Diễn đàn của người dân Quảng Ngãi
giới thiệu | liên lạc | lưu niệm

 April 16, 2025
Trang đầu Hình ảnh, sinh hoạt QN:Đất nước/con người Liên trường Quảng Ngãi Biên khảo Hải Quân HQ.VNCH HQ.Thế giới Kiến thức, tài liệu Y học & đời sống Phiếm luận Văn học Tạp văn, tùy bút Cổ văn thơ văn Kim văn thơ văn Giải trí Nhạc Trang Anh ngữ Trang thanh niên Linh tinh Tác giả Nhắn tin, tìm người

  Linh tinh
ĐẶC SAN QUẢNG NGÃI XUÂN 2009 Phần 1
Webmaster
Các bài liên quan:
    ĐẶC SAN QUẢNG NGÃI XUÂN 2009 Phần 2

 

LÒI GIỚI THIỆU:

Xin giới thiệu đến độc giả của www.nuiansongtra.net:
ĐẶC SAN QUẢNG NGÃI XUÂN KỶ SỬU 2009 CỦA HỘI ÁI HỮU & ĐỒNG HƯƠNG QUẢNG-NGÃI MIỀN BẮC CALIFORNIA, được phát hành vào ngày 8-3-2009 tại San Jose, California.

(Ban Điều Hành)
- - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - -

Trang 9:

LÁ THƯ XUÂN

Kính thưa quý ân nhân, quý nhà bảo trợ
Kính thưa quý thi văn hữu cộng tác
Kính thưa quý thân hữu,
Kính thưa quý đồng hương thân mến,

Dù mùa Thu có những cơn gió heo mây cuốn đi lá vàng, dù mùa Đông có đem băng tuyết giá lạnh đến với những thân cây trơ trọi, nhưng mùa Xuân về, cây cối đâm chồi nở lộc, đơm bông với muôn sắc, muôn màu, hòa với niềm tin và hy vọng mới của con người vươn lên tràn đầy sức sống.

Trước thềm năm mới, Ban Đại Diện Hội Ái Hữu Đồng Hương Quảng Ngãi Bắc California trân trọng kính chúc quý thân hữu, quý đồng hương một năm mới gặp nhiều may mắn, dồi dào sức khỏe, an khang và thịnh vượng.

Cụ Nguyễn Du đã nói:

“Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”

Đó là tâm trạng của nàng Kiều mà cũng chính là của chúng ta hiện nay, vì vậy cho dù chúng ta đang sống trong một quốc gia phú cường, văn minh vào bật nhất thế giới, cho dù chúng ta có một đời sống vật chất đầy đủ tiện nghi, cho dù chúng ta đang đứng trước mùa xuân đầy hương sắc, nhưng chúng ta vẫn khép kín một tâm tư bùi ngùi nơi tận đáy tâm hồn, đó chính là tình yêu quê hương và dân tộc.

Ta phải làm gì? Đây là một câu hỏi mà lời giải đáp lệ thuộc vào lập trường, quan điểm, hoàn cảnh và khả năng của mỗi người trước tai họa Cộng Sản. Cho dù hoàn cảnh thế nào đi nữa, chúng ta vẫn phải tự trả lời, không thể tự cho mình đứng ngoài, đứng trên vì thực tế là chúng ta đang đứng trong hoàn cảnh tranh đấu chung của đất nước.

“Tổ quốc hưng vong, thất phu hữu trách”.

Thời gian không dừng lại, không gian không đứng yên và thế giới luôn luôn thay đổi. Sự thay đổi không những theo quy luật tất yếu của tự nhiên mà còn chịu ảnh hưởng của con người “cùng bỉ biến thông”. Cụ Nguyễn Du cũng đa có quan điểm như vậỵ “Xưa nay nhân định thắng thiên cũng nhiều”.

Hy vọng với ý chí cương quyết bảo vệ tổ quốc, với tình yêu quê hương thiêt tha để bảo vệ dân tộc, chúng ta phải đoàn kết để góp phần cùng nhau xây dựng một Việt Nam tự do, dân chủ, ấm no và phú cường.

Thay mặt Ban Chấp Hành Hội Ái Hữu và Đồng Hương Quảng Ngãi miền Bắc California, chúng tôi chân thành cảm ơn các văn thi sĩ, các Mạnh Thường quân, các cơ sở thương mại, các hội viên, đã đóng góp công sức, tài chánh, để chúng tôi thực hiện Đặc San Xuân, các chương trình khuyến học và yểm trợ thương phế binh ở quê nhà, nhất là đa số hội viên đã tham gia tích cực trong việc bầu cử Ban Chấp Hành nhiệm kỳ 2008-2011 thành công rất tốt đẹp, đã tạo cho hội một thế đứng vững mạnh.

Chúng tôi rất mong sự ủng hộ tinh thần, sự tham gia hoạt động, sự góp ý xây dựng thẳng thắn của quý thân hữu, đồng hương để chúng ta cùng chung sức xây dựng Hội mỗi ngày thêm vững mạnh.

Trân trọng kính chào,

San Jose, ngày 1 tháng 1 năm 2009
Thay mặt Ban Chấp Hành Hội Ái Hữu & Đồng Hương Quảng Ngãi miền Bắc California
Hội Trưởng,

Nguyễn Diên.

- - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - -

Trang 11:

THƯ BAN BÁO CHÍ

Kính thưa quý vị cao niên trong Hội
Kính thưa quý vị quan khách
Thưa quý thi văn hữu
Thưa quý đồng hương và thân hữu Quảng Ngãi.

Trong không khí vui đón Năm Mới truyền thống của dân-tộc, Ban Biên Tập Đặc San Xuân Quảng Ngãi của Hội Ái Hữu và Đồng Hương Quảng Ngãi miền Bắc California xin gởi đến quý vị cùng quý quyến những lời chức tốt đẹp nhất trong Năm Kỷ Sửu 2009.

Kính thưa quý vị,

Cuốn Đặc San trên tay quý vị là Đặc San thứ 13 mà Hội nhà thực hiện được để gởi đến đồng hương và thân hữu Quảng-Ngãi như một món quà Xuân khiêm nhường, thay lời tri ân mà quý vị đã ưu ái dành cho Hội, đã cộng tác với Ban Chấp Hành của Hội trong suốt thời gian 12 năm qua.

Kể từ số ra mắt trong ngày thành lập Hội đến nay, cuốn Đặc San Xuân của Hội ngày càng cải tiến, đã gây được tiếng vang trong đồng hương, đã đi nhiều nơi, nhiều lục địa có đồng hương và thân hữu Quảng Ngãi cư ngụ, ngoài vùng Bắc California, đã góp phần vào sinh hoạt văn nghệ của người Việt tại hải ngoại.

Thành quả đó có được nhờ sự đóng góp từ nhiều phía. Đầu tiên phải kể là từ các nhà Mạnh Thường quân, các nhà bảo trợ, các chủ cơ sở thương mại, là đồng hương hay thân hữu, đã bảo trợ tài chánh để thanh toán ấn phí. Kế đến là các thi văn hữu đã đóng góp các sáng tác, với nhiều thể loại để hoàn thành cuốn Đặc san, tạo cho nó mang nhiều sắc thái, được súc tích. Ngoài ra, sự đóng góp của đồng hương và thân hữu cũng đáng kể để tạo điều kiện cho tiếng nói của Hội – là cuốn Đặc san Xuân hàng năm – được bay xa, để phổ biến sinh hoạt của Hội. Là những người thừa hành trách vụ mà đồng hương giao phó trong việc thực hiện Đặc San, Ban Biên Tập chúng tôi xin gởi đến quý vị lòng tri ân sâu xa trước những đóng góp quý giá mà quý vị dành cho Hội nhà.

Tiền nhân Quảng Ngãi chúng ta đã để lại những tấm gương sáng, đã để lại danh thơm cho quê hương núi Ấn sông Trà trên nhiều lãnh vực - trong đó có văn chương - mà chúng ta là hậu duệ, phần nào hãnh diện trước những thành quả của tiền nhân. Do đó, dù có phải sống tha hương, phải mưu toan cho cuộc sống, chúng ta nên đóng góp công sức trong điều kiện của mình để quảng bá tiếng nói của quê hương Quảng Ngãi với cộng đồng người Việt, giúp đỡ Ban Chấp Hành của Hội, được chừng nào hay chừng ấy.

Liên tiếp trong nhiều năm qua, có nhiều thi văn hữu đã thành tâm thật ý mong muốn cuốn Đặc san Xuân Quảng Ngãi thành công nên đã cố gắng sáng tác, đã gởi đến chúng tôi những bài viết có giá trị tuy rằng có nhiều vị niên kỷ đã cao, tay run mắt mờ, trí nhớ mai một. Ngoài ra, có nhiều đồng hương và thân hữu là chủ các cơ sở thương mại đã thương tình bảo trợ tài chánh cho Đặc San, có nhiều vị đã bảo trợ ngay từ số đầu tiên đến số nầy. Chúng tôi biết quý vị giúp đỡ là vì thương mến Hội, muốn Hội nhà vững mạnh hơn chứ không mong mỏi công việc kinh doanh phát đạt hơn nhờ sự quảng bá cơ sở của quý vị đến khách hàng qua cuốn Đặc san nầy. Ban Biên tập cũng như Ban Chấp Hành đã biết điều nầy và xin tỏ bày lòng tri ân sâu xa đến tất cả quý vị.

Trước thêm Năm Mới, Ban Báo Chí, đặc trách thực hiện Đặc san Xuân Quảng Ngãi xin gởi đến quý vị và toàn thể quý quyến lời cầu chúc: PHU, QUÝ, THO, KHANG, NINH.

Trân trọng,

Ban Báo Chí.
- - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - -

Trang 13:

CHÚC XUÂN

Năm mới thiệp mừng gởi chúc nhau
Đẹp tình huynh đệ nghĩa thâm sâu.
Đồng hương bốn biển Xuân vui nhộn
Dòng tộc năm châu Tết nguyện cầu.
Đất mẹ không còn bao khốn khổ
Quê cha hết chịu những thương đau.
Đoàn viên hỷ sự mừng gia đạo
Kỷ Sửu an khang cảnh sướng giàu.

Phùng Trần
Illinois, 2009


Họa vận: CHÚC XUÂN

Tám câu thay thiệp Tết trao nhau
Bẩy chữ chuốt vần vận thẳm sâu
Quyến thuộc cát tường cùng nguyện ước
Thân bằng khang thịnh hiệp chung cầu.
Thiên tai mưa lụt ngưng tràn ngập
Quê mẹ dân lành hết khổ đau.
Tống cựu xướng hòa câu khánh chúc
Nghinh tân Kỷ Sửu thảy sang giầu.

Hoài Việt,
California, 2009

- - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - -

Trang 14:

TRÂU ƠI! TA BẢO TRÂU NÀY!

Click vào đây

Ngẫm lời người xưa:

Trong thiên hạ có ba cái nguy:
1) Đức ít mà được ân ủng nhiều.
2) Tài kém mà ở địa vị cao.
3) Thân không lập được công to mà bổng lộc nhiều. (Hoài Nam Tử).


- - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - -

Trang 39:

GIÓ XUÂN

Gió mang người ấy đi rồi
Gió đâu có biết mình tôi khóc thầm
Gió về nẻo ấy xa xăm
Gió như lắng đọng tháng năm đợi chờ
Gió đan ý nhạc lời thơ
Gió ôm nuối tiếc bao giờ mới nguôi?
Gió làm con nước ngược xuôi
Gió chia đôi nẻo ngậm nguồi tiếc thương
Gió reo đêm vắng canh trường
Gió thương cành lá bên đương xác xơ
Gió ru cơn sóng vỗ bờ
Gió còn thổi mãi bao giờ có Xuân?


Lê Tùng

QUÊ TÔI

Quê tôi có dòng Vệ Giang nước biếc
Lũy tre làng năm tháng mãi đu đưa
Hàng cau xanh nghiêng ánh nắng lưa thưa
Cùng ruộng lúa vui hai mùa mưa nắng.
Cánh đồng xanh nhởn nhơ bầy cò trắng
Trẻ mục đồng đùa giởn đánh lùa trâu
Người nông phu chiếc áo đã bay màu
Thương nhớ mãi nhưng giờ đâu còn nữa.
Nhớ thuở xưa mùa tựu trường hớn hở
Trường làng tôi vang tiếng hát ngây thơ
Nhưng chiến tranh khói lửa chẳng ai ngờ
Giặc Cộng đến gieo bao điều tội ác
Thương thầy giáo phải lên đường giết giặc
Nhìn chúng tôi lệ thầy vương ánh mắt
Giặc đến làng cướp hết cảnh bình yên
Con yêu thương phải xa cách mẹ hiền
Và nước Việt phải triền miên đau khổ.


Lê Tùng
- - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - -

Trang: 40

XUÂN VỀ NÓI CHUYỆN KINH THI THẦN THOẠI.
Thinh Quang

Trước thời Đông Chu, Trung-Hoa đã có một nền văn hóa phong-phú, được xem là một trong những quốc gia có một nền văn học cổ xưa và liên tục nhất thế giới. Chẳng những trong các ca dao, tục ngữ ngoài tính văn chương của nó còn có một số không ít ẩn tàng về thần thoại nữa.

Vào một mùa Xuân cách đây lối 2500 năm, một bộ tổng hợp thi ca được sưu tập và hoàn thành bốn thể loại gồm: quốc phong, tiểu nhã, đại nhã và tụng. Bộ tổng hợp thi ca này được xem là pho kinh điển đầu tiên của Nho gia, có đến ba trăm linh năm bài thơ được truyền tụng trong dân gian hình thành vào thế kỷ thứ VI trước Công nguyên

Cứ theo Tả truyện thì Ngô Quý Trác đến nước Lỗ để sưu tập về âm nhạc được người nước Lỗ ca hát cho nghe, Trác nhận thấy lời lẽ trong các bài thơ chẳng có gì khác hơn Kinh Thi. Về sau, khi người ta đề cập các bài thơ trong Kinh Thi và bàn thảo nhiều về kho tàng vô giá này, lúc bấy giờ Đức Khổng gọi đó là “Thi tam bách”. Như vậy, người đời sau nhận thấy vào thời kỳ Đức Khổng ra đời đã có tập thi ca này. Mang so với bộ Kinh Thi ngày nay chẳng có gì khác biệt nhau.

Ca dao xuất hiện sớm hơn Kinh thi. Có nghĩa trước thời Đông Chu, Trung Hoa đã có một nền văn hóa phong phú, đó là các lời ca dao lưu truyền trong dân gian. Có thể còn có nhiều câu ca dao bị thất truyền, vì quá lâu đời, chưa có văn tự ghi chép, do đó dễ bị thất thoát không thể truy tầm được nữa.

Điểm đặc biệt là trong số các câu ca dao ẩn tàng những chuyện thần thoại, vì lúc bấy giờ con người luôn luôn cảm thấy hãi hùng trước những hiện tượng mà họ chưa lý giải được, như từ sấm sét, giông tố, núi rừng luôn cả gốc cây đa... bóng đêm hay bất cứ một hiện tượng nào khác, nơi nào với họ cũng có các vị thần linh cai quản và đời sống con người đều phải thần phục.

Theo sách Thể bản đã ghi:

-”Phục Hi chế ra thiết cầm, Nữ Oa chế ra Sênh hoàng...hoặc theo sách Phong tục thông lại ghi: Thần Nông mới chế ra đàn sắt..., lúc bấy giờ trong dân gian truyền khẩu về điều này bằng các lời lẽ trong câu ca dao, hay trong các giai thoại hặc chuyện cổ tích v.v...”.

Người Hung Nô đã từng căn cứ theo phong thủy mà đoán được điều lành dữ. Theo Hán thư thì trong Dân Ca Cổ Hung Nô cho rằng Núi Yên Chi mà mất đi thì làm cho phụ nữ của bộ tộc này mất đi nhan sắc. Núi Kỳ Liên mà không còn nữa thì súc vật phải bới đi phần đông đảo khiến cho cuộc sống phải cơ cực. Câu ca dao bên dưới nói lên điều này:

Vong ngã Yên chi sơn
Sử ngã phụ nữ vô nhan sắc.
Vong ngã Kỳ liên sơn,
Sử ngã lục súc bất phiền tức.

(Làm mất núi Yên chi của chúng tôi
Khiến cho phụ nữ chúng tôi mất đi nhan sắc.
Làm mất núi Kỳ Liên của chúng tôi,
Càng khiến cho súc vật chúng tôi bớt đi phần đông đảo!).

Rợ Hung Nô tin rằng núi rừng đều có thần minh cai quản. Các vị thần này có trách vụ bảo hộ cho họ mọi thứ từ sắc đẹp đến cuộc sống sung mãn. Theo các lời truyền rao từ thời cổ đại gái Hung Nô đẹp như mặt trăng, còn trai Hung Nô thì rực sáng như mặt trời.

Theo chương Giao tự ca của Tư Mã Tương Như thường được dùng trong tông miếu, triều đình chẳng khác nào những bài Tụng trong kinh Thi, như bài An thế nhạc phòng, trong Phòng trung từ nhạc vốn của bà phi Hán Cao Tổ tức Đường Sơn phu nhân được ca tụng theo như điển tích ghi lại: Đường Sơn phu nhân từ chốn Non Bồng giáng trần để làm thần thiếp của nhà vua ở thế gian. Bà có sắc đẹp đến chim sa cá lặn.

Trong Nhạc Phủ và Mỹ Nhân bảo rằng việc thành bại trong thiên hạ của một vị quân vương hay của cá nhân cũng đều dính dáng đến đàn bà. Sở dĩ Hán Võ Đế bỏ cả tâm trí ra mà kiến lập nhạc phủ cũng vì cái đẹp của mỹ nhân. Cứ vào bài ca và điệu vũ của Lý Diên Niên lúc mới được tấn cung vào ngay đêm Trừ Tịch đã biểu diễn ca vũ trước mặt Võ đế và hát lên bài ca khiến cho nhà vua phải bàng hoàng. Đó là bài:

Bắc phương hữu giai nhân,
Tuyệt thế nhi độc lập;
Nhất cố khuynh nhân thành,
Tái cố khuynh nhân quốc;
Ninh bất tri khuynh thành dũ khuynh quốc?
Giai nhân nan tái đắc!

(Bắc phương có một giai nhân
Tuy rằng tuyệt thế, phận mình cô đơn.
Một lần liếc mắt khuynh thành
Hai lần liếc mắt, nước, thành ngửa nghiêng.
Giai nhân há dễ riêng mình).

Theo tương truyền thì ca khúc này do Lý Diên Niên sáng tác ngầm ý giới thiệu một mỹ nhân khác không kém gì mình, cũng mắt phượng mày ngài, cũng môi hồng mọng đỏ, cũng hàng răng hạt lựu trắng trong... khiến cho Võ đế phải mê mẩn tâm thần. Và, ngay sau đó nhà vua quay lại Bình dương công chúa ngỏ lời khen tặng:

-”Ôi! vui biết chừng nào và hạnh phúc biết bao! Trẩm đang mộng hay thực? Há lẽ trên đời lại có thêm một trang mỹ nữ nữa cũng đẹp đến thế ư?”.

Bính Dương công chúa gật đầu xác nhận:

-”Ấy đó là người em gái của Lý Diên Niên. Người con gái ấy còn đẹp hơn nhiều lần so với mỹ nhân trước mắt!!”

Thế là lập tức người mỹ nhân quán thế ấy được triệu vào cung và quả như lời Lý Diên Niên cùng công chúa Bình Dương tâu trình:

-”Nàng đẹp như nàng tiên giáng thế: hình dáng uyển chuyển, lại có suối tóc mây huyền, còn có đôi mắt như hai vì sao lấp lánh giữa vòm trời, và có cả nụ cười tươi như đóa hoa hàm tiếu... Ôi! muôn tâu Thánh Thượng, nàng đẹp và đẹp vô vàn thế gian này dễ mấy ai sánh kịp!”.

-”Đẹp đến thế ư?”,

Hán Võ đế lẩm bẩm và ngẩn ngơ như người vừa từ cung trăng rơi xuống.

Sau này, Lý phu nhân thác đi, nhà Vua thương tiếc để mặc cho dòng suối lệ giọt vắn giọt dài tuôn rơi lả chả! Võ đế nghe lời bọn phương sĩ ngồi đợi hồn Lý phu nhân hiện về. Bài “Hà tiên tiên kỳ lai trì” do Hán Võ đế ngâm là một trong nhiều bài thơ chịu ảnh hưởng của nền văn học dân gian lúc bấy giờ.

Nhạc phủ chính thức được thành lập kể từ sau ngày lệnh muội của Lý Diên Niên nhập cung. Tưởng cũng nên biết gia thế của Lý Diên Niên thuộc thành phần nghèo khổ, cơm không đủ ăn, áo không đủ ấm. Cứ theo sách Hán thư có chép truyện Nịnh Hạnh thì cả hai thân phụ và thân mẫu của Lý Diên Niên vốn là đào kép của một gánh hát rong, lúc bấy giờ gọi bằng từ Cố Xướng, cũng còn được gọi là hí tử, nay gọi là nhà nghệ sĩ thuộc giai cấp bình dân. Theo thần thoại được truyền tụng ngoài dân gian thì hồn ma của em gái Lý Diên Niên nhiều đêm hiện về hầu hạ Hán Võ đế. Nhiều phen Nhà Vua vì quá thương yêu không muốn để hồn nàng trở về với Cõi Tiên, khiến nàng vừa bùi ngùi vừa lo sợ cất lời tâu lên thống thiết:

-”Tâu Hoàng Thượng, con người sống thác đều có số mạng. Kẻ Âm người Dương không thể nào sống mãi được bên nhau. Âm khí sẽ làm tổn thương đến sinh lực Hoàng Thượng... Xin Hoàng Thượng giữ mình!”.

Biết không thể nào lưu giữ người yêu, Hán Võ đế bèn ngầm ra lệnh cho quân hầu đánh cắp và giấu đi chiếc hài phượng của nàng. Ngay đêm nằm ngủ, Võ đế mơ thấy nàng hiện về than trách:

-”Thiếp không tiếc rẻ chiếc giép phượng, song về tiên giới bị Thánh Mẫu cật vấn...Thần thiếp đành tâu trình sau trước chuyện lén lút xuống trần để cùng Hoàng Thượng cận kề trong khoảnh khắc, thế là thiếp lại bị lưu đày xuống trần gian lần nữa. Nhưng lần này hồn nhập ngay vào một người trinh nữ vừa qua đời. Hãy đến nơi này mà đón lấy!”

Người trinh nữ vừa chết được hồn phi nhập vào sống lại kia được bọn phương sĩ tâu lên, nhà vua liền cung thỉnh về nhập cung. Chính người vừa chết được hồi sinh kia chính là Hồn Phi tái thế.

Bài “Thướng Sơn Thái Mi Vu” diễn tả lại câu chuyện tình duyên của Hán Võ Đế được xem là một kiệt tác được lưu truyền mãi đến ngày nay.

Thướng sơn thái mi vu,
Há sơn phùng cố phu.
Trường quy, vấn cố phu:
Tân nhân phục như hà?”
“Tân nhân tuy môn hảo,
Vị nhược cố nhân xu,
Nhan sắc loại tương tư,
Thủ trảo bất tương như,
Tân nhân tùng môn nhập,
Cố nhân tùng các khứ,
Tân nhân ngũ chức kiêm,
Cố nhân công chức tố,
Tân nhân bát như cố.

(Lên tận núi rau vu nàng hái
Xuống núi nàng gặp lại chồng xưa.
Quỳ bên thỏ thẻ lời thưa:
Rằng người mới đến có vừa lòng chăng?”
“Tuy nhan sắc cũng trông đẹp đẽ
Nhưng khó lòng sánh vẻ người xưa?
So ra nhan sắc tuy vừa
Song bề móng vuốt vẫn chưa kịp người.
Người vợ mới vừa ưa bước đến
Người vợ xưa vội lánh ra ngoài
Lụa là vợ mới khéo tay
Mang so tơ trắng đâu tày người xưa!
Lụa nhung đó chằng thừa một cuộn
Còn tơ kia năm trượng hàng ngày
Lụa là so sánh thấy ngay
Vợ xưa vượt hẳn, người nay khó bì...
Thinh Quang
Los Angeles, California.
- - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - -

Trang: 45

CHÚC MỪNG ĐỒNG HƯƠNG

Lời giới thiệu:
Cụ Bà Tân Nguyễn năm nay 90 tuổi, là Thân mẫu của Bà Mai Đức Phượng, cũng là Thân mẫu của ông Nguyễn Sơn và Nhạc sĩ Hải Nguyên (người Nhạc sĩ đã tặng 50 CD nhạc “Gió Thu” trong lần Đại Hội Tân Niên 2006, tiền bán được sung vào Quỹ TPB/VNCH của Hội nhà). Nha sĩ Nhật Thu Mai là cháu ngoại của Cụ Bà Tân Nguyễn, đã góp nhặt trên 50 bài thơ của Cụ, gởi cho BBC để chọn đăng vào Đặc-San Xuân của Hội.
Cám ơn cụ bà Tân Nguyễn và Nha sĩ Nhật Thu Mai.
Xin giới thiệu với độc giả.

Chúc mừng đồng hương hưởng thái bình
Trời cho Phú, Quý, Thọ, Khang, Ninh
Chuyện nhà vững chí luôn hăng hái
Việc nước nhiệt tâm vẫn chí tình
Dạy con gần gủi kẻ hy-sinh
Ly hương vì nước luôn khắng khít
Viễn xứ tình dân vẫn đậm đà
Chờ ngày trở về lại với quê cha.

Kính chúc mừng Xuân đến các người
Gia-đình hạnh phúc mãi vui tươi
Phát tài may mắn tròn năm mới
Vạn sự bình an hưởng phước Trời.

Đầu năm má chúc mừng các con
Yêu vợ, thương con giữ trọn tình
Trăm năm hạnh phúc của gia đình
Chỉ có tình thương là quý nhất
Mẹ thương các con chút thế thôi
Tình thương vĩ đại lắm con ơi
Thêm bạn không thù khắp nơi nơi
Sau chúc Phước Lộc Thọ đời đời!

Tân Nguyễn
- - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - -

Trang: 46

NÓI VỀ HIGH DEFINITION TV HAY LÀ HDTV
 

Click vào đây

- - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - -

Trang: 58

THƯ XUÂN CHO THẰNG BẠN CŨ

Mầy đã ở quê nhiều đến độ
Trăng già soi rách đáy sông ngang
Hạt mưa tróc vỏ cây đa cỗ
Gió sáng làm sương chết giữa đàng

Thuở đó bọn mình chơi dưới nắng
Ruộng vừa xong cỏ thoảng gây gây
Xuân thơ lạc dấu chân trời biển
Ký ức còn thơm một vốc đầy

Mầy vẫn còn mang nỗi đắng xưa?
Hay đã vì con phủi áo rồi
Cho ngày nắng lửa mưa dầu cũ
Khỏi bận lòng chi chuyện...ốc, vôi (*)

Ta vẫn một đời không danh nghĩa
Nụ buồn vẫn trổ đón xuân xa
Áo cơm đời nợ còn chưa trả
Tết đợ quê dưng rất nhớ nhà

Mầy ở làng xưa suốt một đời
Phổi đầy hơi hướm gió quê vui
Tao đi mặt mũi va ghềnh thác
Xuân vẽ đường nhăn dấu tích thôi

Mai mốt tao về chơi một buổi
Những ngày có én, có hoa mai
Cỏ cây sẽ thở câu tình tự
Tao với mầy ngon một chén say.

Thủy Lâm Synh
Jan. 12, 2008

* “Lạt như nước ốc, bạc như vôi”
- - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - -

Trang: 59

TRẠI GIAM KIM SƠN

Click vào đây.

Ngẫm lời người xưa:

Chính sách Cải Cách Ruộng Đất của Cộng Sản Bắc Việt đã mở mắt giới trí thức miền Bắc và cho thấy “Đảng CS bá đạo và tin tưởng giai cấp công nông hơn” cho dù giới trí thức xã thân tham gia kháng chiến. Để diển tả tâm thức chán chường của người trí thức lúc đó, Phan Khôi (người từng gọi “cỏ bọ-xít” là “cỏ Cộng sản”) đã bịa ra câu chuyện liên hệ đến cái thú trong chiến khu: vừa nhai “kẹo bột”, vừa nhấm cà phê. Ông Phan viết ví von như sau:

-“Cái ngọt của kẹo tượng trưng cho lòng yêu nước. Nó đánh tan cái đắng của cà-phê mà chúng ta có thể sánh với sự lãnh đạo của Đảng. Như vậy, chúng ta có thể hưởng được hương vị của cà-phê ví như cái danh dự của người trí thức”.

(Xem bài “Con trâu phản động”trang 159)
- - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - -

Trang: 69

MAI ANH CÓ VỀ

Xuân nầy anh có về cố đô?
Thăm dòng Hương giang chảy lững lờ
Nhìn mây thôn Vỹ vờn cổ tháp
Nghe tiếng ai hò giọng líu lo.

Mai anh có về thăm Quảng Ngãi?
Ghé cầu Mỹ Lợi đập Điền Trang
Thăm em dệt lụa bên khung cửi
Giặt áo đem phơi tắm nắng vàng.

Buổi ấy tôi đi lỡ chuyến tàu
Triều dâng trên biển sóng xô mau
Mẹ tôi an ủi... ngày trở lại
Mím chặt môi mình đôi mắt cay.

Nếu anh có về thăm thằng bạn
Nhớ đốt hộ tôi một nén hương
Trên mộ cỏ vàng sương giá phủ
Bia đá còn in đậm nét buồn.

Nơi nó đang nằm trong xó núi
Bao mùa lá đổ khóc thay tôi
Hồn nó u hoài theo mệnh nước
Còn tôi lưu lạc cuối chân trời.

Nếu anh có về qua ga lẻ
Còi tàu hú gọi bỏ chân xưa
Anh nhắn đàn em đừng sa bẫy
Xã hội dạy em những lọc lừa!...

Tổ quốc chuyển mình anh biết không?
Lời xưa vang vọng mãi trong lòng
Trui rèn chí lớn trong gai lửa
Thề giữ giang sơn giống Lạc Hồng.

Đỗ Vĩnh Khanh
- - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - -

Trang: 70

BA LÝ TANG TÌNH, GIỌNG HÒ QUÊ MẸ ẤN TRÀ.

Click vào đây
- - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - -

Trang: 80

XA RỒI, SÔNG VỆ

Anh có nói gì đâu
Mà xa rồi, sông Vệ
Anh có nói gì đâu
Mà mắt sông ướt thế...

Hoa cau nhà ai rơi
Cho trắng dòng bên lở
Duyên xưa không chồng vợ
Tình em sang bến bồi.

Mười lăm mùa nước cạn
Anh không về bên sông
Em, bến nào khỏa nước
Giặt áo con, áo chồng.

Mười lăm mùa nước lũ
Anh không về bên sông
Sóng xô mòn bãi cát
Bến xưa còn bồi không...

Anh có nói gì đâu
Mà xa rồi, sông Vệ
Anh có nói gì đâu
Mà mắt em ướt thế.

Lời xưa anh lỡ thốt
Em dỗi hờn quay đi
Để chiều nay bạc tóc
Xa rồi, sông Vệ ơi...

Lê Quang Tân.
- - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - -

Trang: 81
 

VẠN LÝ TRƯỜNG THÀNH QUA LỊCH SỬ VÀ TRONG HIỆN TẠI

Click vào đây

- - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - -

Trang: 89

BA MƯƠI NĂM TRỞ VỀ

Ba mươi năm tôi trở về
Thăm thầy, bạn cũ, trường xưa
Không còn ai đón, ai đưa
Tôi buồn trời cũng đổ mưa.

Ba mươi năm tôi trở về
Hàng cây nghiêng bóng mong chờ
Đường xưa dấu in xóa mờ
Bâng khuâng thương nhớ vô bờ!!!

Ba mươi năm tôi trở về
Vườn xưa thay lá hững hờ
Trời xưa in màu quên lãng
Tình xưa xuôi miền dĩ vãng
Ôi tiếc thương!!! tiếc thương người ơi!!!

Ba mươi năm tôi trở về
Lang thang trên đường phố vắng
Mang bao nỗi niềm cay đắng
Ôi xót xa!!! xót xa tình người!!!

Ba mươi năm tôi trở về
Mong tìm lại chút hương xưa
Nhưng tình không như ý thơ
Và đời không như ước mơ!

Ba mươi năm tôi trở về
Tìm ai trên khắp lối quê
Người xưa sao chưa thấy về
Lòng tôi ghi mãi câu thề

Ngưới ơi! Còn nhớ câu thề?!
Ba mươi năm tôi trở về.

Tháng 08 năm 2008
Kỷ niệm ngày về thăm quê-hương Ấn Trà
Thiên Phương
- - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - -

Trang: 90

TRAFFIC CAMERA: CƯỜI LÊN ĐI NÀO, BẠN ĐANG ĐƯỢC CHỤP HÌNH!

Click vào đây.
- - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - -

Trang: 99

XUÂN SƠ NGỘ
(Kính Tặng Nhà Thơ Đào Nguyên, VA)

Nửa vòng trái đất gặp nhau đây
Đất lạ người quen ngấn lệ cay
Chén rượu sơ giao tình lữ thứ
Chung trà hạnh ngộ nỗi riên tây
Xót lòng cố quốc bao thương nhớ
Tủi dạ quê người nửa tỉnh say
Gối mỏi chân chồn đầu điểm bạc
Biết ai thấu hiểu cảnh đau nầy!

* * *

Biết ai thấu hiểu cảnh đau nầy
Nước loạn nhà tan những đổi thay
Kẻ sống đầu đường người ngủ chợ
Lớp vùi đáy biển lớp phơi thây
Hận đời dâu biển nhiều trăn trở
Thương kiếp phù sinh lắm đọa đày
Xuân về Tết nữa bao xuân nhỉ
Bác cháu gặp nhau thỏa mộng đầy.

Phùng Trần.
Carolstream, IL

Câu đối Tết:

Có là bao, ba vạn sáu ngàn ngày, được trăm cái Tết
Uớc gì nhỉ, một năm mười hai tháng, cả bốn mùa Xuân

(Nguyễn Khuyến)
- - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - -

Trang: 100 đến 105

BẦU ĐẾ QUÊ TÔI

Click vào đây.

Lời hay ý đẹp:

For the ignorant, old age is as Winter. For the learned, it is a harvest (Jewish proverb)
Đối với người thiếu hiểu biết, tuổi già giống như mùa Đông. Đối với kẻ có học, đó là mùa gặt” (Châm ngôn Do Thái).

- - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - -

Trang: 103

NHỚ ÔNG

Ông đã đi rồi có nhớ không?
Năm canh chiếc bóng lạnh khuê phòng
Kỷ niệm còn đây người xa vắng
Một ánh sao rơi rụng bên sông.

Nhớ buổi ban đầu mới quen nhau
Hứa hẹn tình ta đến bạc đầu
Dù cho núi lở sông cạn nước
Tình nghĩa đôi ta vẫn khắc sâu.

Đường hoa thơm ngát nở chen nhau
Bướm lượn ong bay khoe sắc màu
Đôi chim bé nhỏ đậu cành lá
Cảnh đẹp lòng ta bỗng quặng đau.

