, có lẽ vì ngại suối nước độc: “Bất ẩm Thiên Xuân khê”. Thầy Nguyễn Vỹ là giáo sư Lycée Khải Định (tức trường Quốc học, Huế) dưới thời Pháp thuộc, rồi Hiệu trưởng trường Lê Khiết, lên Giám đốc Giáo dục miền Nam Trung bộ thời KCCP. Nay thầy Vỹ xấp xỉ 100 tuổi, lấy Nha Trang làm nơi an dưỡng cuối đời. Thầy Nguyễn Quới là con thầy Vỹ. Trương học Pháp văn thầy Quới dạy tại trường Lê Khiết ở An Ba cả trước và sau khi thầy cưới cô Chí (một nữ giáo sư cùng trường, nhà bên An Chỉ). Tiến sĩ Hoàng Ngọc Thành, hiện ở thành phố San Jose, USA là em cô Chí, cũng từng dạy ở trường Lê Khiết. Thầy Nguyễn Quới có học vị Tiến sĩ Văn chương Pháp, đảm nhận chức vụ Khoa trưởng Đại học Văn khoa Huế thời VNCH. Hiện nay gia đình thầy Nguyễn Quới định cư tại nước Bỉ, Âu châu.
Bên tả ngạn sông Vệ mở ra những cánh đồng lúa xanh mơm mởn của 4 thôn là Phú Khương, Phú Thọ, Tân Phú và Long Bình. Vùng đồng ruộng màu mỡ nầy có tên là “Suối Bùn” là do chất mùn từ núi đưa xuống và sông Vệ bồi lên hàng năm vào mùa lũ lụt. Con gái vùng nầy đẹp mặn mà, vượt trội hơn cả là cô Th. và cô Ng. nổi tiếng một thời mà Trương được biết. Bạn bè thường nói ví von: “Sông Vệ không phải là sông Trữ La, nên Th. và Ng. không thể là Tây Thi và Trịnh Đán, bởi tại nước Việt phương Bắc khác với Việt Nam”. Các cụ ta ngày xưa rất dị ứng với tình cảm lãng mạn dù là phái mạnh hay phái yếu, nên đã phịa ra 4 điều không: “Bất giao...Bất thú ... Bất đáo... Bất ẩm...” về vùng đất nầy, tưởng không nên truyền lại.
Giữa đồng ruộng Phú Thọ có giếng tắm lộ thiên công cộng. Nước mạch từ bậc ruộng bực thang cao hơn chảy ra bất tận, có một vách xây ngăn chia đôi vũng tắm giữa nam và nữ, giới nào vào ngăn ấy cứ trần truồng tắm gội thoải mái, cứ tự nhiên như trẻ con tắm mưa. Nước sông Vệ thật trong, nhưng còn mang theo giá lạnh từ sông Rhe chảy xuống, nên người dân quê thích tắm nước ở “vũng tắm” vì còn hơi ấm của lòng đất. Chính ở đồng ruộng Suối Bùn là nơi “trái bắp bằng bắp cẳng, bông lúa như đuôi trâu”, tuy có nói quá lố, nhưng giúp ta hình dung được ngũ cốc nơi đây. Câu “Mía Đồng Kè, tre Tân Phú” lại sát đúng thực tế. Tre thôn Tân Phú lóng dài mắt nhỏ là thứ tre nang sản xuất ra dụng cụ bằng tre. Chủ vườn bán tre nguyên cả bụi, người mua chặt sạch sát mặt đất, rồi kết thành mảng bè, nương theo lạch nước sông Vệ trôi về xuôi. Chừng năm, bảy năm sau, măng tre lại mọc thành bụi tre.
Tiếp tục đi lên hướng tây là đến một thung lũng dài và hẹp có tên là Khánh Giang và Trường Lệ. Khu vực nầy có lúc thuộc xã Hành Tín, có khi lại sát nhập vào huyện Ba Tơ. Đất đai Khánh Giang, Trường Lệ phần lớn là đất khai phá của ông Thượng Hiền (cũng gọi là Án Hiền, vì trước ông là quan Án sát, sau thăng chức Thượng thơ dưới triều Nguyễn). Gia trang của ông Thượng Hiền ở thôn Tân Phong (thuộc huyện Đức Phổ) cách đấy mươi cụm núi, chừng năm ba dặm chim bay.
