Diễn đàn của người dân Quảng Ngãi
giới thiệu | liên lạc | lưu niệm

 April 16, 2025
Trang đầu Hình ảnh, sinh hoạt QN:Đất nước/con người Liên trường Quảng Ngãi Biên khảo Hải Quân HQ.VNCH HQ.Thế giới Kiến thức, tài liệu Y học & đời sống Phiếm luận Văn học Tạp văn, tùy bút Cổ văn thơ văn Kim văn thơ văn Giải trí Nhạc Trang Anh ngữ Trang thanh niên Linh tinh Tác giả Nhắn tin, tìm người

  Linh tinh
ĐẶC SAN QUẢNG NGÃI XUÂN 2009 Phần 2
Webmaster
Các bài liên quan:
    ĐẶC SAN QUẢNG NGÃI XUÂN 2009 Phần 1

 

ĐẶC SAN QUẢNG NGÃI XUÂN 2009 Phần 2

(Tiếp theo và hết)

-  -  -  -  -  -  -  -  -  -  -  -  -  -  -  -  -  -   

Trang: 206

TRƯƠNG ĐĂNG QUẾ: Danh nhân triều Nguyễn, Nhân tài của đất nước
Nguyễn Cao Can

Lời mở đầu:

Trước thềm năm mới, viết về Tuy Thạnh Quận Công Trương Đăng Quế, một nhân tài của dân tộc, một danh nhân của Quảng Ngãi cũng như của Triều Nguyễn là đốt một nén hương lòng để tưởng nhớ đến tiền nhân, những người đã hy sinh xương máu, công lao trong việc giữ gìn và mở mang bờ cõi, tô điểm cho giang sơn gấm vóc, để đối trọng với những kẻ bán nước, bán lãnh thổ, bán lãnh hải, bán hải đảo, và gần nhất là việc biến Tây Nguyên thành nơi khai thác Bôxit cho Trung Cọng. Thiết nghĩ, đây là hành động rước giặc vào nhà rồi đưa dây cho chúng cột cổ dân mình? Liệu người dân Việt có lúc nào đặt câu hỏi: “Như thế nào là bán nước hại dân” hay không?

“Toàn Dân Nghe Chăng Sơn Hà Nguy Biến”! Chỉ có lòng yêu nước nồng nàn phát xuất từ đáy lòng của mỗi người con dân Việt trong cũng như ngoài nước mới giúp đất nước vượt qua được những hiểm họa ghê gớm này. Chỉ có tấm lòng yêu quê hương một cách thiết tha mới giúp chúng ta bảo tồn và phát huy nền văn hoá cao đẹp của cha ông để lại. Nếu không, sớm muộn gì, Viêt Nam cũng biến thành một tỉnh của Trung cộng.

Tìm hiểu và xiểng dương công đức của người xưa, như Tuy Thạnh Quận Công Trương Đăng Quế là bổn phận của những kẻ hậu sinh. Ông làm quan suốt ba triều, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, được phong Hàm: Cần Chánh Điện Đại Học Sĩ (1*), Thái Sư (2*), với Tước hiệu: Tuy Thạnh Quận Công, Tam Triều Thạc Phụ, Lưỡng Triều Cố mạng Lương Thần. Ôn việc xưa để biết việc nay là một việc làm thiết nghĩ rất cần thiết, nhất là trong lúc này, lúc mà Việt Nam đang mất đất, mất biển, mất hải đảo về tay Trung Quốc. Tuy Thạnh Quận Công Trương Đăng Quế đã để lại cho hậu thế tấm gương sáng của công minh, liêm khiết, trọn đời vì nước vì dân, cương quyết chống ngoại xâm, giữ gìn bờ cõi non sông và xây dựng đất nước. Ngoài sử sách ra, chúng tôi đã đọc Tổng tập Gia phả họ Trương ở Mỹ Khê, Quảng Ngãi và đọc qua trên 244 bài thơ trong “Trương Quảng Khê tiên sinh tập” hay “Học Văn Dư Tập” của nhà thơ Trương Quảng Khê.

Viết về người xưa, sách xưa, chữ Hán là một trở ngại lớn đối với người viết. Chúng tôi xin được mở dấu ngoặc ở đây để cảm tạ sự giúp đở về mặt chữ Hán của cụ Dật Tẩu Nguyễn Đức Tập, một “Ông Đồ Già” của Quảng Ngãi còn sót lại, nguyên là Giáo sư Việt văn lâu năm của trường Nữ Trung học Quảng Ngãi, là đồng nghiệp với người viết bài này từ trước 1975. Ngoài ra, phần lớn những bài thơ, những đoạn thơ của Trương tiên sinh trích đẫn sau đây trong “Trương Quảng Khê tiên sinh tập” là của Lê Sơn Phương Ngọc dịch.

Tuy Thạnh Quận Công Trương Đăng Quế: Một danh nhân Triều Nguyễn - Một nhân tài của đất nước
Trương Đăng Quế tự là Diên Phương, sinh ngày 01 tháng 11 năm Quý Sửu (1793); người làng Mỹ Khê, xã Sơn Mỹ (Tịnh Khê), huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi.

Năm Gia Long thứ 18 (1819), Ông đỗ Hương Tiến (cử nhân) trường Trực Lệ (Thừa Thiên), khai khoa của tỉnh Quảng Ngãi. Năm Minh Mạng thứ nhất (1820), khởi đầu ông được sơ bổ Hành Tẩu Bộ Lễ. Năm Minh Mạng thứ hai, Ông lãnh Hàn Lâm Viện Biên Tu, sung Trực Học rồi sung Bạn Độc (chức dạy con cháu nhà vua). Năm Minh Mạng thứ 5 (1824) thăng Hàn Lâm Viện Thị Độc, sung Tán Thiện Tập Thiện đường (dạy Hoàng Tử), rồi thăng tiến mãi qua nhiều chức vụ quan trọng tại các bộ: Lễ, Lại, Công, Hộ, Binh... giữ vai trò trọng yếu trong các ngành chánh trị, ngoại giao, quân sự, kinh tế, văn hóa và giáo dục suốt 3 triều Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức.

- Lúc sung trực học (1821) Bạn Độc (1822) hay giảng học và chủ khảo các kỳ thi Hội (1835, 1838...) Độc quyển Thi Đình (1832, 1838, 1844...) ông đã góp phần đào tạo và đề bạt khá nhiều nhân tài cho đất nước thời bấy giờ.

- Lúc lãnh việc lập sổ bộ tuyển binh tại Bắc Thành (1834), Hà Tĩnh, Nghệ An, Thanh Hóa, Ninh Bình (1838) và Khánh Hòa (1840), hoặc đánh dẹp, khuyến dụ thổ phỉ nổi loạn ở Tuyên Quang, Thái Nguyên, Lạng Sơn, Cao Bằng (1833) dẹp giặc ở Bắc Kỳ (1835) và Thanh Hóa (tháng 12-1836) để an dân.

- Lúc kinh lược Nam Kỳ Lục Tỉnh (1836) lo việc duyệt tuyển, đạc điền, lập địa bạ, điền bạ..., công điền, công thổ ổn định cuộc sống ở vùng đất mới phía Nam tổ quốc.

- Lúc lãnh Chánh Sứ kinh lược Bắc Kỳ (1853) lo việc sông ngòi và đê điều để phát triển kinh tế ở đồng bằng Bắc Bộ, thăng đến Phụ Chính đại thần, Văn minh điện Đại học sĩ.

Đến lúc tuổi già mà vẫn còn giữ nhiều chức vụ quan trọng:

- Cơ mật viện đaị thần

- Kinh Diên Giảng quan

- Tổng tài Quốc sử Quán Kiêm Quản Khâm Thiên Giám

Năm Quý Hợi 1863 (Tự Đức 16) ông về quê Mỹ Khê dưỡng già dưới mái nhà đơn sơ như lúc còn thư sinh, sau 43 năm (1820-1863) làm quan đến chức tuyệt đỉnh ở Triều nhà Nguyễn.

Ông mất ngày 14-2 năm Ất Sửu 1865 (Tự Đức 18) thọ 73 tuổi. Vua Tự Đức đã ra lịnh bãi triều 3 ngày quốc tang và tặng hàm Thái Sư, tên Thụy là Văn Lương.

Trải qua ba triều Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, ông là người đã cống hiến nhiều công lao to lớn cho triều Nguyễn, cho đất nước. Trong di chiếu các vua đời Nguyễn đã đánh giá cao công lao của ông vể nhiều mặt: “Giúp vua lo toan trị nước đã bao năm nay, dân yên, nước thịnh, văn trị, võ thành...”

Nhà thơ Trương Quảng Khê luôn luôn đi bên cạnh vị đại thần Tuy Thạnh Quận Công Trương Đăng Quế, luôn giữ đạo Thánh hiền, thanh liêm, trọn đời vì dân, vì nước:

“Thành tâm dâng cỗ cúng,
Kính cẩn lễ ơn thầy
Phò vua lo trị nước,
Lòng son kẻ mọn nầy”
(Tế Thu Văn Miếu)

Trong lịch sử, trong Thi văn, Ngự chế tại các triều đại Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức đã chứng minh cái học sâu rộng, sự nghiệp chính trị bề thế và nhất là tấm lòng vì dân, vì nước của tiên sinh. Chúng ta thử nghe người xưa, những nhân vật nổi tiếng, những vương tước lỗi lạc thời bấy giờ nói về Trương Đăng Quế. Tuy Lý Vương Miên Trinh đã viết về Trương Đăng Quế trong Vỹ Dạ Hợp Tập (từ tờ 9b-16b) như sau:
 

“Từ ngày được sung vào nội các...mọi người đều đề cao Trương tiên sinh như núi Thái Sơn, như sao Bắc Đẩu vậy:

Mới lập Nội các, Tiên sinh vào Nội các.

Mới xây dựng viện Cơ Mật, Tiên sinh sung Cơ mật (3*)

Vừa mở Tòa Kinh Diên, Tiên sinh đến giảng lại Kinh Diên.

Vừa định Phủ phụ chính, Tiên sinh vào làm Phụ Chính.

Các phép tắc, điều lệ, tại những cơ quan nói trên đều do Tiên sinh xin Hoàng Thượng đặt định, mãi về sau các quan trong triều vẫn còn giữ chẳng mất.

Lấy sự nghiệp chính trị cao cả, bề thế, cùng cái học sâu rộng... tìm đến nghìn xưa cũng rất hiếm thấy. Cao cả, bề thế biết bao! Những sách lược, cơ mưu tiên sinh dâng lên đấng Chí tôn còn rành trong các tập Thi Văn, Ngự chế tại các triều đại: Thánh Tổ, Hiến Tổ, Dực Tông. Các công trạng rộng lớn, sâu dày đã ghi rõ trong Quốc sử..”

Trương Đăng Quế: Một vị đại thần sáng suốt, công minh, thanh liêm, có tài kinh bang tế thế.

Dưới triều Minh Mạng, ông Trương Đăng Quế đã tỏ ra rất sáng suốt, công minh khi tham gia xét xử nhiều vụ án quan trọng, khó xử. Một lần, Hoàng tử Miên Phú, con vua Minh Mạng cùng bọn thuộc hạ phi ngựa gây tai nạn lưu thông làm chết một bà già đang đi bộ. Ông Trương cùng một số quan trong triều được vua Minh Mạng đề cử vào hội đồng xét xử. Mức án mà ông Trương, đại diện Hội đồng tâu lên đã được vua chấp thuận và cho thi hành. Hoàng tử Miên Phú bị tước mũ áo, truất khỏi cương vị Hoàng Tử, quản thúc tại gia, bồi thường 200 lạng bạc để lo chôn cất và nuôi dưỡng con cháu bà cụ bị tai nạn. Bọn thuộc hạ, kẻ trực tiếp gây án bị xử tử hình, những kẻ đồng phạm đều bị đày biệt xứ.

Trong bài “Được phép về quê” vua ban thơ tiễn, tiên sinh đã hoạ nguyên vần với những câu sau đây đã nói lên tấm lòng vì nước, vì dân của tiên sinh:

“Phụng quốc nhất tâm thường tỉnh nguyệt
Ưu dân lưỡng mấn dĩ thành công”

Nghĩa là:

“Báo quốc một lòng soi bóng nguyệt
Ưu dân bao nỗi bạc đầu thêm”

*Tài kinh bang tế thế:

- Kinh lược Nam kỳ Lục tỉnh năm Bính Thân (1836):

Tình hình Sài gòn, Gia Định nói riêng và Nam ky, Lục tỉnh nói chung, những năm trước khi Trương Đăng Quế kinh lược có nhiều thay đổi và rất rối ren. Bắt đầu từ năm 1831, Minh Mạng cải tổ hành chánh, tâp trung tất cả quyền hành về kinh đô Huế, dẹp Bắc thành, còn Gia Định thành thì phải đợi đến năm 1832, khi Lê Văn Duyệt mất thì mới dẹp luôn. Bỏ cấp Gia Định thành, 5 trấn cũ chia thành 6 tỉnh mới trực thuộc triều đình Huế. Trấn Phiên An nay đổi thành tỉnh Phiên An, thành Bát Quái nay gọi là tỉnh thành Phiên An. Tháng 8 năm 1833, tỉnh Phiên An đổi thành tỉnh Gia Định. Đến năm 1834, 6 tỉnh được mệnh danh là Nam Kỳ lục tỉnh gồm có: Gia Định, Biên Hoà, Vĩnh Long, Định Tường, An Giang và Hà Tiên. Sài Gòn đã trở thành tỉnh lỵ. Vị trí chính trị của Sài Gòn đã từng ở cấp “Kinh”, xuống cấp “Thành” và bây giờ là cấp “Tỉnh”. Sự thay đổi ấy có ảnh hưởng lớn đến đời sống chính trị của Sài Gòn, Gia Định.

Hơn nữa, sau khi Tổng trấn Lê Văn Duyệt chết, Minh Mạng đã “sắc cho hai Cơ Vệ Tả Quân đi thú ở Gia Định thì triệt về Kinh. Vệ quân Minh Nghĩa triệt về nguyên quán tỉnh Quảng Nghĩa. Vệ An Thuận chờ chôn cất ông Lê Văn Duyệt xonh rồi sẽ triệt về Kinh” (1#) Những Vệ và Cơ kể trên là thuộc quân “Bản bộ” của Lê Văn Duyệt, khi Lê Văn Duyệt chết tất phải giải thể. Nhưng khi vệ Minh Nghĩa chưa kịp về Quảng Nghĩa thì Minh Nghĩa Vệ úy Lê Văn Khôi đã làm binh biến chiếm lấy thành Bát Quái và hầu khắp Miền Nam ngày 18 tháng 5 năm Quý Tỵ (1833).

Đến tháng 7 năm 1935, quân Triều đình dùng toàn lực mới chiếm được thành Bát Quái. Kết thúc là “thâu phục được thành Phiên An, quân phiến loạn bị bắt sống và bị chém cả thảy 1.831 đứa, không còn sót đứa nào. Quan binh bị thương hơn 400 người, chết 60 người” (2#)

Bởi thế nên khi kinh lược Nam kỳ, đến thành Phiên An, nhìn cảnh cũ điêu tàn sau cơn loạn ly, chinh chiến, tiên sinh không cầm được nỗi u hoài, thương cảm:

“Bây giờ chiến địa cảnh sầu thương,
Một khối thành tovướng họa ương
Vô cớ dân lành mang kiếp nạn
Bao phen tướng sĩ chịu phong sương
Tường tô, thành chạm, sang thành đống
Giáo gãy, gươm cùn lải rải vươn
Giận kẻ ngông cuồng gây nạn nước
Mỗi lần nhớ đến luống đau thương.”

(Lên thành cũ Phiên An cảm xúc)

Cuộc nỗi dậy của Lê Văn Khôi là cuộc nỗi dậy to lớn nhất của Nam kỳ, nó quy tụ được nhiều thành phần dân chúng của Sài gòn tham gia vì họ bất mãn với sự thay đổi chính sách thống trị của Minh Mạng sau khi Lê Văn Duyệt chết. Họ càng bị bách hại, kết tội và bóc lột bởi nhóm quan lại mới bổ đến, đặc biệt là bố chánh Bạch Xuân Nguyên rất tàn bạo và tham nhũng. Sài gòn, Gia Định đã sống những ngày rất kinh hoàng.

Triều đình Huế đã rõ tầm vóc quan trọng và sự bất ổn của vùng đất mới nên sau khi thu hồi được thành Phiên An, Minh Mạng kịp thời đề cử Trương Đăng Quế cầm đầu phái đoàn kinh lược Nam Kỳ lục tỉnh gồm có:

-Binh Bộ Thượng Thư Cơ Mật Đại thần Trương Đăng Quế

-Lại bộ Thượng Thư Nguyễn Kim Bảng làm Kinh lược Đại sứ.

-Thự Lễ Bộ thị Lang Tôn Thất Bách và Thự Thông Chánh sứ Nguyễn Đắc Tri sang làm Phó sứ.

Riêng Nguyễn Kim Bảng đến Gia Định ngã bịnh chết. Trấn Tây Tướng quân Phan Thanh Giản thay thế làm kinh lược Đại sứ.

Trước tình trạng dân chúng đồ thán trong cảnh Sài Gòn, Gia Định trong cơn binh lửa, khi “Nhận mệnh vua đi kinh lược Nam Kỳ”, Binh Bộ Thượng Thư Trương Đăng Quế cấp tốc lập kế hoạch và muốn trương buồm, đem binh mã vào lo ổn định Sài Gòn, Gia Định càng sớm càng tốt để dân chúng sớm “an cư lạc nghiệp”:

“Hựu phủ tham mưu hoạch
Nam Kỳ phụng chỉnh ly
Đồng thuyền thừa lăng sứ
Vũ bảo phất vân thùu
Thi hạ Hoàng thân tặng
Xuân lâm thụy nhật tri
Thương sanh binh tiễn hậu
Điêu tề phi trù duy”

(Khâm mạng kinh lược Nam Kỳ lục tỉnh -Trương Doãn Trai)

“Mệnh vua chấn chỉnh đất Nam kỳ
Định kế, trù mưu rõ tế vi
Ào ạt thuyền đông phăng biển sóng
Rùng rùng tàn lọng cuốn màn mây
Hoàng thân thơ tặng tình lưu luyến
Ngày đẹp Xuân lan bước trù trì
Binh lửa qua rồi dân khốn khó
Tính toan điều độ mức thu chi

(Nhân mệnh vua đi kinh lược Nam Kỳ, Trương Quang Gia dịch)

Ngày 18 tháng 2 năm Bính Thân (1836), thuyền mang cờ xuôi Nam, sau 6 ngày, Trương Đăng Quế đến Sài Gòn (ngày 24 tháng 2) với 3 nhiệm vụ chính và rất quan trọng:

-Duyệt sổ dân và tuyển chọn binh lính (Duyệt tuyển)

-Đo lại ruộng đất và lập địa ba (Đạc điền), định lại thuế điền thổ, phân định công điền, công thổ.

-Giải quyết tại chỗ một số vấn đề khẩn trương khác để ổ định và phát triển vùng Đất Mới.