Tân Nguyễn
- - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - -

Trang: 10 6

 

HỎI ÔNG

Nằm mãi làm chi đó hởi ông?
Trơ trơ như đá lạnh như đồng.
Nhân dân đói khổ ông có biết?
Đất nước điêu tàn ông biết không?
Theo Mác, theo Mao, theo lũ quỷ
Bán trời, Bán nước, bán non sông.
Trăm năm bia đá thay vinh nhục
Bia miệng muôn đời cáo già ông.


Nguyễn Diên

TÊT MẬU THÂN

Tự cổ chí kim chỉ một lần
Đêm ngày mùng một Tết Mậu Thân
Quân vào thành phố bom thay pháo’
Lính đến thôn làng đạn thế thân.
Cướp của giết người quân bán nước
Thiêu phố, đôt làng, lũ buôn dân.
Đào hầm tập thể chôn thây sống
Đứt ruột đau lòng hỡi thế nhân!

Nguyễn Diên

Những phát biểu liên quan đến cuộc chiến Quốc, Cộng:

* Đại Tá Việt Cộng Phạm Xuân Ẩn mô tả sự vỡ mộng của y với kết quả chiến thắng của cộng sản đã áp đặt như thế nào lên xứ sở. Ông ta phàn nàn:

-”Tất cả các lý luận về ‘giải phóng’ trong hai mưoi, ba mươi hay bốn mươi năm qua đã gây ra một xứ sở nghèo nàn và rách nát lãnh đạo bởi một lũ ác độc, một bọn lý thuyết gia ít học và chuyên chế”.

* Đại Tá Bắc quân Bùi Tín cũng thẳng thắn nói về hậu quả cho cả những người chiến thắng:

-”Thật là quá chậm cho thế hệ tôi, một thế hệ của chiến tranh, của chiến thắng và bội phản. Chúng tôi đã thắng nhưng chúng tôi cũng đã thua”.

Hiện ông Búi Tín trốn chạy chế độ CS, đang định cư ở Pháp.
- - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - -

Trang: 107

CÓ NHỮNG VẦN THƠ XUÂN

Click vào đây.
- - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - -

Trang: 112

XA QUÊ MÙA HOA PHƯỢNG

(Phụ bản hình bìa: Phong cảnh Bình Thủy, Bình Sơn)

Sông xanh, phượng đỏ quê hiền (*)
Cầu tre nối nhịp đất liền sang ngang.
Quê hương đẹp cảnh, đẹp làng
Phượng hồng tô thắm con đàng ven sông
Nắng lên cho má em hồng
Cho môi em thắm tình nồng thiết tha.
Rời quê mùa phượng nở hoa
Tiễn người viễn xứ phương xa ấm hòa.
Tưởng về đất Mẹ quê Cha
Nhớ ơn Tiên tổ đậm đà tình quê.
Làng xưa hẹn một ngày về
Mùa hoa phượng nở tình quê mặn nồng

Xa quê Bình Thủy, Hè 1995
Yên Thuận Nguyễn Phúc Sinh
Syracuse, NY

(*) Trước năm 1975, cán bộ Hội đồng Xã Bình-Thủy đã trồng dọc theo bờ sông một hàng phượng vĩ. Theo thời gian, nay chỉ còn lại mấy cây (Lời tác giả). Đi đôi với bài thơ nầy là hình bìa, với cây phượng vĩ.
- - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - -

Trang: 113

NHƯ MỘT MÙA XUÂN
Diệu Nga

“Riêng tặng cô Hiệu Trưởng Nguyễn Thị Loan và cô bạn Dương Thị Bê”

Ngày hôm ấy như một mùa Xuân trong đời tôi.

Tôi yêu mùa Xuân, tôi thích mùa Xuân. Nhìn cây xanh trong vườn đâm chồi nẩy lộc, nhìn những bông hoa ươm nụ hé mở dần đôi cánh để chào đón xuân sang. Tuyệt đẹp thay mỗi buổi sáng mai, thật xao xuyến biết bao khi nhìn những hạt sương mai, hay những giọt nước mưa còn đọng lại trên cành hoa hay ngọn lá. Nhìn cảnh mượt mà nên thơ, thật ngọt ngào, êm dịu tâm hồn. Làm sao không yêu mùa Xuân được khi cảnh trí thiên nhiên trước mặt đem lại cho ta một niềm vui của một năm mới bắt đầu, một mùa đem lại sự sống cho cảnh vật thiên nhiên sau những tháng năm nằm yên lặng trong bão tuyết, gió rét lạnh lùng.

Trong bốn mùa tôi thích nhất là mùa Xuân, vì những ngày tháng đó làm cho tôi vui hẵn lên vì khung cảnh nên thơ, hữu tình làm rộn lòng người từ những em bé thơ, đến các cụ lão niên, hơn thế nữa là những cô cậu nam thanh nữ tú. Nhìn ngắm các loại hoa khoe màu bao sắc thắm, chao ôi khá khen thay cho tạo hóa đã cho ta những hương thơm ngạt ngào, quyến rũ, những nét đặc biệt mang tánh riêng tư của mỗi loại hoa.

Tôi thích được ngắm hoa, hóm hỉnh thích vuốt nhẹ lên từng cánh hoa để có được cảm xúc nét mượt mà như nhung của hoa. Để rồi tôi lại thương hoa, thương nhiều lắm cho số kiếp của hoa, khi phai sắc, héo tàn thì thật là đau lòng và xót xa.

Thưở còn đi dạy học tại trường Nữ trung học Quảng Ngãi, tôi cũng đã biết thưởng thức nét đẹp cũng như ngậm ngùi thương tâm cho số phận ngắn ngủi và bạc bẽo của các loại hoa. Có nhiều lúc ngồi nhìn các em học sinh làm bài hay vô tư đùa giỡn trong sân trường, tôi thương các em vô hạn. Người ta ví những nàng con gái như những đóa hoa biết nói,biết cười... Ôi học sinh của tôi là những đoá hoa đang hé nụ và nở hoa hàm tiếu, ngập ngừng từ từ từng giây từng phút khoe sắc với đời. Rồi đây một ngày nào khi bước ra khỏi mái trường là sắp bước qua một khúc ngoặc của cuộc đời. Thân gái mười hai bến nước. Trong nhờ đục chịu. Cuộc đời ai chẳng giống ai.

Từ sau khi rời khỏi trường, tôi chưa được may mắn gặp lại một học trò nào đã từng là học sinh mình giảng dạy. Lúc bấy giờ mùa Xuân trong tôi có lẽ rộn ràng không thua kém mùa Xuân năm nay. Vì mùa Xuân này tôi đã gặp lại một cô bạn đồng nghiệp thân thiết nhất của tôi đã mất tin tức từ sau 1975 .Nói đúng hơn là tôi chỉ mới biết tin tức nhau và đã liên lạc được với nhau.

- A lô! Xin chị cho tôi được nói chuyện với cô Bê.

- Bê đây, chị là ai vậy?

- Dạ tôi là bạn của chị Diệu Nga, nghe nói chị là bạn của chị ấy, nên tôi nhờ chị cho tôi biết tin tức và địa chỉ của chị ấy.

- Dạ, nghe nói chị ấy đang định cư ở Mỹ.

- Chị có liên lạc với chị ấy bao giờ chưa? Bộ chị không nhớ chị ấy hả? Hồi đó nghe nói chị ra trường là khoá đàn em của chị ấy, nhưng hai chị em thân và thương nhau lắm mà, hai người đã có nhiều kỷ niệm những ngày sống chung khi dạy ở Quảng Ngãi.

- Dạ đúng rồi đó, hai chị em cùng đến trình diện cô Loan, Hiệu trưởng cùng với chị Kim Loan và sau đó cả nhóm cô giáo độc thân được cô Loan cho ở căn phòng sau trường để khỏi tốn tiền mướn nhà.

- Một năm sau thì mấy chị em ổn định và ra mướn nhà ở đường Quang Trung, trước mặt trường Trần Quốc Tuấn cùng một nhóm giáo sư gần tám người. Hình như đó là nhà của cô Thanh Tra Giáo dục?

- Ủa sao chị biết rành quá vậy?

-Ui chao, Bê ơi là Bê. Hồi nãy giờ nói chuyện mà không biết là đang nói với ai đây không? Chị là Diệu Nga đây này.

Giọng Bê ngạc nhiên lẫn chưng hửng.

- Chị Nga, trời ơi, chị đó hả? Ai cho chị số phone của em mà chị liên lạc vậy?

- Cô Nguyễn Thị Loan, Hiệu Trưởng. Hôm giờ chị đã bắt được liên lạc với cô, do đó cô cho tin tức của em. Mừng quá phải không em.

Thật là Một Mùa Xuân thắm đang nở trong lòng tôi. Tôi mừng vô hạn. Tôi gặp lại Bê như một giấc mơ. Dẫu rằng trong giao lưu như hiện nay của Tình Thầy cô, bè bạn dưới một mái trường thì cũng sẽ biết tin tức nhau thôi, nhưng biết nhau khi tất cả còn hiện hữu trên đời, còn tươi thắm mùa Xuân, còn hiểu được thi vị của bốn mùa, thì sự gặp nhau này là một hạnh phúc tuyệt vời.

- Bê ơi, chị em ta có với nhau những kỷ niệm tuyệt vời của những cô giáo đầu tiên bỡ ngỡ mới ra trường. Sự sống chung của hai chị em mình cho đến khi chị phải nhận sự vụ lệnh được thuyên chuyển về quê nhà Nha Trang làm chị luôn nhớ mãi, chị nhớ hình dáng, giọng nói, tiếng cười của em. Hồi đó chị hay bảo em “Em có dáng lưng ong, đã khéo chìu chồng lại dễ nuôi con. Hồi đó em hát hay lắm, em thích hát những bài của Lê Uyên Phương và Ngô Thụy Miên hay hát, chị Kim Loan thì hay hát bài Hạ Trắng, Hạ thì thích hát nhạc Pháp, còn chị thì thích hát nhạc của Ngô Thụy Miên...Hồi đó chị em mình thật hiền phải không Bê? chẳng biết đi đâu chỉ lẩn quẩn ở nhà hay lang thang ngoài đường.

Em biết không sau này có nhiều bạn bè, nhưng làm sao bằng được tình bạn của những ngày xưa đó phải không em?!

Lòng tôi nở muôn hoa. Tôi như trẻ lại tâm hồn sau lần nói chuyện với cô bạn ngày xưa. Ngày xưa thật đẹp quá, không một áng mây buồn phủ lòng tôi, dù như một lớp màn nhẹ mong manh. Cuộc đời lúc ấy còn quá lý tưởng, tương lai còn nhiều hy vọng. Thân phận đàn bà của mỗi người như những đoá hoa, hoa về chiều đâu còn đậm mùi, sắc không còn tươi, dầu vậy số phận và mỗi duyên phận đâu có giống nhau. Tôi mừng cho cô bạn xưa được hạnh phúc và thành đạt nơi quê nhà. Tôi mừng cho bao Thầy Cô và Học trò của mái trường xưa đất “Mạch Nha, đường phổi”: “được nhiều may mắn”.

Tôi nhớ và nhớ lắm ngôi trường xưa thân yêu đã cho tôi những ngày tháng êm đềm, nâng đỡ tôi trong cuộc sống khi xa cách gia đình.

Như Một Mùa Xuân trong tôi, hoà lẫn với mùa Xuân của khắp mọi miền đang chào đón những tràng pháo Tết chào đón xuân sang. Tôi yêu và yêu mãi mùa Xuân...

San Jose 25/12/2008
Diệu Nga
- - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - -

Trang: 116

XUÂN AN LẠC

Tống cựu nghinh tân niên chuyển sang
Xua đi u ám cảnh Đông hàn
Nguyện cầu dòng tộc luôn trường cửu
Mong ước gia đình mãi thịnh khang
Đất nước nhiễu nhương thôi oán hận
Dân tình thác loạn hết kêu van
Chúa Xuân đem lại trời an lạc
Nhân loại không còn sống thở than.

Phùng Trần
- - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - -

Trang: 117

CHƯA CÓ MỘT MÙA XUÂN
Thủy Lâm Synh

Mùa Đông về sớm không ngờ. Mới đầu tháng Chín mà gió mưa như bão trút xuống làng Vinh Phú. Túp lều bà cháu Phụng núp dưới bụi tre là-ngà rung rinh lên theo mỗi cơn gió chướng thịnh nộ xô tới. Bên ngoài đã thế; bên trong tiếng mưa dột bì bõm xuống những cái nồi đất đang hứng cùng với tiếng rên của bà Thi. Phụng ngồi dưới đuôi giường thòng hai chân xuống đất. Mắt nó dán vào những cái nồi, cái trả bằng đất đang hứng nước để canh chừng, khi cái nào đầy nó phóng tới bưng hắc ra sân. Nó đặt hai tay lên đầu gối, nhịp mấy ngón theo tiếng mưa dột và tiếng rên của nội. Nó cười hoan hỷ vì chợt khám phá sự tổng hợp của một giai điệu.

Trên chiếc bàn nhỏ, ngọn đèn dầu hôi leo lét lúc mờ lúc tỏ theo hơi gió lòn qua vách. Đêm hôm nay thật dài, tiếng rên của bà Thi nhỏ dần...nhỏ dần rồi tắt hẳn theo ngàn thứ âm thanh bên ngoài. Phụng yên trí nội của nó đã ngủ được sau nhiều đêm rên dữ dội. Nó xát hai bàn vào nhau rồi rón rén đặt mông lên giường, nằm bênh cạnh bà. Nó kéo mí chiếu đắp lên người rồi ngủ cho đến sáng. Trong giấc mơ nó đã thấy những cái nồi hứng nước đầy tràn ra chảy cùng nền nhà, bùn nổi lên từng vũng. Nó giật mình ngồi bật dậy, trời bên ngoài đã sáng và tạnh mưa từ lúc nào.

Nước từ nguồn về lênh láng ngập cả cánh đồng ruộng rộc. Mực nước mỗi lúc một cao. Phụng mừng lắm vì con đường thấp cao hơn mặt ruộng chứng một thước tây nối Vinh Phú và Long Phụng thế nào cũng bị ngập. Nó có sẵn chiếc thúng chai lớn, loại chở người của vùng biển. Thúng bị lũng đáy nên người ta tặng cho nó, Phụng lấy chai trám chỗ lũng rồi dùng để đưa người qua lại mỗi mùa mưa như thế. Lẽ dĩ nhiên Phụng chỉ có thể đưa người qua lại khi nước ngập cỡ lưng quần. Khi lụt lớn hơn và chảy xiết, người ta mới đem ghe lớn làm đò.

Thường thường, bà Thi dậy rất sớm, tiếng gà gáy đầu tiên đã thấy bà ngồi hơ tay vào bếp lửa cho ấm. Nấu nồi nước chè tươi, lùi hai củ khoai lang vào tro để bà cháu ăn sáng. Chờ khi gà gáy hồi hai bà đánh thức Phụng dậy đổ gạo đã ngâm vào cối đá xay bột cho bà đổ bánh xèo. Công việc giống hệt nhau mỗi ngày, nhưng mấy hôm nay bịnh liệt giường bà Thi không dậy được. Phụng nhuốm lửa nấu cháo cho nội, nó rất mừng vì đêm qua nội ngủ ngon giấc. Cháo đã chín. Phụng múc ra tô, rắc chút tiêu bột bưng lên bàn chờ nguội. Ngoài đường, đã có tiếng người đi chợ cười nói, tiếng áo tơi sột soạt. Phụng bước đến giường gọi “Nội... nội ơi”. Nội nó vẫn còn say ngủ, nó chờm tới thổi tắt ngọn đèn dầu, ra phía sau lăn cái thúng chai to ra trước ngõ để “đưa đò”.

Chuyến đầu nó kiếm được vài đồng. Khi dắt chiếc thúng trở lại, không thấy ai đợi, Phụng vào nhà thì gặp bà Toàn đang dắt con bò đứng gặm cỏ ướt, bà Toàn hỏi:

- Phụng, Bà mày khỏe hông?

Phụng cười:

- Chào bà Toàn! Dạ khỏe, bà cháu đã hết bịnh, đêm qua ngủ được tới giờ cũng chưa dậy.

Bà Toàn tặc lưỡi:

-Người ta đi chợ gần về rồi mà chưa dậy mầy. Để tao vào thăm bả chút.

Bà Toàn cột con bò vào gốc keo rồi tới kéo cánh cửa tre nghiêng mình bước vào. Trong nhà tối om, trên bàn còn nguyên bát cháo. Bà Toàn bước lại cạnh giường giở mí chiếu lên nhìn, nhưng vì thiếu ánh sáng nên bà phải gập người dòm sát mặt bà Thi. Bỗng bà Toàn thả vội mí chiếu xuống và thụt lùi mấy bước; cặp mắt bà Thi sâu hoắm đang mở trừng, mặt xám xịt với lớp da nhăn đan chằng chịt, hai má trũng sâu theo cái miệng móm sọm. Lấy bình tĩnh bà Toàn mò vào cổ tay lạnh như tiền của bà Thi thì thấy mạch tim không còn đập nữa. Bà Toàn vội vã bước ra cửa dớn dác tìm Phụng, bà nhìn ra bến thì thấy Phụng đang hì hục tát nước đọng từ trong thúng ra ngoài. Bà Toàn kêu lớn tiếng:

- Phụng à! Để thúng đó đi, vô đây tao biểu.

Sau tiếng dạ lớn, Phụng chạy vô nhà:

- Có chuyện gì hả bà?

- Mầy nói chuyện với bà mầy hồi nào?

- Chiều hôm qua nội cháu rên dữ quá, rồi sau đó ngủ im lìm chớ có nói gì đâu!

Ngập ngừng một giây bà Toàn thở ra nói:

- Trời ơi! Nội mày qua đời rồi. Mầy vào vuốt mặt cho bả đi, bả đang đợi mầy trong đó.

Phụng ngu ngơ:

- Hả! Qua đời gì, đợi cháu cái gì?

- Bà mầy chết rồi, nhưng mắt còn mở, mầy vào vuốt mặt cho bả nhắm.

Phụng xô toẹt cánh cửa, nhào vô ôm xác bà nội khóc rống thảm thiết. Hai chân nó dậm thình thịch trên nền nhà. Phụng lăn lộn, giẫy giụa đập tay vào vách đất, cơ hồ như trời đất sụp đổ:

-”Nội ơi... nội à... nội bỏ con mà đi... Ai cứu nội tôi... hu hu...!”.

Tiếng khóc Phụng khàn đi.

Tin bà Thi “bánh xèo” chết lan đi rất nhanh. Chòm xóm kéo đến thăm, nhưng có lẽ họ đến để tìm cách giúp đỡ Phụng thì đúng hơn. Người thì lo bó từng lọn rơm, kẻ dừng tro cho sạch, có người đem đến bộ đồ liệm mới may vội, bà ấy không quên xé cho Phụng miếng vải để nó làm khăn tang. Khi mặt trời còn chặng cây sào, một người đàn ông lớn tuổi vác về cái hòm gỗ tạp mới mua từ Sông Vệ.

Việc tẩn liệm bà Thi hoàn tất ngay trong đêm. Có người tình nguyện cho bà Thi nằm trong rẫy lang của mình. Sáng hôm sau người ấy dẫn đám thanh niên vác cuốc ra rẫy của chị để đào huyệt. Đất Vinh Phú mùa hè cát nóng phỏng da, mùa đông mưa bảy ngày không nổi nước. Chỉ nửa giờ đồng hồ mấy cậu đào xong huyệt. Ông Vạn bấm đốt tay, đề nghị qua khỏi giờ Ngọ thì di quan để đưa bà Thi đi chôn. Đám tang bà Thi không kèn, không trống, tiễn đưa bà toàn là người dưng, nước lã; cậu bé mười ba tuổi là người độc nhất liên hệ máu mủ với bà Thi.

Sau ngày bà Thi về bên kia thế giới, nhiều người trong xóm mới sực nhớ đến hoàn cảnh bơ vơ trước mắt của một đứa trẻ nhưng chưa ai dám lên tiếng đem Phụng về nuôi bởi cái nghèo truyền kiếp của chính gia đình họ. Có người chép miệng và thầm trách cho ai đó đặt tên làng là Vinh Phú – cái tên mai mỉa ấy đã bao đời không vựt dậy nổi cái cùng đinh kinh niên và bám trụ với dải đất khô cằn quanh năm đến cây cỏ còn lớn không nổi huống chi người.

Lùi lại thời gian trước, có lẽ nhiều người trong xóm vẫn còn nhớ rõ: Cha Phụng bệnh thương hàn chết đi để lại người vợ đang mang bầu lúc tuổi còn quá trẻ. Mẹ Phụng cũng có chút nhan sắc nên khi Phụng chưa thôi nôi bà đã vội vàng bước thêm bước nữa với người đàn ông mà ai cũng nghĩ là người tình cũ bên Hải Châu. Lúc ấy nhiều người trong làng hễ thấy Phụng ai cũng mủi lòng nghĩ đến câu: “mẹ ơi mẹ bạc như gà...”

Hình như cũng biết đến thân phận, Phụng lủi thủi chơi một mình, mặt mày lem luốc, có khi té lăn, ăn cả đất, cát. Nói cho đúng, sữa mẹ chỉ được gạn lọc từ khoai với sắn thì làm gì ai còn dư để cho Phụng, nhưng thấy hoàn cảnh của nó như thế bà nào cũng nhín một tí. Tội nghiệp, khi gặp mạch sữa ấm áp, Phụng cố nốc cho lẹ trước khi bị bàn tay đẩy bình sữa thiên nhiên khỏi miệng kéo vạt áo cũ che lại.

Nhờ gặm đất Vinh Phú, nhờ vào sự tổng hợp sữa các bà mẹ láng giềng, Phụng cũng đã lớn theo thời gian. Bà Thi đưa Phụng đến học ở nhà anh Lương Tư, một người tương đối có học đã mở lớp dạy cho con em trong xóm. Trả công thầy bằng những lon gạo, giạ lúa. Bẩm tính thiên phú, Phụng rất thông minh. Lúc ấy những đứa học trò đang học lớp ba, lớp nhì trường công còn phải đến nhờ Phụng làm thủ công. Phụng chế ra những chiếc ghe bằng bẹ dừa chạy buồm đẹp như ghe thật thu nhỏ. Những chiếc xe hơi làm bằng thân cây bông gòn, có trục, bánh chạy bằng dây thiều cao su, đầy sáng tạo của một thằng bé ở nhà quê tuổi mới hơn mười. Phụng đẽo những thanh kiếm tre để phát cho bạn bè chia phe nhau chơi trò giặc giã.

Đặc biệt là những trái lựu đạn bằng đất sét do Phụng cung cấp cho cả hai bên, cứ mỗi lần tấn công là bụi bay mù mịt bởi Phụng đã cho đầy tro vào ruột lựu đạn, dĩ nhiên chỉ còn thiếu phát ra tiếng nổ. Tụi bạn có đứa gọi nó là Cao Thắng, có thằng bảo Vũ Công Duệ, nhưng cuối cùng Phụng chỉ đồng ý cái tên “Phụng lòi xỉ”. Phụng nhận biệt danh nầy cũng phải, hàm răng dưới của nó mọc không trật tự chút nào. Nó sợ đau, không chịu cho nhổ, răng mới chui ra không hàng, không lối.

Mưu sinh của bà cháu Phụng là đổ bánh xèo, làm bánh chén để bán. Cái quán của bà Thi đặt dưới bụi tre là ngà cằn cỗi trước nhà. Một cái bàn thấp lè tè bằng hai miếng ván tạp, hai cái băng bằng tre do Phụng tự tạo lấy. Khách hàng của bà cháu Phụng phần đông là những người từ miệt biển đi chợ bán cá, bán mắm, chứ những người chung quanh ít khi ăn, cũng có thể họ chẳng có dư tiền để ăn hàng. Giờ rảnh rỗi Phụng còn làm chổi rơm để bán, đặc biệt chổi quét bụi bằng bông lúa Phụng làm rất đẹp. Những sợi lạt thanh nhỏ đều đặn thoăn thoắt theo mười ngón tay. Mùa gặt, Phụng thường đi ra đồng xin rạ về đánh tranh để bán cho những người cần lợp nhà. Đánh tranh bằng ba que hom gấp đôi thành sáu, đan vào nhau cho từng nắm rạ chặt chẽ không phải ai cũng biết. Nhìn thằng bé ngồi đánh tranh một cách nhanh nhẹn ai cũng phục Phụng có tài. Những ngày tháng mưa gió, công việc bán buôn của bà cháu Phụng trở nên ế ẩm, nó phải lội bì bỏm dưới lạch cắm câu, lờ cá để bà cháu có những bữa cơm giản dị qua ngày.

... Buổi chiều xuống thật nhanh. Con đường đất nối liền thôn Vinh Phú tới Long Phụng gồ ghề, đầy vết chân trâu. Hai bên đường, những đám bắp xanh gầy guộc, đang chống chọi với từng cơn gió bấc. Tôi đang ở thị xã về gặp Phụng cũng đang mua giá về để ngày hôm sau làm bánh. Xe đạp tôi quá xập xệ nên không cách gì chở Phụng được. Tôi xuống dắt xe đạp để hai đứa cùng nhau đi bộ chuyện trò. Đi bên Phụng tôi nghe rõ cái mùi dầu mỡ, mùi hành khử... mùi bánh xèo... từ cái áo vải cổ tròn của nó toát ra.

Phụng trạc tuổi tôi nhưng sớm mất cha, xa mẹ phải sống khổ sở, tôi thương nó quá. Khi chúng tôi về ngang nhà Phụng, nói là nhà chứ thật ra chỉ một túp lều thì đúng hơn. Phụng dặn tôi đứng chờ, nó phóng vào bếp đem ra cái bánh xèo cuối cùng giòn đáo để kẹp trong miếng lá chuối rồi giúi vào tay tôi. Cầm lấy cái bánh xèo, tôi xúc động vì lòng tốt của Phụng. Không phải chỉ một lần mà nhiều lần như vậy, hễ vắng tôi đôi ba bữa là nó có quà cho tôi bằng cái bánh xèo cuối cùng thật giòn. Cuộc đời hẩm hiu của Phụng vẫn được khuây khỏa bằng công việc bận rộn. Ngày Tết Phụng mặc đồ sạch, nhưng chưa bao giờ tôi thấy nó mặc đồ mới. Cũng vì lẽ đó mà tôi không dám khoe với Phụng những món quà chú, bác tôi cho trong những lần mãn niên học. Tôi không hề nhắc đến ba tôi, với những lời thương yêu dù rất bình thường. Không gợi đến mẹ tôi trong cử chỉ trìu mến lúc đi xa về. Khi hai đứa chuyện trò tôi không dám nói những gì tôi có, và như vậy tôi thấy Phụng luôn bằng lòng với những gì nó có. Từ giã Phụng tôi đạp xe về nhà, trời cũng vừa nhá nhem tối, trên bãi cát trắng ở bờ sông Ngang lũ trẻ còn la ó, đùa giỡn chưa chịu về nhà.

Việt Nam, ngày... tháng ... năm...

Anh S. thân mến,

Hơn hai mươi năm xa cách, tôi không thể hình dung anh ra sao bây giờ. Tôi không ngờ anh còn nhớ đến tôi, đến một thằng bạn thời niên thiếu. Tôi đã nhận được một trăm đô của anh gởi về. Cầm món quà trong tay tôi cảm động đến rưng nước mắt anh ạ. Tôi đang nghĩ về anh với ngược dòng tư tưởng, đến thuở chúng ta còn thơ.

Anh S.!

Tôi vừa ở tù về vì tôi là lính “ngụy”, tôi có tội với “cách mạng”. Vợ tôi nay đã là vợ của một cán bộ hợp tác xã. Mấy con tôi đang ở với mẹ nó, với dượng cha nó. Chúng là những thiếu nhi lao động tốt, chúng học một buổi và đi lượm giấy vụn, ve chai một buổi, nên được choàng khăn quàng đỏ và được gọi cháu ngoan “bác Hồ”

Còn tôi! Đời đã dành một phũ phàng cay đắng. Khi nội tôi mất, tôi bỏ làng lên tỉnh và lưu lạc vào Qui nhơn tìm kế sinh nhai. Tôi đi đánh giày, đi phụ xe, đi chôm chỉa đồ đạc của ai sơ hở. Tóm lại, không có nghề nào mà tôi không làm thử suốt bảy năm lang bạc quê người. Kết quả tôi bị bắt vì liên can đến một vụ làm căn cước giả cho thanh niên trốn lính. Sau đó ông chủ ga-ra Huỳnh Cần lo luật sư cho tôi về và làm thợ máy cho ông ta.

Tưởng ở đời này sao có người tốt bụng, không ngờ đứa con gái ông ta mang bầu, ổng muốn tôi làm tác giả rồi tiện gả luôn cho tôi để đỡ tiếng tăm. Tôi miễn cưỡng đồng ý cốt để có cơ hội bỏ đi, nhưng vợ tôi là người rất tốt, nàng lại thương tôi nên tôi bỏ ý định đó. Chúng tôi sống chung với nhau có thêm hai đứa con nữa. Sau đó tôi bị bắt lính rồi bị thương nhẹ được giải ngũ, nhưng tôi từ chối vì thích cuộc đời binh nghiệp. Và có lẽ đó cũng là lý do tại sao sau khi miền Nam đổi chủ tôi bị đày hơn năm năm trong tù với chức vụ “hạ sĩ quan ngụy quân Saigon”.

Trong tù thì không nói anh cũng rõ, chúng tôi làm việc như trâu, ăn không no, ngủ thiếu chăn mùng, tôi bị sốt rét liên miên. Anh có thể hình dung ra cái khổ, nhưng cũng không khổ bằng khi được tha về đến nhà thì cái gì cũng thuộc của người khác. Tôi đang bơ vơ không nơi nương tựa, đã vậy còn bị dọa quản thúc nếu còn có ý định đến thăm con tôi.

Anh S.! Có lẽ tôi đã vụng tu từ kiếp nào nên kiếp này truân chuyên khổ ải. Từ lúc góp mặt với đời tôi gặp toàn thương đau. Dù chỉ vài ngày nữa là đến Tết nhưng với tôi đời làm gì có được một mùa xuân hở anh.

Ngần ấy về anh, cám ơn những ưu ái anh đã dành cho tôi. Mong anh an vui trên bước đường tha phương. Nếu có chị cho tôi nhắn lời thăm.

Thân mến

Nguyễn Phụng (Phụng lòi xỉ)


Đọc xong thư Phụng tôi bàng hoàng buông tiếng thở dài. Điếu thuốc tắt ngụm trên tay từ lúc nào. Tôi đang thả hồn theo tuổi ấu thơ trên quê hương Quảng Ngãi nghèo xơ xác...Trí tôi lan man về cảnh cũ người xưa. Đây chiếc cầu ván ọp ẹp bắc qua ngòi Long Phụng thì đến làng Vinh Phú... Vinh Phú, cái tên cho người ta cảm tưởng mức trù phú, sung mãn, nhưng thực tế thì ngược hẳn.

Chiều nay trời Chicago buồn lạ lùng, nỗi cô đơn xoắn lấy tôi. Không còn mấy ngày nữa là đến Tết. Ở đây tết cũng buồn nhưng như Phụng, dù ở quê hương, chắc gì nó có được một mùa xuân.

Thủy Lâm Synh
Jan. 1985
- - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - -

Trang: 120

NHỚ ÔNG

Người đã cho ta chữ thủy-chung
Người cho ta lúc lạnh lùng tuyết rơi
Người cho ta tất cả trái tim
Bây giờ người lấy ta tìm quanh năm.

Một mình ta đứng giữa đất trời
Xuân sang sầu cũ vẫn chưa vơi
Ta ngồi nhớ lại người yêu dấu
Đau đớn tim ta thương nhớ sầu.

Xuân đến Xuân đi mãi mấy lần
Mỗi lần Xuân tới dạ bâng khuâng
Nhìn hoa đào nở trong phòng khách
Nhớ cội mai vàng ở trước sân.

Tân Nguyễn
- - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - -

Trang: 124

Nhạc: TRÀ GIANG NGÀY VỀ

- - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - -

Trang: 126

TÌNH NHƯ NHÁNH SÔNG

Khắc khoải những ngày dài đợi mong
Tình chia đôi ngã tựa nhánh sông
Ngay trong khoảnh khắc âm thầm ấy
Chìm bóng đêm đen bỗng chạnh lòng.

Anh ạ! dòng đời trôi quá xa
Em rời phố cũ tháng ngày qua
Bắc Nam đôi ngã sầu tương biệt
Chia cách thiệt thòi hai đứa ta.

Thuở ấy thuyền tình trôi bấp bênh
Bến đời sóng gió cứ lênh đênh
Khói sương phai úa màu nhung nhớ
Em sợ tình mình lạc nẻo quên.

Đừng để tinh ta nhạt úa màu
Nghìn trùng hun hút cách xa nhau
Dong sông ly biệt vương màu nhờ
Nhịp nhớ, nhịp thương, nhịp vướng sầu.

Rồi một ngày nào xuân bỗng sang
Tình mình hôm ấy lật sang trang
Đôi tim mở ngõ vui như hội
Từ lâu tình ngỡ đã lụi tàn...

Vệ Trà Huỳnh Kim Anh
- - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - -

Trang: 127

NĂM SỬU LẠI NHỚ CHUYỆN CHĂN TRÂU TRONG TÙ
Nguyễn Thanh Ty

 

Thắm thoát mà đã ba mươi ba năm qua, kể từ mùa Xuân tang tóc 1975. Đã bao lần con trâu đã đến, con trâu lại đi. Cứ mỗi lần chu kỳ mười hai con giáp xoay vòng, đến năm Sửu thì tôi lại nhớ đến những ngày tháng bị đày đọa đi chăn trâu trong trại tù “cải tạo” ở Đá Bàn.

Năm nay, con trâu có tên Kỷ Sửu lại về trên đất khách, những kỷ niệm buồn vui lẫn lộn lại dâng trào trong tâm khảm. Xin ghi chép lại đây một vài hình ảnh của những ngày tháng tủi nhục dưới đòn thù bạo tàn của bọn Cộng sản phi nhân tính đối với “đồng bào” của mình, để cống hiến độc giả mua vui hoặc ngậm ngùi trong giây phút, nhân ngày Xuân tha hương, bên chén trà đầu năm.

TÔI ĐI CHĂN TRÂU!

Ai bảo chăn trâu là khổ?

Một cái Tết âm thầm lặng lẽ trôi qua. Trước Tết mấy tuần, tôi được đưa ra tổ cày. Tổ cày nằm biệt lập, cách trại tù cải tạo Đá Bàn chừng một cây số. Tổ cày gồm bốn người. Tổ trưởng là anh Phước. Tổ phó: anh Hơn. Tổ viên: anh Hoà, anh Ruộng. Phước, Ruộng, Hơn còn trẻ, khoảng hai bảy, hai tám. Cả ba là Nhân dân Tự vệ. Anh Hòa là Xã trưởng, lớn tuổi hơn, độ bốn mươi. Nay thêm tôi, tổ viên nữa là năm. Tôi phụ trách chăn trâu. Bày trâu năm con.

Sáng sớm tinh mơ, tôi lùa trâu ra ruộng cho các anh mắc quải vào cày. Mười giờ, trời nắng, trâu nóng lưng là nghỉ. Tôi lùa trâu lên đồi ăn cỏ. Đến hai giờ chiều, tôi phải lùa chúng trở lại để cày hiệp hai.