Lối vào Hành Tín có thể theo tỉnh lộ Thạch Trụ - Ba Tơ, qua ngả đèo Đá Chát. Đèo Đá Chát và Hố Trầu có nhiều cọp, đáng sợ một thời là cọp ba chân và cọp tàu cau đã vồ thịt hàng chục người. Cọp xuống làng xóm vùng Khánh Giang, Trường Lệ, Suối Bùn bắt cả heo bò; dân làng nổi mõ, trống, la hét xua đuổi chẳng ăn thua gì. Cọp chỉ sợ tiếng súng song thương của mấy tay thợ săn, vì cọp đã biết rằng:
Cốc cốc...là gốc tre già
Thùng thùng...là da trâu núi
Huiï hụi...là bay đuổi tao
Đùng đùng...là tao mới sợ.
Còn một điều khó quên về trại cải tạo Hành Tín, là một trong hàng trăm trại giam các người từng phụng sự chế độ Cộng hòa, sau khi VNCH bị cưỡng chiếm vào mùa Xuân 1975. Trại giam nầy ở thôn Long Bình, nên người đương thời bèn thêm vào điều “không” thứ 5: “Bất vãng Long Bình đê” được giải nghĩa là “không đến đường Long Bình” vì đạp gai, rách áo, bởi các bờ đắp có chôn gai và đóng cọc nhằm cấm trâu bò, đi sạt lở bờ lại ăn lúa nữa. Câu trên mang hàm ý: không ai muốn đến đường Long Bình, lối dẫn vào trại giam bằng khổ sai lao động!
* * *
Đầu niên khóa 1964-1965, Trương nhận lệnh thuyên chuyển đến dạy và làm Hiệu trưởng trường Nghĩa Thuận (nay là Hành Thiện) giữa lúc chiến cuộc nơi đây rất phức tạp. Cơ sở 3 lớp sơ cấp bên Phú Lâm Đông gần đồn Cộng Hòa, có an ninh, do 1 thầy và 2 cô giáo viên ấp tân sinh đảm trách, chẳng có gì đáng ngại. Cơ sở tiểu học 5 lớp lại phải đi đò qua hữu ngạn sông Vệ, gặp Ủy ban Hành chánh xã có rào vi kiên cố và lính gác, đi tiếp 2 cây số trên tỉnh lộ mới đến ngôi trường 3 gian ngói 2 gian tranh, là trường học ở vị trí giáp ranh với vùng mất an ninh của xã Nghĩa Phú (nay là xã Hành Tín). Tuy vậy, trường Nghĩa Thuận vẫn giảng dạy bình thường, có quy củ, lá quốc kỳ màu vàng 3 gạch đỏ vẫn ngự trị trên cột cờ suốt ngày đêm. Sĩ số mỗi lớp đã đến 60, nhưng các thầy vẫn vui lòng nhận thêm học sinh trường Nghĩa Phú học dở dang, vì trường ấy đã đóng cửa rồi.
Buổi trưa nghỉ vài giờ, nhiều em bỏ bụng nắm cơm độn khoai mì, vừa nhai vừa học bài cho lớp học buổi chiều, tan học sớm là về nhà làm lụng (các thầy cũng vội qua đò lấy xe gắn máy vượt qua đèo Eo Gió trước 4 giờ 30, sáng hôm sau chờ lính mở đường, rà mìn xong mới lên đèo). Hầu hết các em ham học mà sống lam lũ, nên Trương không còn buộc học sinh phải đồng phục, nhưng bắt buộc phải mang bảng tên trường vào các áo đi học - không chỉ để biết tên, mà vì an toàn hơn cho con em ở vùng xôi đậu nầy.
Gặp ngày mưa lũ, nước sông Vệ chảy cuồn cuộn lênh láng không thể đưa đò, các thầy giáo không dám nghỉ lại nhà bác Hiền ngay trước trường như buổi trưa, mà phải rút vào trong “ấp chiến lược” Bàng Thới. Nằm nghe súng nổ bên đồn Cộng Hòa, đại bác ì ầm bên vách núi và hỏa châu vụt sáng giữa đêm mưa; đợi lúc nầy, thầy N. mở đòn tâm lý với Trương:
- Anh đốc nầy! mấy ổng xử tệ với anh vì chuyện Phật giáo ở Huế, đẩy anh vào tử địa nầy, nếu bom đạn có tha thì tuổi thọ cũng giảm nhiều lắm. Anh có đủ lý do để đóng cửa trường. Bọn tui về Ty nằm chờ đi trường mới, còn anh đã là Giáo sư trung học chánh ngạch trở về trường thành phố, sao anh không tính liền đi?