Dù trách nhiệm đang đè năng trên vai, nhưng trong sâu thẳm của tâm hồn, tiên sinh luôn nhớ đến quê hương, nơi chôn nhau cắt rốn, nhìn quê nhà, thương biết mấy khi “Thuyền qua quê nhà Quảng Ngãi”:

“Xuân phong tống chinh nghích
Thuấn tức Việt trùng ba
Lộ chỉ cố hương quá
Tình huyền du tử đa
Không hoài Tang tử kính
Trùng xướng Thử miêu ca
Khởi lậo thuyền đầu vọng
Dao thôn ẩn nghiệt la”

(Thuyền quá Quảng Nghĩa Cố hương-Trương Doãn Trai)

“Gió Xuân, nhẹ tiễn chiếc thuyền lan
Liếc mắt nhì quanh sóng ngổn ngang
Quê cũ đón đường lòng thấp thgỏm
Tha hương dưa lối dạ mang mang
Chạnh niềm Tang tử (1) chiều vương vấn
Ngõ ý Thư miêu (2) khúc rộn ràng
Đứng dựa đầu thuyền (3) nhìn tít tắp
Quê mình luì khuất bóng cây làng”

(Thuyền đi ngang quê cũ Quảng Nghĩa, Trương Quang Gia dịch)

Ghi Chú:

(1/-Thiên Tiểu biện trong Tiểu Nhã kinh Thi có câu “Duy Tang dữ tử tất cung kinh chi” (Duy chỉ cây dâu, cây tử ắt hẳn là nơi cung kính). Về sau, cây dâu, cây tử được dùng để chỉ quê hương; nơi đó chôn nhau cắt rốn, có tổ tiên, họ tộc và láng giềng, sống với nhau nhiều đời gây niềm quyến luyến.

2/-Thiên thử miêu trong Tiểu Nhả kinh Thi ca ngợi Thiên Mục Công xây dựng vững chãi đất Tạ là đất phong ấp của Thần hầu. Từ đó chê U Vương kết oán Thần hầu đến mất (U Vương dâm bạo, không biết lo cho quan lại và dân gian được yên nghiệp)

Trên đường kinh ly Nam kỳ quá gấp rút, công việc bề bộn, dù đi ngang qua Quảng Nghĩa quê nhà nhưng không thể ghé thăm quê nhà được. Lòng tiên sinh xốn xang, không nằm yên được trong khoang thuyền mà phải ra tựa đầu thuyền lưu luyến nhìn cảnh xưa gởi theo gió lòng nhớ nhung. Làng Mỹ Khê Tây thuộc huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quang Ngãi, quê hương của Tiên Sinh, nằm theo ven biển, khoảng giữa hải lộ từ Kinh Đô Huế đến Sài Gòn)

Mặc dù điều kiện đi lại thời đó rất khó khăn, xe ngựa, ghe thuyền là phương tiện chủ yếu, nhưng Trương Đăng Quế đã hoàn thành một cách xuất sắc những nhiệm vụ quan trọng như duyệt tuyển, đạc điền, phân chia công điền công thổ...và giải quyết tại chỗ một số nhưng vấn đề khẩn trương như trừng trị bọn quan lại tham nhũng bấy lâu nay quấy nhiểu, bách hại dân lành...Việc nào cũng đòi hỏi phải thực hiện nghiêm túc, không bỏ sót, không gây xáo trộn, hoang mang cho dân chúng. Ông đã lãnh đạo hoàn thành tốt đẹp một khối công việc to lớn mà ít ai có thể làm được chỉ trong vòng 5 tháng.

Trong gần nửa năm ngược xuôi vùng Nam bộ, nhìn cảnh mênh mông của đất trời bao la sông nước, cát bãi, lau sậy, ruộng lúa chen nhau mơn mởn xinh tươi và sự phong phú của tôm cá được mô tả trong bài thơ “Đi Thuyền Dọc”:

“Gia Định, Tây Ninh chiếc hải thuyền
Lần đầu xem cảnh kết tơ duyên
Đất trời trước mắt thênh thang lắm
Giồng bãi ven sông lau lách chen
Nhà bếp một mâm cơm đạm bạc
Nữ chài mấy rỗ cá tươi nguyên
Thong dong ngắm cảnh qua song cửa
Ruộng lúa đương tơ mơn mởn xinh”

Trước khi nhân sứ mệnh của vua Minh Mạng giao phó, Trương Đăng Quế đã nỗi tiếng là người học rộng biết nhiều. Chuyến đi này của Ong, ngoài việc thể hiện lòng tin của vua, cũng là dịp thử thách đối với ông. Vua Minh Mệnh muốn xen tài học rộng của ông được vận dụng đến mức nào. Vốn là người ngay thẳng, liêm khiết, ghét thói bạo ngược, tham ô, lại sẳn lòng thương dân, yêu nước, Trương Đăng Quế không xem đây là thử thách của nhà vua. Trái lại, với ông đây là cơ hội tốt để giúp dân, giúp nước.

Trương Đăng Quế đã định rõ mức ruộng cuả người giàu, giới hạng không để nhười giàu bá chiếm vô số ruộng đất và người nghèo đến mấy cũng có ruộng để làm ăn sinh sống. Đó là đặc điểm nỗi bật trong phép cai trị của ông. Chính điều này đã làm chậm quá trình phân hoá giai chấp và giúp xã hội Nam kỳ thời bấy giờ mau chóng ổn định.

Trong sâu thẳm của tâm hồn thương dân, yêu nước, tiên sinh luôn ghi lòng, tạc dạ tiêu đề: “Lo trước cái lo của dân, vui sau cái vui của dân”.Tiên sinh đã bày tỏ tấm lòng mình:

“Phải tính kế lâu dài
Vưà chống lại vừa xây
Nên mở đường nhân đạo
Vỗ về dân ở đây”
(Ghi chép trên đường công cán)

“Ý dân là ý Trời”. Những chính sách hợp lý cùng với công tác xây dựng các khu hành chánh chặt chẽ, thành lập các thôn làng mới, chống tham nhũng triệt để. Sự đóng góp của ông đã mang lại nhiều kết quả tích cực: người dân yên ổn làm ăn, những tranh chấp đã giảm đi rõ rệt, việc khuyến nông được đẩy mạnh. Chuyến kinh lý của ông đã tạo cơ sở để phát triển sản xuất ở miền Nam, cải thiện đời sống người lao động nghèo khổ. Khi sản xuất đã phát triển kéo theo việc mở rộng buôn bán, lúa gạo là hàng hoá lưu thông khắp nơi, từ Nam chí Bắc, kể cả việc xuất khẩu gạo ra nước ngoài.

Thực hiện được nhiều phúc lợi cho dân, cho nước như vậy vì trong lòng tiên sinh lúc nào cũng ôm ấp những hoài bảo như trong bài thơ “Từ biệt Tập Thiện đường”:

“Mệnh vua trĩu nặng vai thần tử
Ơn nước cao dày thân dãi dầu
Nguyện ý thánh hiền đem thực hiện
Trước lo, sau hưởng có quên đâu..”

Sài Gòn, Gia Định mỗi ngày tự khẳng định vai trò trung tâm dân cư, trung tâm thương mãi, trung tâm văn hoá, chính trị, trung tâm chiến lược cho cả miền Nam nước ta.

Sài Gòn Gia Định phát triển nhanh chóng là nhờ chuyến kinh lý Nam kỳ của Trương Đăng Quế. Là người hiểu rõ đất Nam kỳ nên những nơi xung yếu đều được ông chú ý. Chỉ riêng việc ông tâu xin vua cho lập thành trì ở Côn Sơn và Tây Ninh là đủ thấy ông sáng suốt đến mức nào. Nếu không phát xuất từ “nỗi lòng lo cho hạnh phúc cuả dân, lấy cái vui của dân làm cái vui của mình” thì thật không thể nào ông hoàn thành nhiệm vụ một cách xuất sắc như vậy. Cũng chính trong chuyến kinh lý ấy, Trương Đăng Quế đã phát hiện chốn Côn Đảo đẹp lạ kỳ và có một vị trí rất lợi hại về kinh tế cũng như quốc phòng nên ông đã tâu vua lập đồn canh giữ lâu dài.

Khi kinh lược đến đất Hà Tiên, vùng địa đầu Tây Nam nước ta do Mạc Cữu lập làm thủ phủ, tiên sinh đã để lại bài thơ “Hà Tiên”, tuy mô tả khái quát nhưng có thể sánh với những bai thơ hay trong kho tàng văn thơ cổ điển:

“Xa tít muôn trùng sóng nhấp nhô,
Trăm năm họ Mạc dựng cơ đồ.
Núi de sát biển vùng xinh đẹp
Nhà dựng ven sông bóng nhấp nhô
Kim Dự, Phù Dung nhiều sự tích (a)
Đông Hồ, Nam Phố cũng quy mô
Dong thuyền thăm hết bao danh thắng
Chạnh nhớ Lư Khê bóng Điếu đồ” (b)

(a): Đông Hồ, Nam Phố là hai trong Mười thắng cảnh của Hà Tiên
(b): Điếu đồ: người câu cá, chỉ Mạc Thiên Tứ (Con của Mạc Cửu) người lập ra thi đàn Chiêu Anh Cát, thường ngồi câu cá ở Lư Khê.

Có thể nói Trương Đăng Quế là người tài kiêm văn võ, lại có tầm nhìn kinh bang tế thế. Hàn Lâm Viện Thừa Chỉ Sung Nội Các Hành Tẫu Lương Khê Phan Thanh Giản khi viết về Trương Đăng Quế với cuộc kinh lược Nam kỳ lục tỉnh đã nhận định:

-“...Kịp khi đến cùng tiên sinh đồng thời ở trong nội các, có sự giao du qua lại, nhiên hậu mới biết được tiên sinh ôm ấp chí hạ, tài học bao la, chi từ xem là sức du. Xem như lúc ban đầu nhận mệnh đi đo đạc đất ở miền Nam ta, mọi quy mô kể cả bờ cõi, đều dùng phép tắc rất linh hoạt, không nhất nhất câu nệ ở số đo, thước tấc; không hề sách nhiễu tài sản vật dụng của dân. Việc lớn như thế mà chỉ làm trong khoảng không hơn 5 tháng đã xong, kịp trình tấu kết quả lên đấng chí tôn. Thêm nữa, tiên sinh hiểu rõ bờ cõi đất đai 6 tỉnh Nam kỳ, phàm các nơi xung yếu có thể gây trở ngại bế tắc; chẳng nơi nào là không được tiên sinh lưu tâm chú ý.

Trước hết, khi tiên sinh tâu xin lập thành trì ở Tây Ninh, tuy tôi là người Nam kỳ cũng chưa kịp nghĩ đến vậy.

Thường chi nếm thử một miếng thịt cũng biết vị canh ngon của bếp trời, nhìn một vệt lông cũng biết vẻ sáng đẹp của màu lông con báo.

Nếu không phát xuất từ lòng lo cứu sống dân được hạnh phúc, khỏi tai ách, làm nỗi lo của bản thân, lấy việc phòng bị biên cương còn mất làm nỗi suy nghĩ của riêng mình thì thật không thể nào tiên sinh làm được như vậy. Cho nên đấng bề trên đoái tình tri ngộ mà hậu đãi một cách đặc biệt, ban ơn mưa móc, tóm gởi lâu dài cho thân thuộc cũng là hợp đạo lý vậy.

Nay kẻ đàn em nầy khoa tay mà tự phụ nói rằng: Ta đã biết được mặt mũi đích thực của Lư Sơn vậy” (12).

Vì công lao to lớn ấy, năm Minh Mạng thứ 20 (1839), tiên sinh đã nhận sắc vụ của vua ban:

-”Lần trước đây Trương Đăng Quế đã đến Nam Kỳ (1936) khám xét, đo đạt ruộng đất, nhận định rõ ràng, chính xác tại chỗ, tùy theo đó đã làm được việc, như thế chẳng khác nào đã mở rộng đất đai, vương giới, do đó được tấn phongTuy Thạnh Nam” (10)

Cuộc kinh lý Nam Kỳ nam 1836 đã giải quyết được rất nhiều việc như: duyệt dân, tuyển lính, thanh lọc hàng ngũ quan lại tham nhũng, trị tội bọn “mua quan bán chức” làm trong sạch bộ máy hành chánh, xếp đặt thể lệ vận chuyển đường sông, chia cắt lại đơn vị hành chánh, xếp đặt lính tráng bố phòng những đồn aỉ trọng yếu, định lệ thưởng phạt trong việc khai hoang lập ấp...Song kết quả đáng kể hơn cả là lập được Đinh bạ và Địa bạ cho mỗi thôn ở Nam kỳ. Từ nay, “kẻ giàu không được bá chiếm ruộng đất và người nghèo đều có tư sản”. Tiên sinh đã làm một cuộc cách mạng ruộng đất ở Miền Nam thời bấy giờ.

Kinh lược Thanh Hóa tháng 12-1836: lo an dân Và Kinh lược Bắc kỳ năm 1853: Lo việc sông ngòi và đê điều để phát triển kinh tế ở đồng bằng Bắc Bộ.

Khi vùng đất phia Nam của Tổ quốc được bình ổn, vua Minh Mạng lại giao cho tiên sinh làm Chánh kinh lược sứ Thanh Hóa để giải quyết các cuộc nội loạn vùng nuí xứ Thanh. Trương tiên sinh đã hoạch định một số chính sách chiêu dụ dân chúng một cách đúng đắng để trình lên vua: “...Dân thì từ trước đến nay chỉ làm đày tớ Thổ tù. Phàm như con em Thổ tù mới được học tập, còn Thổ dân đều bị ngăn cấm nên ngu dốt. Nay xin cho các viên Huyện Châu chọn con Thổ dân, những người hơi sáng sủa, dạy cho họ biết chữ...”. Hoặc: “...Phàm Thổ dân đến cửa quân đầu hàng, thì sức cho đem súng “điểu thương” (súng săn) đến nộp, cho về yên nghiệp, biên vào sổ Đinh, sai các viên huyện, Châu vỗ về, không cần truy xét tội trước đó...” và: “Hai huyện Thạch Thành, Quảng Điạ đã bị tàn phá...Cùng các huyện Cẩm Thủy, Quang Hoá, Lương Chính, Thường Xuân tình hình hao hụt đến đáng thương. Về thuế lệ phải nộp năm nay, cùng số đã thiếu năm trước xin lượng tha giảm để chữa bệnh đói cho dân (5#)

Ngoai sứ mạng của một “Tổng trưởng Quốc phòng” đặc trách bình đinh, đạc điền, ông còn kiêm Viện Cơ Mật, một cơ quan cao cấp nhất để giúp vua giải quyết công việc hệ trọng của Quốc gia.

Trong chuyến công tác Thanh Hoá, Trương Đăng Quế đã để lại 4 bài thơ chữ Hán hiện còn thấy khắc trên vách núi. Một bài ở động Hồ Công, ba bài ở động Ngọc Kiều thuộc huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hoá. Những bài thơ được tiên sinh sáng tác vào năm 1836 và 1837, nhưng về sau được người con trai thứ là Đông các Đại học sĩ Trương Quang Đản cho khắc lên vách núi. Sau đây xin giới thiệu 2 trong 4 bài thơ trên của tiên sinh:

Bài 1: Bài thơ về động Hồ Công

“Số điểm thời phong toả đạm yên
Hồ trung thế giới tự y nhiên
Hà niên bích động thê thần tích
Thử nhật thanh hài ngộ túc duyên
Hồng Đức Thanh quân ưng đắc đạo
Trường Phòng phàm cốt vị thành tiên
Ai Châu danh thắng tòng xung tối
Bán nhập kỳ tình lĩnh lược biên”

“Lưỡng triều cố mệnh lương thần Thái bảo Cần chánh điện sung Cơ Mật viện, sung Kinh Diên giảng cung, sung Sử Quán chính Tổng tài Tuy Thịnh Quận công tặng Thái sư, tứ Thụy VănLương Trương Đoan Trai Kinh lược chính sứ, hữu tự Diên Phương, hiệu Quảng Khê Tẩu, ư Minh Mệnh thập thất niên phụng sung Thanh Hoá Kinh Lược Chính sứ hữu thi đề thử”

Bài thơ về động Hồ Công
“Mấy đỉnh non cao toả khói mờ
Bầu tiên thế giới vẫn như xưa
Năm nao động biếc in thần tích
Ngày đó “Hài xanh” rõ kiếp tu (6#)
Hồng Đức Thánh quân mà đắc đạo
Trường Phòng phàm cốt hóa tiên chưa? (7#)
Aí Châu danh thắng đời ca tụng
Mới nhập lòng như tĩnh guấc mơ”

(Hồng Phi phiên âm từ chữ Hán và dịch thơ)

Bài 2: Đồng Nguyễn Phó sứ Toản Phu Đăng Giai du Kim Sơn động thứ nguyên vận

“Nhung mã yên lam cửu yếm khang
Tương tương lãm thắng đảo Kim San
Thập dư tiểu đỉnh xuyên nham khẩu
Nhất khúc trường ca khỏa thủy loan
Tiếp khỏanh bình hồ khai hạo đảng
Tháp không điệp chướng tủng sàn ngoan
Lương châu điệu cảnh kiêm song mỹ
Lưu Nguyễn Thiên Thai thuộc đẳng nhàn”

“Minh Mệnh thập bát niên đông, sung Thanh Hóa Kinh lược thời sở tác Lưỡng triều cố mệnh lương thần Thái sư Cần chánh điện Đại học sỹ Trương Thạnh Quận công Quảng Khê Tẩu, tự Diên Phương, thụy Văn Lương Trương Công đề. Thành Thái Qúy Tỵ mạnh đông cốc nhật. Trọng tử Phụ chính đại thần thự Đông tác Đại học sĩ, sung Cơ Mật viện đại thần Quốc sử quán, Phó Tổng tài Cúc Viên Quan Đản Tử Minh phụng đề””

Bản dịch: Cùng Nguyễn Phó Toản Phu Đăng Giai du ngoạn động Kim Sơn đề theo nguyên vận (8)

Vó ngựa dừng chân dưới khói lam
Cùng nhau du ngoạn động Kim Sơn
Hơn mươi thuền nhỏ xuyên hang núi
Một khúc trường ca vọng nước non
Ngắm khoảng hồ êm hình bát ngát
Nhìn lên non vút dáng hiên ngang
Ai Châu thắng tích đều xinh đẹp
Lư Nguyễn Thiên Thai thộc cảnh nhàn”

(Hồng Phi phiên âm từ chữ Hán và dịch thơ)

Về Văn Học: Trương Đăng Quế được giới nho sĩ đương thời đánh giá rất cao. Ông từng giữ chức Kinh diên (Dạy Thái tử), Cần chánh điện Đại học sĩ nhất phẩm triều đình, làm chủ khảo nhiều khoa thi Hội và thi Đình. Ông là Tổng tài, biên soạn nhiều bộ sách giá trị, nổi tiếng nhất là hai bộ “Đại Nam liệt truyện” và “Đại Nam thực lục tiền biên”. Riêng bộ “Đại Nam thực lục tiền biên” là bộ chính sử lớn nhất và quan trọng nhất của triều Nguyễn đến nay đã được dịch và xuất bản gần 9.000 trang, Trương tiên sinh đã đứng chủ trì biên soạn tới năm ngàn trang.

Ngoài ra, nhà thơ Trương Quảng Khê còn để lại cho hậu thế một tâp thơ còn nguyên vẹn: “Trương Quảng Khê tiên sinh tập” còn được gọi là “Học Văn Dư Tập” có nghĩa là “Dùng cái sức dư, công rãnh, để học văn”. Trương tiên sinh đã tự đề tựa cho Học Văn Dư Tập:

-“Thơ đối với tôi, lúc nhỏ không có thầy dạy, chỉ do tôi ham thích mà làm, không phải bắt đầu không phải tiếp nối, không có mẫu mực khuôn phép, gặp việc gây cảm hứng, đối diện với cảnh vật mà thành ngâm vịnh, chỉ biết diễn tả tính tình, không phải muốn mượn thơ làm cho mình nỗi tiếng.