Khi còn ở chung trong đội, anh Nguyễn Cần, đội phó, chọn tôi ra tổ cày, nói riêng với tôi:

- Tôi thấy anh chắc không kham nổi cái việc khiêng cây, vác gỗ lâu dài được. Tôi xin cán bộ tăng cường anh ra tổ cày để chăn trâu! Tôi nhắm việc này anh có thể làm được.

Anh Cần cũng là một Xã trưởng, nhưng khác hẵn chín Luân. Anh người dong dõng cao. Miệng nói lúc nào cũng có nụ cười vui vẻ trên môi. Tôi nghĩ chắc lúc còn trẻ anh hào hoa lắm. Anh với chín Luân như nước với lửa. Nhưng chín Luân (Liên đội trưởng, thay Ban Giám thị trại để điều động tù) nể anh ra mặt. Ít khi chín Luân dám kiếm chuyện hay vòi vĩnh anh những thứ vặt vãnh như những Xã trưởng, Ấp trưởng khác.

Từ ngày ra chăn trâu tôi mới được thong dong, thoải mái tấm thân. Sau khi giao trâu cho ba người cày, tôi trở về căn chòi đánh thêm một giấc ngủ ngắn, chừng tiếng đồng hồ. Độ tám giờ hơn, tôi nấu một nồi cơm sẵn cho bốn người về ăn trưa.

Chòi nằm cạnh bìa rừng. Ba bề có phên che. Mặt trước chòi lúc nào cũng có đống lửa to để đề phòng cọp rình mò. Bởi có hôm mưa, sáng ra thấy có nhiều dấu chân to xung quanh chòi. Không biết là thú gì nhưng anh Hòa quả quyết đó là dấu chân cọp. Chúng tôi nấu ăn ở ngay đống lửa. Lúc rãnh rang anh Ruộng, anh Hơn kéo về những thân cây khô to và dài. Những cây này chụm đầu vào lửa, cháy hết ngày này qua ngày khác.

Việc chăn trâu quả không có gì nhọc nhằn. Ngày ngày tôi lùa trâu lên đồi. Đôi khi bắt chước mấy đứa chăn trâu ở làng Cung Hòa gần đó, nằm vắt vẻo trên lưng trâu để mặc chúng nó muốn đi đâu thì đi. Nói đúng ra, những ngày đầu làm quen với trâu, đứng gần trâu, tôi cũng cứ sờ sợ. Nhất là nhìn đôi sừng to tướng, nhọn hoắc, cong vút trên đầu nó. Nhưng khi tôi làm gan lấy tay xoa xoa lên lưng, lên đầu nó thì nó đứng im, hai mắt lim dim, mặt hếch lên trời, trông có vẽ hiền lành. Tôi bạo dạn dần. Qua ngày thứ hai, tôi bắt chước leo lên lưng nó để nó cõng đi cho khoẻ. Ai dè nó cứ nằm ì nhơi cỏ, không chịu đứng dậy.

- À! Mày ngoan cố hả? Tôi cười khinh khỉnh bảo với nó. Mày tưởng ông không biết cách trị mày à? Ông biết tỏng cái thóp mày rồi. Mày chỉ giỏi bắt nạt tay mơ thôi!

Tôi bắt chước cách nói của mấy “Ông cách mạng” răn đe tù cải tạo mỗi lần muốn lấy khẩu cung (gọi là làm việc).

Hồi còn ngoài tù, tôi đã từng nghe trẻ con hát khắp nơi, nhiều bài ca “Cách mạng ta” từ ngoài Bắc đem vô, được đổi lời toàn bộ rất “hiện thực”, đan cử vài bài như:

- Bài “Quê em miền Trung du”: “Ba em là Nguỵ quân, chiều nay đón xe đò, về vùng kinh tế mới”.

- Bài “Tiếng chày trên sóc Băm Bô”: “Lấy chày to đập đầu con cá lóc, nấu canh chua, bỏ ớt với hành me, mày ăn xong tao kể cho mày nghe, cái tội hôm qua mày ăn vụng nồi chè”.

- Bài “Tiếng đàn Ta Lư”: “Đi chăn bò, ngồi trên lưng bò con, bò không đi, ta lấy cái roi ta thọc đít bò, bò đứng dậy đi ngay!

Tôi bèn “khẩn trương” “phát huy sáng kiến” áp dụng ngay bài học “duy vật biện chứng pháp” về cái sự chăn bò vô chuyện chăn trâu liền. Tôi bẻ một cây song ve, nhưng không dám thọc vô đít trâu, chỉ thọc vô chỗ lõm gần đó thôi, nó cũng đã lật đật đứng dậy đi ngay. Bọn chăn trâu thì không cần cây. Tôi thấy chúng nó dùng mấy ngón tay bấm vào chỗ đó cũng khiến chúng đứng dậy.

Ai dám bảo rằng “đi học tập cải tạo” không học được gì? Còn học được khối điều ấy chứ. Cứ thong thả, “ngày Xuân em hãy còn dài”. Không lo Đảng ta thiếu bài vở đâu.

Bắt đầu từ hôm đó, tôi cứ nằm trên lưng trâu, lang thang trong rừng. Nhiều lúc thấy đời sống xã hội chủ nghĩa trở về thời nguyên thủy thiệt là sướng như tiên ông, tôi không khỏi buột mồm rên ư ử hát vài câu. Tôi nghêu ngao:

-”Ai bảo chăn trâu là khổ? Chăn trâu sướng lắm chứ! Đầu đội nón mê như lọng che”...

Có hôm tôi cao hứng mang theo ống sáo làm vi vút vài bài.

Thật là một cảnh thiên đường, chỉ thiếu bầu rượu bên lưng. Nhưng ngặt một nổi, tôi không cách nào nhận ra những con trâu của mình khi nó nhập vào bầy trâu của đám trẻ trong làng, gần cả trăm con. Con nào cũng to tướng với cái bụng, với hai cái sừng nhọn hoắc cong vút trên đầu, với hai con mắt to như hai cái lục lạc, đều y như nhau. Mặc dù bọn trẻ chỉ cách cho tôi nhìn cái xoáy trên trán nó để nhận diện, nhưng tôi chịu. Một bầy cả trăm con, làm sao mà đi từng con để tìm cái xoáy? Mà trí nhớ của tôi thì không tốt gì mấy! Cũng may, mấy đứa nhỏ rất thích thú nghe tôi thổi sáo nên giúp tôi lẻ ra bày trâu để tôi lùa về một cách dễ dàng. Cái chuyện tôi lo lắng lại hóa ra dể ợt như ăn cháo. Cũng còn những cái khó khăn nữa mà tôi chưa nếm mùi đó thôi! Sau tôi mới thấy việc chăn trâu không đơn giản như tôi tưởng!

Một hôm đang gặm cỏ, con trâu cộ bỗng nghễnh mỏ lên trời, cái mũi hít hít liên hồi, phát ra tiếng kêu phì phò, càng lúc càng dồn dập. Tôi đang theo dõi coi nó trở chứng gì thì nó vụt chạy như ngựa chạy. Tôi cứ tưởng nó chậm chạp từng bước như mọi ngày, ai ngờ nó chạy lẹ lắm. Tôi đuổi theo chận lại không kịp. Nó dông thẳng một mạch vô làng rồi mất dạng. Không cách nào để tìm ra nó. Đi tìm thì bỏ bày trâu còn lại cho ai? Không tìm thì chiều về ăn nói sao đây khi lùa vào chuồng thiếu mất một con? Tôi bối rối trong lòng, vô phương cứu gỡ. Thiếu điều muốn khóc. Năn nỉ nhờ mấy đứa nhỏ chăn trâu đi tìm dùm. Không dè chúng cười ngất. Chúng bảo:

- Nó đánh hơi tìm “cái” đó chú à! Chú đừng lo! Chú thổi sáo cho tụi cháu nghe đi, rồi tụi cháu dắt cổ nó về cho chú!

Nghe nói, tôi mừng hết lớn, yên tâm ngồi dưới gốc cây, thổi hết bài này qua bài nọ cho chúng nghe. Bọn trẻ hơn chục đứa. Có đứa chăn thuê. Có đứa chăn trâu nhà. Đứa nào cũng quần đùi, áo cụt rách te tua, thật tội nghiệp. Nhưng chúng vui đùa với nhau rất vô tư, hình như chúng chẳng quan tâm gì đến cuộc đời đang thay đổi.

Tôi kể chuyện trâu chạy bậy cho anh Phước nghe, anh cười bảo tôi yên chí, ngày mai anh có cách trị, nó sẽ không bao giờ chạy như vậy nữa đâu. Tôi lấy làm lạ. Tôi chăn, anh không có mặt ở chỗ trâu ăn thì làm sao anh giúp tôi chận không cho con trâu cộ chạy theo hơi cái? Lại đang mùa động đực! Nhưng tôi cũng làm thinh không hỏi lại, để chờ xem.

Trưa hôm sau cày xong, anh vào rừng chặt về hai khúc cây to bằng cổ chân, dài nửa thước. Anh hì hục khoét lổ một đầu hai khúc cây rồi dùng dây cổ rùa néo lại, xỏ qua, thành một cái vòng. Anh tròng cái vòng qua cổ trâu. Hai khúc cây thòng xuống, tòn teng ngang ống chân trâu. Khi đi chầm chậm thì không sao. Khi con trâu vụt chạy thì hai khúc cây lủng lẳng đánh vào đầu gối làm cho nó đau điếng. Thế là hết chạy. Thiệt y như phép màu của bà Quan Âm đội cái Kim Cô lên đầu Tôn ngộ Không để trị khi hắn ta dở chứng vậy!

Còn một vấn nạn nữa! Nhưng mỗi lần như vậy tôi lại tội nghiệp cho trâu mà cũng xót cho thân tù tội của mình! Mỗi trưa, bày trâu đang đầm mình dưới sông tắm mát, mõm ngước lên khỏi mặt nước, nhơi qua, nhơi lại mớ cỏ ựa lên từ bao tử, mắt nhắm mơ màng, thì thình lình tiếng kẻng tù vang lên từng hồi báo đến giờ lao động, bày trâu vọt mình khỏi nước, lũi vào đám cây rậm để trốn. Tôi phải khổ công dùng rựa phát cho hết đám cỏ gai mắc cỡ chằng chịt để vào lùa ra. Đến khi mấy anh Phước, Hơn, Hòa mắc ách vào cổ để cày thì chúng cứ nghiêng đầu, lộn quải, không chịu cho mắc ách. Chúng cũng sợ cái roi tre, nên chỉ biết giương hai mắt nhìn trong sự khuất phục đầy căm hận. Chao ơi! Đến loài vật mà còn biết sợ lao động với tiếng kẻng tù thì thằng người tù còn hãi hùng đến đâu nữa. Tội nghiệp cho những con trâu, con bò. Đã là kiếp con vật khổ cực khốn cùng nhất trong lục súc mà còn vô phúc lọt phải vào trại cải tạo nữa thì tàn đời cô Lựu. Quả là tận đáy tầng địa ngục. Kiếp sống kéo dài được bao lâu?

Chăn trâu chừng được ba tháng thì Phó Giám thị Khánh ra tổ cày, bắt cả tổ họp kiểm điểm, có cả đội phó Nguyễn Cần tham dự. Chuyện gì mà họp kiểm điểm? Không ai biết!

Té ra là chuyện tôi chăn trâu mà không biết mặt trâu! Giám thị Khánh chất vấn tôi:

- Anh Nguyễn Cận chăn bò, báo cáo với tôi rằng, anh chăn trâu mấy tháng nay mà vẫn không biết mặt trâu, có đúng không nào?

- Thưa đúng!

- Thế trước kia anh làm gì mà không biết được mặt trâu mình chăn?

- Thưa ông Phó Giám Thị, nghề của tôi là dạy học không phải chăn trâu nên không có khả năng nhận diện trâu!

- Chăn trâu mà không biết mặt trâu! Thế anh học tập cái kiểu gì thế? Hử? Anh kiểm điểm bản thân coi có tốt chưa nào?

Anh Cần cứu bồ:

- Thưa ông Phó! Theo tôi thì anh Cận có khả năng chăn trâu, bò hơn ảnh, nên giao hết cho anh Cận chăn. Còn anh Tùy thì cho đi cắt cỏ để trâu ăn ban đêm.

- Ừ cũng được! Nhưng chỉ tiêu phải đạt được mỗi ngày bốn gánh đấy nhé! Giám thị Khánh ra lệnh.

TÔI ĐI CĂT CỎ!

Tay cầm bán nguyệt xênh xang,
Một trăm ngọn cỏ lai hàng tay ta.

Từ chăn trâu tôi được chuyển qua cắt cỏ. Cắt cỏ hóa ra lại thong dong nhàn hạ hơn chăn trâu. Với cái đòn gánh và hai cái giỏ trên vai, tôi đi khắp làng Cung Hòa để kiếm cỏ cắt. Cỏ ống, cỏ mực, cỏ lác... có thứ gì tôi cắt thứ ấy. Thế mà chỉ được hai gánh là cùng. Không đào đâu ra được bốn gánh chỉ tiêu. Cỏ chỉ mọc ở bờ ruộng là nhiều. Cỏ không mọc trong rừng. Còn trên đồi trọc đầy sỏi đá, lưa thưa mấy cọng sát đất không đủ bày bò mười lăm con của lão Cận gặm thì làm gì còn đến phiên tôi cắt.

Ruộng làng Cung Hòa bé tí xíu như cái làng của nó, rão một tiếng đồng hồ là đã đi hết từ miếng ruộng đầu tiên đến miếng ruộng cuối cùng rồi. Cỏ làm sao mọc cho kịp để tôi cắt mỗi ngày? Vấn kế anh Cần, anh cười khà khà:

- Mấy ông thầy giáo thiệt thà quá! Đi ở tù mà thiệt thà là chết! Cỏ ở đâu mà anh cắt ngày bốn gánh. Thằng Khánh “gà mái” (da mặt tái như gà mái) nó hành anh đó! Cha tôi cũng không làm nổi huống hồ là anh!

- Vậy tôi làm sao bây giờ? Nó sẽ lấy cớ đó mà cùm tôi là cái chắc!

- Khỏi lo! Chiều về, anh cứ lủi vô đám bắp, mấy cây bắp còi thiếu giống gì! Anh cứ cắt ráo cho tôi, trâu nó thích thứ này hơn cỏ! Muốn mấy gánh lại chẳng có!

Nói xong, anh lại cười khà khà, vác chiếc rựa quéo lên vai, thủng thẳng về trại. Lại được một phen cứu bồ. Tôi thầm cảm ơn anh. Không biết tại sao anh lại tốt với tôi như vậy. Tôi không có gì để đền đáp lại cho anh.

Mấy hôm sau, anh Hòa ngồi cặm cụi chẻ tre, đan cho tôi đôi giỏ khác. Đôi giỏ này khác đôi giỏ trước. Cái miệng thì loe ra tới bốn gang tay. Cái đáy thì tóp lại còn có ba gang tay. Đôi giỏ trước thì đáy miệng bằng nhau. Lấy làm lạ, tôi hỏi:

- Anh Hòa! Anh đan thêm đôi giỏ cho ai vậy?

- Cho anh chớ cho ai!

- Ủa! Tôi có rồi mà!

- Anh Cần dặn nhỏ tôi, đan lại cho anh đôi giỏ này đó! Nó đặc biệt chứa ít cỏ mà trông như nhiều, nhờ cái miệng nó loe ra! Anh thấy không?

Tôi thật sự cảm động với tấm lòng tốt của các anh đã âm thầm giúp đỡ tôi. Trong hoàn cảnh tù đầy như vầy mà tìm được chút lòng nhân giữa người với người nó thực sự quí báu biết bao. Thật là hiếm có giữa buổi ngọc nát vàng tan!

Về phần lão Cận “cán giá”, cái tay trái cán giá của lão quặt hẵn một bên trông kỳ dị, nên ai cũng kêu là lão cán giá chớ ít khi kêu lão Cận, từ ngày báo cáo tôi lên Giám thị Khánh để lập công lấy điểm, ai ngờ bị anh Cần ngọt ngào chơi lại một vố cho bỏ ghét, lãnh chăn thêm bày trâu của tôi thì coi như hết đời.

Lắm lúc tôi nghêu ngao cái liềm cắt cỏ trong tay, lang thang đi khắp nơi, nhìn lên lưng chừng đồi, thấy lão đứng chơ vơ giữa nắng với cái nón cời rách vành te tua trên đầu, tay mặt cái roi tre, tay trái lon gô nước trông thảm hại làm sao! Lão gầy trơ xương, da cháy đen như một xác ướp Ai Cập. Không biết ngày xưa lão làm ấp trưởng hạnh hoẹ dân ra sao chớ bây giờ thân tàn ma dại như con ma đói! Thảm lắm!

Cái thê thảm mà lão tự chuốc lấy vào thân là tại cái thói nịnh hót tân công hèn hạ của lão. Anh Cần giải thích cái đòn độc anh đã chơi lão cho tôi nghe:

- Anh biết không! Cái thằng già đầu mà ngu đó, tôi phải cho nó bài học để biết thân! Nó là ấp trưởng trong xã tôi chớ ai! Anh không biết về đặc tính của trâu và bò đâu! Trâu thì thích nước. Bò thì ưa nắng. Hai thứ này đâu ở chung với nhau được. Lão làm sao mà cùng một lúc chăn hai thứ được. Thằng Khánh Bắc kỳ lại càng dốt đặc. Tôi chơi nó một vố để nhớ đời.

Quả thật bây giờ tôi mới nhớ lại. Lão Cận vất vả với bầy bò khi mưa xuống. Nước ướt lưng là bò chạy tứ tung, tìm bụi cây, lùm lác để trốn. Nắng đổ lửa lên đầu là trâu phang xuống nơi nào có nước để dầm mình. Lão hết lên đồi trông chừng bầy bò, lại xuống mương để đếm xem bày trâu còn đủ không. Cứ lăng xăng như thế suốt ngày không một chút nghỉ ngơi. Thân hình lão đã gầy bây giờ lại trơ xương thêm. Không biết chừng lão sẽ gục xuống ở đâu đó, một lúc nào đó, để được theo “Bác Hồ” mà không một ai hay biết.

Thêm một tên tù gục chết âm thầm giữa rừng hoang, núi thẫm, Ban Giám thị trại tù “cải tạo” Đá Bàn sẽ tiết kiệm được bốn lạng gạo mỗi ngày. Đó là chính sách hòa hợp hòa giải dân tộc của đảng cộng sản Việt Nam. Và cũng là đường lối chủ trương nhân đạo khoan hồng của cái gọi là Nhà nước Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, trước sau như một, không hề thay đổi.

Hy vọng những hình ảnh trên sẽ giúp cho những ai chưa từng nếm mùi Cộng sản vẫn còn tin theo lời chiêu dụ của cộng sản, lấy đó làm hành trang, mang theo đến bàn Hội nghị “hòa hợp hòa giải dân tộc” để bàn về Nghị quyết 36.

Nguyễn Thanh Ty
- - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - -

Trang: 132

CHÚC XUÂN


Mỗi Xuân mỗi chúc thiệp trao nhau
Mỹ ngữ thành tâm đẹp sắc màu
Những chúc gia đình luôn thịnh vượng
Những mơ dòng tộc mãi sang giàu
Những trông thế giớ thôi ganh tỵ
Những muốn chúng sanh hết vọng cầu
Những ước năm châu vui thỏa nguyện
Những mong nhân loại sống thương nhau.

Phùng Trần
- - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - -

Trang: 135

XUÂN XA XỨ

Xuân đến quê người nhớ con xa
Đang vui đón Tết chốn quê nhà
Phố phường tấp nập người qua lại
Hớn hở vui Xuân nét đậm đà
Lặng lẽ tôi buồn nhìn tuyết sa
Bâng khuân hồn gởi tận đâu xa
Xuân đến Xuân đi rất xót xa
Hiu quạnh Giao-thừa lại nhớ nhà.

Dặm đường cách mấy trùng dương
Thăm thẳm nhưng lòng vẫn nhớ thương
Viễn xứ nhưng hồn về cố quận
Xa hương luồng những dạ sầu vương.

Nắng đẹp trời Xuân tung cánh én
Dập dìu ong bướm lượn vườn hoa
Mai lan thắm đẹp đầy hương sắc
Vương vấn trong lòng những thiết-tha.

Tân Nguyễn

NHỚ NHÀ

Nhớ Vĩnh Điện gió chiều về nhè nhẹ
Đêm Ba Mươi tiếng pháo nổ rền vang
Trong lòng ta cảm thấy rộn ràng
Niềm thương nhớ đau đớn tâm cang

Đầu năm tôi viết mấy bài thơ
Bên ngoài cửa sổ sương xuống mờ
Xuân đến xứ người sao buồn nhớ
Chữ ngập-ngừng, giọt lệ tuôn rơi.

Tân Nguyễn
- - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - -

Trang: 136

LỄ BÀN GIAO BAN CHẤP HÀNH HỘI ÁI-HỮU & ĐỒNG HƯƠNG QUẢNG NGÃI MIỀN BẮC CALIFORNIA NHIỆM KỲ 2008-2011
Người Sông Trà ghi

Vào trưa ngày 25-10-2008, Hội Ái-Hữu & Đồng Hương Quảng-Ngãi miền Bắc California (HAH/ĐH.QN.BC) tổ chức Lễ Bàn Giao Ban Chấp Hành (BCH) của Hội giữa BCH đương nhiệm và Tân BCH nhiệm kỳ 2008-2011, căn cứ vào kết quả cuộc bầu cử được tổ chức vào ngày 28-9-2008 với trên 300 đồng hương và thân hữu cùng quan khách tham dự đã bầu nên. Buổi lễ Bàn giao được tổ chức tại Văn-phòng cũ của Hội với sự tham dự của 38 vị trong BCH/HAH/ĐH.QN.BC.

Mở đầu, ông Trần Ngọc Ảnh, Hội trưởng mãn nhiệm, thay mặt BCH mãn nhiệm đã ngỏ lời cám ơn sự hiện diện đông đủ của các Ủy viên trong BCH để cùng ông tiến hành thủ tục bàn giao cũng như cám ơn Ban Tổ Chức Bầu cử mà Trưởng ban là Kỹ-sư Mai Đức Phượng đã tổ chức và điều hành cuộc bầu cử vào ngày 28-9-2008 mang lại kết quả mỹ-mãn.

Tiếp đến, ông Trần Ngọc Ảnh ngỏ lời cám ơn tất cả mọi thành viên trong BCH đã nhiệt tình giúp đỡ, cộng tác với ông trong suốt nhiệm kỳ nên đã hoàn thành mọi công việc mà đồng hương và thân hữu Quảng Ngãi đã tin tưởng giao phó nên đã mang lại sự thành công như mọi người Quảng Ngãi mong đợi, đã gây được tiếng vang cho đất Quảng Ngãi trong cộng đồng người Việt sở tại. Ông cám từ quý vị sáng lập viên, quý vị trong Ban Cố Vấn, Ban Giám sát, quý Ủy viên trong BCH đến toàn thể hội viên của Hội, toàn thể đồng hương và thân hữu Quảng Ngãi.

Ông Trần Ngọc Ảnh cũng nhờ chương trình phát thanh “Núi Ấn Sông Trà” dùng làn sóng chuyển lời chân thành cám ơn của ông đến Quý bậc Trưởng thượng, quý vị cao niên trong Hội, quý nhà hảo tâm bảo trợ cho Hội, quý Thi văn hữu, quý vị truyền thông báo chí, quý Hội đoàn bạn, quý thân hữu cùng đồng hương Quảng Ngãi đã nhiệt tình giúp đỡ tiếp tay với ông để đưa Hội lớn mạnh hơn các nhiệm kỳ trước đó.

Tưởng cũng cần biết thêm về những thành quả “vượt bậc” mà BCH nhiệm kỳ 2005-2008 thực hiện được mà các nhiệm kỳ trước chưa làm được cũng như khó có Hội đoàn nào theo kịp.

1. Mở rộng hoạt động “Chương trình yểm trợ Thương Phế Binh (TPB) Việt Nam Cộng Hòa ở quê nhà”, với hơn 200 hồ sơ mà Hội đã nhận được trong nhiệm kỳ, gởi giúp một số tiền rất lớn đến nhiều TPB.VNCH già yếu trong khi mang thương tật hay tàn phế.

2. Nhiều lần tổ chức lạc quyên cứu trợ nạn nhân thiên tai bão lụt tại tỉnh nhà mỗi khi bên nhà có thiên tai, đã giúp đỡ được nhiều gia đình gặp phải hoàn cảnh bi đát do thiên tai gây ra, nhất là giúp đỡ tương đối khá cho 23 gia đình ở Quảng Ngãi có người quá vãng, khi đang hành nghề biển mưu sinh thì bị tử nạn.

3. Thực hiện được chương trình “Bữa cơm Thân ái” dành cho những người Vô gia cư thuộc Quận hạt Santa Clara, qua sự cộng tác với chính quyền sở tại, chi phí lên đến hàng ngàn Mỹ kim. Điều khác biệt mà Hội thực hiện được khác với các lần tổ chức khác là Hội nhà thực hiện được chương trình văn nghệ giúp vui cho thực khách khi họ đang dùng bữa cũng như chi tiền nhiều hơn cho nhà hàng cung cấp thức ăn để thực khách ăn không giới hạn.

4. Tổ chức Lễ Vinh danh và Ra mắt Sách dành cho nhà văn lão thành Thinh Quang, một người Quảng Ngãi suốt đời đã phục vụ cho Văn học nước nhà, trong một buổi lễ long trọng với gần 700 người, gồm quý vị quan khách, các tổ chức cùng hội đoàn bạn, các văn nghệ sĩ, nhiều thân hữu và đồng hương tham dự.

5. Tổ chúc được một chương trình phát thanh hàng tuần mang tên “Chương trình phát thanh Núi Ấn sông Trà” do ông Trần Điềm đảm trách. Ông Trần Điềm nguyên là Quản đốc Đài Phát Thanh Quảng Ngãi thời VNCH, có đủ kinh nghiệm điều hành nên chương trình gây được tiếng vang lớn trong phạm vi của hệ thống truyền thanh AM 1120 phủ sóng.

6. Thành quả mà các nhiệm kỳ trước không làm được là đưa Hội lớn mạnh. Khi BCH.NK 2005-2008 tiếp nhận từ nhiệm kỳ trước, con số người tham dự tối đa cũng không quá 200 trong các sinh hoạt của Hội. Qua những nỗ lực của ông tân Hội trưởng, toàn BCH đã hoạt động đắc lực nên đã quy tụ, mời gọi được nhiều quan khách, các hội đoàn bạn, các thi văn hữu cùng tất cả đồng hương và thân hữu tham gia trong mọi sinh hoạt của Hội, với số người tham gia lên đến trên dưới 700 người, trong nhiều năm liền, trong nhiều sinh hoạt mà Hội nhà tổ chức chứ không phải một đôi lần cá biệt.

Ngoài ra, các chương trình thường lệ mà nhiều hội đoàn khác tổ chức, Hội nhà đều thực hiện thường xuyên như: quan hôn tang tế, khuyến học, họp mặt Tân Niên, Picnic Hè, tặng quà cho các Cụ cao niên, những người có công với Hội v.v...

Trong không khí thân mật của Lễ Bàn giao, khi mà “trách nhiệm vì quê hương Quảng Ngãi được đặt trên hết” giữa những người mãn nhiệm và kế nhiệm cho thấy tinh thần trách nhiệm cao, tình đồng hương nồng ấm giữa những người “ăn cơm nhà, vác ngà voi”, nhất là qua những lời tâm tình của ông Trần Ngọc Ảnh. Mọi ủy viên trong BCH và chắc không ít đồng hương đều biết rằng ông Ảnh đã hy sinh không ít tiền bạc, công sức, thời gian... cho Hội mà các Hội trưởng tiền nhiệm không làm được, nên đã cùng BCH vực Hội dậy, nhất là khi Hội có nguy cơ đỗ vỡ một phần do người Hội trưởng nhiệm kỳ trước ông bỏ gánh giữa đường. Được biết từ ngày thành lập Hội, đã có hai Hội trưởng “bỏ cuộc giữa đường”, bỏ Hội cho BCH để đến ngày Đại Hội Tân Niên bầu lại, là các ông Hoàng Ngọc Thành và Trần Anh Lan.

Trong suốt nhiệm kỳ 2005-2008, Hội trên đà phát triển, tiếc thay, gần đến mãn nhiệm kỳ, Hội lại phải chịu chung cái “hệ lụy” như cộng đồng người Việt sở tại đang chịu, sóng gió trong Hội xảy ra không sao tránh khỏi. Tuy nhiên, mang tinh thần của đất Quảng Ngãi, với quyết tâm giữ vững Hội đã giúp thêm nghị lực cho BCH của Hội và đồng hương Quảng Ngãi để vượt qua những chướng ngại cản đường mà điển hình là sự thành công trong ngày bầu cử 28-9-2008 với đông đảo đồng hương, thân hữu tham gia, bầu nên người lo công việc cho Hội.

Kết quả ngày bầu cử BCH nhiệm kỳ 2008-2011, chỉ tính số phiếu hợp lệ, như sau: Ông Nguyễn Diên (San Jose), 135 phiếu, đắc cử Hội trưởng; ông Nguyễn Minh Trung (Modesto), 109 phiếu, Hội phó Ngoại vụ, bà Phạm Thị Hạnh (Santa Clara), 107 phiếu, Hội phó Nội vụ. Hai người được đề cử thêm vào Ban Điều hành là ông Lê Chánh Thiêm, giữ nhiệm vụ Tổng Thư ký và cô Vũ Diệu-Huyền là Thủ quỹ.

Sau thủ tục bàn giao, bàn nhận giữa BCH cũ và mới là phần phát biểu của ông Tân Hội trưởng. Thay mặt cho Tân BCH và toàn thể đồng hương và thân hữu Quảng-Ngãi, ông Nguyễn Diên đã cám ơn ông cựu Hội trưởng Trần Ngọc Ảnh và cựu BCH đã hoàn thành nhiệm vụ mà đồng hương đã tín nhiệm giao phó. Đặc biệt nhất là ông cựu Hội trưởng và BCH đã giữ vững được Hội, bảo toàn được danh xưng của Hội, giữ được vị thế của Hội trong cộng đồng người Việt tại địa phương và nhất là “gây được niềm tin” nơi đồng hương Quảng Ngãi là “Hội nhà vẫn hiện hữu cho dù có sóng gió xảy ra” cũng như “quy tụ được các Hội viên” đã bị ly tán do biến cố chính trị tại địa phương tạo ra.

Ông cũng bày tỏ suy nghĩ của mình rằng nhiệm vụ của ông và BCH trong thời gian sắp đến chắc chắn sẽ gặp nhiều trở ngại. Ông hiểu rằng khi “ý thức ái hữu” đã bị lợi dụng, “tình đồng hương” của một hội ái hữu bị thay bằng “ý thức hệ chính trị”, lòng người đã có ly tán dù ít hay nhiều, sự vô tư hoạt động của một hội đồng hương đã bị một nhóm người muốn Hội phải thay bằng hoạt động theo một điều lệ của một tổ chức, do chủ tâm của những thế lực giật giây thì nhiệm vụ quy tụ lại thành một khối là vô cùng gian nan. Tuy nhiên, ông tin tưởng vào sự cộng tác nhiệt tình của mọi thành viên trong BCH mới và cũ, ông tin tưởng mãnh liệt vào sự sáng suốt của đồng hương và thân hữu Quảng Ngãi, mọi người sẽ thấy đâu là lẽ phải, đâu là sự thật, điều nào hợp với nguyên tắc của Hội nhà, mục đích khi con dân Quảng Ngãi tha hương lập Hội cùng ngồi lại với nhau để làm gì v.v..., họ sẽ đứng sau lưng BCH, ủng hộ cho Hội trong những ngày sắp tới, cho dù đây là việc không dễ dàng. Ông hy vọng một tương lai tươi sáng cho Hội sau khi “cơn bão” qua đi.

Ông kêu gọi sự hợp tác của mọi người hiện diện (cũng như sẽ mời gọi trong thời gian tới) cùng góp mỗi người một tay cùng ông để từng bước, dần dần đưa Hội tìm lại thế đứng đã mất.

Hưởng ứng lời mời gọi, các vị có tên sau đã đáp lời, nguyện chung vai sát cánh cùng Hội. Ngoài các vị trong Ban Cố Vấn, Ban Giám sát, Ban Bảo trợ tài chánh, các vị đại diện vùng... vắng mặt nhưng vẫn nhận nhiệm vụ mà đồng hương Quảng Ngãi giao phó còn có ông cựu Hội trưởng Trần Ngọc Ảnh, cựu Hội Phó Nguyễn Cao Can. Danh sách còn có các ông: Đỗ Hữu Ích, Mai Đức Phượng, Nguyễn Cần, Đặng A, Lê Chánh Hồng, Lê Văn Lang, Lê Văn Công, Ngô Minh Sang, Phạm Trung Thảo, Trần Trung Quân, Lê Điểu, Hoàng Phương, Đặng Lộc, Nguyễn Đức Kiệm, Tiến sĩ Nguyễn Hồng Dũng, Luật sư Nguyễn Thị Như Ngọc, Kỹ sư Vũ Đình Hoàng, Cô Thái Thị Diệu Nga, Bà Lê Diễm, bà Nguyễn Tiết Hạnh, bà Nguyễn Thị Yến, Huỳnh Thị Phương Lan; các ủy viên trẻ: Hồ Lưu, Nguyễn Bích Kiều, Trần Trung Dũng, Trần Hải Đông, Trần Đông Sơn.

Sau đó, để bắt đầu cho nhiệm vụ trong nhiệm kỳ mới, tân BCH có phát họa những công tác khẩn thiết mà Hội cần làm để mọi người hiện diện biết hầu lấy ý kiến chung. Sau khi bàn bạc, một số công việc cần làm được phân công cụ thể cho từng cá nhân, từng ban, theo nghị trình của buổi lễ. Về tài chánh, ngân khoản còn lại tính đến ngày bàn giao chỉ còn $0.39 (39 cents). Trong ngày Bầu cử và Lễ Bàn giao, Hội nhận được sự đóng góp tài chánh từ đồng hương và thân hữu một số tiền đáng kể để chi phí trong sinh hoạt.

Trong tiệc trà thân mật tại địa chỉ cũ của Hội được tổ chức sau đó, là giờ phút tâm tình. Mọi người thố lộ tâm tư và ước vọng của mình, trong tình đồng hương nồng thắm. Ai nấy đều mong Hội sớm qua cơn sóng gió, đều nguyện góp bàn tay để xây dựng Hội. Trong niềm tin mãnh liệt mà tiền nhân Quảng Ngãi để lại là “Quảng Ngãi dân tình bất ly”, mọi người đều hy vọng Hội nhà sẽ vững mạnh trong sự phù trợ của anh linh tiền nhân Quảng Ngãi cùng sự góp sức của mọi đồng hương và thân hữu Quảng Ngãi.
 

San Jose, ngày 28 tháng 10 năm 2008.
Người Sông Trà ghi.