Vốn biết trước đề nghị ấy của các bạn đồng nghiệp, Trương thẳng thắn nói:
- Đám học trò có xử tệ với tôi đâu mà trả thù chúng nó ? Trường mình thôi dạy thì chúng biết đi về đâu ? Vô tình chúng mình đẩy các em ở lứa tuổi 15, 16 ở lớp Nhì và Nhất lên núi cầm súng, từ tình thầy trò trở thành thù địch. Tôi còn đến đây tiếp tục dạy dỗ, chẳng lẽ các anh lại quay lưng với con em rất gần với các anh sao? (Cùng dạy tại cơ sở tiểu học với Trương, đã có 3 thầy ở huyện Nghĩa Hành là thầy Nguyễn Lang, thầy Lê Nguyên, thầy Võ Duy Mật. Trẻ nhất là thầy Nguyễn Văn Báu, quê ở Đà Nẵng, mới tốt nghiệp trường Sư phạm Huế là về nhiệm sở Nghĩa Thuận).
Muốn được bảo đảm trường học là khu phi chiến, thầy và trò phải được bảo vệ, Trương phải lần lượt đến gặp Thiếu tá chỉ huy đồn Cộng Hòa, ông Chủ tịch và Ủy viên Cảnh sát xã Nghĩa Thuận (cả 2 ông từ tỉnh đưa lên, vì người địa phương không ai dám nhận, sợ bị Việt cộng ám sát) và cả trung đội trưởng Nghĩa quân nữa.
Các thầy đi đâu cũng có năm, bảy em học sinh lớn tự nguyện đi theo sau như người hộ vệ. Một buổi trưa oi bức, Trương lặng lẽ ra bến lội gần trường, ngâm mình trong dòng nước trong mát và bơi ra giữa lạch sâu. Ngay lúc đó một chú mục đồng lừa bò xuống sông tắm, chú nắm theo đuôi bò bơi đến gần Trương, nói nhỏ: “Thầy đừng qua, bìa núi trên đó có mấy ông kẹ giấu súng trong áo, giả làm người đốn củi, ghê lắm!”. Trương vội quay về, đến cồn cát bìa sông đã gặp nhóm học trò túa đi tìm thầy, có em chảy nước mắt, những giọt nước mắt lo sợ lẫn vui mừng của tinh thầy trò trên quê hương tang tóc!
Hôm ấy, vào đầu tháng 4-1965, lúc 8 giờ, trung đội Nghĩa quân sau đêm phục kích, đương kéo về trên đường lớn từ thôn Vạn Xuân đến ngay trường, thì bị Việt cộng đánh úp cách trường chừng 400mét. Nghĩa quân phải dựa theo con mương dẫn đến trường để rút vào ấp chiến lược Bàng Thới. Súng, lựu đạn nổ dữ dội, thầy trò hốt hoảng. Trương la thét, bảo thầy trò phải nằm theo tường gạch của mỗi lớp. Nghĩa quân lui cách trường 200 mét thì trụ lại quyết tử chiến (3 nghĩa quân đã ngã xuống tại điểm nầy để nhà trường không đổ máu!) Tức thì đại bác từ đồn Cộng Hòa nổ chát chúa dọc bìa núi Giàng, áp lực của địch được giải tỏa. Giá như, 300 học sinh túa ra vì khiếp sợ, là nằm ngay giữa lằn đạn đôi bên, chưa kể đến Việt cộng bắt học sinh làm lá chắn ! Nghĩ đến đó Trương thấy trách nhiệm quá lớn.
Dù vậy, trường Nghĩa Thuận vẫn mở cửa giảng dạy đều đặn. Trương đã hoàn thành phiếu điểm miễn thi Tiểu học và lập xong hồ sơ thi lên Trung học cho con em Nghĩa Thuận niên khóa 1964-1965 như bổn phận phải làm, ân nghĩa phải trả cho vùng đất quê hương yêu quý.
Đất nước và con người nơi vùng trung du ấy của tỉnh Quảng Ngãi còn in sâu trong tâm tưởng của Trương trên đường đời tha phương lưu lạc.
Connecticut, tháng 11-2002
VĂN LANG