Lần lần lớn lên theo đòi cái nghiệp học cử nghiệp, du học ở chốn Kinh Đô, dự trúng Hương Tiến, được chọ sung trực học. Từ đó, quen tiếp xúc hiểu biết đến các bậc đại phu, những lúc rảnh rổi sau khi giảng luận, đọc sách, hoặc theo các cuộc nhóm họp văn chương dứơi mái Nghiệp, hoặc nhân cảnh Khúc giang chuốc chén, hoặc tặng đáp với khách quan, hoặc reo vui để tìm bạn, tôi xướng ông họa, cùng nhau đẽo gọt mài dũa nghiên cứu nguyên lưu, lục lạo tìm tìm tòi đến mức tinh vi cần yếu, tìm hiểu qua suốt các dòng thơ của các bậc danh tài nhiều triều đại, từ Tấn Ngụy Lưỡng Hán trở về trước, không chỗ nào là không xem kỹ. Đầu tiên hết phải biết phép tắc vận dụng khi làm thơ của các bậc thi hào, bàn bạc đến các mẫu mực lề lối một cách kỹ lưỡng, chung qui không ra ngoài hai chữ tánh linh là yếu tính từ xưa của thơ,cho nên dẹp hết các lời sáo lũ chẳng dựa bên cửa người khác, ý đã đến thì theo đó ngòi bút phải diễn tả ra, tuy vẽ sâu xa minh mông không được như người, duy có điều riêng được là na ná, giống tinh thần qui tụ yếu chỉ nơi ba trăm thiên kinh Thi.

Tuy nhiên tùy theo lúc đã hình thành lại gạt bỏ, một ít còn lại trên các thẻ cất vào họp chưa tùng trao cho người khác xem, nên không ai biết đến.

Hai lần lãnh mệnh đi công sứ Bắc Kỳ và Nam Kỳ, câu thơ thoáng nghĩ khi đang làm việc, hoặc chợt đề vịnh trên quảng dường trải qua, những vị theo đoàn công vụ sao chép thành một tập nhỏ. Ông Phan Mai Xuyên (tức Lương Khê Phan Thanh Giản) làm quan tại Nội các bất chợt thấy được bằng dựa vào các bài sáng tác, nhiều bài khá, cười xin đề tựa, nhưng rồi cũng chưa kịp gì cả.

Sau đó, thì vắng vẻ thưa thớt ít có câu tứ, những lúc rỗi làm các bài thơ ứng chế lại cũng chẳng bàn đến sự khéo vụng. Tùng Thiện công, Hoàng tử thứ Mười của triều trước (Minh Mạng), ham học và hay làm thơ, không có sách nào là không đọc lại có ý chí theo đòi văn chương, tôi thường cùng với ông bàn bạc thơ ca, trừ ông Mai Xuyên ra ít ai biết đến...” (13)

Trương Đăng Quế: Một Sĩ phu yêu nước, yêu đồng bào, cương quyết chống ngoại xâm.

Vào thời Tự Đúc, khi người Pháp bắt đầu thực hiện mộng xâm lăng nước ta, tuy tuổi đã lục tuần, ông là người đứng đầu phe chủ trương chiến đấu đến cùng để bảo vệ Tổ quốc. Vì tuổi già và nhất là vì vua Tự Đức lúc bấy giờ nghiêng về phe chủ hòa, Ông cảm thấy bất lực nên nhiều lần dâng sớ xin từ quan. Trong các tờ sớ xin miễn chức, Ông đã thẳng thắn tự phê, tự vạch ra những chỗ yếu kém của mình, chức vụ cao, bỗng lộc nhiều nhưng không làm tròn nhiệm vụ, xin nhà vua xét xử. Một trong những tờ sớ xin từ quan, năm 66 tuổi, ông viết:

-”...Từ khi Tây dương đến đây đã 3 năm, mà thần ngồi trơ mặt ở triều ban, không vạch ra dược một chước gì để đánh giặc, tội ấy chối sao được? Lại bóng chiều đã xế, bịnh tật ngày càng nhiều, gần đến cõi chết mà cố giữ lấy địa vị, thật đáng hổ thẹn! Hơn nữa, tai biến hiện ra mãi, người đại thần đáng lẽ phải bãi chức. Vậy xin cho được về quê nhà” (1)#.

Vua Tự Đức không chuẩn y, giao cho đình thần xét. Cuối cùng, tất cả đều muốn giữ ông Trương ở lại Triều để lo việc nước. Xin hưu trí không thuận, Ông Trương Đăng Quế lại dâng sớ lên xin vua được đem số tiền , gạo, nửa số lương của mình được vua tặng từ năm Tự Đức thứ sáu (1853) sung vào ngân khố để chi cho việc quân lương đánh lại giặc Tây dương (2)#.

Chỉ có lòng yêu nước nồng nàn phát xuất từ đáy lòng, Tuy Thạnh Quận Công Trương Đăng Quế mới có những hành động quên mình như vậy. Nhà thơ Trương Quảng Khê đã nêu một gương sáng uy dũng cho hậu thế.

Nguyễn Cao Can
Giáp Tết Kỷ Sửu-2009

Ghi chú:

(1*) Tứ Trụ: người đứng đầu điện Cần Chánh, điện Văn Minh, điện Võ Hiền, và Đông Các Đại Học sĩ.
(2*) Tam Công: Thái Sư, Thái Phó, Thái Bảo.
(3*) Viện cơ mật: cơ quan cao cấp nhất giúp vua giải quyết những việc hệ trọng của đất nước (Minh Mạng lập năm 1834)
1#Quốc sử quán Triều Nguyễn- Đại Nam Thực lục tập 7- nxb Giáo Dục, tr. 678
2# 3# 4# Đại Nam Thực lục Tập 5 tr.7, 793, 794
5# Đại nam thực lục, Tập 5, tr.77
6# Hài Xanh: giày xanh của các Ni Cô
7# Tác gỉa liên hệ đến bài thơ của Lê Thánh Tông ở động Hồ Công năm Hồng Đức thứ bảy (1476)
(1) Quốc triều Chánh Biên trang 153
(2) Quốc triều Chánh Biên tr. 198.
(3) Đại nam thực lục tập XVII tr. 107.
(4) (5) (6) Đại Nam thực lục tập XVII tr. 108.
(7) Đại Nam thực lục tập XVII tr. 211–214
(8) Đại Nam thực lục tập XVII tr. 214.
(9) Đại Nam thực lục tập XVII tr. 290.
(10) Trích trang bài Minh, Tuy Ly Vương Miên Trinh khắc trên bia thờ bên mộ quan Thái sư Cần Chánh Điện Đại Học Sĩ Quản Lý Binh Bộ Sự Vụ Tuy Thạnh Quân Công Trương Đăng Quế.
(11) Tùng Thiện Vương là hoàng tử thứ mười của triều Minh Mệnh (ghi chú của tác giả)
(12) Tuy Lý Vương Miên Trinh viết trong Vỹ-Dạ Hợp Tập của Trương Doãn Trai (tờ 9 & 16).
(13) Bài tựa Học Văn Dư tập, viết năm Minh Mạng thứ 17 (1836) sau tiết Hàn thực một ngày

Hiểu thêm về thơ cổ: “Cổ lai chinh chiến...”

Câu thơ “Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi”, có nghĩa “Xưa nay chinh chiến mấy người về”, là câu hỏi cảm thán. Nếu dùng “Hữu nhân hồi”, sẽ không diễn đạt được nội hàm gì cả. Cả bài thơ đọng lại ở ba chữ cuối “kỷ nhân hội”, mà chữ “kỷ” nghĩa “mấy” là trọng điểm. Hiểu sai chỉ một chữ này là sai mất toàn câu thơ.
- - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - -

Trang: 222

CHUYỆN HỌC TRÒ

Click vào đây.

Tìm hiểu cái khó của Hán văn: Câu “Nam nữ thụ thụ bất thân”.

Người không ít học chữ Hán, đọc câu này, khó hiểu được sự khác biệt giữa hai chữ “thụ”. Muốn hiểu, phải đi về gốc chữ Hán của 2 chữ nầy.

Một chữ “thụ” có nghĩa là “chịu nhận lấy” (trong các chữ: thụ mệnh, thu nhận), thuộc bộ “Hựu” và chữ “thụ” kia có nghĩa là “cho, trao cho” (trong chữ truyền thụ), thuộc bộ “Thủ”. Nghĩa của câu này là: người nam và người nữ không được sờ mó, đụng chạm, gần gũi, thân mật khi trao đổi vật gì đóvới nhau. Khi dịch Hán văn sang Việt ngữ, có nhiều chữ đồng âm dị nghĩa.
- - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - -

Trang: 223

XUÂN AN LẠC


Tống cựu nghinh tân niên chuyển sang
Xua đi u ám cảnh Đông hàn
Nguyện cầu dòng tộc luôn trường cửu
Mong ước gia đình mãi thịnh khang
Đất nước nhiễu nhương thôi oán hận
Dân tình thác loạn hết kêu van
Chúa Xuân đem lại trời an lạc
Nhân loại không còn sống thở than.

Phùng Trần
- - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - -

Trang: 227

MAI EM VỀ THĂM QUẢNG NGÃI

Mai em về cùng anh thăm Quảng Ngãi
Dừng bên cầu nghe tiếng gió sông quê
Nghe xe nước cuộn tròn ru nắng hạ
Nhìn khói lam chiều phủ những lũy tre...

Quê anh đó, một khoảng trời thương nhớ
Giọng ai hò bỏ lại cuối thôn trang
Đường sỏi đá bước chân xưa thần thoại
Bắt chuồn chuồn, đuổi bướm tráng bay hoang.

Mời em đến thăm Liên Trì Dục Nguyệt
Hái sen hồng cánh hoa nở rưng rưng
Nghe tiếng tiêu đồng vọng thổi không ngừng
Nhìn đàn trâu nối đuôi về Liên Chiểu.

Về thăm mẹ, làng Trà câu, xóm Đạo
Nghe chuông chiều buông xuống cõi thinh không
Bên mâm trầu mẹ kể thời Vua Chiếu
Giặc Cao Biền cỡi Diều trãm đầu Long.

Và đưa em đi về thăm Cửa Lỡ
Nhìn thuyền nan thấp thoáng buổi hoàng hôn
Ngắm vầng trăng rải sáng Cỗ Lũy Thôn
Nghe thuỷ triều dâng cao theo ngọn sóng.

Dừng lại bên rặng liễu gầy xỏa tóc
Thả hồn đi hoang theo biển nước bao la
Em thấy quê anh Núi Ấn Sông Trà
Đẹp quá nhỉ, cuối đầu hôn đất Quảng.

Đỗ Vĩnh Khanh.
- - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - -

Trang: 228

ĐÔI LỜI TÂM SỰ
Vũ Diệu Huyền

Lời giới thiệu:

Dưới đây là bài viết của một đồng hương thuộc giới trẻ. Xin giới thiệu cùng đồng hương và độc giả.

BBC.

Tôi không biết bắt đầu từ đâu để nói lên vài điều suy nghĩ của tôi? Đã lâu, từ khi rời mái trường và qua tới hải ngoại này, đây là lần đầu tiên tôi cầm bút viết một bài văn không có mở bài, thân bài và kết luận. Và nhất là không bị thầy giáo chấm điểm như một bài kiểm tra; nhưng tôi biết chắc chắn và hãnh diện một điều là tôi là người Việt gốc Quảng Ngãi.

Quảng Ngãi quê hương tôi, nơi tôi đã được sinh ra nhưng tôi không được lớn lên từ đó. Những cái tên quen thuộc như: Trà Khúc, Trà Bồng, Sông Vệ, Ba Tơ, Hành Tín,...nghe rất gần nhưng cũng rất xa với tôi. Gần vì tôi được nghe nhắc đi nhắc lại nhiều lần từ cha, mẹ, bà con, bạn bè…Còn xa vì nơi ấy cách nơi tôi đang cư ngụ đến nửa vòng trái đất, nhất là tôi chưa một lần trở về thăm quê hương Quảng Ngãi thân yêu của tôi.

Nói về cuộc đời của một người bình thường thì hơi sớm, nhưng với 60 năm thì tôi cũng đã đi được 2/3 đoạn đường. Thế mà Quảng Ngãi ơi! tôi chưa một lần về lại để được đặt chân lên mảnh đất khô cằn, sỏi đá, để nhìn thấy cảnh lam lũ nghèo nàn của quê tôi mà tôi biết được qua báo chí, qua internet, nghe bạn bè thân nhân kể lại. Tôi nhớ hai câu thơ:

“Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”.

Niềm hy vọng lớn lao của tôi là ngày tôi trở lại tất cả sẽ đổi thay để người dân quê tôi có được cuộc sống đúng nghĩa và một tương lai tươi sáng hơn.

Gia đình tôi đang sinh sống một nơi có nhiều đồng hương cư ngụ, được nhiều dịp gặp gỡ, tiếp xúc cùng họ. Vì thế, nơi quê người, tôi cũng đã thấy và biết được sự nhiệt tâm, chân thật, và cũng chứng kiến nhiều điều rất rất ư là “ngang” của người xứ Quảng. Phải chăng đó cũng là “cái Tôi” của chính mình?

Việt Nam đất nước tôi đã bị chia hai bởi phường quỷ đỏ, buộc chúng ta lưu lạc xứ người để mưu cầu tự do, công bình, thân ái. Nơi đây, trên 10 năm qua, đồng hương Quảng Ngãi đã gầy dựng một cộng đồng người Quảng vững mạnh, tạo được tiếng vang tốt tại địa phương. Thế rồi vì một “cơn bão chính trị” đã thổi ngay vào Hội để hôm nay Hội Ái Hữu Đồng Hương Quảng Ngãi của chúng ta cũng bị chia cắt thành hai hội. Bởi vì đâu? Phải chăng vì danh? vì lợi? của cá nhân, của phe nhóm?

“Bâng khuâng đứng giữa hai dòng nước
Chọn một dòng, hay để nước trôi?”

Cảm ơn các bác, các cô chú, cùng tất cả những người đã sáng lập ra Hội Ái Hữu Đồng Hương Quang Ngãi, nhờ vậy mà chúng ta hằng năm có 2 lần hội ngộ, hàn huyên tâm sự, vui chơi… Tất cả là công lao của quý vị, cùng tất cả hội viên đã tích cực tham gia hoạt động.

Thế nhưng hôm nay, buồn lắm thay! Hội Quảng Ngãi đang lớn mạnh lại bị chia hai, tạo ra sự buồn phiền cho các vị cao niên, tạo sự ngỡ ngàng, thất vọng cho giới trẻ, gây nỗi thất vọng, chán chường cho một số người.

Trong cuộc sống ai cũng có thiếu sót, vì vậy mà chúng ta nên thông cảm, tha thứ cho nhau, tìm phương thức để giải quyết, tại sao tạo nên cảnh phân ly?

Trong tinh thần đoàn kết xây dựng, Hội Ái Hữu Đồng Hương Quảng Ngãi chắc chắn sẽ đứng vững và sẵn sàng chào đón tất cả mọi người trong tình đoàn kết, thân thương và xây dựng. Mong các bác, các cô, các chú…cùng tất cả các bạn trẻ Quảng Ngãi hãy quy tụ về đây góp một bàn tay để xây dựng Hội Ái Hữu Đồng Hương Quảng Ngãi ngày thêm vững mạnh.

Cha mẹ tôi thường nói “Thanh niên là rường cột nước nhà”, chắc chắn không sai. Tôi hy vọng các bạn trẻ, những người có bầu nhiệt huyết cao, có trình độ học thức uyên bác, và suy nghĩ đúng đắn, hãy cùng tôi hợp lực với các chú bác, những người có công gầy dựng nên Hội nhà – để tất cả chúng ta cùng nhau xây dựng một Hội Quảng Ngãi vững mạnh. Ông bà chúng ta nói “Chim có tổ, người có tông”, là dân Quảng Ngãi, ai không muốn quê hương mình được nổi danh, được nhiều người nể trọng, vì thế, “xây dựng một Hội Quảng Ngãi vững mạnh” là nhiệm vụ của mọi người chúng ta. Chúng ta hãy vững tin như thế.

Với những ai: kiếm đã cùn, xin hãy để yên trong vỏ. Xin đừng rút ra múa máy lung tung không những gây xáo trộn cho đời mà còn gây tai họa cho mình. Tôi được biết ông Nguyễn Vỹ, một người Quảng Ngãi đã có những câu thơ đáng để chúng ta suy gẫm:

Quảng Ngãi – quê hương tôi
Dân tình bất ly
Dân trí bất nhược
Dân đức bất suy
Dân tâm bất khuất
Khí thiêng nung đúc
Văn chương kiệt phách hào hoa
Bất chấp cường quyền, uy vũ...”

Quý vị nỡ nào tạo nên cảnh “ly tán” để ông Nguyễn Vỹ buồn nơi chín suối? Mong quý vị hãy bình tâm suy nghĩ để có hành động đúng đắn hơn.

Xin kính chúc quý bậc trưởng thượng, quý cô chú bác, cùng các bạn trẻ đồng hương một năm mới Kỷ Sửu an khang, thịnh vượng.
 

Trân trọng,

Ngày 10 tháng 01 năm 2009
Vũ Diệu Huyền
- - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - -

Trang: 231

SỐNG HÒA THUẬN VỚI MỌI NGƯỜI
VŨ ĐỨC Âu Vĩnh Hiền.

Trong đời sống hàng ngày, từ gia đình đến xã hội, chúng ta cần phải giao tiếp với mọi người, trong nhiều trường hợp khác nhau như: trò chuyện, vui chơi, làm việc, buôn bán và nhiều loại dịch vụ trao đổi khác nhau, v.v...Cho nên, giữa con người có những hành động, và phản ứng liên đới với nhau, trong những mối liên hệ cá nhân, và những mối liên hệ đoàn thể. Trong khi nhiều vấn đề phức tạp và mâu thuẫn của đời sống là nhũng nguyên nhân đưa đến những xung đột giữa con người. Vì vậy, việc chung sống thân thiện giữa con người với nhau là một vấn đề quan trọng. Cũng như, mỗi người chúng ta cần phải biết cách sống như thế nào để được hòa thuận với mọi người, trên căn bản cá nhân, cộng đồng quốc gia và quốc tế.

Xuyên qua sự quan sát những giao tiếp giữa con người, chúng ta có thể nêu lên câu hỏi:

- Tại sao một số người dễ kết bạn với hầu hết mọi người họ gặp, trong khi những người khác chỉ có một ít bạn mà thôi?

- Có phải khi được sinh ra, người ta đã được ông trời định sẵn cho người này có nhiều tình bạn hữu, còn người kia thì quá ít không?

Theo các nhà tâm lý, những người dễ kết bạn với hầu hết mọi người họ gặp, chỉ vì cách cư xử “dễ thương, đáng yêu mến” của họ được lòng mọi người. Vừa nghe qua, mặc dù đơn giản, bình thường, nhưng cách sống để được người ta nhận thấy “dễ thương, đáng yêu mến”, hàm chứa nhiều đức tính sống động, đòi hỏi con người cần phải quan tâm và trau dồi. Sau đây là một số đề nghị căn bản của các nhà tâm lý giáo dục, để chúng ta cùng suy nghiệm và ứng dụng nhằm tiến đến một cuộc sống hòa thuận với mọi người.