LỜI THÔNG BÁO CỦA BAN BÁO CHÍ

Đặc San Quảng Ngãi nầy được thực hiện theo Chủ trương của Ban Chấp Hành Hội Ái Hữu & Đồng Hương Quảng Ngãi miền Bắc California, Ban Báo Chí chịu trách nhiệm thực hiện. Đây là tiếng nói chung của Hội, do vậy, mọi đồng hương, thân hữu, thi văn hữu gởi bài đến đều được chọn đăng, miễn sao những bài viết đó không đi ra ngoài quan điểm chung của Hội. Việc chọn bài không có một ngoại lệ nào. Tuy nhiên, nội dung tất cả các bài viết, tác giả chịu trách nhiệm, như đã được ghi rõ nơi trang 5, vì thế không nhất thiết là quan điểm chung của Hội.
- - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - -

Trang: 141

MAI ANH VỀ QUẢNG NGÃI.

Mai anh về Quảng Ngãi
Tìm tuổi thơ xưa rơi vãi bãi sông Trà
Thưở cháy tóc cưỡi bò vùng ra ngõ
Gặp giữa La Hà thạch trận bạn cưỡi trâu.

Mai anh về, vun lại hàng cau
Nghe mẹ hát điệu hò ba lý
Quặn thắt đêm xa, ơi câu hò dung dị
Chốn tha hương, mộng mị giọng quê nhà.

Mai anh về, thăm núi Ấn cùng cha
Rồi đến Lý Sơn nghe câu tế lính Hoàng Sa mùa biển lặng
Quế Trà Bồng thì cay, muối Sa Huỳnh thì mặn
Ngọt mía, thơm don, ngon cá bống sông Trà.

Quảng Ngãi ơi, muôn dặm đường xa
Mai về nghe Dung Quất hòa khúc nhạc
Nghe bước chân em bên cuộc đời kẻ khác
Nghe sông Vệ chiều man mác một lời ru.

Mai về thăm, mưa gió mặc dù
Và mặc cho bờ xe nước xưa không còn nữa
Cổ Lũy hết cô thôn và ngõ vắng đợi anh em không còn đứng tựa
Anh vẫn về, bởi Quảng Ngãi là quê hương.

Lê Quang Tân.
- - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - -

Trang: 142

MỐI TÌNH GIÀ
Truyện ngắn của Thanh Thương Hoàng

Cứ chiều ngày Chủ nhật nào cũng vậy, khi mặt trời ngả về phương Tây, người ta thấy một ông già mái tóc bạc phơ phủ dài dưới gáy và chòm râu trắng như cước chẩy xuống tận ngực. Ông chậm rãi cất bước trên con đường đất nhỏ quanh khuôn viên ngôi chùa, hai bên lề có những khóm hoa đủ mầu sắc. Ông lơ đãng đưa mắt hết nhìn xung quanh, nhìn gần nhìn xa, rồi lại ngước mặt nhìn nền trời cao với những tảng mây trắng hơi ửng vàng bàng bạc xây thành chất lũy, từng khối, từng khối đầy đủ hình thù cảnh vật núi non, người, vật đủ loại, chập chùng mờ ảo quái dị như một thế giới nào đó khác với thế giới hiện tại. Ông lẩm bẩm: “Có thật có một thế giới nào khác ngoài thế giới này không bà nhỉ? Chẳng lẽ chết là hết? Cả ngàn năm nay người ta đã nói nhiều về cõi niết bàn, về chốn thiên đường. Bây giờ bà đang ở đâu, niết bàn, thiên đường hay chỉ là cõi hư vô? Rõ ràng mới đấy mà đã trở thành không rồi!”. Thoạt đầu người ta tưởng ông già nói chuyện với một người nào đó. Thực ra ông nói một mình hay chính xác hơn, ông nói chuyện với một cái bóng vô hình. Ngôi chùa nhỏ lại tọa lạc tại một vùng ngoài xa thành phố nên rất êm ả yên vắng, vì khách thập phương ít lui tới. Chùa có một sư bà tuổi đời trên dưới 80. Bà thứ hai vào khoảng 70 tuổi nhưng chỉ là tín nữ, vì bà chưa xuống tóc, đến chùa ở mới mấy năm nay. Cả hai đều mình hạc xương mai. Sư bà ít khi ra khỏi chùa, bà trụ tại đây đã trên 30 năm, suốt ngày đêm chỉ ngồi gõ mõ tụng kinh niệm Phật, khi rỗi rãi thì đọc sách hoặc ra sau vườn trồng hoa, trồng rau với bà tín nữ. Ngoài hai người trên, chùa còn một sư cô tuổi 17, 18. Bà tín nữ tuy khoác trên người bộ đồ mầu xám nhạt nhưng trông dáng điệu vẫn còn vẻ sang cả. Bà để mớ tóc bạc trắng quấn tròn lại phía sau đầu và trùm tấm khăn mầu xám nhạt nên trông chẳng khác gì một sư nữ. Bà chỉ mới quy y chứ chưa xuống tóc, vì lòng bà (theo lời bà sám hối với sư bà trụ trì) còn vướng chút bụi trần. Từ ngày chồng mất, mãn tang, giã từ con cháu bà lên chùa này nương tựa cửa Phật cho tới nay cũng đã mấy năm. Sau những giờ tụng niệm đọc kinh, mỗi buổi chiều bà thường thiền hành quanh khuôn viên chùa dăm chục phút. Cả ba người tuy sống trong cùng ngôi chùa nhưng ít khi họ chuyện trò tâm sự, nhất là chuyện riêng tư quá khứ. Sư cô người trắng trẻo hồng hào, phải nói là khá xinh đẹp, đang sắp thi vào đại học, theo cha mẹ lên chùa ngày Phật đản, không hiểu sao cô bất thần xin phép cha mẹ, xin phép sư bà ở lại tu luôn, mặc cho sự ngăn cản của cha mẹ. Còn sư bà và bà tín nữ là cả một sự bí ẩn. Không ai biết gốc tích dĩ vãng của họ. Hơn nữa, từ khi di tản sang đây, người ta mãi lo làm giầu nhiều hơn là quan tâm tới những chuyện khác, nhất là chuyện tu hành của mấy người đàn bà không tên tuổi, ít được người đời biết tới. Ngoài ra, vì ngôi chùa này nhỏ lại tọa lạc nơi vắng vẻ chốn rừng sâu nên các Phật tử ít lai vãng chiêm bái. Thời buổi này, nhất là sống ở xứ sở có nhiều cơ hội làm giầu, người ta tới lễ Phật thì ít mà muốn khoe của, khoe sự giầu sang phú quý thì nhiều nên những ngày lễ Phật, những ngôi chùa lớn danh tiếng, Phật tử đến đông như hội chợ...

Người con trai sau khi ngừng xe lại trước con đường nhỏ dẫn vào chùa, bước ra khỏi xe, mở cửa xe cho ông già bước ra, lễ phép nói:

“Thưa ba, chiều nay con vẫn tới đón như giờ giấc mọi lần?”.

Ông già cười nhẹ, đáp:

“Vẫn vậy thôi”.

Ông già nhìn theo anh con trai phóng xe đi khuất mới thong thả cất bước về phía chùa. Cũng một buổi chiều như chiều nay nhưng cách đây đã bốn năm, ông được người bạn rủ tới chùa này ngoạn cảnh. Theo sự mô tả của ông bạn, cảnh giới ngôi chùa chẳng khác gì cảnh giới những ngôi chùa trong nước của những nhà tu hành chân chính thủa xa xưa trong rừng thẳm núi cao. Chùa u nhã tĩnh mịch, tuy nhỏ nhưng nằm trên khu đất khá rộng, vây quanh là những hàng cây cổ thụ cành lá xum xuê có từ trăm năm, tạo cho người ta cảm giác khác hẳn với thế giới bên ngoài, tâm thần lâng lâng như lạc vào nơi miền cực lạc cõi trần gian. Con người như bay bổng lên tầng cao tinh khiết siêu thoát, không vướng chút bụi đời. Nghe bùi tai hấp dẫn, thế là hai ông bạn già - năm đó cũng đều trên dưới bẩy chục tuổi nhưng còn tương đối khỏe mạnh - cùng nhau lái xe tới vãn cảnh chùa. Quả đúng như lời ông bạn nói - ông Thụy - tên ông già, cảnh vật cũng như đa số những ngôi chùa khác nhưng vô cùng u nhã thanh tịnh. Không gian thoang thoảng hương thiền. Ông Thụy thấy tâm hồn mình nhẹ lâng lâng sau những ngày tháng ưu tư buồn phiền mệt mỏi sống nơi đất nước người. Ông thực tâm chẳng muốn rời xa quê hương đất nước chút nào nhưng thời thế bắt buộc, nhất là các con ông, sau những năm tù đầy về, bọn nó nhất định rời bỏ quê hương sang đây sống một cuộc đời mới.

Ông Thụy già rồi chẳng còn tham vọng gì nên lúc nào cũng có cảm tưởng mình sống thừa với những ngày tháng vô vị. Con cháu ông, chúng có đời sống của chúng. Và chúng còn mải mê học hành, mải mê theo đuổi công danh sự nghiệp hoặc mải mê vui chơi. Ông chỉ còn nguồn yêu thương an ủi duy nhất là bà vợ. Nhưng ít lâu nay bà bỗng thay tính đổi nết, trở nên con người khác. Từ lúc trở thành vợ ông, bà đã phong thanh biết chuyện ông có một mối tình đầu sâu đậm khó quên, dù năm tháng trôi qua. Bà biết ông không yêu bà. Ông lấy bà vì bổn phận - cũng như bà - vì gia đình ép buộc, nên khi về già tình vợ chồng cũng trở nên nhạt nhẽo. Tuy nhiên lúc nào bà cũng vẫn đóng trọn vẹn vai trò làm vợ, làm mẹ và làm bà. Và đối xử với ông vẫn nói năng nhẹ nhàng, lễ độ trong khuôn phép con nhà gia giáo. Nhưng lẽ sống của bà bây giờ chính là nhà thờ. Sáng đi lễ. Chiều đi lễ. Buổi tối ngồi trong phòng tụng kinh trước ảnh Chúa. Vì vậy ông càng thấy mình bơ vơ lạc lõng và rất cô đơn trong cái tuổi già nơi xứ người nên ông luôn nghĩ tới người yêu thuở đầu đời, không biết giờ này trôi dạt nơi đâu, có còn trên cõi thế? Tuy hơn nửa thế kỷ trôi qua ông vẫn không thể nào quên “nàng” được. Ông tìm đến bạn bè kiếm nguồn an ủi nhưng họ cũng có cuộc sống riêng tư của họ. Chỉ khi nào rảnh rỗi như hôm nay họ mới lái xe cho ông “đi chơi xa”.

Trong khi ông bạn đang chiêm ngưỡng pho tượng Phật bà Quan Âm trước sân chùa, ông Thụy thơ thẩn dạo bước trên con đường đất nhỏ giữa những khóm hoa nhỏ thì thấy một người nhẹ nhàng đi tới. Ông đứng nép vào bên đường nhường bước. Đó là một sư bà. Bỗng ông giật thót mình, lấy tay chùi kính mắt một lần rồi lần nữa, vì mắt ông bỗng hoa lên, mờ đi. Chẳng lẽ thị giác về già đánh lừa ông. Dù mấy chục năm trôi qua không gặp lại, ông vẫn quên làm sao được khuôn mặt, dáng dấp “người ấy”, cho dù thời gian đã làm thay đổi nhiều. Nhưng trực giác của ông...Không kìm lòng được nữa, ông thảng thốt kêu lên:

“Ô, Liên!”.

Bà nghe tiếng kêu cũng giật thót mình ngừng bước, mở lớn đôi mắt nhìn. Từ lâu lắm rồi, nhất là ở nơi chùa chiền hoang vắng này có ai biết tên bà và gọi đúng tên bà thời con gái? Nhưng chỉ mấy phút sau, khi nhận ra tiếng nói (đã ngấm sâu trong tiềm thức bà) và khuôn mặt con người vừa thốt tiếng kêu, bà cũng thảng thốt không kém, với giọng xúc động, hơi run run, tay trái đặt lên ngực:

“Mô Phật! Thì ra là...ông!”

Dứt lời bà quay mặt sang phía khác, có lẽ để tránh cái nhìn của ông.

Ông Thụy nói nhanh như sợ người đối diện bỏ đi:

“Vâng, tôi đây, Thụy đây. Anh đây. Em, em...bà...”

“Mô Phật, xin ông đừng gọi tôi tiếng em nữa”.

“Vâng vâng, bà, bà...”. Ông Thụy ấp úng nghẹn lời không nói thêm được. Ông muốn ôm chầm lấy bà siết chặt trong vòng tay. Mấy chục năm trời nay, ai ngờ Chúa Phật run rủi, ông gặp lại bà mà lại gặp trong cảnh ngộ éo le như thế này. Mắt ông như mờ đi và hình như ông thấy bà cũng cố che dấu hai giọt nước mắt sắp lăn xuống má. Ông biết mấy chục năm qua ông chưa quên được bà và bà cũng vậy. Nhưng sao giờ này sống trên đất Mỹ bà lại đổi đời đi tu. Ông thắc mắc. Nhất định phải có nguyên do. Hai người cứ lúng túng và đứng trơ ra. May có người đi tới. Đó là ông bạn đồng hành lái xe. Ông Thụy vội nói, nhỏ nhưng cũng đủ để bà nghe kịp:

“Tuần tới tôi sẽ lên”.

Ông Thụy không thấy bà gật hay lắc đầu.

Ngồi trên xe và xe phóng đi lâu rồi, mặt ông Thụy vẫn thừ ra đờ đẫn buồn hiu.

“Ông tương tư sư bà đấy à?”. Ông bạn lái xe nói đùa.

Ông Thụy lắc đầu:

“Không phải tương tư mà là gặp lại người xưa và dĩ vãng đang bừng sống lại trong tôi”. Tôi bị “sốc”, “sốc” nặng!

“Thế đúng là Lan và Điệp thời nay rồi. Liệu sư bà có cắt đứt giây chuông?”.

Ông Thụy nói như than:

“Chưa biết được ông ơi, nhưng nhất định đêm nay tôi mất ngủ”.

“Coi chừng cơn tam bành của Hoạn thư ở nhà đấy, ông bạn già!”.

“Bà ấy già rồi còn ghen tuông gì nữa, hơn nữa lại là chuyện ngày xưa”.

Người bạn lái xe cười cười nói:

“Ông lầm rồi. Mấy mụ ấy chỉ khi nào hết thở thì may ra mới hết máu ghen”.

Dứt lời ông đưa tay nhấn nút CD. Một bài hát vang lên. Éo le làm sao trong bài hát lại có câu, cô ca sĩ hát như rên rỉ: “tình ngỡ đã quên đi...nhưng tình bỗng lại về...”.

Chiều Chủ nhật tuần sau, ông Thụy bắt người con trai lớn lái xe đưa lên chùa. Trong lúc đi đường ông kể hết chuyện tình của mình với bà sư thuở thiếu thời. Người con trai đã ngoài 50 tuổi, có học, trước là sĩ quan cấp tá và là người hiểu biết việc đời và rất cảm thông trường hợp của ông bố. Khi xe ngừng ở lối vào chùa, ông Thụy thoáng nhìn thấy bà đứng bên vệ đường sau hàng cây nhìn về phía ông như có ý trông chờ. Ông quay lại dặn con giờ giấc tới đón. Khi quay lại không thấy bóng bà đâu nữa. Ông bước vào chùa. Sư bà trụ trì trên điện Phật bước ra niềm nở chào đón khách. Ông Thụy còn lòng dạ nào chuyện trò xã giao. Ông đi thẳng ngay vào “vấn đề”:

“Thưa, xin lỗi sư bà, tôi muốn gặp bà Liên”. Vì ông không biết pháp danh của bà nên cứ gọi theo tên ngoài đời.

Sư bà không hề hỏi lý do, gọi ngay sư cô đi tìm “bà Liên”. Ông Thụy được dẫn vào phòng khách gặp bà. Bà cúi đầu không nhìn ông khi ông bước vào. Hai người ngập ngừng đến mấy phút, ông Thụy mới lên tiếng:

“Bà vẫn khỏe? Tôi thật không hiểu...”. Câu nói ngừng lại ở đây.

Bà nói, dọng nhẹ nhàng:

“Tôi ở chùa này đã bốn năm rồi nhưng chỉ mới quy y chứ chưa xuống tóc”.

“À ra vậy! Thế có nghĩa là...bà vẫn chưa muốn dứt nợ trần?”. Ông Thụy hấp tấp hỏi.

Bà thở dài:

“Cũng vì chút lòng trần chưa dứt nên chưa thể xuống tóc”.

“Có phải tại...”. Ông Thụy muốn nói có phải tại chồng con. Nhưng ông kịp thời ngưng.

Bà nói liền một hơi, dọng nghe có vẻ trách móc:

“Tại ông...ông hiểu không? Tôi chưa xuống tóc là muốn gặp lại ông một lần chót trong đời. Mấy chục năm rồi tin ông biền biệt. Nhưng tôi vẫn tin là sẽ có ngày gặp lại ông trước khi về cõi khác. Tôi đã nguyện trước đức Phật, nếu trong 5 năm không gặp lại ông tôi sẽ xuống tóc. Xuống tóc đúng vào cái ngày ông...hôn tôi lần đầu. Hơn 4 năm đã trôi qua nhưng linh tính báo cho biết tôi sẽ gặp lại ông. Tạ ơn đức Phật từ bi run rủi, hôm nay...”.

Ông Thụy muốn chồm lên ôm bà vào lòng nói lời an ủi cũng như âu yếm. Nhưng nhìn nét mặt bà với chiếc khăn mầu xám nhạt chùm trên đầu, ông bỗng khựng lại. Có một cái gì vô hình đã ngăn cản ý định của ông. Ông thở dài đăm đăm nhìn hai bàn tay mình xoa xoa trên mặt bàn gỗ mầu nâu đen. Bà biết ý định của ông nhưng vờ như không biết. Bà nói, dọng vẫn nhỏ nhẹ trong trẻo ngọt ngào ấm áp - khi xưa ông mê mẩn vì dọng nói này:

“Ông nên nhớ đây là chốn thiền môn và tôi là con cái của Phật. Ông là người ngoài đạo nên tôi tin đức Phật tha thứ cho ông”.

Có tiếng gõ nhẹ vào cửa phòng. Người con trai ông Thụy bước vào cúi đàu chào bà rồi nói với bố:

“Thưa ba, trời sắp tối và sương mù đang buông xuống”.

Ông Thụy đứng lên định cầm tay bà nhưng lại ngưng. Sau một tiếng thở dài, ông nói khẽ:

“Thôi tôi về Liên nhé, hẹn gặp”.

Bà không nói gì lặng lẽ tiễn ông ra ngoài đường, chỗ xe hơi đậu.

Thế là từ đó chiều Chủ nhật nào ông Thụy cũng bắt người con trai trưởng đưa ông lên chùa. Ông không muốn nhờ người khác vì e ngại chuyện lộ ra ngoài. Ông nói với bà vợ là tới nhà người bạn xoa mà chược. Bà yên tâm vì có người con trai lớn đi kèm.

Chiều Chủ nhật nào cũng vậy, cứ tới khoảng 4, 5 giờ chiều là bà lắng tai nghe ngóng tiếng động cơ xe hơi vọng tới. Rồi hai ông bà già sóng bước bên nhau đi trên con đuờng đất nhỏ quanh khuôn viên chùa. Họ chuyện trò. Họ tâm sự chuyện ngày xưa và chuyện ngày nay. Ông kể cho bà nghe gia cảnh của mình. Bà cũng vậy. Họ mải mê nói quên cả thời gian trôi và đã cuốc bộ biết bao cây số không thấy mệt mỏi, nhất là với đôi chân già yếu. Ông cho biết sau khi lập gia đình có bốn người con: hai trai hai gái. Hai trai sống với vợ con trên đất Mỹ. Còn hai gái sống tại Saigon. Ông có đến 7, 8 đứa cháu nội ngoại. Vợ chồng ông hiện sống trong nhà người con trai lớn. Còn bà thì kể sau hơn hai mươi năm lập gia đình chỉ có hai người con: một trai một gái đều sống trên đất Mỹ với bầy con. Chồng bà mất trước năm 1975 trong trận đánh Hạ Lào. Sang Mỹ sống vài năm, bà quyết định đi tu, mặc cho con cái ngăn cản. Bà chưa chịu “xuống tóc” ngay vì còn “một chút vướng víu”. Chút “vướng víu” đó là ông. Ông nghe bà nói thế, nhìn quanh thấy vắng bóng người, ông cầm tay bà siết chặt đến nỗi bà phải kêu lên.

Câu chuyện riêng tư của đôi bạn già không thoát khỏi cặp mắt của sư bà. Mỗi lần sư bà thấy hai người đi bên nhau mải mê chuyện trò lại lẩm bẩm: “Thiện tai! Thiện tai!”.

Bây giờ đúng là họ quên tuổi già để sống lại tuổi đôi mươi. Bao nhiêu kỷ niệm xưa cũ thời trai trẻ lãng mạn, họ nói ra cho nhau nghe hết. Dù là những kỷ niệm nhỏ nhặt trong đời sống học trò.

Vào khoảng năm 1919, 1920 của thế kỷ trước, hai gia đình ở cùng một khu phố giữa thủ đô Hà nội. Nhà ông đầu phố, nhà bà cuối phố. Phố Hà Nội thường nhỏ, ngắn. Lúc ấy họ chẳng thèm để ý gì đến nhau vì họ còn quá nhỏ. Nhà bà theo đạo Phật, làm nghề buôn bán, nổi tiếng giầu có. Nhà ông, theo đạo Công giáo, bố ông làm công chức cao cấp, gia đình có một đời sống khá giả. Khi ông lên trung học mới để ý tới “con bé cuối phố” xinh đẹp ngoan ngoãn. Họ yêu nhau tha thiết lúc nào không biết. Khi ông lấy xong bằng Thành Chung, bà mẹ ông ngỏ ý muốn ông lấy vợ “để sớm có cháu nội nối dõi tông đường”. Thế là ông đưa “thỉnh nguyện” ngay, đó là cô gái cuối phố. Ông không ngờ gặp phản ứng liền của cả cha lẫn mẹ. Họ bác bỏ một cách thẳng thừng và hơi tàn nhẫn: “Ồ, không được. Gia đình nó ngoại đạo!”. Nhất định là không được, mặc cho ông hết lời năn nỉ và ca ngợi những đức tính quý báu của cô nàng. Bà mẹ ông có vẻ thông cảm với cậu con trai nên ra điều kiện: “Nếu nó chịu rửa tội theo đạo thì mẹ bằng lòng”. Đêm đó ông chưa bao giờ tỏ ra bất lực, chán đời, chán cả sự học hành và đau khổ tận cùng. Còn về phía bà. Khi hay tin con gái có “bạn trai” là ông, bà mẹ gọi cô con gái vào phòng riêng và nghiêm mặt nói: “Từ nay tôi cấm cô không được giao thiệp thân mật với “thằng ấy”. Bà cãi: “Anh ấy đàng hoàng đứng đắn, con nhà tử tế”. Bà mẹ dằn dọng: “Tôi đã bảo cấm là cấm, cô hiểu chưa? Bố cô mà biết chuyện này cứ gọi là cô nhừ đòn”. Bà vẫn không chịu thua: “Nhưng anh ấy có làm gì nên tội đâu mà bố mẹ ghét thế?”. Bà mẹ nói như rít: “Tội gì à? Nhà nó theo đạo Công giáo, còn nhà mình theo đạo Phật. Nếu nó bằng lòng bỏ đạo nó theo đạo mình thì tôi cho cô cậu lấy nhau”. Bà cũng thức trắng đêm đó như ông và khóc hết nước mắt. Bà đau khổ đến muốn tự tử.

Hai, ba năm sau bà lấy chồng, ông lấy vợ theo sự lựa chọn, quyết định của cha mẹ. Họ xa nhau từ đấy mặc dù trong lòng tình yêu, nhất là tình yêu thuở ban đầu vẫn nở rộ, vẫn tha thiết. Một khi tình yêu càng bị ngăn cản, càng bị cấm triệt thì càng âm ỉ phát triển mạnh. Nhưng vào thời đó, vì lễ giáo, vì gia phong, vì giòng họ, vì xã hội, vì dư luận đôi bạn trẻ đành bất lực, chấp nhận hy sinh chia tay bởi sự kỳ thị vô lý!

Mỗi lần ông đi thăm bà về, bà đều gói một bọc lớn đủ thứ trái cây để ông đem về cho “chị nhà” và các cháu. Bà bảo: “Đây là lộc Phật”. Ông đem về nhà nói dối vợ là vợ bạn cho “cây nhà lá vườn”. Nhưng sau đó bà vợ cũng biết và ra lệnh cấm con cháu không được ăn. Ông không biết giải quyết sao đành nhờ người con trai “cố vấn”. Và cả hai đồng ý đem những trái cây này đến cho đám con của người con trai thứ hai “hưởng lộc” dùm. Còn ông, mỗi lần lên thăm bà, ông bắt con trai lái xe tới tiệm bán hoa mua tặng bà một chậu lan. Từ trẻ bà vốn thích loại hoa trưởng giả quý phái này.

Thời gian cứ lặng lẽ trôi, hết mùa đông lại tới mùa xuân, không chủ nhật nào ông không đi thăm bà và hai người tiếp tục sóng đôi cất bước chuyện trò tâm sự tới khi măt trời khuất sau rặng núi. Bà vợ ông, sau những tháng ngày ngấm ngầm chịu đựng hết nổi, bà làm dữ. Bà cấm người con trưởng chở ông già đi thăm “con mụ dở hơi”. Thế là ông phải nhờ cậy vào người con trai thứ nhưng là “đánh du kích”, chứ không đều đặn đúng hạn kỳ như trước nữa. Có khi cả tháng ông mới đi thăm bà được một lần. Ông không nói nhưng bà hiểu. Bà thông cảm hoàn cảnh ông. Nhưng bà cũng không muốn “cắt đứt giây chuông”.

Thế rồi ông bị đưa vào bệnh viện ghép động mạch vành tim bị tắc nghẽn, vì tuổi già sức yếu nên mất cả mấy tháng trời mới lại sức. Khỏe một chút, ông kiếm cách đi thăm bà ngay. Nhưng lần này...Người đón ông không phải là bà mà là sư cô. Sư cô nét mặt hơi buồn báo ông biết: bà nhập bệnh viện cả tháng rồi vì chứng sưng màng não và phổi có nước. Ông nghe choáng váng sây sẩm mặt mày muốn ngã qụy. Còn sư cô quầy quả bước vào trong Chùa và miệng luôn lẩm bẩm: “Thiện tai! Thiện tai!”

Khi ông tới bệnh viện thì bà đã trong tình trạng hôn mê. Cạnh bà có vợ chồng người con trai của bà. Hình như trong khi nằm bệnh, lúc tỉnh táo, bà đã nói cho con bà biết chuyện của hai người và bà ước muốn được nhìn thấy ông trong giây phút chót, vì vậy khi thấy ông đến, họ nhìn ông với cái nhìn trìu mến đầy thông cảm. Có một lúc bà tỉnh lại mở mắt nhìn. Thấy ông mắt bà như sáng hẳn lên. Ông đua tay tìm tay bà. Bà đưa tay tìm tay ông và nắm chặt bàn tay ông như không muốn rời. Rồi miệng bà mấp máy. Ông ghé sát tai nghe. Bà chỉ thều thào được tiếng “anh” rồi bàn tay bà từ từ buông bàn tay ông ra. Bà đã nhẹ nhàng về bên kia thế giới, mà ông nghĩ có lẽ là cõi niết bàn.

Sau khi bà mất, ông vẫn tiếp tục lên chùa. Mỗi lần lên ông mang theo một chậu lan nhỏ. Lâu dần nhiều hoa quá, sư bà bảo sư cô làm một dàn gỗ để treo những chậu lan trước phòng của bà tín nữ Diệu Liên (pháp danh của bà). Ông cứ việc móc chậu lan lên dàn, có đến mấy chục chậu. Khi lên tới chùa, việc trước tiên ông làm là đến trước cửa phòng (cũ) của bà lầm bầm như nói điều gì với bà, xong, ông mới làm công việc tưới những chậu lan. Rồi sau đó, ông (rủ bà) đi dạo con đường đất quanh khuôn viên chùa và chuyện trò với nhau y như khi bà còn sống. Duy có điều bây giờ chỉ có mình ông nói. Cũng từ ngày bà mất, ông không cạo râu cắt tóc nữa, lâu ngày tóc phủ xuống cả cổ và râu dài tới ngực. Tất cả đều bạc phơ.

“Ồ, tôi nghĩ bà cũng như tôi thôi, làm sao quên cái ngày ấy được. Lúc tôi đón bà ở cổng trường ấy mà, đưa bà về gần tới nhà, tôi đã thu hết can đảm cầm lấy bàn tay phải bà.Tôi còn nhớ rõ là bàn tay phải bà, đúng không? Mất bao ngày đêm đắn đo suy nghĩ mãi tôi mới dám liều đấy. Tôi nhớ ngón tay trỏ của bà còn dính chút mực tím. Tôi thấy bàn tay bà run rẩy rút vội ra và nhìn trước sau sợ có người trông thấy. Rồi bà bước mau như muốn chạy trốn. Tôi cứ đứng ngây người nhìn theo bà và sợ bà giận. Đêm đó tôi thao thức mãi, vừa lo âu vừa sung sướng. Bàn tay bà mềm mại thơm tho quá. Hôm sau tôi đến cổng trường bà sớm hơn mọi ngày và hồi hộp chờ đợi. Sao mà lúc đó thời giờ trôi chậm thế. Khi bà cắp cặp đi ra. Nhìn thấy tôi bà làm bộ như không thấy. Tôi tưởng bà giận thật, lẽo đẽo theo sau năn nỉ và cả xin lỗi nữa. Bà nói khẽ, mắt vẫn nhìn thẳng: “Cấm không được làm như hôm qua nữa đấy! Coi chừng bọn bạn. Hình như chúng nó đã sinh nghi, theo dõi”. Thì ra bà không giận tôi, vì tôi ngu đần nên tưởng thế. Sau này bà mới thổ lộ là cũng rất hồi hộp xúc động khi bàn tay tôi nắm bàn tay bà. Chao ôi, lần đầu tiên trong đời cầm tay người con gái, tâm hồn tôi bay bổng trên trời xanh, cảm tưởng mình là kẻ sung sướng nhất trần gian. Chắc bà khi đó cũng có cùng ý nghĩ như tôi, có phải vậy không? Tôi đoán đúng mà. Hà hà...À, mà sau đó, hình như đến mấy tháng thì phải, không chịu nổi nữa tôi đánh bài liều. Đi đến nơi góc phố, nhìn quanh không thấy bóng người, tôi ôm vội lấy bà và hôn nhẹ lên má bà một cái. Trời ơi, thiên đường niết bàn là đây chứ còn phải tìm ở đâu nữa! Tôi không hiểu sao lúc đó bà lại đứng im cho tôi làm cái việc đó. Kìa, bà nói đi. Cái má bà trắng hồng và...thơm thơm quá chừng! Sao, khi đó bà ngượng cứng người à?”. Ông Thụy nói một hồi dài có vẻ mệt và mắt vẫn nhìn sang bên, hệt như ngày bà còn sống đang cất bước bên ông. Rồi ông ngồi bệt xuống bên vệ đường và...thở. Lát sau, chừng như đỡ mệt ông đứng lên nói: “Ta đi tiếp chứ, bà. Mặt trời còn cao mà!”. Và ông lại tiếp tục nói tới những kỷ niệm xa xưa. Thỉnh thoảng ông quay sang trái hay sang phải, có khi ngừng bước như chờ bà, hỏi: “Có phải thế không bà? Bây giờ tôi vẫn nhớ như in, như mới xẩy ra ngày hôm qua...”. Ngưng chút ông nói tiếp: “Thế rồi bà biết không? Hôm người ta tới nhà bà rước dâu ấy mà, tôi đứng mãi tận đằng xa nhìn. Bà mặc cái áo gấm dài mầu đỏ, khăn đỏ đội trên đầu...Tim tôi muốn vỡ ra từng mảnh. Sau này nghe người ta kể lại khi bước lên xe hoa bà đã khóc. Tôi không hiểu ý nghĩa những giọt nước mắt này, vì các cụ ta thường nói “khốc như thiếu nữ vu quy”. Vậy đó là những giọt nước mắt sung sướng hay đau khổ?”. Ông lại ngừng nói và vô tình ngước nhìn lên bầu trời mùa đông về chiều và như trực nhớ ra không có bà ở bên liền kêu lên thảng thốt: “Ô, bây giờ bà đang ở đâu? Có phải bà đang ngự trên chín tầng thức mây thăm thẳm kia và ngó xuống nhìn tôi tủm tỉm cười? Bà dứt hết nợ trần thật rồi sao? Bà để lại tôi một mình cất bước trên con đường này sao? Bà Liên! Bà Liên!”. Ông nói to như hét. Con trai ông hoảng hốt chạy tới dìu ông ra xe.

Cứ cách vài tuần lễ, vào chiều ngày Chủ nhật, khi mặt trời ngả về phương Tây, người ta lại thấy một ông già tóc bạc phơ phủ dài dưới gáy và chòm râu trắng như cước chẩy xuống tận ngực, tay chống gậy, chậm rãi cất bước trên con đường đất nhỏ quanh khuôn viên ngôi chùa nhỏ nơi rừng sâu. Ông vừa đi vừa nói chuyện với một cái bóng vô hình...

Thanh Thương Hoàng
- - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - -

Trang: 152

KHÓC MẸ

Năm xưa con khóc mất cha
Năm nay khóc mẹ lệ pha máu hồng
Cảnh biệt ly đau lòng xiết kể
Bao đoạn trường biết ngỏ cùng ai?
Nhớ thương cha mẹ sầu tuôn
Nước non mất hết, mất luôn mẹ hiền
Cha đi trước, mẹ phiền bệnh hoạn
Các con yêu, mỗi đứa mỗi nơi
Đứa đi “kinh tế” ngàn khơi
Đứa thì tử trận, đứa nơi lao tù
Nghe mẹ mất, tay chân ủ rũ
Nhìn về quê mây phủ màu tang
Mẹ ơi! thương xót vô vàn
Chân còn xiềng xích, cơ hàn biết bao!
Cầu Thượng đế, ban hồng ân xuống
Tiếp sức con toại nguyện một lời
Ra đi làm lại cuộc đời
Giang sơn một gánh, một trời song thân.
Trong tù vắng nguyện cầu lẩm nhẫm
Nỗi u hoài hòa lẫn niềm đau
Gian truân con đã bạc đầu
Tình thâm mẫu tử ai sầu vì ai?
Từ xa mẹ con thường mơ tưởng
Con luôn luôn phụng dưỡng đáp đền.
Sớm hôm gần gũi mẹ yêu
Ốm đau, cơm thuốc, trăm điều con lo.
Con mong ước quay quần bên mẹ
Để mẹ vui tuổi đã về chiều
Đắp bù năm tháng cô liêu
Thân gầy vò võ, chịu nhìều đắng cay.
Mẹ đã biết vì đâu xa cách!
Vạc kêu sương, cũng bởi phân ly
Buồn phiền mẹ đã ra đi
Không gian u ám, sầu bi một trời!
Nhớ những lúc con đau mẹ khóc
Giờ mẹ đi, ai khóc mẹ đây?
Làm sao thấy mặt mẹ ơi!
Làm sao tiễn mẹ đến nơi mộ phần!
Xót xa mãi lệ trào lai láng
Nhìn tương lai mờ mịt vô biên
Mẹ là suối nước triền miên
Muôn vàng tạc dạ, một miền trời xa.