1- NÊN HỌC TẬP NHỮNG TÍNH TỐT MỌI NGƯỜI YÊU THÍCH:

Qua cách sống từ những người được lòng thương mến của những người khác, chúng ta sẽ nhận thấy họ, phần đông, có những đức tính tốt như sau:

11- Nên Nghĩ Và Nói Tốt Về Người Khác Qua Ưu Điểm Của Họ:

Thông thường, chúng ta ưa thích những người, mà họ ưa thích chúng ta. Bởi thế, một cách để được ưa thích là nên phát triển thói quen nghĩ tốt và nói tốt về người khác qua những ưu điểm của họ. Mặc dù con người không ai có thể hoàn hảo, nhưng hầu hết mọi người đều có ít hoặc nhiều ưu điểm. Chúng ta nên tha thứ những khuyết điểm, để nghĩ tốt và nói tốt về họ qua những ưu điểm của họ. Nếu chúng ta làm được như thế, chúng ta sẽ chiếm được cảm tình thân thiện của họ.

12- Nên Đối Xử Tốt Với Mọi Người:

Trong việc đối xử với mọi người, chúng ta nên có lòng tốt, rộng lượng, quan tâm đến họ, giúp đỡ, ân cần,...Thực tế, chúng ta đều biết, và thường chọn những người bạn có lòng tốt giúp chúng ta an tâm dễ chịu, và vui vẻ. Chúng ta thích những người mà họ mang những hứng thú đến cho đời sống chúng ta. Họ tử tế một cách thành thật đối với chúng ta. Tại sao chúng ta không thực hiện những việc như thế, đối với những người khác, để chúng ta chiếm được cảm tình thân thiện với họ.

13- Nên Tự Mở Rộng Tâm Trí Để Thông Cảm Người Khác:

Trong mọi hoàn cảnh liên hệ với người khác, chúng ta nên có tinh thần khách quan, Chúng ta nên tự đặt mình vào hoàn cảnh của người khác, và những sự việc xảy ra đối với họ, để thông cảm với họ.

Trong cuộc nói chuyện với người khác, chúng ta nên tránh việc tự cho mình là trung tâm điểm (tính ích kỷ), không nói nhiều về cái tôi, và không độc thoại. Trong tinh thần niềm nở, và thông cảm với người đối thoại, chúng ta nên biết lắng nghe và quan tâm đến những gì họ nói. Tâm và trí của chúng ta luôn luôn mở rộng, để thông cảm và hòa đồng với người khác. Từ đó, chúng ta sẽ chinh phục được lòng thiện cảm của họ đối với chúng ta.

14- Nên Tham dự Những Sinh Hoạt Tiêu Khiển Với Người Khác:

Chúng ta luôn luôn có sự thú vị khi chúng ta tạo sự quen biết với người khác, qua việc cùng chia sẻ sinh hoạt tiêu khiển với họ. Thí dụ: Tham dự chơi chung trong các môn thể thao như: bóng bàn, bóng rổ, bơi lội; cùng ngồi nói chuyện vui đùa,...Nếu chúng ta có sự hiểu biết và năng khiếu trong những sinh hoạt tiêu khiển khác nhau, chúng ta sẽ có lợi thế để được làm quen với nhiều người khác nhau, trong những lãnh vực khác nhau. Những người mới làm quen này có thể trở nên những người bạn của chúng ta. Mặc dù họ không thể mang tình thân hữu hàng ngày cho chúng ta, nhưng họ sẽ là một phần vui vẻ trong đời sống, khi họ cùng chia sẻ những sinh hoạt tiêu khiển với chúng ta.

15- Nên Biết Tự Điều Chỉnh Để Hòa Hợp Với Người Khác:

Để hòa hợp với người khác, chúng ta không nên cố chấp, nhất định mọi việc phải theo đường lối riêng của chúng ta. Hơn nữa, chúng ta nên biết quan tâm đến những quan tâm và ý kiến của người khác, cũng như những trở ngại của họ, để chúng ta thông cảm và tự điều chỉnh thích nghi với họ.

Thông thường, để được vui vẻ cho cả hai bên, những mối giao thiệp giữa con người cần phải có hai chiều. Thí dụ: giữa đôi bên phải có qua và có lại; có cho và có nhận. Giữa hai người càng tương đắc thì càng có sự tương đồng qua lại giữa sự cho và nhận.

16- Nên Tập Sống Lạc Quan Và Tích Cực:

Để tập sống lạc quan và tích cực, chúng ta nên bắt đầu bằng việc tìm hiểu những người bạn của chúng ta, để xem những gì có thể làm họ vui thích. Việc này luôn luôn là một khí cụ giúp ích trong việc khám phá ra cách làm cho chính chúng ta trở nên người vui thích. Hơn nữa, đời sống chúng ta càng có nhiều thú vị càng tốt, nên tránh những việc buồn chán tiêu cực, nên có nhiều sinh hoạt hợp với sở thích chúng ta thay vì chỉ có một số ít giới hạn, nên vui thích trong việc làm hàng ngày, nên giữ tâm trí linh hoạt và mở rộng kiến thức bằng việc đọc sách, trò chuyện với nhiều người khác nhau, và tìm hiểu những việc xảy ra chung quanh đời sống chúng ta. Tóm lại, đời sống lạc quan tích cực của một người dễ chiếm được thiện cảm của người khác.

2- NÊN TRÁNH NHỮNG TÍNH XẤU MỌI NGƯỜI KHÔNG THÍCH:

Có một số tính xấu mọi người không thích, vì chúng gây ra những trở ngại cho người ta. Nếu chúng ta biết và tránh được những tính xấu này, chúng ta sẽ không làm phiền lòng những
người khác. Sau đây một số tính xấu mà mọi người không thích:

21- Tránh Tự Làm Mất Niềm Tin Cậy Đối Với Người Khác:

Trong việc giao tiếp giữa con người, nếu chúng ta thực hiện đúng theo những lời giao hứa với người khác, họ sẽ có niềm tin cậy nơi chúng ta. Trái lại, nếu chúng ta thất hứa với họ, họ sẽ không tin cậy, và không có thiện cảm với chúng ta. Thí du: Nên hoàn trả số tiền nợ đúng vào ngày hứa trả cho chủ nợ. Nếu bạn có cuộc hẹn vào ba giờ, bạn nên đến nơi hẹn đúng giờ; hoặc bạn không thể đến đúng giờ hẹn, bạn nên thông báo trước cho người được hẹn biết lý do trễ hẹn và bao lâu bạn sẽ đến. Hầu hết, mọi người đều không thích, và không có thiện cảm với những người không giữ lời hứa, và thường đến trễ giờ hẹn.

22- Tránh Tính Hay Tranh Cãi:

Một người có tính hay tranh cãi, dù chỉ một bất như ý rất nhỏ, thường tạo nên một gây gổ với người khác. Một người có thói quen hay sinh sự thường gây nên những phiền phức, và mệt mỏi cho chính họ và những người khác. Vì vậy, hầu hết những người không thích tranh cãi sẽ tránh xa họ trong những cuộc chuyện trò tương lai.

23- Tránh Tính Thô Lỗ, Khiếm Nhã:

Một số người thích làm chướng tai người nghe với những lời nói thô tục, đùa giỡn khiếm nhã, hoặc ngụ ý xuyên tạc, nhằm tự cảm thấy mình quan trọng. Thật ra, những lời nói thô tục, khiếm nhã sẽ tạo cho người nghe một phản ứng khó chịu, và cảm tưởng bất thiện về người nói. Do đó, để gây thiện cảm với người khác, chúng ta nên tránh sự thô lỗ, bất lịch sự, đối với những người chung quanh.

24- Tránh Tính Hay Mỉa Mai, Chế Nhạo Người Khác:

Những hành vi mỉa mai hay lời chế nhạo thường gây nên sự phản kháng của hầu hết mọi người. Bởi vì chúng ngầm đánh giá thấp kém, và thường làm tổn thương đến người bị chế nhạo. Vì vậy, chúng ta nên tránh những hành vi mỉa mai, lời chế nhạo, để tránh việc mất bạn, vì làm buồn lòng họ.

25- Tránh Tính Hay Khoe Khoang Và Ồn Ào:

Tính khiêm hạ thường được đề cao trong giao tiếp giữa con người. Cho nên, chúng ta nên tránh những hành vi phô trương, lờin nói khoe khoang quá sự thật, hay tính ồn ào như cười nói lớn tiếng, nhằm để gây sự chú ý của người khác; bởi vì chúng sẽ gây cho người ta đánh giá thấp, và không thiện cảm đối với chúng ta.

26- Tránh Tính Tò Mò, Dọ Hỏi Chuyện Cá Nhân Người Khác:

Khi một người hay tò mò, thích dọ hỏi những việc làm của đồng bạn, người này đang vi phạm vào lãnh vực cá nhân của người khác. Bởi vì mỗi người đều có sự riêng tư cá nhân cần được bảo vệ. Thí dụ: Những câu hỏi như:

- Đêm hôm qua anh đi đâu?

- Tiền lương mỗi tháng anh làm được bao nhiêu?

- Cái áo anh mua với giá bao nhiêu?

Có những người muốn thỏa mãn tính hiếu kỳ của họ, mà khiến cho chúng ta lấy làm khó chịu. Bởi vì chúng ta cũng có những việc riêng tư, chúng ta không thích có người khác tò mò đến việc của chúng ta.

27- Tránh Tính Hay Công Kích Người Khác:

Một hình thức của tính hay công kích là khuynh hướng để quở trách hoặc phê bình khi người khác lầm lỗi. Một hình thức khác là tính hống hách và thống trị cũng làm mất lòng người ta. Tính hay công kích ít có hiệu quả trong việc ra lệnh cho người khác, nhưng thường đưa đến sự chống đối của người ta. Cho nên, một trong những tính chất của tình bạn thân mật là sự giúp đỡ hỗ tương để sửa sai lẫn nhau, mới có thể xây dựng con người trong tình thân thiện.

Ngoài ra, tại sao có những người hấp dẫn gây sự chú ý tức khắc ở những người mới gặp lần đầu? Dĩ nhiên, họ có những cách thức thu hút khác khiến người ta chú ý đến. Bởi vì họ có những đặc điểm gây được ấn tượng sâu đậm vào người mới gặp lần đầu. Sau đây là năm nguyên tắc gây nên ấn tượng để thu hút sự chú ý của người khác:

* Năm Nguyên Tắc Gây Ấn Tượng Sâu Sắc Nơi Người Khác:

1- Giữ thân thể và trang phục được sạch sẽ.

2- Giữ sức khỏe được lành mạnh.

3- Giữ sự biểu lộ vui tính và thân mật.

4- Giữ nhân cách lịch sự với mọi người.

5- Giữ ý tưởng thận trọng trước khi nói và hành động

Tóm lại, để sống hòa thuận với mọi người, một số đề nghị nêu trên nhằm giúp chúng ta quan tâm đến sáu việc nên làm, và bảy việc nên tránh như sau:

* Sáu việc nên làm:

1- Nên nghĩ và nói tốt về ưu điểm của người khác.

2- Nên đối xử tốt với mọi người.

3- Nên tự mở rộng tâm trí để thông cảm người khác.

4- Nên tham dự sinh hoạt tiêu khiển với người khác.

5- Nên biết tự điều chỉnh để hòa hợp với người khác.

6- Nên tập sống lạc quan và tích cực.

* Bảy việc nên tránh:

1- Tránh tự làm mất niềm tin cậy đối với người khác.

2- Tránh tính hay tranh cãi.

3- Tránh tính thô lỗ, khiếm nhã.

4- Tránh tính mỉa mai, chế nhạo người khác.

5- Tránh tính hay khoe khoang, ồn ào.

6- Tránh tính tò mò, dọ hỏi chuyện cá nhân người khác.

7- Tránh tính hay công kích người khác.

VŨ ĐỨC Âu Vĩnh Hiền
- - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - -

Trang: 233

NHỚ ÔNG

Người đã cho ta chữ thủy-chung
Người cho ta lúc lạnh lùng tuyết rơi
Người cho ta tất cả trái tim
Bây giờ người lấy ta tìm quanh năm.

Một mình ta đứng giữa đất trời
Xuân sang sầu cũ vẫn chưa vơi
Ta ngồi nhớ lại người yêu dấu
Đau đớn tim ta thương nhớ sầu.

Xuân đến Xuân đi mãi mấy lần
Mỗi lần Xuân tới dạ bâng khuâng
Nhìn hoa đào nở trong phòng khách
Nhớ cội mai vàng ở trước sân.

Tân Nguyễn
- - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - -

Trang: 237

LỘC XUÂN
Nguyễn Hồng Dũng

Bọn thằng Hoàng, thằng Kiệt đã nghỉ học từ hôm đưa ông Táo về trời. Tháng cuối Đông se lạnh thấm qua những chiếc áo mỏng khiến hai đứa run bần bật khi đứng trước ngọ môn đình làng nhìn mấy cụ Hào, Mục, Trưởng lão đốt hương tế cáo Trời Đất để dựng nêu trừ tà, đón mừng Xuân mới vào chiều hăm lăm tháng Chạp. Đội lân của ông giáo Liễng phát xuất từ chùa Bạch Mã với đủ bộ Thổ Địa, Tề Thiên, cùng Sa Tăng, Bát Giới dẫn theo đám trẻ con hiếu kỳ ngoằn ngoèo tiến về sân đình múa lễ. Cái trống chầu Bạch Mã bằng hai xoát ôm của thằng Hoàng được nện xuống bởi cặp dùi điêu luyện trong đôi tay ông Bảy “đờn cò”: “cắc, cắc, thùng, cắc...” thật đều nhịp ra bề hiệu lịnh cho chú lân tấn, thối, khấu đầu, lăn tròn hoặc uốn lượn chung quanh để dân làng được dịp xít xoa khen ngợi, xem cho thỏa thích.

Thằng Hoàng, thằng Kiệt khoái chí chạy lăn xăn quanh ông Địa quên cái lạnh đang mắc míu vào tấm thân nửa trần, nửa kín. Ông Tề xách thiết bảng giống chiếc đòn gánh mà bà nội thằng Kiệt mọi hôm quảy trầu ra chợ Đông Xuyên đổi gạo, múa tít mấy vòng rượt Bát Giới xách cào cỏ chạy té ngữa, té nghiêng khiến bọn thằng Hoàng cười lăn và phục tài ông Tề sát đất.

Tế đình, thượng nêu vừa xong, mọi người được chia lộc gồm một vắt xôi với nửa trái chuối, bọn nhỏ ăn ngon lành lộ vẻ thèm thuồng. Hoàng không ăn xôi, gói lại trong lá chuối, bỏ vào túi để dành cho con Nguyệt, rồi chạy theo đoàn lân xuống mả ông Cả Bân rước linh vị về làng ăn Tết.

Dân chúng cùng bọn trẻ hai bên đường nhập vào đoàn lân mỗi lúc một đông. Trời chiều lặn sau hàng dừa cuối xóm, vài tia nắng xuyên kẻ lá vẽ một lằn dài mỏng manh bên bờ ruộng ven đường. Đôi trâu cày của ông Lý chậm chạp trên bờ đê hướng về nhà khi hoàng hôn lịm dần, chúng nghe tiếng trống lân cũng ngẫn ngơ đứng nhìn cho tới lúc ông Lý ra roi mới chịu cất buớc.

Tục truyền, ông Cả Bân là người khai sáng ra làng Đại Trạch nên ai nấy trong làng đều có bổn phận thờ cúng ông như vị Thành Hoàng bổn xứ. Đó là nói những dịp rước lễ Xuân Thu nhị kỳ, chứ ngày thường thì mả ông cả Bân là tổng hành dinh của bọn trẻ chăn bò, chăn trâu, hoặc đánh đáo, thả diều từ xóm Thượng xuống xóm Hạ, nhờ địa thế ông mả nằm nghều nghệu trên đỉnh gò nối liền các xóm giữa rừng mai thôn Xuân Ngạc.

Các vị hào, mục, hương cả trong làng đốt măng xông nhậu nhẹt đến khuya. Cây nêu cao vút bằng tre lòng ngà treo lơ lững bùa bát quái với là phướn đỏ ngầu, phần phật lộng trong gió như chứng tích hùng hồn nhất báo cho dân làng nghỉ việc đồng áng: đón Xuân.

Nói vậy thôi chứ năm ấy được mùa sớm, lúa trì-trì trổ hạt cuối tháng Chín cho ruộng trống đón phù sa đợt lụt hăm ba tháng Mười xâm xấp bùn non. Nhờ thế mà cây lúa Đông Xuân cứ mơn mởn ngậm sữa đòng đòng để dân làng rảnh rang nghỉ việc từ hôm rằm tháng Chạp, sửa soạn nhà cửa, dán liễng đối đỏ chót khắp nơi chờ nghinh Xuân mới.

Thằng Hoàng băng ngang qua nhà Nguyệt, con bé đang quảy đôi gánh ra giếng lấy nước. Hắn chạy thật nhanh vừa tầm liền dúi vào tay Nguyệt nắm xôi.

- Xôi cúng đình, ngon lắm. Cho mày đó!

Nói xong, Hoàng vụt chạy ra bờ ao, biến mất...
 

* * *

Phong pháo Tô Châu được ba Hoàng thận trọng mở nắp hộp, bóc lớp nylon rồi treo lên nhánh vú sữa sà trước cửa nhà chờ đến phút Giao thừa châm lửa. Bà nội đã bày bàn hương án trước sân để “tống cựu nghinh tân, cung xXuân tiếp phước”. Hoàng thức dã dượi bên nồi bánh tét chờ tới phút giao thừa lượm pháo thúi mà thời gian cứ ngần ngại trôi qua.

Bầu trời đen nghịt không một ánh sao. Đêm trừ tịch chuyển mình sang năm mới với khí sắc trang nghiêm chờ đợi. Sự tôn kính hiện lên gương mặt nội truớc án hương cạnh lư trầm nghi nghút khói càng tăng thêm nét thiêng liêng của vũ trụ đang thay tiết đổi mùa. Hoàng đứng xó rớ trước gốc cây, chờ giây phút thần tiên để…lượm pháo thúi rớt ra từ những viên chưa kịp nổ đùng của phong pháo Tô Châu lửng lơ trên cành vú sữa kia kìa.
 

* * *

Chùa Bạch Mã dựa lưng vào rừng mai, hướng ngọ môn trực chỉ hừng đông để mặt trời thức giấc òa vào chánh điện. Hàng liễu đứng thẳng tấp từ cửa tam quan đến bực tam cấp xi măng được trang hoàng rực rỡ bởi tràng phang ngũ sắc, cờ xí giăng ngang. Hoàng theo nội lên chùa để hái lộc đầu Xuân.

Cây lộc Xuân chính là cây mãn cầu đại thụ nằm trước phương trượng đường được cột hàng ngàn phong bì đủ màu sắc xanh, đỏ, vàng, cam. Trong ruột phong bì có tấm thiệp màu hồng viết những tặng phẩm tượng trưng hay những lá xăm ông Quan Thánh giải đoán vận mạng kiết hung, gia đạo, lương duyên, học hành, quan lộ suốt cả năm dài. Dĩ nhiên ai hái được trái lộc nào thì nhận lãnh quà phúc ghi trong quả ấy.

Sau khi lễ Phật xong, nội dẫn Hoàng tiến ra cây mãn cầu đại thụ để hái lộc đầu năm. Nội căn dặn:

- Con nhớ, khi hái lộc phải đọc thầm lên ba lần: mãn cầu, mãn cầu nghe chưa. Có như vậy thì trọn năm mới hữu cầu toại ý đấy.

Nội nói xong, lẩm bẩn khấn nguyện một cách tín thành rồi đưa hai tay hái được một quẻ xăm “thượng thượng” nên mừng đáo để. Quay qua Hoàng nội thúc:

- Hái đi con!

Hoàng muốn hái trái lộc thật cao trên cành kia kìa. Nó nói với nội:

- Làm sao con hái được trái ấy hả nội?

Bà cười hiền từ rồi chỉ chiếc ghế dựa sát tường giục nó đứng lên đó. Hoàng vói tay khỏi đầu trườn lên cho cao thêm tí nữa rồi níu phong bì màu vàng cho đứt xuống bàn tay. Hoàng hồi hộp mở ra đọc từng chữ: “Tứ quý hưng long, thân tâm an lạc, sở cầu như ý, hữu nguyện tất thành” bằng chữ Hán được viết nắn nót bằng nhụ kim trên tấm giấy màu đỏ. Thằng bé mặt bí xị trông yếu xìu khi thấy đống tặng phẩm như xe ô tô, sách hoa, con vụ quyến rủ mà mình chỉ được mảnh giấy vô tri này. Nội biết ý cầm xem rồi giảng giải:

- Con biết không? Nó tốt lắm đó. Tứ quý hưng long là bốn mùa thịnh vượng, học giỏi, thả trâu không có ăn lúa người ta. Còn thân tâm an lạc là không có bịnh hoạn, không đau bụng vặt hay thương hàn, kiết lỵ như năm rồi. Còn câu bên này thì muốn gì được nấy...như vậy thì con có thích không??

Dù nghe nội giải thích ngon lành, Hoàng thật tình vẫn không thích tí nào. Ngang qua hành lang tiến về dãy hậu liêu, nội gặp sư phụ đang chúc phúc đầu năm, bà kính cẩn vội vái chào trong khi Hoàng định thần chạy lại đống tặng phẩm ngắm nhìn cho thỏa thích.

Con Nguyệt bận chiếc áo bà ba trắng, đi đôi guốc Nam Định lốc cốc phía trước hàng hiên. Đứa con gái học chung lớp ba, lớp bốn trường làng mọi bữa bỗng nhiên xinh xắn lạ thường trong ngày Xuân mới. Khi ngang qua truớc mặt, Hoàng ấp úng hỏi nhỏ:

- Mày cũng đi hái lộc đầu Xuân hả?

Con bé chỉ gật đầu rồi buớc đến gốc cây mãn cầu hái lộc. Tặng phẩm là một hộp bút chì màu, người phụ trách mở quà reo lên khi xé phong trái lộc của Nguyệt. Thằng Hoàng đứng ngoài lộ vẻ tiếc rẻ trái lộc lúc nãy của mình. Nguyệt nhận quà hớn hở bước ra, lấy một cây bút chì màu trao cho Hoàng, mỉm cuời Nguyệt nói:

- Tặng cho mày đó!

Hoàng bất chợt đươc Nguyệt tặng quà đầu năm. Nó phấn chấn kỳ lạ nhận lấy cây bút chì rồi tiện tay trao cái lộc đầy câu chúc mà nó mới hái khi rồi cho Nguyệt:

- Tao cũng cho mày đó. Nội tao nói nó tốt lắm, không bị bịnh, muốn gì được nấy, linh lắm đó!

- Ừ, xôi hôm trước ngon ghê; rồi Nguyệt nhìn tuồng chữ viết ngoằn ngoèo ngắm nghía:

- Bộ cái này là lá bùa hả?

Hoàng chưa kịp ừ hử thì đoàn người hành hương diễn qua. Thằng Kiệt từ đâu lướt tới vỗ vai Hoàng rủ bạn:

- Ê, mau xuống đình coi đấu vật, tao nghe có đoàn hát bội nữa đó mày, lẹ lên kẻo hết!

Vừa nói, hắn vừa cầm tay bạn lôi đi. Hoàng dần dừ luỡng lự hơi tiếc nối khoảnh khắc đối đáp với Nguyệt vừa qua. Thôi cũng được, đầu năm như vậy là hên lắm đấy, Hoàng tự nhủ rồi cùng bạn chạy băng qua hàng rào, quên nói cho nội biết mình đang đi đâu.

Trời sập tối, Thằng Kiệt mua đâu được mấy giây pháo chuột bé tí teo đốt đì đoành trước sân. Tiền lì xì của hắn theo tiếng nổ cuộn thành khói khét nghẹt. Hoàng chưa thích đốt pháo lúc này dù hắn còn vài viên trong túi áo. Hoàng vào bàn học lấy cây bút chì ngắm nghía rồi nảy ra ý định viết cái gì để tặng cho Nguyệt. Hắn sực nhớ bài học thuộc lòng của Vũ Đình Liên mà thầy Diên giảng dạy trước ngày áp tết.

“Mỗi năm hoa đào nở,
Lại thấy ông đồ già
Bày mực tàu giấy đỏ
Bên phố đông người qua.
Bao nhiêu người thuê viết
Tấm tắc ngợi khen tài,
Hoa tay thảo những nét.
Như phượng múa rồng bay”

Viết được bấy nhiêu, nghĩ sao hắn lại thôi, chạy ra sân giật cây nhang trên tay Kiệt đốt đì đoành mấy viên pháo lượm được tối qua.
 

* * *

Muời lăm năm trôi qua kể từ ngày miền Nam thất thủ. Mười lăm năm trời phiêu bạt để rồi hôm nay Hoàng chuẩn bị đón mùa Xuân sang trong căn phòng nhỏ giữa thung lũng hoa vàng của xứ cờ hoa tráng lệ.

Tháng Giêng Tây lịch mang âm huởng tuyết Đông buốt giá đang ùa vào khe cửa thẩm thấu vào những chi hệ thần kinh làm chàng rùng mình. Ngước nhìn tờ lịch Tam Tông Miếu treo lơ lững trên vách tủ lạnh, ừ nhỉ, hăm lăm tháng Chạp ta rồi đấy.

Hôm Kiệt từ Pháp sang, hai người không rời bộ salon mà gói trà Bạch hạc cũng gần cạn queo. Những kỷ niệm ấu thơ, cái dĩ vãng vừa kỳ diệu, vừa ngây ngô vẫn đọng lại trong ký ức chỉ để chờ dịp ngoi lên:

- À! Ông nhớ không? Kiệt vỗ vào vai bạn như sực nhớ điều gì; Cái cô Nguyệt bông ấy!

- Nguyệt bông nào à? Hoàng ngạc nhiên, phải Nguyệt con ông giáo Nghiêm không?

- Ừ, ừ, đúng rồi, cô ấy.

Hoàng cướp lời nóng nảy:

- Ủa, cô ấy thế nào, mà sao lại là Nguyệt bông? Hoàng tỏ vẻ ngần ngại pha lẫn ngạc nhiên.

- À, bình tĩnh, bình tĩnh chớ lỵ! Bông là biệt hiệu sau này vì Nguyệt bị nghỉ học, đi bán hoa, cứ theo mùa từng loại hoa mà bán. Tết thì hoa đào, hoa mai, Hạ Thu thì hoa sen, hoa cúc nên gọi là Nguyệt bông. Bây giờ không biết cô ta ở đâu, chỉ nghe ông Liễng từ Việt Nam sang nói rằng, tội nghiệp cô ấy vượt ngục rồi trốn ra nước ngoài nhưng tám năm qua vẫn biệt vô âm tín. Ông giáo Nghiêm có nhờ ông Liễng hỏi thăm bạn bè xa gần mà rốt cuộc nào có ai gặp đâu!

- Ủa, Hoàng trố mắt kinh hãi, mà sao lại vượt ngục, Nguyệt ở tù à?

Dường như Hoàng đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác.

- Ồ! chuyện dài lắm, nhưng đại khái nghe kể là cô ta tham gia tổ chức chống chính quyền, bị bắt và kết án đến hai mươi năm. Ở tù được ba bốn năm gì đó thì cô ấy vượt thoát khi đày đi lao động khổ sai tận vùng núi Long Sơn.

Kiệt còn nói thêm nhiều nữa nhưng Hoàng như bị ù tai. Mãi lát sau, Hoàng sực nhớ chưa đưa bạn vào phòng nghỉ ngơi; đã gần bốn giờ sáng, ngủ không được mà đi làm thì quá sớm!!
 

* * *

Hôm nay Mùng Một Tết. Cái Tết Nguyên Đán trọng đại và tôn kính ở Á Đông bao nhiêu thì xứ người càng trầm lặng, yên tĩnh và cô quạnh bấy nhiêu. Trừ vài cú phone chúc Tết của đám bạn đồng hương chung sở, ngoài ra không có một chút gì khác biệt hơn ngày thường chứ đừng nói gì đến “bánh tét, dưa hành, câu đối đỏ…”. Trong khung cảnh trầm lặng mọi hôm thì giờ này càng cảm giác đơn côi, tĩnh mịch vô cùng, Hoàng tìm cái bật lửa, đốt lên ba nén nhang cắm vào bàn thờ Phật để mùi trầm lan tỏa sưởi ấm gian phòng. Nhấc cái phone định gọi vào sở lấy một ngày “off” bịnh, nghĩ sao Hoàng lại thôi.

Mùa Đông tàn tạ buốt giá lên đầu ngọn ô liu; cây sồi già trước cửa cũng chỉ còn là một thân khẳng khiu trên lớp cỏ phủ những hạt tuyết non chưa tan tựa ngàn viên ngọc thạch lung linh mờ ảo, bất chợt Hoàng mỉm cười với cảnh tiêu tàn như dưới mắt Mãn Giác thiền sư nhìn chơn giả, thực hư, biến dịch:

“Xuân khứ bách hoa lạc,
Xuân đáo bách hoa khai,
Sự trục nhãn tiền quá
Lão tùng đầu thượng lai.
Mạc vị Xuân tàn hoa lạc tận
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai.”

Hết Đông tàn cây sồi sẽ đâm chồi nẩy lộc và mùa Xuân lại kế tiếp hiện thân. Hoa ẩn tàn Đông giá để Xuân về nở nhụy khai hoa, đó cũng chỉ là một biến thân của giả hợp, vô thuờng. Nghĩ như vậy, chàng lại thôi không thèm đi làm mà cũng chẳng gọi phone khai bịnh; hôm nay Hoàng nhất định đến chùa để hái lộc đầu năm. Mười mấy năm trời phiêu bạt mà chẳng được dịp về lại với chính mình, chàng tự nhủ rồi thay áo, choàng bộ vest mới nhất lần xuống cửa garage.

Cuối cùng Hoàng cũng đến đỉnh núi của Tu Viện Kim Sơn. Bước vào chánh điện, khói trầm ngào ngạc, không khí Xuân nhật bùng lên, cái Tết Nguyên Đán thật sự trỗi dậy và khởi sắc nơi đây. Hàng trăm đồng hương quy tụ lễ bái, chúc phúc, xin xăm làm chàng xao xuyến nhớ đến cây mãn cầu đại thụ năm nào với tấm thiệp lộc xuân “tứ quý hưng long” mà lòng rộn ràng thương cảm.

Hỡi ơi, Hoàng đã gần nửa kiếp nhân sinh mà một phút an lạc cũng chỉ là ảo mộng! Bốn mùa thì cũng ngậm ngùi trôi qua, rãi trên đầu chàng lớp tro tóc nhuốm màu tiêu muối. Hai dãy cột treo hàng liễn đỏ chầu vào đại hùng bửu điện, vẫn cành đào xum xuê những lộc, dù cành đào chỉ là cành giả được kép công bởi bông sáp đỏ pha lẫn nhựa nguyên nhưng chàng vẫn thấy thiếu một cái gì khó tả.

Hoàng với tay ngắc một chiếc lá nụ non để ước mong tìm được lộc Xuân năm nào. Giờ phút tôn nghiêm này, chàng lắng đọng tâm tư để cầu xin câu chúc “sở cầu như ý...” ứng nghiệm hầu mong cho Nguyệt được yên lành ở một chốn nào đó trên chốn dương trần, hy vọng cho nàng khỏi bị sơn lam chướng khí hoặc sóng cả dày vò khắc khổ.

Chàng lùi ra hiên bên gác chuông đại hồng, bài học thuộc lòng bở dỡ ngày xưa lại in trí như thuở học trò. Hoàng lững thững bước đi với chút cayđắng, bùi ngùi:

“...Năm nay đào lại nở
Chẳng thấy ông đồ già,
Những người muôn năm cũ,
Hồn ở đâu bây giờ?”.

Nguyễn Hồng Dũng
Trích từ “Nước Mắt Của Biển”, Nguồn Sống xuất bản 1992.
- - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - -

Trang: 241

MÙA XUÂN

Tôi thèm nắng ấm, một mùa Xuân
Rực rỡ mai vàng nở trước sân
Trong nhà mức bánh khói hương trầm
Cứ nghĩ tuổi Xuân còn trẻ mãi
Quên đi tuổi trẻ, đã qua rồi
Vẫn mơ Xuân đến, Xuân tươi mãi
Để cõi lòng tôi chẳng có già

Đêm Xuân lạnh buốt thịt da
Gió Xuân chợt héo cành hoa trong mùa
Bàng hoàng tỉnh giấc mộng xưa
Còn chăng một chút Xuân thừa mà thôi
Chưa vui, Xuân đã đi rồi
Chưa mừng Xuân chẳng một lời chia tay!

Tân Nguyễn
- - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - -

Trang: 245

NHỚ MẸ
Kính viếng hương hồn Mẹ.

Mẹ mất đến giờ đã một năm
Mà con tưởng Mẹ hãy còn nằm
Giường bên, Mẹ bảo con đừng thức
“Lỡ họ nghi ngờ lỡ rối răm”.

Con còn nhớ mãi lời Mẹ dặn:
“Đi làm chớ để đầu dang nắng
Đừng có dầm mưa, ở tối trưa,
Cái đau cái ốm nó đâu chừa”

Mẹ ơi! Lời Mẹ đâu còn nữa:
Những lúc con dầm dãi nắng mưa
Những lúc con buồn lo mất ngủ
Còn chăng âm hưởng Mẹ ngày xưa!

Con còn ghi nhớ ngày còn sống
Mẹ đến bên con giữa giấc nồng
Sờ mó đầu con, con tỉnh giấc,
Hỏi gì? Mẹ chỉ lặng nhìn trông.

Ba lần như vậy trong hai tối
Rồi một ngày sau Mẹ tắt hơi
Hồi đó, con nghi nhầm Mẹ lẫn
Nào ngỡ đâu rằng Mẹ nuối nôi!

Mẹ ơi! Con mãi còn tiếc hối
Để lỡ cơ may chỉ một hồi
Mà suốt đời con nào có nữa
Lời cùng với Mẹ tựa kim bôi.

Hôm nay Đông mãn, heo may thổi
Tuần giáp năm ngày Mẹ mất rồi
Vaoi2 dòng thơ con viếng Mẹ nầy đây
Xin Mẹ yên lòng nơi chín suối.

Nguyễn Ngọc Bích
Sơn Tịnh, 13-12 Giáp Tý 1984
- - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - -

Trang: 246

ĐÚNG LÀ CHÀNG RỂ QUẢNG-NGÃI.

Click vào đây.
- - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - -

Trang: 253

TRƯỜNG TÔI

Trường tôi nằm giữa cánh đồng
Hè về phượng vĩ nở bông khoe màu
Nhớ nhiều nhưng biết làm sao
Hai bờ ngăn cách nỗi sầu thiên thu
Bao phen khói lửa mịt mù
Gieo bao tang tóc hận thù tràn lan
Vì đâu hoa rủ hương tàn
Bước đi một bước hai hàng lệ rơi
Quê tôi giờ mãi xa vời
Trường xưa còn đó nhưng người biệt tăm
Nỗi lòng ai có thấu chăng?
Vương mang kỷ niệm một lần ra đi
Giờ đâu còn ước mơ gì
Nghìn trùng xa cách khắc ghi trong lòng
Thôi xin đừng đợi đừng mong
Xem như con sóng giữa dòng đại dương

Lê Tùng
- - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - -

Trang: 254

NHỚ CON

Lời giới thiệu:

Bác sĩ Văn Hoàng Phi con trai út của ông Văn Tấn Ngộ, quê ở Bách Mỹ, Sông Vệ, Quảng Ngãi. Mồ côi mẹ, cùng cha vượt biên tị nạn Cộng Sản. Tốt nghiệp Đại Học ở Kansas. Tốt nghiệp Trường Ohio College of Podicatrice Medicine với bằng Doctor of Podicatrice. Sau 3 năm thực tập, về lại tiểu bang Kansas hành nghề Bác sĩ tại nhà thương Garden City. Ngày 1/7/07 thi đậu bằng The American Board of Podicatric Surgery.
Bác sĩ đã chuẩn bị xong mọi việc cho ngày về Wichita, tháng 6/08 mở phòng mạch để dược gần và phụng dưỡng phụ thân. Nhưng ngày 26/4/08 Bác sĩ Phi đã qua đời vì bị tai biến mạch máu não, hưởng dương 33 tuổi,
Bài thơ NHỚ CON dưới đây là tiếng nấc nghẹn ngào, là tiếng kêu tuyệt vọng của người cha mất con. Chúng tôi đăng bài thơ này như một sự thông cảm và chia buồn cung gia đình ông Văn Tấn Ngộ, người đồng hương, và cũng để chứng tỏ cho người đời thấy rằng tình cha thương con cũng tha thiết, bao la như tình mẹ đối với con.

(Ban Báo Chí)

NHỚ CON

Ngày con mất, ba chẳng còn vui nữa
Cứ buồn hoài, rồi nói nhảm băng quơ
Bao nhiêu chiều lê từng bước bơ vơ
Ba lạc lõng, giữa đường đời hiu quạnh.

Chiều hôm qua một mình đi thăm mộ
Trên đường về nghe nhớ quá con ơi
Thương yêu con, ba cảm thấy rã rời
Dương âm cảnh cha con đành ngăn cách.

Ba muốn quên, muốn quên đi tất cả
Kỷ niệm xưa xin gởi gió mây ngàn
Để trở về cùng cuộc sống bình an
Năm tháng cũ, lúc con còn thơ dại.

Ba muốn quên nhưng tình càng tha thiết
Bóng hình con, cứ quanh quẩn bên ba
Con thành công trong nghĩa mẹ công cha
Nhưng bất hạnh giữa cuộc đời oan nghiệt


Văn Tấn Ngộ
- - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - -

Trang: 255

DU LỊCH BARBADOS

Click vào đây
- - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - -

Trang: 262

XUÂN NHỚ SONG THÂN

Xa quê lạnh bốn phương trời
Tôi ngồi nhớ lại những lời mẹ cha
Còn đâu dưới ánh trăng ngà
Hãy quê cay đắng những ngày lang thang
Còn đâu đón Tết mai vàng
Ngậm ngùi nuột lệ lang thang đất người
Hàng đào ngã bóng chiều nào
Mình tôi ngồi đó nhìn vào nhớ thương.

Tân Nguyễn
- - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - -

Trang: 268

CON GIÓ CHUYỂN MÙA

Chút rét nhẹ thoảng đôi vùng da thịt
Ngồi đây nghe con gió chuyển mùa qua
Một chú én lướt nhanh bên đầu ngõ
Khóm hồng nhung vội vã nở thêm hoa.