Vũ Đình Tân
- - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - -

Trang: 154

ĐÔI GIÒNG TÂM SỰ
Đặng A

Kính chào Qúy vị Quan khách, kính chào Qúy vị đồng hương
Thân mến chào Các bạn trẻ Thanh Thiếu Nhi, mầm non của đất nước Việt Nam, mầm non của mảnh đất Núi Ấn Sông Trà.

Tôi từng là Hội viên. Một Hội viên âm thầm. Tôi xin tự nhận cái tên như vậy là vì 12 năm qua tôi chỉ đến tham dự những ngày vui của Hội rồi lặng lẽ ra về. Nhưng thật tâm, lòng Tôi ngập đầy vui sướng khi biết rằng con cháu, con dân Quảng Ngãi nơi xứ người đã tụ họp lại dù chỉ lưa thưa vài ba chục người với những bữa ăn mừng vui đạm bạc nhưng nặng tình quê huơng. Đó là tình thương của một Hội được gói ghém trong mấy chữ khiêm tốn “Hội Ái Hữu Đồng Hương Quảng Ngãi Miền Bắc California”.

Thưa Qúy vị,

Chúng Ta là những người đã từng hy sinh cho quê hương đất nước qua nhiều phương diện. Giờ đây, nơi nầy, chúng ta chỉ còn lại một chút tình thương và tìm đến với nhau trong tình thương để cùng mỉm cười với hiện tại. Nhưng thưa Qúy vị chúng ta cũng đã tạo dựng đuợc, đã un đúc được, đã bồi đắp cho thế hệ con cái chúng ta, một thế hệ mới cho đất nước chúng ta sẽ cần đến mai sau, một thế hệ đầy tương lai sáng sủa, một thế hệ đầy triển vọng, một tài lực chưa từng có, vô giá không dễ gì có được. Quả thật. Nếu đánh đổi những sự mất mát qúa đau lòng, những sự hy sinh không ngại ngùng vô bờ bến mà chúng ta đã làm, những nhục hình mà chúng ta đã can tâm gánh chịu để đổi lấy một thế hệ trẻ của chúng ta đang có và sẽ lớn mạnh mai sau, chúng ta chẳng một chút gì ân hận. Thưa qúy vị thật vậy, chúng ta chẳng một chút ân hận. Rất xứng đáng và cao qúy biết bao. Hôm nay ngồi tại đây chúng ta có quyền tự hào. Chúng ta rất hãnh diện. Chúng ta có quyền ngẩng cao đầu nhìn về quê hương của chúng ta, nói với tổ tiên của chúng ta là, chúng ta đã dấn thân qua một thế hệ, chúng ta đã hoàn thành trách nhiệm không hổ thẹn là con dân nước Việt, không hổ thẹn là con dân cuả Núi Ấn Sông Trà.

Kinh thưa Qúy vị. Nhân dịp năm mới năm 2009, năm Kỷ Sửu Năm Con trâu là biểu tượng. Có thể là con trâu ní, có cổ to, bướu bự, vai rộng, chân khỏe như trụ đồng, có sừng vững chắc oai hùng, uy nghi sẵn sàng đoạt lấy tất thắng. Nhưng nó cũng có thể là là con trâu có thể lực khoẻ mạnh vô song bất chấp nắng mưa, lao khổ, không nao núng ra sức gánh vác công việc mà nó sẻ đảm đương dù là nơi nào trên quê hương hay nơi xứ lạ quê người.

Thưa qúy vị đồng hương, tôi muốn nói đến năm mới, một năm đang mở rộng cửa cho tương lai, chỉ vì năm cũ một năm mà Hội Ái Hữu Quảng Ngãi của chúng ta, một hội lấy tên là Ái Hửu mà đã xảy ra một chuyện chẳng mấy tốt đẹp. Tôi không muốn nhắc lại những gì thuộc về dĩ vãng nhưng tôi nghỉ có thể trong qúy vị quan khách, qúy vị đồng hương và nhất là các bạn trẻ còn lưu lại một dấu hỏi đậm nét: “Tại sao lại có sự vệc đó xảy ra? Tại sao bầu cử lại có việc phải lên tay xuống ngón? Phải đưa ra toà án? và rồi hai hội Quảng Ngãi ra đời trên miền bắc California trong lúc cái vòng hào quang lại là một Hội có thực lực, đầy tự hào và với một số Hội viên lại thật khiêm nhường.

Việc bầu cử đã phải dùng đến gần như bạo lực và phải dùng đến những lời nói thóa mạ với nhau mà trước kia đã từng tay bắt mặt mừng, đã từng gọi nhau là ANH EM. Một việc đáng nói hơn dù là một Ban chấp hành của một Hội nào khác trong Cộng đồng, xin lỗi như qúy vị đang cùng chúng tôi hiện diện hôm nay, từ Hội trưởng cho đến Ban chấp hành đều là những ngưòi tự nguyện đứng ra đảm trách một công việc chung cho mọi người, cho tập thể, bỏ công việc nhà, lãng quên cả đến những công việc nhỏ nhen nhất trong gia đình để đi làm công việc cho Hội đã có người ví là “Ăn cơm nhà vác ngà voi”.

Còn nữa, không phải chỉ chính cá nhân họ mà còn có cả vợ hay cả gia đình họ đều đứng sau lưng phụ giúp cho họ hoàn thành nhiệm vụ, một nhiệm vụ chung của tập thể. Công lao của họ và gia đình của họ tại sao chúng ta lại không nghĩ đến? Luận tội hay tuyên dương đều phải được thông qua cho toàn thể hội viên, không thể do một nhóm người làcó thể quyết định. Chưa nói việc phải lượng định cái tội có xứng đáng để xóa bỏ được cho cái công không hay ngược lại. Việc lưu nhiệm hay không lưu nhiệm đều phải trải qua cuộc bầu cử công minh. Đã đặt ra “Ban bầu cử” tức phải tuân theo Ban bầu cử. Nếu không đồng ý, không chấp nhận ban bầu cử thì xin đề cử Ban cầu cử khác. Lá phiếu quyết định là lá phiếu của toàn thể hội viên không phải là tổng số phiếu của Ban Chấp hành, cũng không phải là tổng số phiếu của Ban bầu cử, thế thì làm sao kết tội làthông đồng. Vì bất đồng chính kiến hay là không phục nhau về tài lãnh đạo khi chúng ta đã tự đặt mình là hội viên có cái tên là Hội Ái Hữu. Tại sao không quyết định với nhau bằng lá phiếu của đồng hương? Ngoài luật bầu cử chúng ta còn một chút tình, tình thân thiện, hoà nhã của một đồng hương cần phải có. Một người, một nhóm người có thể cho là sai lạc, chịu ảnh hưởng, buông xuôi, mù quáng nhưng đây là một Hội cóhằng trăm hội viên. Chúng ta tự nhận là chúng ta “đúng” còn phân nửa người khác là “sai”, thế thì làm sao gọi là “công bình”?

Tại sao lại phải đưa nhau ra tòa? Ra tòa án để bắt đối phương vào tù chăng? như một số người đã bạo miệng, muốn chứng tỏ lời nói của mình nặng ký. Toà án của đất nước Hoa Kỳ, một đất nước lấy pháp luật làm căn bản để tồn tại không có chuyện muốn đưa ai vào tù là dễ dàng. Thật ra việc phải đưa nhau ra tòa chỉ vì qua bao lần Ban Chấp Hành cũ thương thuyết, dàn xếp để đi đến một cuộc bầu cử thống nhất vì không thể có hai hội cùng một tên là Hội Ái Hữu Quảng Ngãi tại miền bắc California trong khi cuộc bầu cử ngày 3 tháng 2 năm 2008 đã được Ban bầu cử tuyên bố là bất hợp lệ.

Tất cả mọi phương pháp hoà giải không được sự hợp tác chỉ vì: ai cũng tự cho mình là đúng, đối phương là sai. Không chịu ngồi lại phân giải với nhau về tình cảm về danh dự nên phải nhờ vào công lý, và đó là điều bắt buộc để bảo vệ mấy chữ “Hội Ái Hữu Quảng Ngãi Miền bắc California”. Thật vàng sợ gì lửa? Tại sao chúng ta không thử là vàng hay là thau, hay là chì? Kính thưa qúy vị, đây là những lời phân giải tận tình của tôi, một hội viên, không thiên vị. Hôm nay nếu qúy vị có sớm chợt thấy một chút ánh sáng ở cuối đường mà Hội Ái Hữu Quảng Ngãi đã trải qua hay một lúc rảnh rỗi nào đó nhìn khói thuốc đang quyện dần vào không gian xin gẩm lại về một sự đổ vỡ, một sự đổ vỡ không đáng để cho con cháu, lớp đàn em, đàn con cháu chúng ta noi theo.

Kính thưa Qúy vị

Cái búa bằng gỗ, chỉ là vật thể làm bằng gỗ nhưng nó là cái búa công lý đã gõ lên bục toà án. Tiếng vang của nó không lớn nhưng nó không những đã vang vọng một sự thực phải được tôn trọng nghiêm minh, công chính mà còn làm tổn thương, đau nhói đến tận con tim của một con người.

Kính thưa tất cả qúy vị, hôm nay chúng ta ngồi đây, qúy vị ngồi đây, các anh em bạn trẻ ngồi đây để dự buổi tiệc TÂN NIÊN năm 2009 là ngồi chung vui bởi tình đồng hương của một Hội, một Hội đã được công lý xác nhận giữ nguyên, có quyền mang tên là “HỘi ÁI HỬU ĐỒNG HƯƠNG QUẢNG NGÃI MIỀN BẮC CALIFORNIA”. Mặc dù nó không còn đủ lông cánh mượt mà như ngày nào nhưng chắc chắn rằng các lớp lông tơ, lông ống của nó sẽ sẳn sàng vươn ra để tô thêm màu sắc đẹp đẽ cho Hội như một thời đã qua. Miền Băc California hôm nay đã có hai Hội cùng tên có một địa danh là Quảng Ngãi chỉ khác nhau những chữ: Ái Hữu và Hải Ngoại. Tôi không biết là vong linh của các bậc tiền bối có công làm nên danh vọng cho mảnh đất mà tất cả con người xứ Quảng thường mỉm cười khích lệ nhau với cái tên thật là dể thương “Xứ ngọt mía thơm đường” có buồn lòng không? Tổ tiên của quê hương của chúng ta có buồn không? Có đau lòng không khi nhìn thấy một Hội vừa mới đuơc khoác lên mình một chiếc áo có hào quang, có thực lực. Một Hội chưa trọn được niềm vui tự hào đã phải chịu phân làm đôi chính ngay trong ngày vui mừng Tân niên. Riêng tôi, đã lỡ rồi, mọi việc đã lỡ rồi. Biết đâu, đây là ý của Trời, ý của các bậc tiền bối muốn trên mảnh đất nhỏ bé thân yêu nầy có hai Hội để thi nhau làm rạng rở cho nước non, làm rạng rỡ cho cái danh xưng “NÚI ÂN SÔNG TRÀ”. Nếu phải đúng như vậy, tôi chỉ xin cầu mong được như vậy.

Xin kính chào tất cả quý vị và xin chúc qúy vi một năm mới an khang và thịnh vượng.
Đặng A
 

Bạn là một phần của thế giới.

- Nếu trong tủ lạnh nhà bạn có thức ăn, bạn được ăn mặc tử tế, bạn có một mái nhà và giường cái giường êm ấm, bạn giàu có hơn 75% nhân loại.
- Nếu bạn có tài khoản trong ngân hàng, tiền trong ví và một ít xu lẻ trong túi quần, bạn đã thuộc 8% no đủ của toàn Thế giới.
- Nếu sáng nay bạn thức dậy khoẻ mạnh, nghĩa là bạn hạnh phúc hơn 1 triệu người rồi đấy, những người không sống được đến tuần sau.
- Nếu bạn chưa bao giờ trải qua chiến tranh hay sự cô độc trong những phòng giam của nhà tù, nếu bạn chưa phải hấp hối vì đói và khát, bạn hạnh phúc hơn, may mắn hơn 500 triệu người trên Thế giới này.
Nếu bạn đọc những dòng chữ này, bạn sẽ hạnh phúc gấp 2 lần vì:
- Có ai đó nghĩ đến bạn
- Bạn không nằm trong số 3,8 tỷ người mù chữ trên thế giới.
Hãy nhớ rằng, bạn là một phần của Thế giới
- - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - -

Trang: 158

XA XỨ QUẢNG

Ngày xa núi Ấn với dòng sông,
Bến nước chia tay rũ cõi lòng.
Em lại ruộng đồng, đời chiếc bóng;
Anh vào quân ngũ, nghiệp cha ông.
Mây mù Thiên Bút mờ đôi ngã,
Mùa cạn sông Trà xót phận rong.
Khói lửa tương tàn mòn mõi mẹ,
Bao mùa mưa trĩu ngọn sầu đông.

Vũ Hoài Hương

ĐUỐC QUÁ VIỆT-NAM

Trốn tránh luồn chui đuốc tả tơi,
Lửa thiêng Thế Vận tắt nơi nơi.
Bạo quyền rước đuốc phô thanh thế,
Dân chủ dương danh chống bức người.
Tây Tạng vạch trần mưu diệt chủng,
Việt Nam bưng bít phận làm tôi,
Hại người chống đuốc, bài xâm lươc;
Bắc thuộc tay sai phản giống nòi.

Vũ Hoài Hương

Đọc sách giúp bạn:

Phát biểu liên quan đến cuộc chiến Quốc, Cộng:

Phóng viên William Tuohy, người đã nhiều năm phúc trình về cuộc chiến Việt Nam cho tờ báo Washington Post đã viết:
-”Một chuyện không tin được và không tha thứ được là một đại cường quốc đã bỏ rơi đồng minh yếu kém vào tay bọn Bắc Cộng. Nhưng chúng ta đã làm như vậy”.
- - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - -

Trang: 159

CON TRÂU PHẢN ĐỘNG
Nguyên Bá

Lời giới thiệu:

Ngoài cán bộ Cộng sản ra, chính quyền Cộng sản chia nhân dân thôn quê Việt Nam ra làm 4 hạng, từ nghèo đến giàu: bần cố nông, trung nông, phú nông và địa chủ. Chính sách mang tên “Cải cách ruộng đất” mà Hà Nội bắt chước theo Tàu chỉ là chính sách “ăn cướp” tài sản người dân, để giết người giàu (phú nông, địa chủ) hầu cướp tài sản họ bằng hình thức đấu tố qua các “tòa án nhân dân”, được họ thực hiện khắp nơi.

Bài viết dưới đây là điển hình một cuộc “đấu tố” rồi giết người bằng hình thức man rợ nhất mà cán bộ CS thi hành chính sách. Ban Báo Chí.


Thật là oan uổng cho vợ chồng ông Cư bị ghép vào tội “địa chủ”. Nếu xét về tiêu chuẩn ruộng đất thì ông Cư chỉ thuộc hạng “trung nông” như cuộc bình nghị của Ủy ban Nông hội Xã. Vợ chồng ông ở làng Gòi, một làng nghèo nhất xã, chỉ có hai “phú nông” bị đôn lên thành địa chủ. Ủy ban Đấu tố đã được học tập là giai cấp bần-cố-nông phải liên kết với trung nông, bao vây phú nông và đánh đổ địa chủ. Nhưng Đảng lại ra tiêu chuẩn mỗi làng phải xử tử ít nhất ba tên có nhiều ruộng vườn nhất.

Vì cái tiêu chuẩn giết người nầy mà gia đình ông Cư bị đưa lên hàng địa chủ cho đủ số ba! Và kẻ đề nghị đưa ông bà ra tòa án nhân dân là thằng Nhớn, là đứa gần chết đói năm Ất Dậu mà ông đã cứu nó, lúc đó nó mới 13 tuổi.

Vợ chồng ông Cư tuổi tác rất chênh lệch. Bà kém ông hai giáp và chỉ hơn thằng Nhớn 9 tuổi. Năm 20 tuổi, thằng Nhớn là một thanh niên cường tráng, có cử chỉ dâm hỗn với bà Cư. Bà ta mách chồng, thế là ông Cư chửi mắng nó và đuổi nó ra khỏi nhà. Nó đi biệt tích cho đến sau hiệp định chia đôi đất nước mới trở về. Thằng Nhớn được ca tụng là anh hùng và rất có thớ ở trong xã, nhưng đã không giúp ân nhân của nó thì chớ, lại còn đề nghị mang ông bà Cư ra đấu tố, mặc dù không thuộc thành phần địa chủ. Đảng dạy nó lòng căm thù mà không lý đến đạo nghĩa. Đảng nhồi vào óc nó tính dã man chứ không dạy nó tình thương yêu. Nó trở thành một tín đồ chỉ biết trung thành với Đảng, còn đạo lý dân tộc và xã hội bị coi là lạc hậu.

Tòa án nhân dân xử ông bà Cư vào buổi chiều, khi gà đã vào chuồng, với lời giải thích vì nông dân còn phải tăng gia sản xuất ban ngày, để đến chiều vừa mát vừa rảnh rỗi. Nhưng theo người hiểu chuyện thì sở dĩ đội đấu tố làm như vậy vì tuy là vô sản duy vật mà vẫn duy tâm, sợ giết người lúc còn mặt trời sẽ bị báo oán!

Như hàng vạn cuộc đấu tố khác, cũng có tòa án nhân dân, cũng có đội đấu tố len lỏi hô hào mọi người đả đảo địa chủ, cũng có một số người ra tố khổ ông bà Cư, những người nầy đều ở các làng khác, thậm chí có người ông Cư chưa từng gặp. Họ nêu những tôi vu vơ, nói như trẻ con đọc bài, thỉnh thoảng bị vấp, quay lại nhìn cán bộ đấu tố. Chỉ có thằng Nhớn là người cùng làng lên tố ông bà Cư hăng say nhất. Nó xỉa xói vào mặt ông:

-”Thằng địa chủ gian ác kia! Mày còn nhớ mày đã bóc lột tao trong suốt bảy năm trời hay không?.

Ông Cư bị trói tay, quỳ trên mảnh ruông khô, nhìn thằng Nhớn với cặp mắt vừa uất ức vừa van lơn:

-”Khốn nạn thân tôi! Anh thử nghĩ lại xem, tháng Ba năm Dậu thấy anh gần chết, tôi đem anh về, anh mới có ngày nay. Anh nỡ nào gieo oan ức cho tôi như vậy!”.

Thằng Nhớn đạp ông ngã chúi xuống đất, quát:

-”Ai anh em với mầy hở thằng địa chủ? Bây giờ mầy dám kể ơn với tao nữa à? Mầy đã cấu kết với bọn thực dân, phát xít làm ra cảnh đói khiến bố mẹ tao phải chết. Mầy lợi dụng lúc tao sắp chết, đem tao về thí cho bát cháo rồi bắt tao chăn trâu cắt cỏ cho mày, lớn lên thì cày sâu cuốc bẫm mà nào được đồng công nào!”.

Ông Cư nằm nghiêng trên mặt đất kêu khóc:

-”Ối Giời ơi! Anh nói thế mà không sợ mang tội với Giời! Tôi chỉ là một nông dân thấp cổ bé miệng, có biết ai đâu mà cấu kết! Còn chính thân tôi đây cũng phải cày sâu cuốc bẵm mới có bát cơm mà ăn, chứ tôi có dám bóc lột ai đâu”.

-”Mày còn chối à? Mày đúng là tên địa chỉ ngoan cố cần trừng trị! Đả đảo địa chủ!”.

Một vài tiếng đả đảo rời rạc vang lên đâu đó giữa hàng nghìn
người dân trong xã bị bắt buộc tham gia đấu tố. Thằng Nhớn quay sang bà Cư với cặp mắt đầy ham muốn nhưng lại nói ra vẻ đạo đức:

-”Con mẹ địa chủ khốn nạn kia! Mày có nhớ bốn năm trước, khi tao mới 20 tuổi, chính mày đã yêu cầu tao hủ hóa với mầy. Tao không chịu thì mày đi mách thằng địa chủ gian ác là thằng chồng mày để đuổi tao đi. Mày muốn làm mất cái đạo đức cách mạng của tao, nhưng nhờ ơn Bác và Đảng, tao đã sáng suốt không bị mày quyến rũ. Tội của mày cũng to không kém gì tên địa chủ gian ác kia, mày có biết không?”.

Bị oan ức, uất hận vì bị bêu xấu trước đám đông, bà Cư nhổ một bãi nước bọt:

-”Mày là đứa khốn nạn! Mấy năm trước mày lợi dụng lúc ẩn trốn nạn Tây càn, dám giở trò hỗn láo với tao. Tao kêu lên mày mới buông tha chứ tốt lành gì! Thật là đồ vô ơn! Đúng là nuôi ong tay áo!”.

Thằng Nhớn không ngờ trong hoàn cảnh này mà bà Cư dám nói huỵch toẹt cái xấu của nó ra. Nó tức giận co cẳng đá mạnh vào bụng bà Cư kèm theo câu chửi;

-”Đồ gái đĩ già mồm!”.

Bà Cư bị cái đá đến tức thở, nằm lăn long lóc không nói được lời nào. Ngay đêm ấy, tòa án nhân dân tuyên bố tử hình hai vợ chồng ông Cư.

Tương tự như cảnh xử tử địa chủ trong phim “Chúng tôi muốn sống”, ông Cư bị giết chính cái cày và con trâu của ông, và người cầm cày là thằng Nhớn. Nông Hội xã ra lệnh đem chôm ông bà Cư trên một miếng đất, chừa từ ngục trở lên, dự định dùng trâu kéo cây cày, dùng lưỡi cày đâm ngay ngực cho sức trâu kéo cây cày tới. cho vỡ lồng ngực tử tôi. Nhưng khi kéo cây cày tới gần tử tội, con trâu đi tránh sang bên làm lưỡi cày lướt xa ông Cư. Thằng Nhớn vòng trâu trở lại và lần nầy có một tên trong đội đấu tố dắt trâu đi qua đầu nạn nhân để trâu không thể đi tránh được. Cũng như lần trước, sắp bước qua đầu ông Cư, con trâu dừng lại và ngúc-ngoắc cái đầu như tỏ ý không muốn đi tới. Vừa bị lôi đằng trước, vừa bị vụt roi đằng sau đít, con trâu đành chậm rãi dò-dẫm rướn mình để không dẫm lên người chủ của nó. Con vật không nỡ đạp lên người chủ của nó nhưng lưỡi cày do thằng Nhớn điều khiển đã phá vỡ lồng ngực ông Cư, với tiếng rú thê thảm giữa những ánh đuốc bập bùng trong đêm tối. Thấy cái chết của chồng như vậy, bà Cư chỉ la được tiếng thất thanh “Ối Giời ơi!” rồi im bặt.

Thằng Nhớn định dùng cây cày còn vấy máu người chồng xử tiếp người vợ nhưng con trâu đánh tháo, nhất định không đi. Mặc cho dội đấu tố lôi kéo, nó hung hãn dùng sừng hất tung từng mảng đất, làm cho mọi người chung quanh đều sợ hãi. Bọn họ đành bỏ cuộc, không thể khiến con trâu thi hành ý định dã man của họ được. Thằng Nhớn loai hoai mãi mới tháo được cái cày thả nó ra. Tay thằng Nhớn vấy máu, cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng.

Bấy giờ người ta mới để ý thấy bà Cư đã nhắm mắt, da tái nhợt như người không còn giọt máu. Có lẽ vì quá sợ hãi trước cảnh chồng bị giết một cách dã-man, vì bị cú đá rất mạnh của thằng Nhớn vào bụng, vì bị chôn nửa người dưới đất đã làm bị sẩy thai băng huyết và đã chết tự bao giờ rồi.

Sau cuộc đánh đổ địa chủ đó, nhà cửa ruộng vườn của ông Cư được chia cho nhiều người mà hầu hết là cán bộ xã thôn. Riêng thằng Nhớn, ngoài mớ của cái, nó được thêm con trâu. Nhưng từ sau đêm đấu tố đó, con trâu hay có tất đánh tháo và sợ hãi. Hình như trong đầu nó vẫn còn bị ám ảnh bởi ánh lửa bập bùng trong đêm tối đen, tiếng hò hét của đội đấu tố và tiếng kêu thảm thiết của ông Cư. Ít lâu sau nói có vẻ trở lại bình thường. Dân làng khen thằng Nhớn biết “dạy trâu”. Thằng Nhớn đắc chí:

-”Nhờ ơn Bác và Đảng, đến con người khó dạy biết bao nhiêu mà còn dạy được, huống gì con trâu”.

Thế rồi một ngày kia thằng Nhớn dắt trâu đi bừa một thửa ruộng đầu làng, nơi mẹ nó nằm chết đói năm Ất Dậu, còn nó may mắn được ông Cư cứu sống. Con trâu ngoan ngoản kéo bừa đến gần trưa thì trời nổi cơn mưa to gió lớn, sấm chớp ầm ầm. Một làn sét đánh ngay trên cây gạo, với tia chớp lóe mắt, cùng tiếng nổ vang dội. Con trâu hoảng hốt, lồng bắn lên như bị lửa đốt đuôi. Thằng Nhớn cố gìm cái bừa sâu xuống đất để cản sức kéo của con trâu nhưng con trâu vẫn chạy, làm đứt một trong hai sợi chão cột bừa, đồng thời làm lật ngữa cái bừa, 11 chiếc răng bừa chĩa lên như hàng chông nhọn hoắc. Đúng lúc ấy, không hiểu sao, thằng Nhớn ngã sấp xuống hàng răng bừa, với tiếng thét rợn người. Nghe tiếng thét, có lẽ con trâu nhớ lại tiếng thét dạo nào của chủ nó là ông Cư, nên con trâu càng chạy nhanh hơn, cho đến khi chiếc bừa vướng vào bờ ruộng, làm chiếc bừa hỏng khỏi mặt ruộng, xác thằng Nhớn mới rời ra khỏi hàng răng bừa. Những người làm ruộng gần đó nghe tiếng thét, chạy lại thấy bốn răng bừa đâm vào ngực và bụng thằng Nhớn từ trước ra sau lưng, máu vọt ra lênh láng cả góc đám ruộng. Con trâu vẫn tiếp tục chạy, kéo theo cái bừa bị văng lên bật xuống cho đến lúc nó bị một răng bừa đâm vào chân nó mới đi chậm lại. Không hiểu vì ngẫu nhiên hay vì linh tính nào đó mà nó đứng lại bên cạnh mộ ông bà Cư và rống lên những tiếng ai oán.
Con trâu què được giao cho Ủy ban Nông hội xử lý. Ủy ban đem ra xét xử tội nó. Sau khi bàn bạc, con trâu bị buộc tội “phản động” vì phạm ba tội:

-Thứ nhất, khi dùng cày để xử tử ông bà Cư, địa chủ là kẻ thù của nhân dân, nó đã tránh né, phạm tội có ý “bênh vực địa chủ”.

- Thứ hai, sau đêm “cày” ông bà Cư đó, nó hay đánh tráo, không chịu cày bừa, phạm tội “lười lao động”.

- Thứ ba, không có tinh thần dũng cảm, nghe tiếng sấm đã bỏ chạy, làm chết đồng chí Nhớn, cán bộ đắc lực nhất của Đảng, phạm tội “khôngbảo vệ cán bộ cách mạng”.

Với ba tội trên, con trâu được Nông hội “nhất trí” phạt bỏ đói ba ngày. Thế nhưng đến ngày thú ba thì nó bứt dây thừng, chạy ra đồng, phá lúa. Ủy ban Nông Hội phối hợp với du-kích xách súng đuổi theo, bao vây nó giữa một đám ruộng lúa. Nó hung hãn như một con trâu điên, húc bất cứ ai đến gần nó. Cuối cùng, Nông Hội quyết định dùng súng hạ sát con trâu “phản động” nầy. Tên du-kích dùng súng nhắm vào đầu con trâu bóp cò nhưng trúng vào cổ vì con trâu luôn di động. Từ vết thương, máu chảy ra có vòi như bị chọc tiết. Con trâu khập khễnh vượt vòng người vây quanh, chạy băng về phía trước. Mọi người đuổi theo, thấy nó đứng trên gò mả, gần mộ vợ chồng người chủ cũ của nó. Máu từ cổ nó đồ xối xả tuôn ra, con trâu từ từ quỵ xuống giữa hai ngôi mộ rồi nằm im.

Người ta xẻ thịt con trâu rồi đem chia cho dân làng, nhưng nhiều người không ăn, gói cất đi, đợi đến tối, lén đem đi chôn, Người ta cho rằng nó là một con trâu có nghĩa, không phải là “con trâu phản động” như chính quyền đã buộc tôi cho nó. Tuy là loài vật nhưng nó có nghĩa hơn những người Cộng sản.

Cuộc cải cách ruộng đất năm 1956 ở Việt Nam đã nảy sinh ra hàng ngàn cái gọi là “tòa án nhân dân” như vậy, đã làm cho hàng chục vạn người chết vì đấu tố, tất cả tài sản của họ bị cướp sạch vào tay cán bộ Cộng sản. Tác giả tấn “bi hài kịch” đó là Hồ Chí Minh, người đã ra lệnh thuộc hạ làm rập khuôn của đàn anh Trung Cộng, kẻ thực hiện và đạo diễn các vở kịch đó Đảng Cộng sản Việt Nam, diễn viên là các Đảng viên trong các “tòa án nhân dân” và những “đội đấu tố”, diễn viên phụ và cũng là những nạn nhân là những nông dân vô tội còn khán giả là hàng triệu người dân hiền lành, chất phác bị họ bắt buộc hộ “đả đảo”, bắt buộc lên “đấu tố”, bắt buộc đi xem, dưới sự đe dọa trước họng súng của bạo quyền Cộng Sản.

Ông bà Cư chắc sẽ ngậm cười nơi chín suối vì kẻ thù thảm sát ông bà là thằng Nhớn đã bị chính con trâu của ông bà giết chết.

Nguyên Bá
- - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - -

Trang: 163

QUÊ TÔI DUNG-QUẤT

Mai về Quảng-Ngãi nhớ ghé thăm
Quê tôi Dung-Quất dưới rặng thông
Có tiếng xôn xao ngôi chợ nhỏ
Có đám dâu xanh để nuôi tằm

Dựa lưng bờ biển núi Động An
Đồng tre xóm nhỏ nằm sát gần
Đêm trăng nghe tiếng chày giã gạo
Nhớ về quê cũ dạ bâng-khuang.


Đặng Hàn
- - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - -

Trang 165:

TÌNH QUÊ

Quê tôi đó nằm cuối sông Trà Khúc
Gió Đông về gọi sóng biển gào vang
Muà gió Nồm thuyền tấp nập về làng
Mua bán cá xôn xao như ngày hội.

Quê tôi đó dưà xanh che khắp lối
Cát phơi mình nằm đón gió ngàn phương
Bên kia sông ngọn nuí đá thân thương
Kià Thiên Ấn, kià Hiền Lương, Cổ Lũy.

Nhớ nhớ lắm, hỡi ai người tri kỷ
Thuở thiếu thời ghi mãi trong lòng tôi
Kỷ niệm xa xưa đâu dễ pha phôi
Tình sông núi, ôi! quê tôi Quảng Ngãi.

Dù tha hương lòng tôi luôn nhớ mãi
Nhớ làng quê, nhớ một thuả vàng son
Ta bên em trên một chiếc thuyền con
Cùng say ngắm sao trời trên đồi cát.

Đâu còn nữa giọng trầm buồn em hát
Bản tình ca lúc ta bước vào yêu
Giờ xa quê còn đâu những buổi chiều
Cùng nhau ngắm Lý Sơn mờ biển cả.

Quê hương ơi! đẹp làm sao khôn tả!
Mũi Sa Kỳ, bãi biển đẹp Mỹ Khê
Hẹn mai nầy cùng nhau ta trở về
Nhìn đất mẹ với tràn trề nhựa sống.

08-08-2003
Mạnh Tuấn

Australia.
- - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - -

Trang: 166

VÌ SAO CÓ 2 HỘI QUẢNG NGÃI Ở BẮC CALIFORNIA? AI LÀ NGƯỜI CHỊU TRÁCH NHIỆM?
Ban Báo Chí

Kể từ 25-10-2008 là ngày Bàn Giao Ban Chấp Hành (viết tắt: BCH) Hội Ái Hữu & Đồng Hương Quảng Ngãi miền Bắc California (viết tắt: HAH.ĐH.QN.BC) giữa nhiệm kỳ đã mãn và nhiệm kỳ 2008-2011 đến nay, tân BCH tập trung mọi nỗ lực để chuẩn bị cho ngày Đai Hội Tân Niên 2009 sẽ được tổ chức vào ngày 8-3-2009 tại San Jose, theo quyết định các cuộc họp của BCH. Sau ngày Đại Hội Tân niên 2-3-2008, Hội nhà gặp phải nhiều rắc rối do cuộc Bầu cử BCH nhiệm kỳ 2008-2011 bất thành, dẫn đến những xáo trộn do một nhóm người cố tình tạo nên nhưng Hội vẫn không đá động gì đến tổ chức nào khác mà chỉ lo công việc của Hội nhà.

Tuy nhiên, sau ngày 01-2-2009, khi nhóm Phan Quang Nghiệp ra một Đặc San đề cập đến nhiều việc liên quan đến Hội nên nhiều đồng hương và thân hữu Quảng Ngãi đã gọi điện thoại và gởi thơ đến yêu cầu BCH phải trình bày rõ ràng mọi biến chuyển để họ biết và họ muốn cũng để đồng hương, thân hữu Quảng Ngãi khắp nơi am tường. Do vậy, Ban Báo Chí phải đáp ứng đòi hỏi đó nên đưa lại mọi diễn tiến của “biến cố bầu cử” với mọi chứng cớ lên Đặc San nầy; mục đích để đồng hương, thân hữu cùng độc giả biết đâu là sự thật, để tìm giải đáp cho câu hỏi: “Ai là kẻ đã gây ra sự phân hóa? ai là kẻ chịu trách nhiệm khi cố tình lập một hội Quảng Ngãi thứ hai tại Bắc California nầy? Ai đã gây ra mối chia rẽ Hội để làm nản lòng các đồng hương khác?”.

Trong Đặc San 2009 của ông Phan Quang Nghiệp viết nhiều bài với chủ đích muốn đào sâu nhiều vấn đề, khơi lại những chuyện mà BCH đã không còn quan tâm đến, bởi BCH quan niệm rằng “đường ai nấy đi”. Bài viết nầy xem như mục “trả lời thư” qua cách trình bày lại mọi diễn tiến, với từng chứng cớ xác thực cho mỗi tình tiết đề cập đến. Có rất nhiều chứng cớ và tài liệu lại quá dài nên chúng tôi không thể đưa lên hết được nhưng sẽ cố gắng đưa lên những chứng cứ quan trọng hay những phần cần thiết.