Cũng có thể Tết năm nay về muộn
Nhìn quanh vườn hoa lá đã lên Xuân
Mấy chậu cúc đang khoe màu con gái
Dăm cành mai rực rỡ trổ hoa non.

Mấy năm trước độ nầy mai chửa nụ
Mưa phùn rơi làm run rẩy không gian
Mây xuống thấp bên khung trời ủ rũ
Đợi chờ xuân khi gió chuyển mùa sang.

Trầm hương cũ len qua từ lối xóm
A! hăm ba “Ông Táo” sắp về “trời”
Còn tuần nữa sẽ “nghinh tân, tống cựu”
Sao bây giờ dưa món chả đem phơi.

Thủa chinh chiến dăm ba thằng tứ xứ
Xuân về ngông cũng chén tạc chén thù
Giờ chẳng biết đã ai còn ai mất
Đôi lần mơ chợt thức trắng canh thâu.

Con phố nhỏ hoàng hôn về lạnh ngắt
Khoác ưu tư tìm dấu vết quen thân
Lục trí nhớ nghe mơ hồ mất cả
Gió trường chinh xua ngày tháng hồng trần.


Thủy Lâm Synh
Feb. 10, 2007
- - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - -

Trang: 269

DƯỚI CƠN MƯA PHÙN

Click vào đây.
- - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - -

Trang: 272

VIỆT NAM QUÊ HƯƠNG NGÀN ĐỜI DIỄM TUYỆT

Click vào đây
- - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - -

Trang: 274

NĂM RỰA
Truyện ngắn của Nguyễn Liệu

Tặng mười tám người tù chung thân tại Xuân Phước.
Gửi bà Trần thị Sự chợ Tam Quan, Bình Định

Khi đoàn tù hai mươi người từ Kim Sơn đưa vào Phú Yên trại Xuân Phước riêng mình tôi bị đưa vào nhà nhốt riêng cùng mười tám người tù có án nặng. “Trâu già không sợ dao phay” nên tôi dửng dưng từ giã anh em, trong khi đó anh em có vẻ lo cho tôi. Vào phòng đặc biệt này, được cái là khỏi đi lao động, tức khỏi bị hạch sách của người dẫn toán tù đi làm việc. Khi bị cấm cố thì mong được đi lao động, nhưng lao động riết rồi lại muốn vào cấm cố cho khỏe tấm thân tù tội. Nhưng thực ra không phải là cấm cố mà chỉ ở riêng trong một khu vườn nhà chung quanh thành cao, cổng đóng kín, không thấy cái xã hội tù bên ngoài. Nói theo cách lập dị kiểu cách “đó là một nhà tù trong nhà tù”. Trong khu đó có cái giếng, tha hồ tắm giặt, nhưng người tù cấm cố ít khi tắm và cũng không có cái gì để giặt. Mười tám người này gần như đồng một tội là tội giết người trong đó có hai người thọ án tử, nhưng sau được giảm thành án chung thân.

Không ai chú ý đến tôi, khác với những phòng giam khác khi có “lính mới” vào thì bu lại hỏi đủ thứ chuyện như đám ký giả bao vây một nhân vật quan trọng để phỏng vấn. Người lính gác tù dẫn tôi vào chỉ chỗ tôi nằm. Thấy lính vào những người tù đặc biệt này không chào hỏi, không tỏ vẻ sợ như các phòng giam thường thường tôi đã trải qua lâu nay. Gần như lạnh lùng, vô cảm, không ai nói chuyện với ai. Trong phòng vài cặp đang đánh cờ tướng, một vài người ngồi xem nhưng cũng như các bức tượng được đặt sẵn. Im lặng, rất im lặng. Một vài người nằm tại chỗ nhìn trần nhà, một số ngồi ngoài hè nhà nhìn trời, một vài người đi chầm chậm như đếm buớc trong sân.

Nhưng có những điểm rất giá trị mà người tù nào lâu năm di chuyễn nhiều nơi thì thấy rõ. Yên tịnh, yên tịnh một cách tuyệt đối. Rộng rãi, nhất là chỗ nằm, mỗi người chiếm một chỗ lớn hơn chiếc chiếu, tha hồ ngang dọc (có những nơi mỗi người tù phải nằm nghiêng, có nơi chật quá phải chia từng nhóm để có chỗ nằm, nhóm ngủ, nhóm ngồi, nhóm đứng rồi thay phiên, nhất là các trại giam loại tù chưa hoàn tất hồ sơ). Tôi hay đi vòng vòng ở sân trước hoặc ngồi ở hè nhà nhìn khoảng trời hạn hẹp, rồi cũng đi, rồi cũng ngồi.

Tôi hút thuốc lá, có lẽ vì là người tù mới, nên họ chỉ nhìn tôi không ai tới xin tôi thuốc để hút, điểm này cực kỳ khác các trại giam đông đúc bên ngoài. Một người đang hút, tức thì có vài ba người đến gần xin một điếu, hoặc cho kéo một hơi, hoặc chờ lượm cái tàn thuốc.

Cũng nhờ tôi có thuốc lá, tôi mời anh em hút, nên tôi nói chuyện và tìm hiểu qua qua tất cả mười bảy anh em cùng phòng đặc biệt này. Thật sự họ là những kẻ giết người và đang thi hành bản án. Tôi nói mười bảy người vì còn một người tôi không có cách gì để biết anh như những anh em khác. Anh em gọi anh ta là Năm Rựa, nhưng cũng không hiểu tại sao gọi là Năm Rựa. Phần đông nghĩ rằng anh tên Rựa thứ năm trong gia đình nên gọi là Năm Rựa. Có lẽ ở anh khá đặc biệt nên rất nhiều chuyện về anh, có những chuyện trái ngược mâu thuẫn với nhau. Nghe thì nghe vậy nhưng vẫn không ai biết thật sự anh tên gì, họ gì, ở đâu đến, tội trạng gì, tại sao, vì sao v..v...Tóm lại, ở anh, hoàn toàn bí mật. Đã ở chung ba năm nhưng không ai biết gì về anh chàng kỳ lạ này.

Sở dĩ người ta không biết về anh bởi vì anh câm, không bao giờ hé răng. Nghe nói người hỏi cung đánh anh đủ cách đủ kiểu, anh chết đi sống lại, máu đầu chảy gần như cạn, nhưng cũng không biết tên anh là gì để ghi vào đầu bản cung ở mục “Tên họ bị can”. Lại nghe kể người ta tức quá đánh anh đến chết vứt ra góc sân chờ sáng mai đem chôn. Sáng hôm sau toán chung sự, toán chôn xác chết trong tù, được lệnh đến đưa xác anh ra “nghĩa địa tù”, nhưng thấy xác chết cựa cựa, xem kỹ lại còn thở nhẹ nhẹ có lẽ qua đêm sương làm cho xác chết hồi sinh chăng. Đánh riết rồi mệt, rồi ngán, hết muốn đánh nữa, bọn tù làm tạp dịch khiêng anh vào phòng bỏ nằm chờ chết, nhưng không chết. Nhiều tay chuyên đánh đến “đá cũng phải nói”, thế mà đành chịu thua ở trường hợp này. Nghe những chuyện anh em mỗi người kể một cách về nhân vật quá kỳ lạ này, tuy khó tin, nhiều chỗ vô lý, nhưng hay hay, nghe lý thú, nên tôi tìm cách khám phá nhân vật hãn hữu này.

Thì ra anh nằm gần tôi. Nói gần nhưng cũng cách nhau ba bốn chiếc chiếu. Tôi cứ tưởng anh tù bịnh đang nằm nên không để ý. Anh thường nằm ngữa nhìn trần nhà, không nằm nghiêng, không trở mình. Chỉ khi đi cầu đi tiểu anh mới đứng dậy, nhưng cũng rất hiếm khi làm việc này. Tôi phì phà điếu thuốc, cầm sẵn điếu đã quấn đến gần anh “Ê, mời anh điếu thuốc. Hút thuốc cho vui!” Không biết làm sao nói hết cái giá trị của điếu thuốc trong tù. Một niềm vui quá lớn khi có người cho điếu thuốc trong tù. Tôi mời lớn như vậy nhưng không thấy anh động tịnh gì hết, nghĩa là anh không cần để ý đến lời mời. Vũ khí thuốc lá của tôi hết công hiệu. Tôi chịu thua. Anh vẫn là người bí mật như dưới cõi âm ty, đành thua.

Tướng người cao to. Đi nghiêng nghiêng như muốn chúi ngã về phía trước. Cái vai trái gãy cúp xuống, cánh tay trái buông xuôi như cánh tay chết, không cử động. Mắt lừ đừ ngó xuống đất yếu ớt không còn thần sắc. Tóc lờm xờm ngang dọc phủ gần đến vai. Anh mặc chồng hai cái áo tù rách, cái quần dài, bộ đồ tù màu xanh lợt đã cũ. Khi mời thuốc không được, tôi mới tin anh em nói “ai cho cái gì không bao giờ anh đụng tới”, cũng không dọn, người cho phải đến lấy lại đem đổ, vì để lâu hóa hư thối. Chắc chắn là bịnh tâm thần rồi nên bọn canh gác tù, trông coi trại tù, như dành cho anh một qui chế đặc biệt, xem anh như loài thực vật cây cỏ, hoặc như một xác chết bỏ quên không ai chôn cất. Trước cái thái độ vô cảm ứng, cái thái độ hoàn toàn khép kín không một kẻ hở của người tù kỳ lạ này, tôi chịu thua, không tìm hiểu anh ta nữa và gần như không để ý đến nữa.

Hơn một năm sau, một buổi chiều nóng bức. Cái nóng của rừng núi làm cho đám tù ra ngoài hè nhà, để may ra dễ chịu hơn, để hứng những chút gió lạc. Tôi trở vào phòng bổng thấy người tù câm này đưa tay vẫy tôi như nhờ tôi giúp đỡ điều gì. Quá ngạc nhiên, tôi đi nhanh đến anh, cúi xuống gần sát mặt anh, nghe anh thì thào:

“Mai bọn nó đưa cháu đi bịnh viện, chắc không trở lại nữa, nhờ chú khi chú được tha về ghé mẹ cháu...” Anh nói nhỏ khó nghe quá, tôi định bảo anh lặp lại nhưng bên ngoài anh em bắt đầu vào phòng sắp tới giờ ăn tối, nên tôi lại thôi chờ dịp khác hỏi kỹ hơn, vì chúng tôi còn nhiều năm tháng để nói. Điều làm tôi ngạc nhiên đến sửng sốt là người tù câm này bắt đầu nói. Một hiện tượng kỳ lạ làm tôi nôn nao như sắp khám phá ra con người kín đáo, tưởng không bao giờ nói một lời. Ý nghĩ đó làm cho tôi quá khuya mới ngủ được.

Trong phòng bỗng la lớn như có đánh lộn, như nhà cháy ban đêm, làm tôi thức dậy hoảng hốt chưa biết xảy ra việc gì. Lính canh tù súng hằm hằm mở cửa tiến vào lệnh cho chúng tôi ở tại chỗ không ai được động đậy. Thì ra người tù đi tiểu trong phòng cầu thấy một người lửng lơ như ma, anh ta la lớn té xỉu, rồi cả phòng hoảng hốt la theo làm lính canh tù báo động, đạp cửa chạy vào phòng. Điện bật sáng, thì ra một xác người tù treo trên cây xà ngang chân hỏng trên mặt đất. Anh dùng dây lưng quần thắt cổ chết trong phòng cầu.

Khi xác chết được đưa ra ngoài, đám tù nhao nhao bàn tán ồn ào về người tù tự vận này. Người thì bảo trong mấy ngày nay thấy anh ta buồn, người bảo thấy anh ta vui hơn lúc trước. Rồi những chuyện về anh vừa mâu thuẩn trái ngược được nhắc đến trong toàn trại. Riêng tôi hối tiếc vì không nghe hết câu nói của anh, nên không hiểu anh nói gì chỉ nhận được mấy chữ “chú về gặp mẹ cháu...”.

Thường thường mỗi tuần ít nhất một lần đem chiếu ra ngoài nắng dũ mạnh và phơi cho rệp chết. Hàng trăm con rệp rơi xuống sân nắng gắt canh trưa không phải là việc hiếm có đối với tù. Tôi vừa cuốn chiếc chiếu bắt gặp cuốn vở cỡ hai trăm trang dưới chiếu, phản ứng tự nhiên tôi lại trải chiếu ra che lấp cuốn vở. Tôi run run hồi họp, xấp giấy gì đây, hay là ai vu khống để buộc tội mình vì mình chưa có án mà phải vào ở trong nhà này. Tôi nhìn quanh có lẽ không ai thấy xấp giấy nguy hiểm này, và thái độ bối rối của tôi.

Tôi đem tập giấy vào cầu tiêu đọc. Nếu là tài liệu vu cáo để buộc tội cho tôi thì xem xong tôi sẽ cho xuống lổ cầu, mất dạng. Có lẽ cầu tiêu là nơi tốt cho việc đọc tài liệu kín đáo. Tôi ngạc nhiên súyt la lớn lên, vì đây là tập ghi chép của Năm Rựa, và như vậy là anh cố ý gủi cho tôi tập vở kín đáo này. Tôi run run dở từng trang đọc ngấu nghiến.

Thì ra tên anh là Trần Văn Thao ở An Lão, Bình Định, không biết cha là ai khi lớn lên anh mới hiểu mẹ anh là người con gái đẹp nổi tiếng ở vùng núi rừng An Lão, năm mười chín tuổi bị hãm hiếp. Ông ngoại bà ngoại cũng như các cậu dì đều khuyên nên phá thai vì làm nhục đến gia phong. Mẹ anh chống đối những đề nghị đó và bảo thà bà tự tử không thể giết đứa con mới vài tháng mà bà đã thương xót xa. Bà còn nói: “Các người đủ chồng đủ vợ, sinh con ra thương tới mức đó, nhưng các người đâu có biết trường hợp nghiệt ngã như tôi, thương con gấp bội phần, làm sao tôi có thể giết con tôi được. Nếu các người nhân danh đạo đức thì hai mẹ con tôi đều chết, hoặc cho tôi sinh ra các người nuôi nó, và tôi sẽ chết ngay sau khi sinh, để bảo vệ danh thế gia phong các người. Như vậy các người đã chịu chưa, các người cũng ác tới cái mức nào thôi chứ. Lời nói quyết liệt của người đẹp An Lão làm cho ông bà ngoại, bà con lặng lẽ nuốt nhục”. Thao viết:

“Tôi có người mẹ vĩ đại thật, tôi không xứng đáng là con của bà, vì tôi thiếu can đảm thiếu ý chí và nhất là thiếu chịu đựng như bà. Nhưng cũng như bà, bà làm bà ngoại tôi nát ruột nát gan và tôi làm cho bà cũng như vậy. Có phải là một quả báo luân hồi không?”

Còn một năm nữa thi bằng tú tài rồi lên đại học được hoản dịch nhưng Thao chán học tình nguyện đi lính. Thao viết: “Ngồi trong lớp nghe thầy nói lảm nhảm chán quá. Thì ra học ở trung học là để biết những cái, những điều đã chết từ lâu, những ý nghĩ đã củ rích chết từ bao giờ. Rồi người nhân danh nhà giáo là đem cái hiểu lờ mờ không chắc đúng, truyền cho học trò, với vẻ cao ngạo là người thông kim quán cổ. Buồn cười dị hợm thật, ta đã hối hận chôn tuổi trẻ nơi chốn này. Ta đoạn tuyệt nó...”

Đoạn anh viết về đi lính. “Tôi phải minh xác một trăm lần tôi đi lính không phải vì yêu nước không phải vì nghĩa vụ cũng không phải vì hận thù. Tôi đi lính vì trước hết tôi đang chán cuộc sống hiện tại, không có gì đổi mới, ngày nào cũng như ngày nào. Tôi đi lính để tôi trực tiếp sống với chiến tranh, trực tiếp trước cái chết. Tôi tìm những cảm giác mạnh có lẽ lý thú nhiều hơn cuộc sống buồn tẻ của thằng học trò”. Rồi anh nói lý do tại sao anh bỏ bộ binh để qua binh chủng dù. Một lý do đơn giản là anh muốn tìm những cảm giác mạnh hơn, lý thú hơn, sôi nổi hơn.

Anh ghi lại một đoạn thư anh gửi về cho mẹ khi anh đang ở chiến trường hạ Lào.

“...Mẹ ơi, con đang ở Lào, miền rừng núi của Lào thì đúng hơn. Chiến trận ác liệt nhiều lúc con tưởng không còn viết thư cho mẹ nữa. Chết sống trong gang tấc, gần hơn gang tấc nữa, thật là lý thú con thấy hết được cái cảm giác của sự chết. Giản dị và có lẽ cũng lý thú đấy mẹ. Bây giờ ở khu rừng âm u này chỉ còn chém giết để kéo dài cuộc sống chừng nào hay chừng ấy, và hưởng thụ. Nhưng không có gì để hưởng thụ. Rừng núi lúc nào cũng dửng dưng và vô tình. Về khuya cảnh rừng rậm che khuất ánh trăng mờ, con có những cảm giác đang ở cõi chết, cõi âm ty. Sương khuya lạnh, đồng đội ngủ li bì sau những ngày hành quân mệt mõi. Mình con xách súng đi sâu vào xóm người thượng. Xóm thượng tiêu điều xơ xác dân chúng bỏ nhà chạy giặc. Thấy túp lều còn có đèn le lói con bước vào, không có ai trong nhà con định đi ra, nghe tiếng động ở ngoài vườn phía sau thì ra còn một cô gái thấy bóng con bỏ trốn. Không chống cự được cô gái đành buông chiều theo ý con. Nước mắt cô càng chảy, cô càng giẩy giụa phản đối, con lại càng khoái cảm cao độ. Trời chưa sáng con phải vội bỏ con bé đáng thương, để về đơn vị di chuyển gấp. Tiếp tục cuộc chém giết. Sáng hôm đó, vừa men theo bìa rừng di chuyển con luôn nghĩ đến mẹ, đúng hai mươi hai năm trước mẹ cũng như cô gái khi hôm vì không đủ sức chống lại một con thú đực, nên suốt cuộc đời mẹ chịu đựng biết bao cảnh đoạn trường. Con thương mẹ vô cùng. Khi lớn lên khi con trưởng thành có lần mẹ nói với con mẹ không bao giờ quên được cái khoái cảm của người đàn ông tàn bạo đêm đó, người cha của con, và mãi mãi cha con không bao giờ gặp nhau, biết nhau. Khi biết mẹ có người bạn trai, con mừng quá, có như thế mẹ bớt những ngày buồn tẻ, những ngày đơn côi. Tuổi bốn mươi mẹ còn trẻ lắm còn tạo lại cuộc đời vui vẻ hạnh phúc...”

Thế rồi mẹ anh có chồng, về ở Tam Quan vì chồng làm nghề dạy học ở đó. Anh nghỉ phép về Tam Quan thăm mẹ, yêu cô gái thợ may xứ dừa này. Cô thợ may tên Dung ba mất sớm chỉ còn mẹ, nên hai mẹ con nâng niu đầm ấm qua ngày trong cái tiệm may đơn sơ này. Mẹ anh rất mừng muốn mượn người đẹp cột chân ngăn bước giang hồ anh lại. Đoạn này anh viết:

“...Nếu bỏ súng quỳ trước tiệm may của Dung mãi cho đến khi ngã gục mà được Dung yêu, thì kẻ si cuồng này sẵn sàng hành động vì Dung đẹp quá. Tôi nghĩ Tây Thi Thúy Kiều cộng lại cũng không bằng nhan sắc của Dung “Nàng là tuyết hay da nàng tuyết điểm. Nàng là hương hay nhan sắc mộng lên huơng”. Đúng như điều mẹ anh dự đoán chuyến nghỉ phép đó chấm dứt đời lính giang hồ của anh. Mẹ anh mừng quá xin làm đám cưới ngay sau đó. Dung hai mươi ba tuổi, cùng tuổi với anh, mẹ anh thường nói: “Vợ chồng cùng tuổi nằm duỗi cũng no”.