- Chiều ngày 2-3-2008, Đại Hội Tân Niên 2008 của HAH.ĐH.QN.BC tổ chức tại Dynasty Seafood Restaurant, thành phố San Jose, California, thành công tốt đẹp. Đến 9 giờ tối, Ban Tổ Chức Bầu Cử (viết tắt: BTCBC) đã được BCH/HAH.ĐH.QN.BC đề cử vào ngày 28-2-08 bắt đầu tổ chức bầu cử. Xin nói thêm về điểm nầy: Chiếu theo Nội Quy của Hội, chỉ có BTCBC nào do BCH/ HAH.ĐH.QN.BC đề cử mới hợp lệ. BTCBC vừa bắt đầu làm việc thì những biến động xảy ra, do một nhóm người chủ trương, gồm: Phan Quang Nghiệp, Nguyễn Văn Dũng, Nguyễn Diên, Lê Thiên Trúc, Nguyễn Đa, Phan Minh Giảng, và một số người nữa, có dự mưu từ hăm dọa đánh người đến cố ý gây rối để phá vỡ bầu cử. Điển hình, ai nấy đều thấy Lê Thiên Trúc đã cau mày nhăn mặt gây gổ rồi đòi đánh ông Nguyễn Ngọc Cống, hăm dọa ông Trần Điềm (là người trong BBC), Nguyễn Văn Dũng cướp lấy micro bỏ vào túi áo vest, v.v...

Trước cảnh tượng nầy, đa số đồng hương cảm thấy ngỡ ngàng, buồn chán và im lặng ra về. Các người được đề cử không còn lòng dạ nào để chấp nhận làm việc Hội khi sự kiện rối ren như vậy, trừ một số người được nhóm ông Nghiệp sắp đặt trước. Ông Nguyễn Cao Can: “Tôi đã phục vụ Hội 9, 10 năm nay, cảnh tượng lộn xộn hôm nay làm tôi thấy quá xấu hổ nên xin rút lui”. Ông Trần Ngọc Ảnh: “Tôi không ra tranh cử nữa”. Ông Nguyễn V. Dũng: “Tôi không ra tranh cử nữa để mong có một BCH mới”. Sau một hồi lộn xộn như vậy, khi thấy tình hình đến độ hỗn loạn thì hầu hết đồng hương bỏ ra về. Trước tình hình tồi tệ đó, ông Trưởng ban Bầu cử Đỗ Hữu Ích ra tuyên bố giải tán cuộc bầu cử sau khi BTCBC đã thống nhất ý kiến với các thành viện trong BTCBC, sau nầy sẽ tổ chức bầu lại. Nghe BTCBC tuyên bố như thế đa số đồng hương còn lại cũng theo chân BTCBC ra về.

Sau khi BTCBC ra về thì nhóm Nguyễn Văn Dũng, Nguyễn Diên (Milpitas), Lê Thiên Trúc, Nguyễn Đa, Phan Quang Nghiệp v.v...đứng ra tổ chức một cuộc bầu cử bất hợp pháp, với thành phần “đắc cử”: Phan Quang Nghiệp, 41 phiếu là Hội trưởng, Võ Thành Đỉnh, 38 phiếu là Hội Phó Nội vụ, Nguyễn Trung Cao, 32 phiếu là Hội Phó Ngoại vụ, tiếm danh xưng là “Hội Ái Hữu Quảng Ngãi miền Bắc California nhiệm kỳ 2008-2011” cho dù số người ở lại khoảng vài ba chục người. Theo 2 băng ghi hình DVD, trong bầu cử nầy, có người bầu nhiều lần, trẻ em cũng bỏ phiếu, Nguyễn Tấn Liên ngồi một chỗ viết phiếu để có người khác đến lấy bỏ vào thùng, số phiếu sai tên (bất hợp lệ) vẫn được tính.

Mời quý vị xem bài viết của Nhật báo “Cali Today” phát hành tại Bắc California viết về cuộc bầu cử nầy để biết đâu là sự thật:

Hội Ái Hữu Quảng Ngãi tại San Jose có thể bị vỡ ra làm đôi...
Nguyễn Dương, Mar 03, 2008

Cali Today News – Ngày hôm qua, cộng đồng người Việt tại San Jose có những sinh hoạt quan trọng như cuộc biểu tình biểu dương tinh thần ủng hộ Little Sài Gòn, tân niên Hội Luật Sư và tiệc tân niên Hội Ái Hữu Quảng Ngãi,...

Trong những năm gần đây, Hội Ái Hữu Quảng Ngãi nổi tiếng với các dạ tiệc tất niên hay tân niên vì số đồng hương và thân hữu đã tham dự với con số đông khoảng 700 người, với đặc san nổi tiếng và với nhiều hoạt động xã hội...

Tối qua, Hội ái hữu Quảng Ngãi đã tổ chức dạ tiệc tân niên. Mặc dù trong thời buổi kinh tế khó khăn, lại tổ chức vào đêm chủ nhật, thế nhưng Hội ái hữu Quảng Ngãi cũng đã thu hút khoảng 600 người tham dự, trong đó có không ít thân hữu của Quảng Ngãi.

Điều đặc biệt là chương trình khuyến học, phát nhiều phần thưởng cho các em học sinh xuất sắc của Quảng Ngãi, nhằm khích lệ cho con cháu gốc Quảng Ngãi trở thành những em học giỏi và thành đạt. Nhiều doanh gia đã tài trợ cho nhiều phần thưởng.

Một điều đặc biệt khác là chương trình văn nghệ. Tuy là cây nhà lá vườn, thế nhưng đã hấp dẫn nhiều vì các chương trình này theo lối truyền thống, như hát bội, tuồng,...

Lẽ ra, dạ tiệc tân niên Hội Ái Hữu Quảng Ngãi đã để lại ấn tượng đẹp, nếu không có trục trặc xảy ra vào giờ chót, khiến Hội này đứng trước tình trạng bị bể đôi, nếu không có những biện pháp hòa giải kịp thời.
Sau tiệc, thì diễn ra cuộc bầu cử, với những màn phê bình nhau nặng nề, nhất là chuyện liên quan đến chuyện ông Trần Ngọc Ảnh ký tên ủng hộ khu phố Việt mang tên New Sài Gòn. Một số người lên tiếng phản đối về chuyện này.

Rất đông ủng hộ ông Ảnh, đã bỏ ra về, và chỉ còn lại vài chục người, và cuộc bầu cử vẫn tiếp tục. Kết quả ông Phan Quang Nghiệp được bầu chức Hội Trưởng Hội Ái Hữu Quảng Ngãi vì có số phiếu bầu cao nhất (41 phiếu), và hai hội phó là Võ Thành Đĩnh (38 phiếu) và Nguyễn Trung Cao (32 phiếu).

Ban chấp hành mới nhiệm kỳ 2008–2010 đã ra mắt đồng hương Quảng Ngãi vốn chỉ còn vài ba chục người hiện diện.

Một người đến khuyên anh Cao: “Anh được bà con tín nhiệm, nhớ xăng tay áo để phục vụ cho bà con nhé.”

Chị Hạnh sau đó đã than phiền anh Cao là “cháu là trí thức, sao để chuyện như thế. Không còn là hội ái hữu nữa mà là hội ố hữu...”

Chúng tôi gặp Hội trưởng Trần Ngọc Ảnh và anh cho biết là anh vẫn là hội trưởng đương nhiệm, và anh sẽ tổ chức bầu cử một ngày nào khác, và anh sẽ không ra tranh cử.

Chúng tôi hỏi: Hội vừa tổ chức bầu cử rồi, bầu nữa làm gì?

Ông Ảnh nói là “người ta về hết rồi thì bầu bán cái gì. Tôi là hội trưởng và tôi không công nhận cuộc bầu cử này, và không bàn giao cho ban chấp hành mới này. Tôi sẽ tổ chức cuộc bầu cử khác, và tôi sẽ không ra tranh cử.

Như thế, nếu không dàn xếp được với nhau trong phạm vi nội bộ, Hội ái hữu Quảng Ngãi tại San Jose sẽ bị vỡ ra làm đôi, giống như hội Phú Yên vậy, mà nguyên nhân chính yếu có liên quan đến chuyện đặt tên cho khu thương mại Việt trên đường Story.

Chúng tôi sẽ cập nhật khi có tin mới.

Nguyễn Dương

- Khuya cùng ngày, BTCBC lập Biên Bản và ra “Thông Báo chung” về cuộc bầu cử BCH/HAH.ĐH.QN.BC bất thành và “yêu cầu BCH HAH.ĐH.QN.BC đương nhiệm duy trì cơ-cấu hiện hữu để điều hành công tác của Hội, chờ ngày bầu cử lại”.

- Trong các ngày 7, 8, và 9 tháng 3-2008, nhóm Phan Quang Nghiệp đăng trên nhiều báo tại San Jose, giới thiệu “Tân Ban Chấp Hành HAH.QN.BC Nhiệm Kỳ 2008-2011”.

- Ngày 12-3-2008, một văn bản có tên “Một chút tâm tình với đồng hương Quảng Ngãi” của Nguyễn Văn Dũng, cựu phó Chủ tịch Nội vụ, với nội dung chỉ trích Ban Chấp Hành, tuyên truyền cuộc bầu cử của nhóm Nghiệp là hợp lệ và kêu gọi đồng hương “chống âm mưu chia Quảng Ngãi Bắc California làm 2 Hội” (nguyên văn). Tiếc thay, chính Nguyễn Văn Dũng là người có tên trong BCH của cái Hội thứ hai đó, sẽ nói trong phần sau.

- Ngày 13-3-2008, một Tâm Thư gởi Thân hào, Nhân sĩ, Đồng Hương, Thân hữu Quảng Ngãi của “Tân Ban Chấp Hành HAH.QN.BC Nhiệm kỳ 2008-2011” do Phan Quang Nghiệp ký tên với chức danh Hội trưởng để giới thiệu cho BCH của mình.

- Trên số báo ra ngày 15-3-08, Nguyễn Diên (Milpitas) có đăng một “Thư Ngỏ” không ghi ngày, gởi đồng hương Quảng Ngãi, với nội dung chỉ trích Hội Trưởng Trần Ngọc Ảnh không ủng hộ việc ông đang làm (là chống lại Nghị viên Madison Nguyễn) và khuyên ông Ảnh “chú nên làm như những lời tôi yêu cầu chú” (nguyên văn, trong phóng ảnh trên).

- Ngày 15-3-2008, một Tâm Thư do các ông Đào Văn Bình và Thái Văn Hòa cùng ký, gởi cho: BCH. HAH.ĐH.QN.BC và ba ông Phan Quang Nghiệp, Võ Thành Đỉnh, Nguyễn Trung Cao; kêu gọi cùng ngồi lại để cùng tìm giải pháp chung để Hội Quảng Ngãi Bắc Cali không bị chia cắt. Ông Đào Văn Bình là nguyên Phó Tỉnh Trưởng và ông Thái Văn Hòa là nguyên Phó Ty CSQG tỉnh Quảng Ngãi.

Về phần BCH/HAH.ĐH.QN.BC đã đề cử ông Hội Phó Ngoại Vụ Nguyễn Cao Can liên lạc với hai vị trên, cho biết rằng BCH đồng ý đề nghị nầy nhưng sau đó, ông Thái văn Hòa cho hay rằng nhóm ông Nghiệp đã gởi một thư với nội dung không thuận việc cùng ngồi chung để giải quyết sự việc. Như vậy, “đề nghị xây dựng” của hai vị nầy đã tan vỡ. (Xem phóng ảnh trang sau).

- Ngày 22-3-2008, lúc 12:19:42 PM, một email do Phan Quang Nghiệp gởi cho Trần Anh Lan, cựu Hội trưởng, để cầu cứu sự ủng hộ của Trần Anh Lan cho BCH của Phan Q. Nghiệp (Hình 2).

- Ngày 22-3-2008, lúc 15:52:00 PM, một email Nguyễn Văn Dũng gởi cho Hội Đồng Hương Quảng Ngãi Nam California để nhờ “ủng hộ bằng một văn thư” (nguyên văn trong email) cho Hội của Phan Quang Nghiệp. Trong email nầy, Dũng còn “dạy” (hay chỉ thị?) cho Hội Đồng Hương Quảng Ngãi Nam Califor-nia bằng câu “Có lẽ trong lá thư các anh cũng nên viết rõ là các anh đã họp BCH và đồng ý việc bầu bán...là đúng nguyên tắc” (nguyên văn) (trang sau).

- Ngày 25-3-2008, Luật sư Chinh Vũ, cố vấn pháp lý của Hội, sau khi xem xét những tài liệu về cuộc bầu cử BCH bất thành đêm 2-3-2008, có gọi điện thoại cho ông Hội trưởng Trần Ngọc Ảnh và ông Phan Quang Nghiệp, khuyên nên hủy bỏ bầu cử, hai bên cùng ngồi lại để cùng tổ chức một cuộc bầu cử khác để đồng hương cử ra một Ban Chấp Hành duy nhất cho Hội. Ông Hội trưởng Trần Ngọc Ảnh thuận theo đề nghị của Luật sư cố vấn pháp lý nhưng ông Phan Quang Nghiệp không đáp ứng. Trên điện thoại, ông Nghiệp hỏi lại Luật sư Chinh Vũ là “Ông gọi tôi với tư cách gì?” tuy ông ta thừa biết LS Chinh Vũ là Cố vấn pháp lý của Hội, tên ông được đăng trong Đặc San hàng năm. Như vậy, nhóm Phan Q. Nghiệp không đếm xỉa gì trước đề nghị của Luật sư cố vấn pháp lý, trong mong muốn Hội nhà không bị chia cắt.

- Ngày 28-3-2008, BCH nhận được một lá thư, gởi đến từ ông Nguyễn Diên (Milpitas) và Nguyễn Đa là hai người trong BTCBC do nhóm Phan Q Nghiệp lập nên trong đêm 2-3-2008 (sau nầy 2 người nầy có tên trong BCH.HAH.QN.BC của Phan Q Nghiệp), yêu cầu BCH đương nhiệm phải bàn giao cho nhóm Phan Q Nghiệp.

- Ngày 4-4-2008, ông Phan Quang Nghiệp đăng trên nhiều báo tại San Jose một danh sách “BCH/HAH.QN.BC Nhiệm kỳ 2008-2011” với Phan Quang Nghiệp là Hội trưởng.

- Ngày 4-4-2008, Luật sư Nguyễn Ngọc Diệp và Luật sư Michael Chinh Vũ, với tư cách là những Cố vấn pháp lý của Hội, cùng lập một văn thư dài 6 trang gởi cho từng cá nhân trong BCH/HAH.ĐH.QN.BC, trong BTCBC cùng Phan Quang Nghiệp, Võ Thành Đỉnh, Nguyễn Trung Cao. Trong văn thư nầy, sau khi hai vị luật sư xem kỹ Nội quy của Hội, các văn kiện liên quan đến cuộc bầu cử (như văn thư chỉ định BTCBC, Biên bản cùng Thông báo của BTCBC, 2 băng ghi hình của 2 máy quay về cuộc bầu cử do Phan Quang Nghiệp tổ chức v.v...) đã đề nghị những việc 2 bên cùng nên làm và nên tránh, đã nhấn mạnh:

-”Yêu cầu xác nhận bằng văn bản, trước 4:00 giờ chiều ngày Thứ Sáu 11/4/2008, rằng mỗi người đều đồng ý hủy bỏ kết quả bầu cử. Nếu văn phòng Luật sư không nhận được văn bản xác nhận vào ngày giờ nêu trên, xem như không bằng lòng hủy bỏ kết quả bầu cử và sau đó mỗi bên có thể sẽ hành xử thích hợp theo luật pháp ấn định” (nguyên văn).

Đáo hạn đã thông báo trong văn thư trên, phía ông Phan Quang Nghiệp không phúc đáp. Từ đó, BCH/HAH.ĐH.QN.BC đương nhiệm đã nhờ Luật sư cố vấn pháp lý của Hội đại diện, đưa nội vụ ra tòa án tại địa phương để nhờ phân xử. Việc đưa ra tòa là “chuyện chẳng đặng đừng”. Một hội đang hoạt động, có một nhóm nhỏ tự lập nên một ban bầu cử, bầu người của nhóm mình rồi ngang nhiên chiếm Hội, có hợp pháp không? Thế rồi có người trung gian hòa giải để cùng ngồi lại hầu tìm giải pháp để không chia rẽ Hội, nhóm Phan Q Nghiệp cũng khước từ. Việc phải nhờ pháp luật phân xử là hành động sau cùng mà thôi.

- Ngày 15-4-2008, LS Chinh Vũ, Đại diện cho HAH.QN.BC trước Tòa, đã hoàn tất thủ tục kiện ba người tiếm danh và gởi đến Tòa nhờ luật pháp phân xử. Đồng thời Luật sư Đại diện cho Hội đã gọi điện thoại báo cho Phan Quang Nghiệp, Võ Thành Đỉnh, Nguyễn Trung Cao phải hiện diện trước Tòa vào ngày 16-4-2008, theo nguyên tắc pháp lý tại Hoa Kỳ.

- Ngày 16-4-2008, trong phiên xử, ba người có tên trong trát tòa đã không hiện diện. Tuy nhiên, Tòa Thượng Thẩm California, Department 10 vẫn đem vụ kiện nầy ra xét xử. Sau khi đăng đường, Tòa đã ra phán quyết với các bị cáo Phan Quang Nghiệp, Võ Thành Đỉnh, Nguyễn Trung Cao. Phán quyết ghi rõ những điều cấm nhóm nầy hành động cũng như vô hiệu hóa cuộc bầu cử đêm 2-3-2008 và đình chỉ tất cả các cuộc bầu cử khi chưa có lệnh của Tòa. Cũng trong án lệnh nầy, ba bị cáo Nghiệp, Đỉnh, Cao phải trình diện trước Tòa Thượng Thẩm California Department 10 trong phiên xử vào lúc 8:45 AM ngày 28-4-2008. Lệnh của Tòa được tống đạt đến từng bị cáo bằng cách mang tay, theo nguyên tắc pháp lý.

- Sau khi nhận án lệnh bất lợi từ Tòa án trong phán quyết ngày 16-4-2008, vào ngày 17-4-2008, Nhóm Phan Quang Nghiệp ra một “Thông Cáo Báo Chí” không còn dám tiếm danh Hội Ái Hữu Quảng Ngãi miền Bắc California nữa mà tuyên bố thành lập “Hội Đồng Hương Quảng Ngãi Bắc California, không liên hệ gì đến HAH.QN.BC của ông Trần Ngọc Ảnh” (nguyên văn). Tuy ra “Thông cáo báo chí” ghi ngày 17-4-2008 nhưng trên báo số ra ngày 18-4-2008, nhóm Phan Quang Nghiệp vẫn tiếp tục đăng một danh sách “Ban Chấp Hành HAH.QN.BC Nhiệm kỳ 2008-2011”, mà họ gọi là “danh sách chính thức”. Trong danh sách nầy, không có tên một số người như trong danh sách đăng trên các báo ngày 4-4-2008, ví dụ điển hình là ông Nguyễn Diên. Được biết: ngày 5-4-2008, ông Nguyễn Diên (San Jose) gởi thư cho ông Phan Quang Nghiệp yêu cầu lấy tên ông ra khỏi danh sách mà ông Nghiệp đã đăng trên báo trước đó vì ông Nghiệp đã tự ý để tên ông Diên trong danh sách mà không hỏi ý kiến của ông, ông Diên chưa bao giờ và không bao giờ tham gia trong nhóm nầy, cho nên trong danh sách mới không có tên ông Diên.

- Ngày 19 & 20-4-08, trên vài tờ báo tại San Jose, trên cùng một trang báo, phía bên trái, Phan Q Nghiệp đăng “Thông cáo báo Chí” về việc đổi tên từ HAH.QN.BC ra thành HĐH.QN.BC nhưng phía bên phải lại đăng “Thư Mời Ra mắt BCH.HAH.QN.BC Nhiệm kỳ 2008-2011” do Phan Q Nghiệp làm Hội trưởng ký tên, được tổ chức vào ngày 19-4-2008. Đây là một trò lập lờ đánh lận con đen, vừa dùng Hội Đồng Hương QN.BC lại vẫn tiếm danh Hội Ái Hữu QN.BC.

- Ngày 19-4-2008, nhóm Phan Quang Nghiệp ra mắt “BCH/HĐH.QN.BC” tại San Jose. Theo băng ghi hình, Hội Phó Nguyễn Trung Cao (cũng là MC) vẫn dùng danh xưng Ban Chấp Hành HAH.QN.BC khi giới thiệu với quan khách. Trong buổi ra mắt nầy, Phan Quang Nghiệp tuyên bố: “Để đáp lại tấm thạnh tình từ các sự ủng hộ, chúng tôi luôn quan niệm rằng Hội Đồng Hương Quảng Ngãi sẽ là một bộ phận không thể tách rời với Cộng Đồng Việt Nam Bắc California” (nguyên lời ông Nghiệp). Điều nầy cho thấy nhóm Phan Q. Nghiệp lập Hội Quảng Ngãi thứ hai để phục vụ cho mục đích khác. Tại buổi lễ nầy, số người quê quán Quảng Ngãi hay thân hữu thường sinh hoạt với Hội trong các năm qua đếm trên đầu ngón tay. Hình ảnh chụp tại chỗ và DVD là chứng cớ, quý vị nào muốn xem, chúng tôi sẵn sàng cung cấp.

Cũng trong buổi lễ nầy, ông Trần Anh Lan, người Hội trưởng đã bỏ cuộc vụ giữa nhiệm kỳ đã nói lên nhiều điều đáng phê phán. Ông tuyến bố là “tôi đã trao kiếm lầm”, ý nói là giao chức vụ Hội trưởng lầm. Đây là điều hoang tưởng. Ông Lan đã bỏ nhiệm vụ giữa nhiệm kỳ nên BCH đã giao lại cho ông Hội Phó Nguyễn Cao Can tạm thời điều hành, chờ bầu cử lại. Còn việc bầu nên Hội trưởng mới là công việc của toàn đồng hương Quảng Ngãi chứ ông có quyền gì mà “trao kiếm lầm”? Ông còn phát biểu trong nhiệm kỳ của ông, có vài ủy viên trong BCH chở cán bộ Cộng sản từ Việt Nam sang Mỹ đi đây đi đó tại San Jose. Nếu đây là sự thật thì ông Lan cũng chịu trách nhiệm chung, nhưng ông ta lại nói “sinh con chưa dễ ai sinh lòng” đến 3 lần trong khi phát biểu. Ai là con ông Lan? Và ông Lan đã có được đứa con nào chưa để mà “sinh”? Quả là lộng ngôn.

Ông Lan còn nói:

-“...Chúng ta lập ra cái Hội, xe chỉ nhau buộc nhau vào cái túi Cộng đồng chứ không thể nói xe chỉ nhau để rồi dùng sợi chỉ xe để tét bánh tét đó để chia rẽ cộng đồng. Chúng ta đến đây với cộng đồng, làm những gì cộng đồng làm, chúng ta đã đi sai điều đó... bởi vì núi Ấn sông Trà quê hương bất khuất đó không bao giờ làm sai những gì của cộng đồng đã đưa ra” (nguyên lời ông Lan trong DVD).


Ông Lan đã dùng nhiều lần nhóm chữ: “góp phần vào cộng đồng, chúng ta làm những gì cộng đồng làm” và nhóm chữ “xe chỉ nhau buộc vào cái túi cộng đồng”. Đây là lời nói lếu láo. Trong suốt mấy nhiệm kỳ ông làm Hội trưởng, trong bao nhiêu năm, có bao giờ ông Trần Anh Lan đến tham gia bất cứ sinh hoạt nào của cộng đồng người Việt tại địa phương chưa? Ông Lan có bao giờ bén mảng đến các nơi tổ chức ngày Quốc hận 30-4, ngày Quân Lực 19-6, ngày Tết cộng đồng, ngày Chào cờ đầu năm, ngày Tết Trung Thu... hàng năm hay các cuộc biểu tình chống Cộng, các sinh hoạt chính trị bất thường mà Ban Đại diện Cộng đồng VN, Khu Hội Cựu Tù Nhân Chính trị, các Hội đoàn địa phương hay quân đội... tại Bắc California tổ chức chưa? Cá nhân ông không léo hánh tới thì làm gì ông kêu gọi đồng hương Quảng Ngãi tham dự. Chắc chắn đa số Ủy viên trong BCH/HAH.ĐH.QN.BC xác nhận.

Đến khi hết làm Hội trưởng, ông Lan không còn sinh hoạt hay yểm trợ gì cho Hội đã đành mà ông còn rút hết các quảng cáo trong Đặc San Xuân của Hội mà ông đã xin cho Hội trước đó (để Hội trả tiền in). Điều nầy minh chứng qua phát biểu của ông Lan trong buổi lễ nói trên: “...Ba năm qua, tôi không biết gì về Hội”. Một Hội trưởng mà khi “thôi chức” lại “không biết gì về Hội”, lại triệt đường giúp đỡ cho Hội để có tiền cho các sinh hoạt khi rút các quảng cáo trong Đặc San ra (với bút tích của ông Lan mà Hội còn lưu giữ), đồng hương Quảng Ngãi nghĩ thế nào? Đã vậy mà ông còn lớn tiếng tuyên bố như vậy trước đám đông.

Ngoài ra, cần biết thêm, trong đêm 26-2-2005, trước ngày Đại Hội Tân Niên 27-2-2005, ông Lan vẫn còn muốn làm Hội trưởng nữa nên đã gọi điện thoại cho ông Đ và vài đồng hương khác, với câu hỏi: “nếu tôi ra nữa (ứng cử lại) có thắng không?”, rồi còn gọi điện thoại viễn liên cho một đồng hương QN khác, cũng với câu hỏi: “Em thấy anh có nên ra ứng cử lại hay không?”. Chúng tôi sẽ đưa tên người ra, nếu ai cần đối chứng. Như vậy, có phải ông Lan “còn muốn làm Hội trưởng” nữa hay không, mọi người dễ nhận biết.

Tưởng cũng cần nhắc lại, ông Lan đã từng dùng Đặc San của Hội để làm diễn đàn đấu đá nhau mà không đếm xỉa gì đến sự can ngăn của các ủy viên khác trong BCH vì không muốn dùng Đặc San của Hội làm phương tiện phục vụ cho cá nhân. Trong Đặc San Xuân 2004 của HAH.QN.BC, nơi trang 328, ông Lan có viết một “Bản lên tiếng” với mục đích “hạ nhục” ông Nguyễn Tấn Ích khi trích dẫn 4 câu thơ của ông Ích:

Mậu Thân vết tát in hằn má,
Ất Mão thấm đòn chịu nát thân.
Hải ngoại mong chi bầy thủ cựu,
Quê nhà chớ cậy bọn canh tân


trong một bài xướng họa, “tuy rằng ông Nguyễn Tấn Ích có “phân bua” trên tờ Thời Báo” (nguyên văn của ông Lan). Ông còn cho biết đã: “”kiểm duyệt” hẵn bài thơ “Nỗi đau còn đó” của ông Nguyễn Tấn Ích...vì trong khổ thơ ấy có hai câu “Đầy khoang màu đỏ tươi màu ngói, Đỏ cả tình em đỏ cả lòng”. Bản lên tiếng còn có câu nặng nề, gay gắt hơn: “...khi linh hồn ấy đã lỡ bán cho quỷ đỏ”. Đọc đoạn văn nầy, có người đặt ngay câu hỏi “Ai là người bán linh hồn cho quỷ đỏ?”. Quỷ đỏ nào?

Trên Đặc san Xuân 2009 của ông Nghiệp, người ta còn đọc được đoạn do ông Lan viết:

-“...tôi mạnh dạn xin lỗi Nguyễn Tấn Ích (nhà văn Hạo Nhiên Nguyễn Tấn Ích) về sự nhầm lẫn trước đây và cũng minh xác trước dư luận rằng: người mang băng đỏ tại Quảng Ngãi là Đại úy Nguyễn Hữu Ích (Ích Tư Sơn) còn ông Nguyễn Tấn Ích (CTCT) đã ở tù CS, qua Mỹ theo diện HO8 và hiện đang định cư tại San Jose, HK”. (nguyên văn, phóng ảnh trên) được ông Lan “xin lỗi” (trang 154).

Đến đây, một số đồng hương Quảng Ngãi chưa biết (số đông đã biết trước nay rồi) lại được biết thêm “ai đã từng mang băng đỏ tại Quảng Ngãi vào thời đó?” Nên nói thêm để những ai chưa hiểu nghĩa của nhóm chữ “mang băng đỏ”. Đó là người: mang một miếng băng vải màu đỏ vào cánh tay để làm dấu hiệu “ta đây đã “giác ngộ cách mạng””, rồi lên xe chạy đi khắp nơi, làm các nhiệm vụ:

* kêu gọi binh lính buông súng, đừng kháng cự;

* kêu gọi ra “trình diện” chính quyền CS,

* “chỉ điểm” cho chính quyền CS biết những đồng đội hay cán bộ chính quyền VNCH khi những người này không ra trình diện để CS “đưa” họ vào tù...

Cho dù hành động đã xảy ra 34 năm qua nhưng luôn luôn bị người đời nguyền-rủa, bị các chiến hữu khinh miệt, vết nhơ “mang băng đỏ” của họ không bao giờ gột rửa được, cho dù họ tìm trăm phương ngàn kế để chối cãi, đổ cho người khác. Họ “được” nằm trong danh sách “50 sĩ quan Ngụy yêu nước” tại Quảng Ngãi được phổ biến sau ngày 25-3-1975 (ngày mất Quảng Ngãi), thường được họ vênh váo, “khoe” trước bạn bè, đồng đội cũ, người thân của họ.

Khi đọc đoạn văn ông Lan viết, người ta lại nêu nhiều nghi vấn về việc ông Lan “cố tình nhắc lại việc nầy”:

* Có mang băng đỏ hay không? (khó ai biết chắc),

* Tại sao sự việc đã đi vào quên lãng, nay ông Lan nhắc lại, với mục đích gì?

* Ông Lan minh xác, xin lỗi hay ông Lan mượn lời minh xác để khơi lại chuyện nầy?,

* Tại sao lại đề cập đến ông Nguyễn Tấn Ích mà không là người khác?”,

* ông Lan đổ cho ông “Ích nào đó đã chết” (Ích Tư Sơn) thì cái lý đó vững hay không?

* và “Căn cứ vào đâu ông Lan dám “mạnh dạn minh xác” là ông Ích nào đã mang băng đỏ?”.

Không thể đoan chắc hành động của người nào khi mà chỉ “nghe” qua một người khác nói. Nếu cái ông K. nào đó đã nói với ông Lan, ông Lan dám cho số điện thoại hay địa chỉ gởi thư của ông K. đó để ai cần có thể liên lạc với ông K. hầu được rõ hơn về chuyện nầy không? Đây là điều ông Lan nên làm để lời “minh xác” của ông Lan có giá trị phần nào. Nếu chỉ nghe qua người nào (nói về một vấn đề gì) rồi kết luận thì chưa chắc chính xác. Điển hình, nếu tin vào câu của ông Lan “lỡ bán linh hồn cho quỷ đỏ” thì “người bán linh hồn” chắc chắn là phạm tội.

Tóm lại, các câu hỏi: có hay không? ai? chứng cớ có khả tín không? v.v... ngoài việc nghe, biết, nhận định, phê phán của các quân cán chính VNCH tại Quảng Ngãi vào thời đó, còn tùy vào đồng hương, thân hữu QN và độc giả nhận xét khi đọc những lời ông Lan viết cùng những nhận định trên.

Một điều ngạc nhiên khác nữa là một “người chủ chốt” trong nhóm ông Nghiệp đã nói với ông H.T., một người Quảng Ngãi, là người có học thức, có địa vị cao, có cơ sở kinh doanh thành công vững chắc tại San Jose, đã từng là Ủy viên trong BCH/HAHĐH. QN.BC nhiều năm, một câu nói, đại ý: “Chúng tôi cần người làm việc chứ đâu cần người không biết làm việc, mời ông Hoàng Ngọc Thành, bà Phạm Thị Nhị, ông Trần Anh Lan... vào BCH để tốn nước trà”. Vậy mà không hiểu sao họ vẫn mời các “người tốn nước trà” có tên mà người đó đã nói vào BCH của họ? Về điều nầy, chắc chắn có ít nhất là 3 người biết đích xác là “có” hay “không”:

1, ông H.T. (người được nghe chính miệng người nói ra),

2, người nói câu đó và

3, người đã nghe câu nầy từ miệng ông H.T. Không ai có khả năng đặt điều nói láo như vậy và làm như thế để làm chi?

Cũng trong “lễ ra mắt” của ông Phan Q Nghiệp, xem lại các DVD, thấy trong số “thượng khách” ông Nghiệp mời lên phát biểu có ông Nguyễn Châu, ông ta tự giới thiệu “tôi là Tổng Thư ký của Hội Đồng Hương & Thân Hữu Thừa Thiên Huế” (nguyên lời). Rồi trong phát biểu, ông ta lấy câu “Quảng Nam hay cãi, Quảng Ngãi hay co...” để phân tích, với chủ ý bêu xấu ba tỉnh còn lại vì ngu dại đã đem lợi cho người Thừa Thiên của ông mà không biết ông phải nói gì trong buổi lễ như vậy. Có đoạn, Nguyễn Châu nói:

-”...Người Quảng Nam ai nói gì phải trái không cần phân biệt, việc đầu tiên là cãi cái đã”.

-”...Người Quảng Ngãi... muốn cho nó yên, thì thôi, thoi cho nó một cái”
(nguyên văn trong DVD).

Một “tổng thư ký” của một Hội mà không biết chuyện “miệt thị” một địa phương là điều không nên làm, quả là quá kém cỏi. Ông Nghiệp “mời” ông Châu chửi quê hương mình, có phải là hành động “cõng rắn cắn gà nhà” hay không, mọi người tự nhận xét.

- Trở lại diễn tiến biến cố bầu cử, trong phiên tòa ngày 28-4-2008, các bị cáo vẫn không hiện diện theo án lệnh ngày 16-4-2008. Chánh án Thomas W. Cain đã xem xét sự vụ, sau cùng đã ra phán quyết buộc ba bị cáo Nghiệp, Đỉnh, Cao phải chấp hành những án lệnh, xin trích lược dịch tóm tắt như sau:

1. Cấm trực tiếp hoặc gián tiếp tước đoạt việc đại diện Hội Ái Hữu Quảng Ngãi miền Bắc California.

2. Cấm trực tiếp hoặc gián tiếp lạm dụng uy tín của HAHQNBC bằng tài sản tinh thần hay vật chất của Hội.

3. Cấm trực tiếp hoặc gián tiếp giữ những trách vụ công cộng vì ý đồ chiếm đoạt hội Ái Hữu Quảng Ngãi Bắc California để giới thiệu ra cộng đồng trong ý tưởng là đại diện cho người đồng hương Quảng Ngãi đang cư ngụ tại Bắc California.

- Ngày 2-5-08, Tòa Thượng Thẩm Tiểu Bang California, Department 10 tái xét vụ kiện. Bên nguyên đơn, ngoài ông Hội trưởng Trần Ngọc Ảnh còn có Luật sư cố vấn pháp lý của Hội. Bên bị cáo, ba bị cáo vẫn vắng mặt như hai lần trước nhưng có Luật sư Nguyễn Tâm đại diện.