Anh dành nhiều trang viết về cuộc sống rất hạnh phúc của anh với Dung, và anh luôn luôn cao ngạo, không có cuộc tình nào đầm ấm dù là những bậc vua chúa chưa chắc bằng mối tình tuyệt đẹp của Dung với anh. Sau đó Dung không còn là cô thợ may nữa mà biến thành cô chủ quán nhậu “Bóng Dừa” ở Tam Quan. Theo anh, quán nhậu của anh phát triển ngoài dự đoán của anh, một phần nhờ cô chủ quán sắc nước khuynh thành, nhờ sự vui vẻ trẻ trung của anh và nhất là anh quí tửu khách, nhất là anh không “chặt đẹp”, trái lại người nào thiếu tiền thì khi có dịp trả, không thành vấn đề. Vì châm ngôn của anh là “tửu lượng cao, thái độ uống hào sảng, đẹp. Còn tiền là chuyện nhỏ”. Anh viết: “Tôi thường mặc hoặc cái áo lính dù, cái quần tây xi-vinh, hoặc cái quần lính dù áo T shirt. Đầu cạo trọc, tướng to lớn thô bạo làm đám “du đảng vườn” thấy tôi nể tôn là đại ca, vì thế quán tôi rất an toàn. Đám nhóc học sinh thường ra quán tập tành uống bia, hoặc uống coke, để nhìn thần tượng, mê điếng cô chủ quán...”.

Quán kéo dài đúng ba năm thì tan hàng. Đoạn này anh viết: “Thật tôi không ngờ hận thù ngút ngàn. Người ta chơi với nhau thiếu tinh thần mã thượng. Kẻ thắng huyênh hoang kiêu hãnh hành hạ không nương tay kẻ thất trận. Nhiều người bị giết trong hòa bình, và quá oan cho họ vì họ là kẻ thừa hành thứ một trăm, một nghìn, còn bọn đầu sỏ thì cao bay xa chạy rồi. Còn số đông bị đưa an trí trên núi cao trên rừng sâu nước độc. Đúng là một cuộc chơi không sòng phẳng, không đúng luật giang hồ. Nghe nói ngày xưa ông Quan Công bất sát kẻ hạ mã, không giết người xuống ngựa. Cái gương sáng đó ngày nay sao không bắt chước, ngày nay chơi không sòng phẳng...

Dung, mấy ngày nay mừng vì ba cô còn sống, chứ không chết như cô nghe nói hồi còn hai ba tuổi. Thì ra mẹ cô không cho cô biết ba cô tập kết ra Bắc năm 1954. Mình tưởng không có cha vợ bây giờ có cha vợ là điều đáng vui mừng. Không có cha đẻ thì ít ra cũng còn có cha vợ...”

Ba tháng sau bố của Dung trở về, sau hai mươi mốt năm. Nhưng ông không về Tam Quan ông viện cớ công tác ở Qui Nhơn. Cả nhà đều vui mừng cả giòng họ vui mừng rủ nhau ào ào kéo đến Qui Nhơn. Trong căn phòng rộng trong một biệt thự chủ bỏ trốn ra nước ngoài, bà con vui vẻ nói cười, vỏ chai bia bỏ ngổn ngang như xác chết ở chiến trường. Ba Dung, ông Thành, người trạc năm mươi, hơi gầy, đen, gương mặt quắc thước cặp mắt rất sáng. Ông hỏi thăm từng người một. Đến đứa con gái ông khi ông ra đi mới có hai tuổi nay có chồng. Ông liền hỏi “Chồng nó ngụy hay cách mạng?” Mọi người đang vui im lặng không ai trả lời. Ông nhắc lại câu hỏi lần nữa, má Dung sợ sệt đứng dậy thưa “Chồng nó ngụy mà cũng như không ngụy, vì nó không ưa chiến tranh nó đào ngủ về sống đời sống dân sự mới cưới con gái mình”. Nét mặt ông Thành đỏ như gấc rồi tái dần dần xám xịt, đập ly bia đang cầm trên tay, quát: “Thế là bà bán con cho bọn phản quốc bọn ngụy, tội bà đáng chết, bà chỉ biết cơm thừa canh cặn của bọn Việt gian của bọn đế quốc không nghĩ gì đến tổ quốc đến đảng vĩ đại đến nhân dân anh hùng. Bà ra khỏi nơi đây con Dung cút khỏi nơi đây”. Cuộc tiệc hội ngộ đang vui vẻ bỗng tối sầm. Mọi người sửng sốt tản dần chỉ còn má Dung và mấy người thân tín ở lại thanh minh, giải thích, xoa dịu ông. Uống hết một ly nước đá lạnh người ông dịu lại, ông nói có vẻ có suy nghĩ : “Lỡ dại rồi, nhưng còn nước còn tát, con Dung ở lại đây không được về Tam Quan nếu không có ý kiến của tôi. Xóa bỏ đám cưới, đó là một tàng tích nhớp nhúa. Cũng may là chưa có con. Thằng lính ngụy ác ôn chồng cũ của nó đó, tôi sẽ đưa đi cải tạo, đó là theo chính sách khoan hồng của cách mạng, nếu không tôi bắn bỏ rồi...”

Sáng hôm sau mẹ Dung về lại Tam Quan để thu xếp đồ đạt dọn về Qui Nhơn vì ba Dung đã chiếm được một villa hạng sang đường Độc Lập. Bà về thuật lại đầu đuôi cho anh và mẹ anh nghe chuyện đã xảy ra trong bữa tiệc sum họp. Bà vừa khóc vừa kể và đi tới kết luận dù chồng bà nói gì nói, bà vẫn xem anh là người rể của gia đình bà. Trước mẹ anh bà còn khuyên anh nên tìm cách dẫn con Dung đi khỏi xứ sở khó chịu dễ ghét này, nên vào miền Nam lục tỉnh làm ăn tránh càng xa ông ta càng tốt. Anh viết: “Mẹ vợ tôi kể lại câu chuyện cha Dung mạt sát chúng tôi, nhưng vấn đề đó không quan trọng bằng ý định của Dung như thế nào. Tôi tin chắc Dung không bao giờ thay đổi đạp đổ hạnh phúc của chúng tôi. Thấy tôi bình tĩnh không nóng nảy mẹ tôi có vẻ yên tâm đề nghị với mẹ Dung hai người nên xuống Qui Nhơn gặp cha Dung để trình bày thực tế và xin ông vui lòng chấp nhận cho vợ chồng tôi được tiếp tục xây dựng tương lai”.

Mẹ anh mua ít lễ vật để kính biếu ông sui vì hoàn cảnh chiến tranh bây giờ mới được gặp. Vừa vào đến nhà mẹ Dung giới thiệu:

“Mình, đây là chị sui mẹ chồng con Dung người đã nâng đỡ xem con dâu quí như con gái, hôm nay xuống thăm kính biếu mình chút quà gọi là kính mến mình, gia đình mình”.”Tôi đã nói mà, bà không hiểu gì tôi, bà vẫn muốn ăn cơm thừa canh cặn của Mỹ ngụy à. Con Dung là con tôi, không phải con bà, tôi sẽ kéo nó ra vũng lầy dơ nhớp miền Nam, tôi sẽ dẫn nó ra Hà nội cho nó học hành và có gia đình đàng hoàng lành mạnh. Bà đừng nói nhiều”.

“Thưa mình, hai mươi năm nay, tôi thắt lưng buộc bụng nuôi con, tôi nhịn nhục chờ mình, tôi nguyện không kíếp này thì chờ kiếp sau để đoàn tụ với mình. Trong khi đó mình quên tôi, quên con, ngoài Bắc mình có vợ có con, nhưng tôi có dám nói gì đâu. Bây giờ tôi chỉ xin mình một việc là đừng phá hoại hạnh phúc tụi nó tội nghiệp”.

“Tôi không thèm nói chuyện với bà, với lũ ngụy” Nói xong ông vào phòng trong, đóng ầm cửa tỏ vẻ quá bực bội.

Đoạn này là đoạn chính có lẽ, anh viết thận trọng dễ đọc: “Nghe mẹ tôi thuật lại có vẻ tủi nhục thất vọng, tôi tự nhiên cười. Cái cười rùng rợn, chính tôi nghe cũng khiếp. Như mẹ tôi linh cảm điều gì, nên bà bảo đừng nóng nảy từ từ rồi giải quyết. Tất cả đều có số mạng. Khi giải quyết yên rồi chúng ta nên đi khỏi xứ sở này nên vào miền Nam xa mút hay lên núi rừng cô quạnh chúng ta sống tuy cực nhưng yên thân, bớt nhức cái đầu. Lời nói thiệt thà của mẹ tôi làm tôi càng thất vọng, và tôi cảm thương mẹ tôi vô cùng . Bổng dưng tôi khóc. Mẹ tôi cũng khóc...

Từ ngày đó, quán tôi đóng cửa. Tôi đóng cửa, âm thầm uống rượu, chờ Dung trốn cha trở về “Bóng Dừa” nơi đầm ấm thơ mộng hạnh phúc nhất của chúng tôi. Nhưng Dung không về,... tức hạnh phúc chúng tôi trở thành địa ngục...

Trời chiều nay buồn quá. Tôi biết sắp bước vào giai đoạn cực kỳ thê thảm của đời tôi. Thiếu Dung tôi thiếu tất cả. Tôi vẫn mặc cái quần lính dù, mang ruột nghé đựng gạo như mọi người, khoác chiếc áo jacket nhà binh, gọi chiếc xe thồ ra đi. Tôi không biết lúc đó mẹ tôi đang làm gì có lẽ bà đang nằm khóc cho tôi, và cho sự sỉ nhục của bà.

Trước toà nhà đồ sộ cổng đóng kín không thể nhìn thấy bên trong. Hút hết điếu thuốc vì biết đâu đây là điếu thuốc cuối cùng của đời tôi. Nghĩ đến cuối cùng tôi rùng mình. Mỉm cười. Tôi lấy lại bình tĩnh. Tôi nghĩ thầm sao hèn nhát vậy, đã nhiều lần mình chạy dưới làn đạn để lấy xác đồng đội không một chút sợ hãi, thế mà chuyện nhỏ này lại hơi sợ, vô lý thật. Tôi gõ mạnh cửa. Đứng chờ. Mấy lần như vậy, cái ô vuông cánh cửa hé mở. Mặt một bà già nhăn nheo hỏi: “Hỏi ai có chuyện gì?” Tôi lễ phép, dù hơi bực mình nghĩ người ở mướn mà cũng dựa hơi chủ hách dịch. “Thưa bà có cụ Thanh trong nhà?”. Nhìn tôi từ đầu đến chân rồi bà trả lời: “Không có, cả nhà đi xem hát ở rạp Trần hưng Đạo, có gì mai ông lại”. Nói xong bà gài miếng sắt kín, đi vào.

Tôi gọi chiếc cyclo: “Em cho anh tới rạp hát Trần hưng Đạo”. Thằng nhỏ nhanh nhẹn vừa quay xe đổi hướng nói: “Rạp hát nay đông lắm, cháu mới ở đó lại đây, tối nay có chiếu phim “Giòng sông Trạnh” có múa rối, và các ca sĩ từ Hà nội vào. Vé bán hết sạch người ta phải mua vé chợ đen”. Khoảng chín giờ tối mà Qui Nhơn vắng tanh, ít người qua lại. Một vài cyclo chầm chậm dọc đường kiếm khách. Đèn đường yếu ớt, nhiều bóng không cháy hoặc chớp chớp như đèn hiệu. Phố xá đóng cửa, mệt mõi. Một vài quán ăn còn đèn nhưng không có khách. Bên cột đèn đường, đèn dầu nhỏ ngọn của người thợ vá xe đạp, đang ngồi chờ khách sau cái thau nước đục. Một vài cái lốp xe hư treo ở chân cột đèn báo hiệu nơi vá xe hai bánh. Bầu trời tối đen, đầy sao, bí hiểm. Có thể đây là lần cuối cùng tôi nhìn thấy màn đêm buồn thảm ở Qui Nhơn. Rồi hình ảnh trường Mai Xuân Thưởng tôi học trung học, những buổi chiều thơ mộng trên bãi biển Qui nhơn, tiệm kem Hoà Bình...các quán rượu dọc biển...các hình ảnh chen nhau hiện lên lần cuối như nhắc nhở tôi nhớ đừng quên nó. Nhưng hình ảnh Dung luôn ám ảnh tôi. Dung ra Bắc, Dung đi học lấy chồng Bắc, ông Thanh ba cô hãnh diện cải tạo lại đời Dung...

“Đến rồi chú nhưng họ chiếu được nửa rồi chú đến trể quá” thằng nhỏ vui vẻ nói.

Tôi vào quán rượu đối diện rạp hát. Tôi quá quen các rạp chiếu phim ở đây. Rạp hát được quét vôi sửa soạn sạch sẽ, trên cao treo tấm hình chủ tịch Hồ Chí Minh thật lớn tôi chưa thấy tấm hình nào lớn đến như vậy. Tôi lại khâm phục anh thợ vẽ nào giỏi thật vẽ lớn như vậy mà hình giống như đúc, y như tấm hình chụp. Tôi mua một bình đông rượu đế hạng cắt hớt, bỏ vào ruột nghé, và ngồi hút thuốc uống rượu đế. Chờ đợi. Chất men rượu ngấm vào người làm cho tôi tỉnh táo không suy nghĩ mung lung. Vâng, tôi phải ra tay. Phải dứt khoát ra tay. Khói thuốc bao phủ cả chỗ tôi ngồi. Qua màn khói thuốc dày đặc, cảnh vật bên ngoài như sương mù. Trẻ con đông quá chạy nhảy nô đùa trước cửa rạp. Không thấy người lớn qua lại. Người chủ quán hạ lần các cửa, sắp các ghế lên bàn chuẩn bị đóng cửa.

“Cậu cứ tự nhiên, tôi dọn lần. Hôm nay mấy người làm về sớm, cậu cứ tự nhiên” người đàn ông vừa nói vừa đưa các ghế úp lên mặt bàn chổng chân lên trời. Tôi lẩm nhẩm:

“Thanh toán, không ở đây thì ở ngõ nhà, dứt khoát cho bài học, phen này...”

Như một lệnh, trẻ con đang nô đùa ví bắt la ó bổng im bặt ùa chạy vào cửa rạp. Người chủ quán: “Gần vãn hát rồi thả cửa cho trẻ con vào xem, tội nghiệp trẻ con nhà nghèo được vào xem thì người lớn sắp ra, nghèo cũng khổ”. Tôi vụt đứng dậy trả tiền theo đám con nít vào cửa rạp.

“Trên sân khấu đèn màu rọi chiếu vào cô ca sĩ mặc bộ đồ lính đang hát. Cô cúi đầu chào pháo tay vang rạp yêu cầu cô hát lại, có xen những tiếng la “bis! bis! “. Cô ca sĩ bắt đầu hát lại, tôi theo đám trẻ con lên gần các ghế trên cùng. Tiếng ghế nghe kêu lợp cợp một số người đứng dậy ra về. Từ xa tôi đã thấy Dung. Áo chemise trắng, mái tóc dài đen nhánh phủ vai. Dung đứng dậy rồi lại ngồi xuống. Hàng ghế đầu bỏ trống chừng vài ba người ngồi. Dung ngồi ngay giữa hàng ghế thứ hai. Tôi sát gần Dung chừng năm thước tây trong bóng tối mờ mờ. Đèn nhiều màu chiếu trên sân khấu làm cho chỗ tôi đứng mờ tối hơn. Bọn trẻ con bị tôi đứng che khuất liền nhoi qua tôi tiến lên để nhìn rõ sân khấu. Thì ra mẹ Dung, rồi đến người đàn ông trạc trên năm mươi, rồi đến Dung. Tôi rờ tay vào ruột nghé, cái lưỡi rựa lạnh ngắt làm tôi giật mình. Cặp mắt tôi trừng trừng theo dõi như con chó săn bám sát con mồi. Người ca sĩ hết bài hát cúi chào, tiếng vỗ tay vang dội. Dung vỗ tay sơ sài, mẹ Dung ngồi yên như bức tượng, người đàn ông tôi theo dõi vỗ tay tán thưởng, say sưa... kéo dài. Ban tổ chức ra cảm tạ, mọi người không chờ đợi, đứng dậy ra về. Đèn bật sáng như ban ngày. Có những người đã bật máy lửa đốt thuốc. Người ta chen lấn ra về. Tôi lui vào trong sợ Dung thấy. Dung đi trước đám trẻ nhỏ chen theo sau, rồi đến mẹ Dung. Vì thả cửa nên trẻ con ùa lên sát sân khấu bây giờ chúng chen lấn chạy về trước, nên đường đi kẹt cứng. Tôi cúi xuống đất rút cái rựa trong ruột nghé cầm chắt trong tay, dấu dưới chiếc aó jacket không gài nút. Tôi sẵn sàng. Trẻ con la ó ồn quá. Không nghe được gì hết, người ta kêu tên người quen, bảo ra ngoài rạp chờ. Tôi gọi lớn: “ÔngThanh, ông Thanh,” Ông dừng lại ngó lức láo. Tôi quả quyết con mồi đây rồi. Tôi bước theo sau ông, để chắc chắn khỏi nhầm, tôi gọi lần nữa “Bác Thanh ơi, Bác Thanh!”

Ông già bực mình quanh lại “Cái gì mà réo lên thế!”. Hai tay nắm chặt cán rựa đưa lên cao toàn sức sả vào đầu mục tiêu, con mồi. Một tiếng ré kinh hoàng thân ông qụy ngay tại chỗ tôi tiếp tục bằm nát cơ thể con mồi, máu tung toé như vòi nước bị bể. Những tiếng la lớn; “Giết người! Giết người!..” Mạnh ai nấy chạy đạp lên nhau mà chạy tán loạn. Một cảnh hổn loạn chưa từng có. Máu phun đầy lên mặt lên người tôi. Máu nhuộm cả một hành lang. Dưới ánh đèn sáng choang choang, máu phun như giếng phun. Rựa dính đầy máu nhơn nhớt. Tôi dứt một nhát, đầu lìa cổ, nắm nhúm tóc đưa lên cao, tôi bổng cười sặt sụa, đá mạnh vào như đá quả banh. Cái đầu bay vút lên cao tán vào trần nhà rơi vào đám ghế bỏ trống gần sân khấu. Trong nháy mắt, không còn bóng người trong rạp. Đèn vẫn sáng lạnh. Im lặng. Chỉ còn tiếng la ó bên ngoài dội vào. Đốt điếu thuốc, rút bình đông rượu tôi uống liên hồi. Ngồi trên thành ghế, gần cái xác không đầu, nhầy nhụa máu...Tôi chờ.”

Nguyễn Liệu

- - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - -

Trang: 286

NHỚ QUÊ

Click vào đây.
- - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - -

Trang: 287

CHIẾN TRANH CÔNG NGHỆ

Phần 1.

Phần 2.