Tòa án đã nghe những sự kiện, tranh luận, dẫn nhập bằng hồ sơ và dữ kiện cũng như phản ảnh lại những sự việc chấp hành hay không chấp hành đối với phán quyết sơ khởi lệnh tòa trước đây. Quan tòa đã ra một phán quyết mới. Trong lệnh Tòa nầy có ghi câu (lược dịch):

-“Lịnh tòa sẽ được chờ đợi trong vòng 30 ngày để hai bên nguyên đơn và bị cáo có thể yêu cầu tái xét, thảo luận hay chống án trước khi thi hành”.

Cũng trong phiên tòa nầy, khi được hỏi “bây giờ ông muốn gì?”, ông Hội Trưởng Trần Ngọc Ảnh trả lời: “Tôi không muốn gì cả. Tôi chỉ muốn một Hội Quảng Ngãi mà thôi. Cứ tổ chức bầu cử công khai, tất cả đồng hương Quảng Ngãi tín nhiệm ai, bỏ cho người đó, người nầy sẽ điều hành công việc của Hội”. Rõ ràng đây là những lời đầy “thiện chí” trước Tòa, không phải như lời của Nguyễn Văn Dũng gởi cho Hội Quảng Ngãi Nam Cali đã cáo buộc BCH.HAH.QN.BC là “có khác gì cách nói của Vẹm”.

Sau phiên tòa, HAH.ĐH.QN.BC đã giữ yên lặng theo thời hạn như Tòa đã phán quyết. Điều nầy chứng tỏ HAH.ĐH.QN.BC luôn luôn thiện chí trong tinh thần mong muốn “chỉ có một Hội Quảng Ngãi duy nhất tại miền Bắc California mà thôi”. Tuy nhiên, HAH.ĐH.QN.BC sẽ chống lại bất cứ thế lực nào cố tình chia rẽ Hội Quảng-Ngãi tại miền Bắc California. Về phía Phan Quang Nghiệp, lợi dụng thời gian 30 ngày nầy, nhóm ông Nghiệp vẫn quyết tâm thành lập một hội Quảng Ngãi khác với danh xưng là “Hội Quảng Ngãi Hải ngoại Bắc California” sau khi manh tâm chiếm đoạt HAH.ĐH.QN.BC không được bèn đổi qua “Hội Đồng Hương Quảng Ngãi Bắc California” cũng bị luật pháp cấm chỉ.

Việc đổi sang một tên thứ ba nầy có phải là hành động “nhường” như Phan Quang Nghiệp đã viết: “Chúng tôi đã liên tiếp 2 lần nhường cho họ: lần đầu chữ “Ái hữu”, và lần 2 là chữ “Đồng hương”” hay ông Nghiệp không được phép tiếm đoạt qua sự chế tài bởi luật pháp, qua các án lệnh, để rồi đổi tên khác đến lần thứ ba, đồng hương và thân hữu Quảng Ngãi khắp nơi không khó để nhận ra sự thật.

Vào đầu tháng 6-2008, Phan Quang Nghiệp gởi đi gởi cho rất nhiều người ở nhiều nơi một email trong đó có một “Tâm thư” dài 7 trang do “Hội trưởng Phan Quang Nghiệp” đứng tên, một danh sách BCH mới, một tâm thư, nhiều hình ảnh, phóng ảnh; với nội dung ngoài việc biện minh cho việc lập Hội của mình. Nhóm nầy còn chỉ trích, bêu xấu, vu cáo, bịa đặt nhiều điều thất thiệt cho HAH.ĐH.QN.BC. Vào trung tuần tháng 6-2008, nhiều đồng hương Quảng Ngãi gần xa nhận được qua đường bưu điện một phong bì đựng tất cả các văn kiện vừa nêu cũng do Phan Quang Nghiệp gởi đến nhà cho họ. Điều đáng nói đến là trong “tâm thư” 7 trang nầy, ông Nghiệp viết: “Nếu đúng như thế thì không hiểu tiền ở đâu lắm vậy? Ông Ảnh tự xuất tiền nhà ra hay là có bàn tay nào đứng phía sau chi ra số tiền nầy? Yêu cầu ông Trần Ngọc Ảnh trả lời trên báo để làm sáng tỏ nguồn tiền nầy với bà con Quảng Ngãi ở Bắc Cali”, khi ông Nghiệp nói về việc ông Ảnh bỏ tiền ra kiện ông Nghiệp. Đây là trò “chụp mũ” ấu trĩ mà người ta thường thấy trong những tổ chức hổ lốn, những cá nhân hàm hồ hay làm.

Ông Nghiệp còn viết: “Trần Ngọc Ảnh chưa hề công khai tài chánh trước đồng hương”. Đây là phát ngôn ngô nghê, không biết nguyên tắc vì nhiệm vụ báo cáo tài chánh thuộc về người thủ quỹ, không phải là nhiệm vụ của Hội trưởng. Nếu làm thủ quỹ mà không báo cáo định kỳ, không minh bạch tài chánh, nếu không nói “không biết làm việc” thì “thiếu trách nhiệm”, nếu ông Nghiệp quy trách thì quy trách người thủ quỹ. Khơi lại vấn đề tài chánh, ngoài việc chụp mũ, chẳng qua là để ông Nghiệp có chuyện “bươi móc” và đây là chuyện ngụy tạo vì cũng ngay trong tâm thư đó, ông cho biết người Thủ Quỹ chính thức của Hội cho biết “tiền quỹ sau ngày 2-3-2009 chỉ còn 39 cents”. Người thủ quỹ nầy nầy, cũng là thủ quỹ cho Hội của ông Nghiệp (theo danh sách ngày 18-4-2008), là người đồng hội đồng thuyền cùng ông. Nếu ông Nghiệp đã biết người thủ quỹ thiếu trách nhiệm tại sao lại chọn làm thủ quỹ cho mình? Ông Nghiệp còn viết “ngoài ra các khoản tiền khác bà ấy (bà thủ quỹ) không hề biết” (nguyên văn). Khoản tiền khác đó là khoản tiền gì? Làm thủ quỹ mà không biết tiền khác là tiền gì? bao nhiêu? mà dám tuyên bố (nếu có tuyên bố như vậy) thì quả là lời tuyên bố vô trách nhiệm, không có khả năng chuyên môn.

Không biết ông Nghiệp “vô tình hay cố ý chê” người thủ quỹ khi vạch ra cho người ta thấy sai lầm của người thủ quỹ nầy? Hoặc là ông Nghiệp lấy đối tượng là ông Ảnh mà áp dụng kế “Chỉ tang mạ hòe”, có nghĩa “chỉ vào gốc dâu mà mắng cây hòe”, ngụ ý mượn người nầy mà mắng người kia, một trong 36 kế của ngưười Tàu ngày xưa? Có lẽ suy đoán nầy đúng hơn vì theo danh sách BCH mới nhất của ông Nghiệp, không có tên người nầy là thủ quỹ.

Qua những hành động dẫn thượng, đủ cho mọi người thấy ý đồ của nhóm Phan Quang Nghiệp thành lập một Hội Quảng Ngãi thứ hai sau khi âm mưu chiếm đoạt bất thành để phục vụ cho mưu đồ của nhóm họ. Nếu phía Phan Quang Nghiệp thực tâm không muốn chia rẽ Hội thì họ đã không phá rối cuộc bầu cử đêm 2-3-2008 bởi họ được quyền ứng cử, nếu đồng hương tín nhiệm họ sẽ đắc cử hay có thể ứng cử trong kỳ bầu cử mà Hội sẽ tổ chức lại sau nầy. Nếu làm như vậy sẽ không có 2 Hội Quảng Ngãi tại Bắc California. Chắc chắn một điều là nhóm ông Nghiệp biết rằng họ không được đa số đồng hương Quảng Ngãi tín nhiệm nên khó có thể trúng cử, vì thế không dám tham dự trong một cuộc bầu cử chung để đa số đồng hương chọn người họ tín nhiệm, nên đã âm mưu “đoạt” không được để rồi “lập hội thứ hai”.

Có phải biến cố bầu cử BCH.HAH ĐH.QN xảy ra do mưu đồ của nhóm Phan Quang Nghiệp hay không, việc phải nhờ pháp luật phân xử là việc chẳng đặng đừng khi không thể dùng tình để giải quyết, có phải như trong “Tâm thư” mà Phan Quang Nghiệp viết: “Việc phải nhờ đến pháp luật để giải quyết những tranh chấp về một danh xưng của một tổ chức bất vụ lợi là một việc làm tồi tệ và đáng nguyền rủa...” hay không là ở nhận xét của mọi người.

Ngoài ra, rất nhiều email, thư nặc danh,... với tên giả được tung ra nhằm nói xấu BCH đương nhiệm, với những từ ngữ hạ cấp. Điển hình, trong bài “Thây ma ái hữu” vào tháng 10-2008 mang tên “Đỗ Công Công Núi Xương Rồng” đã dùng những từ ngữ như: “nồi cám heo”, “ba lí bốn lù” (nói mỉa bài hát Ba Lý tang tình của QN), “trơ cái mặt mốc”, “cái miệng như cái ống nhổ”, “đĩ thúi”, “xót thân khuyển mã”, “bản mặt vô liêm sỉ”, “đồ lưu manh”, “Chợ cá cầu muối”, “mặt mo”, “chửi động đến mồ mả tổ tiên”, “ngu si”. “đần độn”... không thể tưởng tượng nỗi. Họ dùng các tên giả vì không có ai mang những tên như vậy sinh hoạt với Hội trong thời gian qua. Chúng tôi còn lưu giữ tất cả những văn bản “có một không hai” nầy. Đây không thể là tài liệu ngụy tạo vì “không ai tự chửi cha mình bao giờ”.

Trong Đặc San 2009 của nhóm ông Phan Quang Nghiệp, nhân danh Hội trưởng, ông viết: “Nhưng sau đó ban Chấp hành cũ tuyên bố không công nhận kết quả bầu cử, không bàn giao và tiến hành kiện tụng, dùng án lệnh tòa cấm Ban Chấp hành của Hội vừa mới đắc cử không được sử dụng danh xưng “Ái Hữu” và “Đồng Hương”. Tân Ban Chấp hành quyết định nhường nhịn tối đa, không tranh tụng và không sử dụng 2 danh xưng nầy để tránh về mặt pháp lý...” (tr 8 & 9). Việc nhóm Phan Quang Nghiệp tự ý tổ chức Ban Bầu cử để rồi bầu ra nhóm của mình là sai với nguyên tắc của một Hội. Ban Tổ chức Bầu cử phải do BCH hội đó đề cử mới hợp pháp. Thử hỏi một nhóm nào đó tự lập ra một BTCBC rồi tiến hành bầu bán với một nhóm nhỏ, có hợp lệ hay không? Đã không hợp lệ thì bàn giao cái gì? Bàn giao cho ai? Việc chiếm đoạt “danh nghĩa chính thức” không được nên buộc lòng phải từ bỏ, rồi phải đổi từ tên nầy thành tên kia liên tục như vậy, không thể gọi là “nhường nhịn” mà như là một “đám cưới chạy tang”, không hơn không kém.

Ông Phan Minh Giảng trong nhóm Phan Q Nghiệp viết rằng:

-“Trần Ngọc Ảnh cùng một vài thuộc hạ...đã nạp đơn kiện tại Tòa Thượng Thẩm... nên chúng tôi phải thay đổi danh xưng...”

-“Nhờ vào sáng kiến nầy nên tránh được rắc rối về pháp lý và tiến hành buổi lễ ra mắt tân BCH vô cùng long trọng”. “Phải thay danh đổi tính” mà gọi là “sáng kiến”, quả là “chơi chữ” thuộc vào hạng thượng thừa. Trong buổi ra mắt nầy số người gốc Quảng Ngãi tham dự đếm không quá trên đầu ngón tay, còn “số đông” tham dự đó, là của tổ chức nào? Không những trong buổi ra mắt nầy mà cả trong Picnic Hè và Ngày Họp mặt Tân niên của nhóm ông Nghiệp cũng thế: số người Quảng Ngãi chỉ là con số nhỏ nhoi trong tổng số tham dự. Nếu ai là người đã sinh hoạt với Hội trong nhiều năm qua, xem 2 tấm hình tiêu biểu nơi đây, xin quý vị cho biết được mấy người Quảng Ngãi chính cống? Như vậy, lập một hội mang danh Quảng Ngãi mà người Quảng Ngãi không tham dự (ngoại trừ nhóm ông Nghiệp), độc giả sẽ nhận biết được Hội đó có được đồng hương QN ủng hộ hay không và cho thấy mục đích lập Hội của họ để phục vụ mục đích gì rồi.

Nếu nhóm ông Nghiệp cho rằng ông Ảnh ủng hộ người mà nhóm ông Nghiệp không ủng hộ, đó là quyền cá nhân ông Ảnh. Ngoài ra, những lời “chú nên làm như những lời tôi yêu cầu chú” (nguyên văn) của ông Nguyễn Diên Milpitas, một người “tích cực nhất” trong nhóm ông Nghiệp nói với ông Ảnh là “vô trách nhiệm” nếu không nói là những lời “xấc láo”. Tìm trong Danh sách Ban Chấp Hành của Hội đăng trong các Đặc San Xuân Quảng Ngãi, quý vị có thấy tên ông Nguyễn Diên ở trong ban, nào không? Không. Muốn “khuyên” Hội trưởng phải là người trong Ban Cố Vấn hay Ban Kiểm soát, vậy ông ta lấy tư cách gì “yêu cầu” (nguyên lời ông Diên) ông Hội trưởng làm việc nầy việc kia được? Ai nấy trong Hội đều biết ông Nguyễn Diên trong Ban Báo chí là Giáo sư Nguyễn Diên chứ không phải ông Diên nầy.

Nếu ông Nghiệp muốn làm Hội trưởng, ông Nghiệp cứ tham gia bầu cử, nếu đồng hương tín nhiệm sẽ bầu ông lên điều hành Hội. Nếu ông Ảnh làm mất lòng đồng hương và nếu đồng hương không tín nhiệm thì đồng hương sẽ không bầu cho ông Ảnh nữa, chừng đó ai được tín nhiệm sẽ điều hành Hội. Nhóm ông Nghiệp đã không dám làm như thế, không dám công khai ra ứng cử vì biết sẽ không được đa số đồng hương ủng hộ nên đã sắp sẵn mọi chương trình: từ gây rối để phá cuộc bầu cử, đến việc lập nên BTCBC sai nguyên tắc, đến việc bầu cử bất chính, đến gian dối trong bầu cử, kiểm phiếu... Hơn nữa, con số phiếu bầu ít ỏi như vậy (cho dù số người bầu còn ít hơn) không đủ để đại diện khối đồng hương Quảng Ngãi đông đảo tại Bắc California.

Điều quan trọng là không để Hội rơi vào “xu hướng chính trị” rồi phá vỡ mọi cơ cấu của một Hội “ái hữu” lấy “tình đồng hương” làm phương châm phục vụ và quan trọng nhất là không để Hội bị giật giây bởi các thế lực chính trị nằm bên sau. Điển hình trong Đặc san Xuân của nhóm Phan Q Nghiệp đầy dẫy bài viết tuyên truyền, cổ xúy cho hoạt động chính trị, đi khác với truyền thống của các Đặc San của các Hội bất vụ lợi. Điều nầy cũng cho thấy sự thiếu hiểu biết về luật pháp ở Hoa Kỳ là “một hội bất vụ lợi không được công khai tham gia sinh hoạt chính trị”, đến độ “dùng Đặc San”, tiếng nói chính thức của Hội để làm phương tiện tuyên truyền chính trị.

Ông Phan Q Nghiệp, Phan Minh Giảng cho rằng nhóm ông “thắng kiện”, vậy “nếu có người thách các ông ấy sử dụng lại 2 danh xưng “Hội Ái Hữu & Đồng Hương Quảng Ngãi Bắc California” hay “Hội Đồng Hương Quảng Ngãi Bắc California”, các ông ấy có dám không?” Người ta dễ biết con tắc-kè phải đổi màu da cho hợp với môi trường nó đang sống là để nó sống còn, để tránh địch thủ, thì việc 3 lần đổi tên thay tánh, cũng không khác nhau mấy. Ông Nghiệp còn viết “...Luật sư Michael Chinh Vũ đại diện Hội Ái Hữu Quảng Ngãi đã chính thức bãi nại vụ kiện”, với hai chữ “bãi nại” cho thấy ai là “bị cáo” rồi. Việc bãi nại xảy ra sau khi Nguyễn Đa và Lê Thiên Trúc, tự nhận là “sứ giả” của nhóm ông Nghiệp đã gặp ông Trần Ngọc Ảnh với lời yêu cầu, đại ý: “trước tiên là các ông bãi nại vụ kiện rồi mới nói đến chuyện ngồi lại với nhau” khi ông Ảnh nói lên lòng mong muốn hai Hội hợp nhất.

Trong tinh thần hòa dịu cũng như không muốn chèn ép quá mức nên BCH không muốn theo đuổi kiện tụng vì thấy rằng ông Nghiệp đã phải ba lần thay tên đổi danh, chừng đó cũng đã đủ rồi. Một điểm nữa, vì theo nguyên văn trong Thông Cáo Báo chí của ông Nghiệp “...và hoàn toàn độc lập tại vùng Bắc Cali, không liên hệ gì với Hội Ái Hữu Quảng Ngãi miền Bắc Cali của ông Trần Ngọc Ảnh”, nên BCH quyết định bãi nại chứ không phải vì nghe lời của “sứ giả” Đa và Trúc vì BCH biết rằng tiếng nói của 2 người nầy không có giá trị.

Sau khi ông Nghiệp đã “xuống nước” là “hoàn toàn độc lập... không liên hệ gì với HAHĐHQN.BC của ông Trần Ngọc Ảnh” và sau khi bãi nại, BCH đã đồng thuận với nhau là Hội không cần quan tâm đến, phần ai nấy làm. Tuy vậy, trong Đặc San Xuân, nhóm Phan Q Nghiệp cố tình muốn kéo sự vụ nầy lại, viết bài đả kích nên buộc lòng BCH mới làm sáng tỏ sự việc. Tất cả các sự kiện ghi trên đây đều có chứng từ bằng: văn bản, email, hình chụp, phóng ảnh, DVD, báo chí, thư gởi qua đường bưu điện v.v...Nếu quý vị đồng hương, thân hữu Quảng Ngãi nào cần tham khảo thêm, cần đối chiếu, có nghi ngờ hay muốn biết chi tiết, xin liên lạc với BCH của Hội, chúng tôi sẽ cung cấp, qua các địa chỉ: Bằng thư tín: BCH.HAH.QN.BC: 181 Obert Dr. San Jose, CA 95136, email: hahquangngai@yahoo.com. Chúng tôi có bổn phận phải trình bày mọi chuyện cho đồng hương QN hầu qua bài viết nầy, một bản tóm tắt mà chúng tôi nghĩ là đủ để đồng hương thấy được sự thật, chúng tôi chỉ “phản ứng” sau khi bị tấn công bằng nhiều phương tiện.

Trên đây là tóm tắt tất một số diễn tiến chính đã xảy ra kể từ đêm 2-3-2008 đến nay, đã tạo ra thêm một Hội Quảng Ngãi thứ hai. Đa số đồng hương và thân hữu Quảng Ngãi đã biết đâu là sự thật, đâu là lẽ phải nên đã tham gia đông đảo trong cuộc bầu cử BCH/HAHĐH.QN.BC nhiệm kỳ 2008-2011 vào ngày 28-9-2008 và BCH mới đã bắt tay vào việc. Tường trình nầy gởi đến đồng hương, thân hữu để quý vị hiểu rõ thêm mọi diễn biến, mọi nhận định tùy thuộc vào quý vị, để biết rõ “ai là người chịu trách nhiệm trong việc chia rẽ và gây ra những xáo trộn cho Hội Quảng Ngãi trong thời gian qua”.

Vì hoàn cảnh, chúng ta phải sống tha hương, việc thành lập Hội Ái Hữu và Đồng Hương Quảng Ngãi là nhu cầu để người Quảng Ngãi chúng ta cùng gặp lại nhau để hàn huyên, để ôn lại bao kỷ niệm vui buồn ở quê hương ngày nào, thực thi các chuyện quan hôn tang tế, khuyến học, cứu trợ Thương phế binh VNCH bên nhà, cứu trợ thiên tai bão lụt... đó là mục đích chính chứ không phải lập Hội để mưu cầu phục vụ cho thế lực chính trị nào. BCH mong mỏi đồng hương và thân hữu thấy được các mục đích tương thân tương ái cao cả của HAHĐH.QN.BC hầu mỗi đồng hương chúng ta cùng góp một tay để xây dựng lại một Hội Quảng Ngãi duy nhất tại miền Bắc California vững mạnh.

Xin cám ơn và trân trọng kính chào quý vị.
Ban Báo Chí tường trình.
- - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - -

Trang: 187:

NỖI NIỀM!

Tôi về đây
Bao nhiêu năm sau ngày chinh chiến
Lòng ngậm ngùi tìm lại con đường xưa
Sao thấy lạ từ bờ tre ngõ hẻm?
Lối ngày xưa tôi cắp sách đến trường
Giờ che lấp những hoang tàn đổ nát.

Tôi hỏi em: Con đường về xóm cũ?
Em ngập ngừng: Anh đứng trên mảnh đất xưa!

Em quay đi, lòng tôi thêm hiu quạnh
Rảo chân tìm một chút hương xưa!
Nhà đây ư! Vườn sau ngõ trước?
Bóng hàng dừa, mái lá, chuồng trâu?

Tôi chỉ em: nơi đây ngày xưa đánh đáo
Những đêm hè anh ngủ dưới mái hiên ni
Em mỉm cười nhìn tôi, em nói: Dị
Đã xa rồi anh quên nó đi.

Em đưa tôi trở về phố thị
Bước ngập ngừng đi giữa quê hương
Sao xa lạ như người lữ khách!

Đồng Sa Băng
Xuân Quảng Ngãi 2007

Đọc sách nổi tiếng:

Đoạn kết trong truyện “Trại Súc Vật” (Animal Farm, xuất bản năm 1945) của George Orwell (1903-1950), một văn hào Anh:

“Trong ánh nắng chiều, bầy thú đứng ngoài nhìn qua cửa sổ thấy bầy heo và người đang ăn uống vui-vẻ. Dưới ánh đèn tờ mờ, họ bỗng nhiên không còn nhận ra đâu là người và đâu là heo nữa”.
Nó giống như Xã hội Việt Nam sau 30-4-1975.
- - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - -

Trang: 188

ĐỜI LÀ BỂ KHÔ KIẾP NGƯỜI LÀ TRẦM LUÂN
Minh-Hùng Trương-Quang-Đại

Đúng vậy. Ngay trong Cung Oán Ngâm Khúc đã có câu “Đã mang tiếng khóc ban đầu mà ra”. Mọi người đang lặn hụp trong bể khổ nhưng dường như không hay biết! Nếu không khổ thì đâu có việc chúc nhau đươc “Phước, Lộc, Thọ”?

Thử kiểm-điểm lại xem, khi một đứa trẻ mở mắt chào đời chưa biết gì, cha mẹ nuôi dưỡng nhưng khi được vài tuổi chúng đã được gởi vào nhà giữ trẻ. Dầu không bắt buộc nhưng các Cô trong nhà trẻ đã bắt chúng nó học từng câu nói rồi đến học lần những chữ cái A, B, C vì dù sao khi cha mẹ đem con về đều hỏi hôm nay con làm gì, học được gì? Vì vậy đương nhiên các Cô trong vườn trẻ buộc lòng có trách-nhiệm thúc đẩy đứa trẻ phải học nói và lần lần học chữ!

Lớn lên vài tuổi nữa là đưa vào trường tức là bước vào con đường dài cho đến khi trưởng thành, có bằng cấp hay ít ra có nghề-nghiệp chuẩn-bị cho sự sống của trọn cuộc đời phải bơi lội không ai có thể tránh khỏi!

Ra trường rồi, có bằng cấp, có nghề-nghiệp đâu phải là hết. Đây mới là bước vào giai-đoạn cam go liên tục. Kiếm việc làm nuôi sống. Khi có được công ăn việc làm tiếp theo là việc lập gia-đình. Một gánh nặng và trách nhiệm kề bên lưng. Trách-nhiệm với người hôn-phối, trách nhiệm với con cái. Chưa hết. Lo cho có nơi ăn chốn ở: Mua nhà nợ vì nhà, mua xe nợi vì xe. Trăm thứ chi-phí và sửa chữa tới tấp đỗ lên đầu.

Nếu mọi sự song suốt có thể nói là may mắn nhưng trường hợp sanh làm dân một nước nhược tiểu như chúng ta, hết chiến tranh này đến chiến tranh nọ. Thay đổi chế-độ như trở bàn tay. Tuổi trẻ khó tránh được nghĩa-vụ quân-sự hay động viên. May thì thoát bàn tay tử thần còn không may thì bị thương tích. Nhẹ thì tạm lo chữa trị, nặng thì chịu tàn phế trọn đời.

Chưa hết. Vì vấn-đề an-ninh hoặc phải chạy loạn, hoặc bị tù đày. Tánh mạng như chỉ mành treo chuông. Có khi chết trong trại giam. Khi được thả về tìm cách vượt biên chịu lênh-đênh trong bể cả, chịu đói rét hoặc khi được tấp vào nơi nào hay hải đảo nào đó thì nằm chờ hàng năm mới được bảo lãnh.

Thế rồi lo xây dựng một cuộc đời mới. Phải chấp nhận mọi gian khổ để tìm sự sống qua ngày. Khi tạm ổn-định được là tuổi đời đã chồng chất, bệnh tật kéo sau lưng. Một trăm nỗi khổ dồn dập. Nghe nói qua thật là bi quan nhưng đó là cả một sự thật không chối cải được. Biết than thân trách phận với ai bây giờ.

Gieo nhân là gặt quả. Người có nghiệp tốt gặp quả lành, người tạo nghiệp xấu lảnh quả dữ biết đõ cho ai. Mình làm mình chịu kêu nài ai thương. Kiếp người là như vậy biết chạy trốn đi đâu.

Trên các cõi Trời, chư Tiên, chư Thánh chỉ cần dùng tư-tưởng là giải-quyết được nhu cầu của sự sống. Không bao giờ nghe nói đến bệnh tật. Chính bệnh tật mới là nổi khổ đau của kiếp nhân sinh. Theo lịch sử nhân loại từ khi có sự sống, con người đã phải đi tìm thức ăn để nuôi thân rồi đến tìm thuốc để trị bệnh. Xa hơn nữa tìm những phương cách để trường Thọ đối đầu với cái Chết mà không ai thoát khỏi.

Cũng vì Đời là bể khổ nên Thánh nhân mới bày ra con đường thoát khổ. Vậy muốn trốn khổ thì phải làm sao đây? Tìm đường giải thoát bằng cách nào đây? Tôn giáo đưa ra thuyết luân hồi với hy-vọng là cầu mong kiếp sau có cuộc sống Cao hơn: Giàu có, Khỏe mạnh, Danh vọng hơn kiếp hiện tại. Nói chung nó nằm trong 3 chữ “Phước, Lộc, Thọ”

Theo nguồn gốc y học cổ truyền thì khi trình độ văn minh còn thấp kém người ta không tự giải-quyết được những khó khăn bản thân nên người xưa thường phải cầu nguyện các đấng vô hình hoặc xin chỉ dẩn cho những phương thuốc Tiên, thuốc Thánh để trị bệnh hoặc cầu xin được phước lành cho bình an vô sự.

Trên thực tế đã có nhiều người được sự phù hộ này nhưng đó chỉ là cách giải quyết tạm thời rồi đâu cũng vào đó tức là cũng phải trở lại sự lặn hụp trong bể khổ và cũng vì thế mới khai sinh ra tôn giáo dùng đức tin để an-ủi giải-tỏa những nổi khổ của cuộc sống phàm-tục.

Nói đến tôn-giáo là nói đến thế giới siêu hình tức là chỉ có trong trí tưỏng con ngưòi chứ nào ai trông thấy hoặc có thể chứng minh ra được. Vậy mà nhân loại bất cứ là Đông phương hay Tây phương hể gặp khổ là đến Chùa, đến nhà Thờ cầu thoát khổ.

Cũng vì lẻ ấy mà tôn giáo đời đời kiếp kiếp không những tồn tại mà còn phát triển thêm ra. Ai xúc phạm đến đức tin còn có thể nguy hại đến tính mạng,

Nhiều phạm nhân vì bị tối tăm che lấp lao đầu vào tội lỗi nhưng khi đã bị tố cáo rồi, tiếp đến bị tù đày lúc đó mới nhận ra là mình bị cái tham lam, cái sân hận lôi cuốn mà không hay biết và lúc biết rồi thì đã quá muộn hết đường cứu chữa.

Nếu đời chỉ toàn là những chuỗi ngày sung sướng thì người ta chỉ lo việc hưởng thụ đâu có cần phải làm việc cực nhọc để kiếm sống, để cầu danh vọng cũng chẳng qua vì tự bản thân không giải-quyết nỗi nên phải dùng đến việc cầu xin ơn trên phù hộ.

Khi biết mình là khổ thì lo tìm đường thoát khổ cũng như khi lầm đường lạc lối mà biết mình lầm đường lạc lối là phải quay lại tìm đường chính. Cái khó là khi lâm vào đường bậy mà vẫn không hay để rồi mản kiếp này lại tìm thân khác mà đầu thai trở lại, quanh quẩn chẳng biết đến kiếp nào mới hết, cứ càng ngày càng tiến sâu vào mãi mãi mới là đáng thương hại.

Nhiều người cứ đinh ninh rằng kiếp con người đương nhiên là vậy tức là phải chấp nhận những đòi hỏi của cái thân bằng xương bằng thịt, phải chịu đói khổ bệnh tật cho đến một ngày hết mạng sống dầu có bồi dưởng bao nhiêu đi nữa. Như vậy là chính mình đi vào con đường cùng mà không tự biết để quay lại.

Ở cỏi đời này khó ai sống quá 100 tuổi thọ trong khi những cung Trời trên ta tuổi thọ gấp 100 gấp 1,000,000 lần. Chỉ cần nói đến những cỏi Trời Dục, cỏi Sắc và Vô Sắc kê sau đây thì chúng ta mới thấy là kiếp người quá ngắn ngủi và đầy đau khổ nên mới có câu là “Đời là Bể Khổ, Kiếp Người là Trầm Luân”.

Sau đây là tuổi Thọ ở các cung Trời trên của chúng ta:

Dục giới hay còn gọi là Diêm Phù Đề gồm có: Cỏi người chúng ta đang sinh sống.

Ngay liền trên cõi Người là:

-Trời Tứ Đại Thiên Vương gần chúng ta nhất đã có tuổi thọ 500 năm (tính theo tuổi trời). Một ngày 1 đêm ở Cỏi Trời bằng 50 năm ở Cỏi Diêm Phù Đề của chúng ta.

-Trời Đạo-Lợi, 1 ngày 1 đêm Trời Đạo Lợi bằng 1000 năm trời Diêm Phù Đề của chúng ta. Vua của Cỏi này là Đế Thích Hoàn nhân.

-Trời Dạ Ma phía trên trời Đạo lợi có tuổi thọ là 2000 năm theo năm trên đó.

-Kế tiếp là Trời Đấu Xuất có tuổi thọ là 4000 năm cỏi đó. Xin ghi chú thêm là Đức Phật Di-Lặc đang trụ ở Cỏi này chờ ngày đản sinh về Cỏi Sa-bà chúng ta

-Trên nữa đến Trời Hóa Lạc có tuổi thọ là 8,000 năm

-Trên cùng là Trời Tha hóa Tự tại. Ma Vương là Vua cõi này. Bọn chúng thường hay quấy rối những vị tu hành có đạo hạnh cao. Chúng có khả năng tạo ra kẻ hầu người hạ (tha hóa) Thưòng những vị tu phước (chứ không tu huệ) được sanh về cỏi này cho đên hết nghiệp lành là tái sanh về cỏi người. Tuổi thọ của ma dân (nam, nữ) lên đến 16,000 năm trên ấy.

Được gọi là Trời Dục tức là còn có tham dục. Có nam và nữ giới nên còn chịu sinh đẻ nhưng chúng sinh ở đây chỉ cần liếc mắt đưa tình hay sờ vào nhau là đã thụ thai và sinh từ một cục bứơu nơi vai, nơi nách chứ khỏi phải chịu sự bẩn thỉu máu mủ như loài người. Bé sơ sanh đã bằng trẻ 15, 17 tuổi.

Trên Cỏi Dục là các cỏi Sắc và Vô Sắc chúng sinh trên ấy chỉ thuần một giống không nam, không nữ nên không còn chịu sự sinh đẻ nữa

Hết Dục giới là Sắc giới gồm có:

-Trời Phạm Chúng tuổi thọ là 1/3 A tăng kỳ (Asankheyya Kappa)

-Trời Phạm Thiên có tuổi thọ là ½ A tăng kỳ.

-Trời Đại Phạm Thiên tuổi thọ là 1A tăng kỳ

Cả 3 Cung Trời này đều thuộc Sơ thiền Sắc Giới.

-Trời Thiều Quang có tuổi thọ là 2 Đại A tăng kỳ (Maha Kappa)

-Trời Vô lượng Quang có tuổi thọ là 4 Đại A Tăng kỳ.

-Trời Đại Phạm có tuổi thọ là 8 Đại A tăng kỳ.

Cả 3 Cung trời này đều thuộc Nhị Thiền Sắc Giới.

-Trời Thiền Tịnh có tuổi thọ là 16 Đại A tăng kỳ

-Trời Vô Lương Tịnh có tuổi thọ là 32 Đại A tăng kỳ

-Trời Biến Tịnh có tuổi thọ là 64 Đại A tăng kỳ.

Cả 3 Cung Trời này đều thuộc Tam Thiền Sắc Giới.

-Trời Quảng Quả có tuổi thọ là 500 Đại A Tăng kỳ

-Trời Vô Tưởng cũng có tuổi thọ là 500 Đại A Tăng kỳ

Phía trên là:

-Cảnh giới Trường Cữu có tuổi thọ là 1,000 Đại A tăng kỳ,

-Cảnh giới Thanh-Tịnh có tuổi thọ là 2,000 Đại A tăng kỳ

-Cảnh giới Đẹp Đẽ có tuổi thọ là 4,000 Đại A tăng kỳ

-Cảnh gới Quang-Đảng có tuổi thọ là 8,000 Đại A Tăng kỳ.

-Cảnh giới tối Thượng có tuổi thọ là 16,000 Đại A Tang kỳ

Cả 5 Cảnh giới trên đều Trời Vô Phiên nhưng còn nằm chung trong Tứ Thiền Sắc Giới.

Tột cùng là Cõi Trời Vô Sắc Giới:

-Trời Vô Biên Xứ có tuổi thọ là 20,000 Đại A Tăng kỳ

-Trời Thức Vô Biên Xứ có tuổi thọ là 40,000 Đại A Tăng kỳ

-Trời Vô Sở Hữu Xứ có tuổi thọ là 60,000 Đại A Tăng kỳ

-Trời Phi Tưởng Phi Phi Tưởng có tuổi thọ là 84,000 Đại A Tăng kỳ. Xin ghi chú thêm chính Cỏi Trời này là nơi Ngài Uất Đầu Lam Phát vị thầy sau cùng của Đức Bổn Sư khi còn đang tầm sư học Đạo đã có thể nhập-định đến.

Cả 4 Cỏi Trời trên này đều thuộc Vô Sắc Giới. Tuy nhiên dù các Cõi Trời Sắc hay Vô Sắc đều còn phải chịu kiếp sinh tử, luân-hồi mà cụ thể là Ngài Uất Đầu Lam Phát khi đã lên đến bậc cao nhất Cõi Vô Sắc tức là Trời Phi Tưởng Phi Phi Tưởng nhưng chỉ vi khi thiền định bị chim làm tổ trên đầu gây tức giận đã bóp chết các chim con và còn ý định rượt đuổi chúng nên đã phải đầu thai vào con Phi Ly tức Chồn bay đến nỗi khi Đức Bổn Sư thành Đạo trở lại cứu nhưng không kịp nữa.

Thiền định đến được các Cung Trời Dục giới, Sắc Giới và Vô Sắc giới tuy tốn mất rất nhiều công phu và lâu dài mới đạt đến nhưng đều phải chịu cảnh luân-hồi chứ không như Cỏi Nước Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà. Một khi được vãng sinh lên rồi là Bất Thối Chuyển tức là không còn bị quay về khổ cảnh của kiếp Người để nhận chịu mọi sự hành-hạ của tấm thân Tứ Đại (Đất, Nước, Gió, Lửa) Sinh, Già, Bệnh, Chết.

Theo Đức Phật thì trong vũ trụ vô tận có Ba Ngàn Đại Thiên thế Giới. Một Đại Thiên Thế-giới có 1,000 Trung Thiên Thế-giới. Một Trung Thiên Thế-giới có 1,000 Tiẻu Thiên Thế-giới và mỗi hành tinh đều có chúng sinh cư trú nhưng vì nghiệp-lực khác nhau nên chúng ta là chúng sinh ở cỏi thấp-thỏi hơn không không thể trông thấy họ được giống như loài Cá tuy ở cùng quả đất chúng ta nhưng chúng nào biết con người là gì vì Cá lên khỏi mặt nước là chết rồi. Chỉ có người đã mở được Thiên nhản họa may mới thấy biết được và đem kể lại cho chúng ta nghe. Sách có kể câu chuyện anh Rùa lên dạo chơi đất liền một vòng khi trở về gặp chị Cá kể chuyến hành-trình. Chị Cá không hiểu gì cả nên hỏi anh Rùa Đất liền là gì ? Đất liền có trong suốt và có bơi lội được không? Anh Rùa giảng giải nhưng chị Cá không tưởng tượng và hiểu được gì liền cho đó là bịa đặt hư huyễn không sao tin nổi. Chẳng khác gì nói chuyện về các Cỏi Trời cho người Phàm-tục nghe vậy!

Nhiều người từng đặt câu hỏi là quả có thật những cỏi Trời như nói trên hay không. Xin thưa là nhất định phải có. Chúng ta không thấy được nhưng những nhà tu-hành đắc đạo, mở được thiên nhản hoặc thiền-định tinh-tấn từng biết được mới đem kể lại viết hay nói lên cho chúng ta nghe. Có người còn đặt câu hỏi là ngày nay khoa-học văn minh từng phóng được phi-thuyền tận các hành tinh khác nhưng nào trông thấy có người ở. Xin phép thưa rằng :”Mỗi chúng sinh có nghiệp lực khác nhau nên người trần mắt thịt chưa đủ khả năng trông thấy chư Tiên hay chư Thánh, chẳng khác nào những con Cá cùng ở chung một quả đất với chúng ta nhưng khi Cá lên khỏi măt nước là chết. Do đó Cá nào biết chúng ta là gì đâu”! Chúng ta nghiệp lực còn thấp nên không thấy được bậc trên trong khi các bậc trên nhìn biết chúng ta. Cũng vì thế mới có vấn-đề cầu đảo xin thuốc hay phù hộ cho tai qua nạn khỏi hay cứu giúp cho việc này việc nọ.

Thế mới biết là những cỏi Trời kiếp sống của họ đã quá dài so với kiếp sống của nhân-loại ờ cỏi Sa-bà này chưa cần so với Nước Cực Lạc của Ngài A-Di Đà. mọi thứ đều không thể dùng trí tuệ hay mắt phàm để tính đếm được như Vô Lượng Thọ (tuổi) Vô Lượng Tướng (hình) Vô Lượng (hào) Quang. Đúng là cỏi lý trưởng đối với phàm nhân chúng ta.

Khi biết được Đời là Bể khổ cũng như người đi lầm đường nhận thức được để tìm cách quay lại lúc ấy mới tạm gọi là thoát khỏi lưới Vô Minh (tối tăm) đang che lấp trí tuệ của mình. Nếu vẫn còn đinh ninh là đang đi vào đường chánh-đáng mới là tội nghiệp.

Làm thân con người hơn nhau là thấy được con đường phải đi để thoát ra ngoài Bể Khổ Trầm Luân sang được bên Bến Giác đời đời Sống An Vui Tự tại khỏi bận tâm gì cả, hưởng đủ 3 Ước-vọng Phước, Lộc, Thọ mà ai ai cũng mong chờ, cầu chúc cho nhau.

Minh-Hùng Trương-Quang-Đại
- - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - -

Trang: 194

NỖI NHỚ QUÊ HƯƠNG

Thêm mùa Xuân nữa sống tha phương
Đau đớn lòng tôi khóc đoạn trường
Tôi viết thơ nầy bằng nước mắt
Gởi về quê Mẹ với niềm thương

Bao nhiêu năm tháng xa cố hương
Là ấy nhiêu sầu với nhớ thương.
Cơm áo đầy no vẫn chán chường
Chuyên đời đen bạc cảnh xa phương
Sáng nay chợt thấy bông đào nở
Ngơ ngẩn lòng tôi nhớ cố hương
Nhớ mùa Xuân cũ ở quê hương
Nhớ mãi cánh đồng trong kỷ niệm
Áo mới đủ màu duyên đáng đẹp
Xuân xưa rực rỡ hoa mai nở
Mức bí mức gừng thơm cay ngọt
Tấp nập người đi chật phố phường
Giao thừa đốt pháo mừng Xuân mới
Nghi ngút bàn thờ đầy khói hương
Ngày Xuân xứ Mẹ thật vui sướng
Má đỏ như tô lớp phấn hồng.

Tân Nguyễn
- - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - -

Trang: 195

CÓ NÊN DÙNG NGÔN NGỮ ĐANG XỬ DỤNG TRONG NƯỚC KHÔNG?
Đào Văn Bình

điều rất lạ là cho dù chúng ta, Miền Nam và cả Miền Bắc trước khi có Cộng sản, cũng đã có “tiếng Việt trong sáng” đã học nó, đã xử dụng nó, đã gần gũi quen thuộc với nó. Ngày xưa các Đại học của chúng ta đã cấp bao nhiêu bằng Cử Nhân, bao luận án Cao Học, Tiến Sĩ, biết bao nhiêu tác phẩm văn chương, biên khảo mà giá trị vẫn còn tồn tại với thời gian mà có cần phải xử dụng “một chữ” nào của Cộng sản đâu? Chẳng lẽ ngôn ngữ của chúng ta nghèo nàn tới độ phải “dùng đỡ” ngôn ngữ của VC? Hai mươi mấy năm ở hải ngọai hòan tòan không có hiện tượng này. Bỗng dưng gần đây trên báo, đài phát thanh hoặc liên mạng tòan cầu lại xuất hiện một lọai ngôn ngữ bắt chước VC: Đó là dùng hai chữ “Thông Tin” để thay cho hai chữ “Tin” hoặc “Tin Tức”.

1) Về hai chữ “Thông Tin” (sự loan truyền tin tức)

Ở cấp Xã ngày xưa chúng ta có “Phòng Thông Tin”. Ở trung ương (Sài Gòn) chúng ta có “Bộ Thông tin” và các “Phòng Thông Tin Quốc Ngọai” tại các tòa đại sứ. Chữ “Thông Tin” ở đây có nghĩa là gửi đi, truyền đi các tin tức. Vậy rõ ràng Thông tin là một “Động từ” (verb). Nếu nó là “Danh từ” (noun) thì nghĩa của nó là sự loan truyền, sự gửi đi tin tức. Tự thân chữ Thông Tin không bao giờ có nghĩa là Tin Tức cả. Ngày xưa chúng ta thường nói “Thông tin cho nhau”.

2) Còn tin tức/ tin = news.

Các hãng thông tấn gửi đi bản tin chứ không gửi đi Bản thông tin (Bản tin là nói đến các tin tức thu lượm được. Bản thông tin là bản để liên lạc, thông báo cho nhau cái gì đó. Hai chữ hòan tòan khác nhau)

Tin vắn, tin ngắn (news in brief) chứ không phải thông tin vắn

Tin hàng đầu (headlines) chứ không phải thông tin hàng đầu.

Tin khẩn cấp chứ không phải thông tin khẩn cấp. Thông tin khẩn cấp có nghĩa là thông báo khẩn cấp.
Tin trong nước chứ không phải thông tin trong nước

Tin nước ngòai, tin ngọai quốc chứ không phải thông tin ngọai quốc

Các ký giả đi săn tin chứ không đi săn thông tin.

Tin giật gân chứ không phải thông tin giật gân

Tin nhảm nhí chứ không phải thông tin nhảm nhí. Khi chúng ta nói thông tin nhảm nhí thì người đọc/người nghe có thể hiểu lầm là cơ quan đó, hãng thông tấn đó chuyên loan tin nhảm nhí.

Tin tức mình chứ không phải thông tin tức mình

Tin mừng chứ không phải thông tin mừng

Tin vui ( như cưới hỏi) chứ không phải thông tin vui.

Tin buồn ( như tang ma) chứ không phải thông tin buồn

Tin động trời chứ không phải thông tin động trời.

Tin sét đánh ngang đầu chứ không phải thông tin sét đáng ngang đầu

Tin hành lang chứ không phải thông tin hành lang. Thông tin hành lang là đi săn tin ở ngòai hành lang, nghe lóm, không qua phỏng vấn, trực tiếp truyền hình, họp báo v.v.. Còn tin hành lang là tin nghe lóm được từ hành lang. Hai thứ hòan toan khác nhau.

Tin chó cán xe, xe cán chó chứ không phải thông tin chó cán xe, thông tin xe cán chó.

Do đó khi chúng ta nói “thông tin chó cán xe” có nghĩa là chúng ta làm công việc đưa tin về con chó cán xe! Như thế là sai, mà phải nói là “tin chó cán xe”.

Ngày xưa khi gặp nhau, muốn tìm hiểu về tình hình thời sự chúng ta đều hỏi “Anh có tin tức, có tin gì mới lạ không?”. Nếu chúng ta nói “Anh có thông tin gì không?” thì người ta sẽ ngạc nhiên họăc không hiểu. Họăc người nào hiểu biết có thể nghĩ rằng:

1. Người này nó muốn hỏi mình “có đi loan truyền tin tức gì không?”.

2. Hoặc thằng cha này chắc ở ngòai Bắc với VC lâu ngày nên tiêm nhiễm ngôn ngữ của VC!

Dùng hai chữ “Thông Tin” để thay cho chữ “Tin” hoặc “Tin Tức” chẳng khác nào nói:

-Con sâu mỡ để thay cho cái lạp xưởng.

-Cái nồi ngồi trên cái cốc để thay cho cà-phê phin.

-Đồng hồ 2 cửa sổ thay cho đồng hồ chỉ ngày và giờ.

-Bú mồm thay cho hôn.

-Khẩn trương để thay cho nhanh lên

-Xưởng đẻ thay cho nhà bảo sanh

-Cái đài thay cho máy thu/phát thanh.

-Nhà ỉa thay cho cầu tiêu/nhà vệ sinh

-Chùm ảnh để thay cho một lọat những hình ảnh, một vài hình ảnh

-Chùm ảnh (cuốn Album) để thay cho tập lưu giữ/ lưu trữ hình ảnh.

-Món ăn hoành tráng để thay cho món ăn ngon, món ăn sang.

-Anh muốn quản lý đời em thay vì anh muốn về chung sống với em, anh muốn lấy/cưới em.

-Tham quan để thay cho du ngoạn, thăm viếng

-Giá kinh tế thay cho giá rẻ

-Cự ly thay cho khỏang cách

-Sự cố thay cho trở ngại, trục trặc

-Tranh thủ thay cho cố gắng, ráng lên

-Anh muốn liên hệ tình cảm với em để thay anh muốn làm quen với em, muốn kết bạn với em.

-Căn hộ thay cho căn nhà.

-Tư liệu thay cho tài liệu

-Phía Nam thay cho Miền Nam (VC rất kỵ dùng hai chữ Miền Nam)

-Đại trà để thay cho cỡ lớn, quy mô.

- Đại táo để thay cho nấu ăn tập thể, ăn chung.

-Kênh phát sóng thay cho Đài: Đài Fox News, Đài CNN, Đài Số 5, Đài SBTN...

-Phi Khẩu Tân Sơn Nhất thay cho Phi Cảng Tân Sơn Nhất (Khẩu là cửa sông chính để ra vào, không thể dùng cho một phi trường được)

-Trời hôm nay có khả năng mưa thay vì “hôm nay trời có thể mưa”

-Người dân địa phương chủ yếu là người H’mong Hoa - thay cho “Dân địa phương phần lớn là người H’mong Hoa”

-Đồng Bào Dân Tộc để thay cho Đồng Bào Sắc Tộc (Dân tộc là People, Sắc Tộc là Ethnic)

-Lính gái thay cho nữ quân nhân

-Thu nhập thay cho lợi tức (lợi tức mỗi năm, mỗi tháng, lợi tức tính theo đầu người v.v..) Thuế lợi tức (income tax)

-Vietnam Air Traffic Management ngày xưa chúng ta dịch là: Quản Trị Không Lưu Việt Nam, ngày nay cán ngố VC dịch là: Trung Tâm Quản Lý Bay Dân Dụng VN!!! Thật điên đầu và không hiểu gì cả!

-Đầu Ra, Đầu Vào (input, output) để thay cho Lối Ra và Lối Vào.

-Rất ấn tượng thay vì đáng ghi nhớ, đáng nhớ/ để lại hình ảnh khó quên

-Đăng ký thay vì ghi tên, ghi danh, đăng bạ.

-Các anh đã quán triệt chưa? Thay vì các anh đã hiểu rõ, thông suốt chưa?

-Học tập tốt thay vì học giỏi. Tôi còn nhớ sau ngày Cộng quân cưỡng chiếm Miền Nam, trong khi chờ đợi lệnh “học tập cải tạo” của Ủy Ban Quân Quản, nghe bài diễn văn của Phạm Văn Đồng mà vừa buồn vừa xấu hổ cho bọn lãnh đạo Miền Bắc, nào là: Học tập tốt, lao động tốt, báo cáo tốt, tư tưởng tốt, quán triệt tốt, quản lý tốt, quy họach tốt, sản xuất tốt, quan hệ tốt, cảnh giác tốt…cái gì cũng tốt. Chỉ còn thiếu: Ăn tốt, đái tốt, ngủ tốt, ỉa tốt nữa là xong! Vào tù chúng tôi cứ than thở với nhau “ Nó ngu dốt thế mà nó thắng mình mới đau chứ!” Ôi! Quân Hung Nô tràn vào Trung Hoa!

-Doanh nghiệp để thay cho công ty. (Công ty là một hình thức tổ hợp, hùn vốn để kinh doanh. Còn doanh nghiệp giống như thương nghiệp là nghề nghiệp kinh doanh, buôn bán, nông nghiệp là làm nông, ngư nghiệp là đánh cá. Ngày hôm nay tại Việt Nam hai chữ doanh nghiệp được dùng lan tràn để thay thế cho hai chữ Công Ty. Sau đây mà một mẩu tin ngắn của tờ Thời Báo Kinh Tế Sài Gòn “Hội chợ A&F Expo 2005 sẽ diễn ra tại TPHCM trong năm ngày, từ ngày 6 đến 104-2005 với 100 doanh nghiệp xuất khẩu tham dự.”

-Tiêu dùng thay vì tiêu thụ

-Cây xanh thay vì cây (Cây nào mà lá chẳng xanh? Nói thêm chữ xanh là thừa. Nếu tìm hiểu kỹ hơn nữa thì tại Hoa Kỳ này chúng ta thấy khó khá nhiều cây lá màu nâu, nâu đậm. Nếu nói cây xanh là sai. Nói cây là bao gồm tất cả rồi. Xin mấy ông bà ở hải ngọai đừng bắt chước VC dùng hai chữ cây xanh.)

-Quan chức để thay cho viên chức. Thật quái gở nếu ở hải ngọai này chúng ta đưa tin như sau “Một số vị lãnh đạo các đòan thể và cộng đồng tỵ nạn đã gặp gỡ một số quan chức ở Bộ Ngọai Giao.”

-Xử lý thay vì giải quyết, chấn chỉnh, tu sửa v.v… Vì VC ngu dốt, thiếu chữ cho nên cái gì cũng dùng hai chữ xử lý: Bộ điều khiển trong máy điện tử cũng gọi là bộ xử lý. Bác sĩ giải phẫu được một ca khó khăn cũng nói là xử lý. Giải quyết giấy tờ, hồ sơ, đơn khiếu nại của dân chúng cũng gọi là xử lý. Bỏ tù người ta “mút mùa lệ thủy” cũng gọi là xử lý thích đáng!

- Bài nói thay vì bài diễn văn.

-Người phát ngôn thay cho phát ngôn viên.

-Bóng đi rất căng thay vì quả banh/bóng đi rất nhanh/mạnh.

-Tinh hình căng lắm thay vì tình hình căng thẳng. Tiếng Mỹ căng như sợi dây căng (stretch) còn tình hình căng thẳng là (intense situation)

-Cú shock thay vì bàng hòang, kinh hoàng.

-Liên Hoan Phim thay để cho đại hội điện ảnh. Ngày xưa chúng ta dùng chữ Đại Hội Điện Ảnh Canes.

-Ô tô con, xe con để thay cho xe du lịch.

-Ùn tắc để thay cho kẹt xe, xe cộ kẹt cứng.

-Bức xúc để thay cho dồn nén, dồn ép, bực tức, đè nén.

-Động thái để thay cho động tác, hành động.

-Đề xuất để thay cho đề nghị.

-Múa hiện đại (Yoga) thay cho Yoga

-Múa đôi thay cho khiêu vũ

-Trung tâm nghe và nói thay cho đài truyền hình

-Trung Văn thay cho Tiếng Tàu

-Tổ lái thay cho phi hành đòan. Nếu vậy thủy thủ đòan có gọi là tổ lái không?

-Cái xe này trình độ lắm để thay cho cái xe này chạy bền, tốt lắm

-Cực kỳ: Cái gì cũng cực kỳ, chẳng hạn như Giá rẻ cực kỳ để thay cho giá thật rẻ, rất rẻ, rẻ mạt.

-Nói chuyện trực tuyến thay vì nói chuyện trực tiếp (Dùng chữ trực tuyến – danh từ của Hình Học- làm người nghe có cảm tưởng đây là đường thẳng (trái với đường cong).

-Nghệ sĩ nhân dân? Quả tình cho tới bây giờ tôi không hiểu Nghệ Sĩ Nhân Dân là thứ nghệ sĩ gì? Xin vị nào hiểu nghệ sĩ nhân dân là gì xin giảng cho tôi biết.

Đấy, ngôn ngữ của VC là như thế đó! Đó là thứ ngôn ngữ của lớp người chuyên vác AK, đeo mã tấu đi giết hại đồng bào, đặt mìn phá cầu phá đường, ngồi trên dàn cao xạ bắn máy bay Mỹ, lê lết tại các công-nông-trường tập thể, sống chung đụng tại các lán, trại trên Đường Mòn Hồ Chí Minh sống nay chết mai, chui rúc tại các khu nhà tập thể tại Hà Nội không có chỗ để giải quyết sinh lý mà phải đưa nhau ra các công viên để làm tình. Trong xã hội này thì trí thức hoặc đã bị giết hết cả, nếu còn sống thì giá trị cũng không hơn cục phân, cho nên văn hóa bị hủy diệt. Khi văn hóa bị hủy diệt thì ngôn ngữ, chữ viết chết theo hoặc biến dạng theo.

Còn ngôn ngữ của Miền Nam thì sao? Về cổ văn, nó là cả một sự thừa kế tinh ròng và chuyển hóa từ thời Hồng Bàng, qua các thời đại huy hòang của Đinh, Lê, Lý, Trần, Lê. Từ các áng văn chương, lịch sử trác tuyệt của các cụ Ngô Sĩ Liên, Lê Văn Hưu, Ngô Thời Sĩ, La Sơn Phu Tử, Nguyễn Bình Khiêm, Nguyễn Trãi, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, Nguyễn Du, Nguyễn Gia Thiều, Đòan Thị Điểm, Đặng Trần Côn. Rồi khi chữ Quốc Ngữ đựơc phát minh, nó lại được chắp cánh thêm bởi Tản Đà, Nam Phong Tạp Chí, Hoàng Xuân Hãn, Tự Lực Văn Đòan. Rồi khi “di cư” vào Miền Nam (Xuôi Nam một dải biên cương dặm ngàn) nó lại được phong phú hóa, đa dạng hóa, văn chương hóa bởi các Nhóm Sáng Tạo, Vũ Hòang Chương, Doãn Quốc Sĩ, Phạm Thiên Thư, Phạm Duy. Về văn chương Miền Nam lại có Đồ Chiểu, Bình Nguyên Lộc, Hồ Biểu Chánh góp phần thêm vào đó. Rồi về ngôn ngữ triết học lại có các học giả như: Nguyễn Đăng Thục, Cao Văn Luận, Phạm Công Thiện, Trúc Thiên, Tuệ Sĩ, Trí Siêu. Về mặt ngôn ngữ ngọai giao, kinh tế, xã hội, hành chánh, y khoa, giáo dục chúng ta có các bậc thầy như: Nguyễn Cao Hách, Đòan Thêm, Vũ Văn Mẫu, Phạm Biểu Tâm, Vũ Quốc Thúc v.v...Tất cả đã đóng góp, lưu truyền, kế thừa, đúc kết cho hình hài, linh hồn ngôn ngữ Việt Nam, kế thừa của ngôn ngữ Dân Tộc - mà ngôn ngữ Miền Nam chính là biểu tượng còn xót lại. Ngôn ngữ Cộng sản bây giờ là sản phẩm do lớp người ngu dốt tạo ra trong một xã hội nghèo đói, mà tầng lãnh đạo lại là một thứ đại ngu xuẩn và gian ác. Nhìn ra ngòai thế giới, hầu hết các vị lãnh đạo nước Pháp đều xuất thân từ trường ENA (Trường Quốc Gia Hành Chánh). Hầu hết những người điều khiển nước Mỹ đều xuất thân từ các trường luật. Cứ thử nhìn xem những người lãnh đạo Việt Nam như Nông Đức Mạnh, Nguyễn Văn An, Nguyễn Tấn Dũng, Nguyễn Minh Triết họ tốt nghiệp những trường nào? Chắc là các trường đào tạo du kích, công an, đặc công họăc Viện Mác Lê? Lãnh đạo thì như thế, “đội ngũ cán bộ văn hóa” thì ngu dốt như thế thì nó phải sinh sản ra một thứ văn hóa, ngôn ngữ quái dị như thế. Vậy thì bảo vệ, duy trì, phát huy “Văn Hóa, Ngôn Ngữ Miền Nam” không phải chỉ là việc kỳ thị, hoặc mặc cảm đối với văn hóa VC, mà còn là để bảo vệ, giữ gìn cho một nền văn hóa, ngôn ngữ tốt đẹp của dân tộc đang có nguy cơ diệt chủng. Nếu chúng ta không làm, chúng ta sẽ đắc tội với thế hệ con cháu mai sau.

Đào Văn Bình
(Tháng 2, 2009)

Ghi chú: Bài viết này cũng còn để cảm thông, chia xẻ với:

- Trịnh Thanh Thủy tác giả bài viết “Cái Chết Của Một Ngôn Ngữ: Tiếng Việt Sài Gòn Cũ”
- Chu Đậu tác giả bài viết “Nỗi Buồn Tiếng Việt”
- Nhà văn Diệu Tần tác giả bài viết “Tiếng Việt Kỳ Cục”
- - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - -

Trang: 201
 

MẸ

Xưa mẹ đến thăm con giữa chốn lưu đày
Thời gian leo lét cháy trên tóc bạc như mây
Tình mẹ thiên thu nhưng đời mẹ tính từng tháng ngày
Mẹ thường đến thăm con như mưa xuống cỏ cây
Trưa hôm nay nắng nhiều hơn cả gió
Có chiếc xe tang phủ đầy bụi đỏ
Trong chiếc quan tài mẹ lại đến đây
Mẹ lại đến đây giữa chốn lưu đày.
Dù môi mẹ không còn hơi thở
Gió trong con nhiều hơn giông tố
Dù tim mẹ không còn nhịp thở
Đất lung lay trời cũng xoay xoay
Mắt con lệ mờ hay sương khói xa bay?!

Quốc Miếu
(Lê Xuân Nho)
- - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - -

Trang: 202

VÀI DÒNG TÂM SỰ
Nguyễn Diên

Đồng hương Quảng Ngãi tại miền Bắc Cali đang đối đầu với một thử thách “có hai hội Quảng Ngãi tại miền Bắc Cali”. Sự chia rẽ này phát nguồn từ nguyên nhân nào thì tùy suy nghĩ của mỗi người. Nhằm mục đich để quý vị có một phán đoán công bằng, chúng tôi xin đươc viết vài dòng tâm sự sau đây.

Sự việc đáng tiếc xảy ra trong đêm Dạ tiệc Tân Niên đêm 2/3/08, với 600 thực khách. Khi phần văn nghệ chấm dứt, quan khách và đồng hương ra về khá nhiều. Dù vậy Ban Bầu cử vẫn thực hiện chương trình theo như đã quy định. Theo nội quy của Hội, Ban Đại Diện thành lập Ban Bầu Cử. Ông Đỗ Hữu Ích (sáng lập viên) Trưởng Ban, ông Nguyễn Văn Thinh thư ký, các thành viên gồm bà Phạm Thị Hạnh, ông Trần Điềm và ông Nguyễn Diên (SJ).

Nguyên tắc bầu cử: đơn danh, liên danh, lưu nhiệm; ứng cử, bầu cử. Khi không có ai ra ứng cử thì ban bầu cử áp dụng nguyên tắc đề cử và bầu cử đơn danh. Đêm đã khuya. Không có ai ra ứng cử. Trong nhiệm kỳ 2005-2008, ông Trần Ngọc Ảnh và Ban Chấp Hành đã hoạt đông rất thành công, đã đưa Hội Quảng Ngãi trở thành một trong những hội mạnh ở San Jose. Có lẽ vì lý do này mà ông Đổ Hữu Ích đề nghị lấy biểu quyết lưu nhiệm trước để thu ngắn thời gian bầu cử.

Sự sơ sót nguyên tắc mang tính chủ quan và tình cảm đã tạo ra cái cớ để một số it người đã có ý đồ mang màu sắc chính trị và phe nhóm lợi dụng, gây chia rẽ đồng hương. Những lời phản đối lớn tiếng, giành micro, cướp diễn đàn, tạo ra một không khí căng thẳng, mất trật tự chưa từng có. Những lời thăm hỏi thân mật, những lời chúc ngọt ngào chỉ vài chục phút trước đây vụt biến mất. Bây giờ chỉ còn là những ánh mắt xa lạ, nét mặt lạnh lùng, những lời thiếu nhã nhặn, những sự chỉ trích...không những không liên quan đến sinh hoạt của Hội mà còn dính líu đến biến cố Little SaiGon.

Trước cảnh tượng này đa số đồng hương cảm thấy ngỡ ngàng, buồn chán và im lặng ra về. Các người được đề cử không còn lòng dạ nào để mà chấp nhận, trừ một số người đã được sắp đặt trước.

Ông Nguyễn Cao Can:

“Tôi đã phục vụ hội chín mười năm nay, cảnh hôm nay làm tôi cảm thấy quá xấu hổ...”.

Ông Trần ngọc Ảnh:

“Tôi không ra tranh cử nữa...”

Ông Nguyễn văn Dũng:

“Tôi không ra tranh cử để mong có một Ban Chấp Hành mới...”

Ban Bầu Cử kêu gọi mọi người bình tĩnh nhưng không thể vãn hồi được trật tự. Trong hòan cảnh thiếu trật tự như vậy và số đồng hương còn lại rất ít nên ông Trưởng Ban Bầu Cử Đỗ Hữu Ích tuyên bố giải tán và dời cuộc bầu cử vào một ngày khác (xin xem DVD). Đây là một quyết định đúng. Một số ít người đã có chuẩn bị trước nhảy lên sân khấu, tự động lập Ban Bầu Cử, tiến hành bầu cử rồi công bố kết quả: Ông Phan quang Nghiệp 41 phiếu (Chủ tịch), ông Võ Thành Đỉnh 38 phiếu (Phó chủ tịch), ông Nguyễn Trung Cao 32 phiếu (Phó chủ tịch). Rõ ràng đây là một cuộc bầu cử tiếm danh, không thể chấp nhận được vì những lý do sau đây:

A. Không hợp lệ:

1. Ban Bầu Cử của nhóm ông Phan quang Nhiệp không do ban chấp hành đương thời thành lập (theo nội quy hội)

2. Số hội viên tham dự quá ít, không quá 30 người (theo DVD). 3. Có một số người bỏ phiếu 2, 3 lần (theo DVD)

B. Không hợp pháp:

Quyết định của tòa án chứng minh điều này qua hai án lệnh của Tòa Thượng Thẩm San Jose (xem bảng đính kèm). Cuộc bầu cử chính thức được dời lại một ngày khác theo quyết định của Ban Bầu Cử mà ông Đỗ Hữu Ích đã tuyên bố. Không lý do gì và nguyên tắc nào mà ông Nguyễn Văn Dũng nói “Ban Chấp hành nhiệm kỳ 2005-2008 đã chấm dứt tư cách pháp nhân và chấm dứt quyền điều hành hội từ giờ phút đó”. Ông Nguyễn Văn Dũng không biết rằng Ban Chấp Hành cũ chỉ có thể chấm dứt tư cách pháp nhân sau lễ bàn giao được tổ chức giữa hai Ban Chấp Hành cũ và mới đã được bầu hợp pháp.

Để tỏ thiện chí, sau việc bầu cử không hơp lệ trên, ông Trần ngọc Ảnh đã đề nghị với nhóm ông Phan quang Nghiệp ngồi laị với nhau để cùng tổ chức một cuộc bầu cử công khai minh bạch ngõ hầu có duy nhất một ban đại diện danh chánh ngôn thuận. Nhóm ông Phan Quang Nghiệp không đồng ý. Ngày 15-3-2008, các ông Thái Văn Hòa, Đào Văn Bình có tâm thư gởi ông Trần Ngọc Ảnh cùng quý vị thành viên trong Ban Chấp Hành Hội Đồng Hương Quảng Ngãi và các ông Phan Quang Nghiệp, Nguyễn Trung Cao, Võ Thành Đỉnh để tìm giải pháp tốt đẹp cho vấn đề Hội Đồng Hương Quảng Ngãi. Ban Chấp Hành Hội Ai Hữu và Đồng Hương Quảng Ngãi rất hoan nghênh, sẵn sàng chấp nhận thiện chí xây dựng này nhưng nhóm ông Phan Quang Nghiệp không đồng ý.

Hơn thế nữa, sau khi xem cuốn phim ghi lại dữ kiện đêm 2/3/08, hai Luật Sư Cố Vấn Pháp Lý của Hội là Luật Sư Nguyễn Ngọc Diệp và Luật sư Michael Chinh Vũ đã nắm được sự việc nên đã gởi một thư yêu cầu ông Phan Quang Nghiệp và Ban Chấp Hành tiếm danh của ông ta ngồi lại với BCH của ông Trần Ngọc Ảnh để cùng tổ chức bầu cử một BCH duy nhất cho Hội Đồng Hương Quảng Ngãi nhiệm kỳ 2008-2011. Nhóm ông Phan Quang Nghiệp vẫn không đáp ứng. Việc làm vì công đạo của hai Luật Sư Cố Vấn của Hội cuối cùng cũng đã bị thất bại. Chúng tôi không còn cách nào khác hơn là đưa vấn đề nầy ra tòa án.

Án lệnh thứ nhất ngày 16-4-08 của tòa Thượng Thẩm tiểu bang California tại Quận hạt Santa Clara: “Cấm các bị cáo Phan Quang Nghiệp, Võ Thành Đỉnh, Nguyễn Trung Cao không được họat đông với danh hiệu Hội Ái Hữu Quảng Ngãi Bắc Cali trước khi vấn đề chưa được giải quyết. Nhóm Phan Quang Nghiệp bất chấp lệnh tòa bằng cách đổi tên Hội Ái Hữu Quảng Ngãi Bắc Cali thành Hội Đồng Hương Quảng Ngãi Bắc Cali.

Án lệnh thứ hai ngày 02-05-08 của cùng tòa án nói trên: “Quyết đinh tòa án và ra lệnh bị cáo phải tuân thủ ngay tức khắc, không được sử dụng tên cho hội đoàn nào với chữ “Đồng Hương hay Ái Hữu Quảng Ngãi miền Bắc California”. Một lần nữa, nhóm ông Phan Quang Nghiệp lại đổi tên Hôi Đồng Hương Quảng Ngãi Bắc Cali thành hội Quảng Ngãi Hải Ngoại Bắc California.

Sau đó, luật sư Nguyễn Tâm, đại diện nhóm Phan quang Nghiệp yêu cầu chúng tôi, bên nguyên đơn, bãi nại. Vì muốn tỏ thiện chí đoàn kết, chúng tôi chấp nhận. Không ngờ sau đó nhóm Phan Quang Nghiệp trắng trơn rêu rao rằng họ đã thắng kiện. Thật ra chúng tôi đưa vấn đề nầy ra tòa là để có sự phán xét công bằng và để đồng hương phân biệt phải trái hầu tránh sự tranh cải không mấy tốt đẹp giữa đồng hương với nhau. Hơn thế nữa, chúng tôi có một ước muốn duy nhất là chỉ có một hội của người Quảng Ngãi tỵ nạn cộng sản ở Bắc Cali này mà thôi.

Chúng tôi mong đồng hương công bằng, suy xét, phê phán ai là kẻ cố ý chia cắt Hội Ai Hữu & Đồng Hương Quảng Ngãi ra làm hai? Ai chịu trách nhiệm về sự phân hóa nầy của Hội?

Xin kính chào đồng hương và kính chúc Quý Vị một năm mới dồi dào sức khỏe, vạn an.

San Jose ngày 3 tháng 2, năm 2009
Nguyễn Diên (San Jose). 
 

(Xem tiếp phần 2)


 


Nếu độc giả, đồng hương, thân hữu muốn: 

* Liên-lạc với Ban Điều Hành hay webmaster 
* Gởi các sáng tác, tài liệu, hình-ảnh... để đăng 
* Cần bản copy tài liệu, hình, bài...trên trang web:

Xin gởi email về: quangngai@nuiansongtra.net 
hay: nuiansongtra1941@gmail.com

*  *  *

Copyright by authors & Website Nui An Song Tra - 2006


Created by Hiep Nguyen
log in | ghi danh