 

Phần 3
- - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - -

Trang: 335

MẸ YÊU

Mẹ ơi thương mẹ nhất đời
Lúc nào mẹ cũng vui tươi dịu-dàng
Mẹ còn nổi tiếng đảm đang
Đẹp người đẹp nết hoàn toàn khó chê
Mẹ thường dậy sớm thức khuya
Tảo-tần buôn bán liệu bề lo toan
Giờ đây con đã lớn khôn
Chưa kịp báo đáp công ơn mẹ hiền
Bây giờ mẹ đã quy thiên
Bỏ con ở lại niềm riêng một mình
Chiều chiều dựa của lặng thinh
Đêm đêm nhớ lại bóng hình ngày xưa.


Tân Nguyễn
- - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - -

Trang: 336

BÁO CHÍ TẠI BẮC CALIFORNIA VIẾT VỀ ĐẠI HỘI TÂN NIÊN 2009 CỦA HAH.ĐH QUẢNG NGÃI BẮC CALIFORNIA
* * *

TIỆC TÂN NIÊN CỦA HỘI ÁI HỮU QUẢNG NGÃI
Lê Bình

(Bài viết được đăng trên: Tuần báo Vtimes, Việt Tribune và Nàng TK 21.

Lúc 7 giờ chiều, ngày Chủ Nhật 2/3/08 tại nhà hàng Dynasty, 1001 đường Story Rd., đồng hương núi Ấn sông Trà gặp nhau mừng tân niên. Ngày Tân Xuân Mậu Tý hơn 600 đồng hương Quảng Ngãi đã họp mặt nhau chia xẻ tình nồng ấm của quê hương. Trong hàng quan khách có cựu Trung Tướng Hoàng Xuân Lãm, cựu TT Bùi Đình Đạm, GS Toàn Phong Nguyễn Xuân Vinh, cụ Trương Đình Sửu...

Nghi thức chào cờ nghiêm trang và trọng thể. Sau nghi lễ chào cờ các vị cao niên cùng Ban Chấp Hành của Hội đã làm lễ dâng hương trên bàn thờ gia tiên, cầu cho quốc thái dân an và bình an cho mọi người. MC Nguyễn Hồng Dũng mở đầu với lời chào mừng

-”Có những điều đi qua mà không bao giờ bắt gặp trở lại, đó là thời gian và cơ hội. Thời gian của những tháng ngày thương yêu, sinh sống và lớn lên cùng ngọt bùi đắng cay tại quê hương Núi Ấn Sông Trà đã trôi qua nhưng kỷ niệm đó vẫn còn lưu luyến trong từng hơi thở, từng con tim và nét mặt của những người đã từng sinh ra và lớn lên, hay ít ra cũng hơn một lần ghé qua vùng đất miền duyên hải trung phần Việt Nam: Quảng Ngãi thân yêu...Nhưng giòng đời không êm đềm trôi chảy như giòng Trà giang thơ mộng, sự thăng trầm của vận nước đã đẩy đưa biết bao con dân Quảng Ngãi lưu lạc bốn phương trời, và rồi tìm nhau quần cư trên vùng đất mới San Jose để từ đó, đã mười một mùa Xuân đi qua, Hội Ái Hữu Quảng Ngãi đã là mái nhà chung của bà con Ấn, Trà trong ý nghĩa tương thân tương ái và cố gắng gom góp những cái hay cái đẹp của văn hóa cổ truyền để chuyển trao cho hậu duệ với hoài bảo lưu tồn và phát huy bản chất đích thực của gia bảo cha ông...”

Sau lời khai mạc MC giới thiệu Hội Trưởng Trần Ngọc Ảnh lên sân khấu chào mừng quan khách. Ông phát biểu:

-”Đã hơn ba chục năm ly hương qua, mỗi lần Xuân đến, chúng ta không khỏi chạnh lòng nhớ về cố quốc; nhớ từng góc phố, nhớ những con đường, nhớ cây đa giếng nước đầu làng, nhớ bến cũ con đò xưa cùng những nơi đã để lại trong tâm khảm chúng ta muôn vàn kỷ-niệm. Cuộc sống lưu vong tuy có cơm no áo ấm với cuộc sống tự do thật sự nhưng chúng ta không thể nào quên những cái Tết truyền thống của dân tộc. Chúng ta vui Xuân nơi đây nhưng không khỏi chạnh lòng khi biết rằng không biết bao nhiêu đồng bào của chúng ta không may, còn phải chịu cảnh nghèo khổ nơi quê nhà, với cuộc sống không có tự do, không công bình, thiếu nhân ái, không biết Mùa Xuân là gì.

Đêm nay, quý vị quan khách cùng đồng hương Quảng Ngãi chúng tôi hội ngộ nơi đây trong không khí thắm đượm tình thân ái. Chúng ta hãy cùng nhau cầu nguyện và hy vọng cho một ngày mai quê hương Việt Nam chúng ta sớm được tự-do, công bình, no ấm...”

Sau những lời chúc mừng năm mới gửi đến quan khách và đồng hương hiện diện, ông Trần Ngọc Ảnh kết luận:

-”Trước thềm năm mới, thay mặt cho Ban Chấp Hành Hội Ái Hữu cùng toàn thể đồng hương Quảng Ngãi định cư tại miền Bắc California, tôi xin gởi đến quý vị quan khách và quý thân hữu lời cám ơn chân thành sâu xa nhất. Chúng tôi xin chúc tất cả quý vị quan khách cùng toàn thể đồng hương Quảng Ngãi một Năm Mới Mậu Tý 2008: Hạnh Phúc và Thạnh Đạt.”

Sau lời chào mừng của hội trưởng, ông Nguyễn Cao Can thay mặt BCH tổng kết những hoạt động của hội. Ông cho biết:

-“Ngoài việc Xuân Hè hội tổ chức hai lần Hội ngộ cùng chương trình “Quan, hôn, tang, tế” thường xuyên, Hội còn có những chương trình hoạt động tiêu biểu như:

- Chương trình giúp đỡ Thương Phế Binh Quân Lực VNCH (TPB) ở quê nhà” và ông cho biết cụ thể là: “Năm 2006, giúp đỡ tổng cộng 50 hồ sơ với số tiền là $2,500 USD. Năm 2007, phối hợp với các Hội Đoàn bạn tổ chức Đại Nhạc Hội gây quỹ giúp TPB thu được tổng cọng $39,600. Riêng Quảng Ngãi giúp được 130 TPB, mỗi người nhận trực tiếp được $65.

- Chương trình cứu trợ bão lụt và Xã hội: Hội đã tổ chức quyên góp và gởi về tổng cộng $7,360. Trong năm 2006, cùng các hội đoàn trong cộng đồng tổ chức Đại Nhạc Hội Cứu Trợ Bão Lụt miền Trung “Thương về Miền Trung” vào ngày 21-10-2006, thu được $32,500 USD. Riêng Quảng-Ngãi bị thiệt hại nhẹ hơn các tỉnh bạn nên được chia $5,700 giúp trực tiếp 23 nạn nhân tử vong, mỗi gia đình nhận được $100 USD, gởi trực tiếp về cho Linh mục Đặng Son ở nhà thờ Chánh Toà Q. Ngãi và Thượng Tọa Thích Đức Quốc để phát cho đồng bào bị hư hại nhà cửa ở hải đảo Lý Sơn và các vùng dọc ven biển.

- Ngoài ra, đồng hương Quảng Ngãi lo lắng giúp đỡ nhau như chị Nguyễn Thị Hải, cựu học sinh Nữ Trung Học Quảng Ngãi, từ Việt Nam qua Mỹ tìm con ở Nam California, đồng hương thông tin cho nhau và khi chị Hải lên San Jose để tìm con là Bảo Quốc Tuấn, một số anh em trong BCH đến thăm và an ủi chị, một số đồng hương QN cũng đã tìm cách giúp đỡ mẹ con chị Nguyễn Thị Hải một số tiền nhỏ, sớm qua cơn khốn cùng.

- Trong sinh hoạt Khuyến Học và Báo Chí, mỗi năm Hội tổ chức giải thưởng Khuyến Học dành cho những học sinh có thành tích học tập, hạnh kiểm và sinh hoạt học đường xuất sắc trong năm. Mỗi phần thưởng khích lệ giá trị hàng trăm Mỹ kim được nhiều nhà hảo tâm bảo trợ mà không nhờ vào ngân quỹ của Hội.

- Dịp Đại Hội Mừng Xuân, Hội đều ra mắt một Giai Phẩm Xuân giá trị để làm quà Tết cho Quan khách, Đồng hương và Thân hữu.

- Về văn học, Hôi đã tổ chức Lễ Vinh Danh Nhà văn Lão Thành THINH QUANG ra mắt tác phẩm “THINH QUANG – NHÀ VĂN HÓA THẦM LẶNG”, môt tác phẩm có đến 66 cây viết của nhiều thế hệ. Sau Lễ vinh danh và ra mắt sách, số tiền được sung vào qũy trợ giúp TPB/VNCH của tỉnh nhà.

- Nhằm phổ biến sinh hoạt của Hội cũng như giới thiệu quê hương núi Ấn sông Trà đến các cộng đồng bạn, một chương trình phát thanh được Ban Phát Thanh của Hội thực hiện trên làn sóng AM 1120, được phát đi trên vùng Bắc California, thời lượng 30 phút, từ 12PM đến 12:30PM mỗi trưa thứ Bảy.

- Nhằm giúp đỡ những người vô-gia-cư tại Bắc California bằng một “BỮA CƠM THÂN-ÁI, Hội Ái Hữu Quảng Ngãi Bắc California đã “bảo trợ” một bữa cơm, được tổ chức tại thành-phố San Jose, California.

Năm 2007, dân “Núi Ấn Sông Trà” nhân kỷ niệm sinh nhật lần 10 nên Đại Hội Tân Niên được tổ chức rầm rộ, và nhân đó, bữa cơm đãi khách không nhà cũng “trội” hơn thường lệ. Ông Bà Hội Trưởng Trần Ngọc Ảnh và Hội đã chi ra số tiền là $1,000 để nhà hàng tăng cường thức ăn, đồ tráng miệng, nhằm mục đích phục vụ khách. Đây là lần đầu tiên Hội Ái Hữu Quảng Ngãi tham gia chương trình Thực Đơn Thân Ái. Theo ông Hội Trưởng Trần Ngọc Ảnh, BCH Hội sẽ họp và thảo luận để có thể đảm trách thường trực một tháng trong năm.

Sự đóng góp này của dân “Núi Ấn Sông Trà” đã thể hiện tinh thần cao đẹp của dân Quảng-Ngãi. Trong khi thực khách dùng bữa, Ban Văn Nghệ của Hội giúp vui với lời ca, tiếng nhạc, tạo cho không khí bữa ăn mang một sắc thái khác hơn các lần tổ chức trước đó. Sau phần báo cáo sinh hoạt của hội, một số quan khách, trong đó cựu Trung Tướng Hoàng Xuân Lãm, phát biểu cảm tưởng. Có 11 học sinh giỏi được trao tặng các phần thưởng khuyến khích: Tất cả những học sinh này đều có điểm trung bình từ 4. trở lên và có hạnh kiểm tốt.

* Để tỏ lòng kính trọng và cảm ơn các bậc trưởng thượng và khách quý, hội đã trao tặng những phần quà chúc tết đến các vị như Cựu Trung tướng Hoàng Xuân Lãm, cụ Trương Đình Sửu, ông Trần Văn Thân v.v...

* Dạ tiệc có văn nghệ giúp vui, với các màn trình diễn độc đáo để lại nhiều ấn tượng khó quên, đặc biệt với trích đọan hát bộ vở tuồng “Di Hận Nam Quan” do hai đồng hương là ông Minh Trung và cô Trần Đông Sơn thủ diễn. Ngoài ra còn có tân nhạc và nhiều tiết mục khác.

* Trên tất cả những gì thể hiện bên ngoài đó là tình đồng hương bên trong. Là những cụ già, là những thanh niên, trung niên...Vì đồng hương, vì quê hương họ đã đến với nhau nồng ấm.

Tưởng cũng nên nhắc lại, nhờ địa linh Thiên Ấn, Thiên Bút nên sanh nhiều nhân kiệt. Đất Quảng Ngãi có nhiều danh nhân, hiền sĩ. Các tên tuổi Lê Văn Duyệt, Lê Trung Đình, Trương Công Định, Nguyễn Văn Lịch (Nguyễn Trung Trực) Bích Khê, và nhiều nữa điều là con dân của đất núi Ấn sông Trà.

NGÀY HỘI CỦA HỘI ÁI HỮU QUẢNG NGÃI MIỀN BẮC CALIFORNIA

Bài viết của Nhật Báo Saigon USA, số ra ngày 30-9-2008, phát hành tại San Jose, California

Saigon USA: Nhằm mục đích bầu Ban Chấp Hành Hội Ái Hữu & Đồng Hương Quảng Ngãi Bắc California nhiệm kỳ 2008-2011, Picnic Hè 2008 và Tết Trung Thu 2008, các sinh hoạt trên đã được tổ chức cùng một địa điểm tại trường Tiểu Học Helleyer, ở số 725 đường Helleyer thành phố San Jose, vào lúc 12:00 giờ trưa ngày Chủ Nhật 28-9-2008.

Sau phần nghi thức khai mạc bằng lễ chào quốc kỳ Hoa Kỳ, VNH và phút mặc niệm, đại diện Ban Tổ Chức đã nêu danh giới thiệu mọi thành phần khách tham dự. Liền sau đó các trò vui của buổi Picnic Hè như ca nhạc, Lô Tô có thưởng, phát quà Trung Thu được tiến hành trong vui vẻ.

Tiếp đó Ban Tổ Chức đã tiến hành việc bầu Ban Chấp Hành của Hội. Ông Trần Ngọc Ảnh đã tuyên bố hết trách nhiệm Hội Trưởng và trao quyền điều hành cho Ban Tổ Chức Bầu Cử, được Ban Chấp Hành đề cử, gồm các ông Mai Đức Phương: Trưởng Ban, ông Đỗ Hữu Ích: Cố Vấn và ông Lê Chánh Thiêm: Thư Ký. Ngoài ra còn có Tổ phát phiếu, đếm phiếu và kiểm phiếu gồm cô Nguyễn Thi, các ông Trần Tin và Nguyễn Ngọc Cống.

Sau khi kêu gọi nhưng không có ai tình nguyện ra ứng cử, cử tọa đã đề cử các nhân vật sau đây tranh cử vào Ban Chấp Hành: ông Nguyễn Cao Can (San Jose, SJ), bà Phạm Thị Hạnh (Santa Clara), ông Trần Ngọc Ảnh (SJ), ông Nguyễn Minh Trung (Modesto), ông Nguyễn Diên (SJ), ông Đỗ Hữu Ích (SJ), ông Lê Chánh Thiêm (SJ).

Sau đó bởi nhiều lý do khác nhau, một số người đã khước từ sự đề cử, chỉ còn lại 3 nhân vật sau đây nhận ra tranh cử: ông Nguyên Minh Trung, bà Phạm Thị Hạnh và ông Nguyễn Diên.

Theo qui định, cuộc bầu cử được tiến hành liền sau đó. Kết qủa với 162 phiếu hợp lệ và 14 phiếu bất hợp lệ, trong tổng số 176 phiếu bầu, ông Nguyễn Diên về đầu với 135 phiếu, ông Nguyễn Minh Trung về nhì với 109 phiếu và bà Phạm Thị Hạnh với 107 phiếu. Theo như qui định trước, bằng vào số phiếu từ cao tới thấp, ông Nguyễn Diên đắc cử vào chức Hội Trưởng, ông Nguyễn Minh

Trung Hội Phó Ngoại Vụ và bà Phạm Thị Hạnh là Phó Nội Vụ. Liền sau khi kết qủa bầu cử được chính thức công bố, ba nhân vật vừa đắc cử vào Ban Chấp Hành Hội Ái Hữu & Đồng Hương Quảng Ngãi Bắc Cali đã vui vẻ tuyên bố nhận trách nhiệm do đồng hương giao phó qua cuộc bầu cử công khai vừa diễn ra trước mọi người.

Nhìn chung, cuộc bầu cử tuy tổ chức đơn gọn, nhưng rất nghiêm túc, đúng đắn, tôn trọng qui định. Do đó đã được mọi người tham dự hân hoan chấp nhận và tán dương. Ngay sau khi được tín nhiệm vào chức vụ Hôi Trưởng, ông Nguyễn Diên tuyên bố rằng, dù nay đã 75 tuổi nhưng phải đứng ra nhận trách nhiệm điều hành Hội. Ông mong các đồng hương ủng hộ, tiếp sức duy trì sinh hoạt của Hội được phát triển.

Được biết hiện San Jose đang có Hội Quảng Ngãi Hải Ngoại do ông Phan Nghiệp làm Hội Trưởng. Trước sự kiện này ông Nguyễn Diên cho biết sẽ cố gắng giải tỏa sự rạn nứt giữa những đồng hương, để trong tương lai sẽ thống nhất lại, chỉ còn một Hội Quảng Ngãi tại Bắc California mà thôi.

Sau khi tân Ban Chấp Hành nhiệm kỳ 2008-2011 tuyên bố nhận nhiệm vụ, mọi người hiện diện đã được Ban Tổ Chức mời cơm trưa và thưởng thức chương trình văn nghệ cây nhà lá vườn. Buổi sinh họat sau đó được chấm dứt trong không khí vui vẻ giữa mọi người, và được xem như một thành công đáng ghi nhớ của Hội Ái Hữu & Đồng Hương Quảng Ngãi Bắc Cali.

THÊM MỘT SỰ PHÂN HÓA TRONG CỘNG ĐỒNG

Bài viết của Việt Nam Nhật Báo, số ra ngày 4-3-2008, phát hành tại miền Bắc California.

 

Vào lúc 6 giờ chiều ngày 2/3/08 Hội Ái Hữu Quảng Ngãi đã tổ chức buổi tiệc mùng tân niên tại nhà hàng Dynasty. Buổi tiệc quy tụ khoảng hơn 400 đồng hương và quan khách tham dự, nhân dịp này ông Hội Trường Trần Ngọc Ảnh đã tỏ lời cảm tạ các đồng hương, những mạnh thường quân đã nhiệt tình tham dự và ủng hộ mọi hoạt động trong việc phát triển hội trong nhiều năm qua.

Điều đáng quan tâm trong buổi tiệc tân niên năm 2008 là phần xổ số do các Mạnh Thường quân tặng cho các khách tham dự may mắn và nhiều quà tặng có ý nghĩa cho các em học sinh xuất sắc trong niên học vừa qua. Chương trình càng trở nên vui nhộn với các ca sĩ cây nhà lá vườn với nhiều tiết mục rất đặc sắc gây đậm dấu ấn của quê hương Núi Ấn sông Trà. Tuy nhiên niềm vui đã mau chóng đi qua, sau buổi tiệc tàn một số hội viên và ban chấp hành ngồi lại để tổ chức bầu ban chấp hành mới. Theo ông Hội Trưởng Trần Ngọc Ảnh vì số hội viên ra về gần hết nên ông Ảnh muốn dời lại ngày tổ chức bầu cử. Tuy nhiên có một số người đưa ra ý kiến là phải tổ chức bầu ngay hôm nay, vì cho rằng ông Trần Ngọc Ảnh trong thời gian vừa qua đã sử dụng danh nghĩa hội, ký tên vào bạn ủng hộ tên New Saigon Business Dictrict. Sau nhiều to tiếng tranh cãi qua lại số người hiện diện đã tổ chức bỏ thăm bầu cử. Kết quả ông Phan Quang Nghiệp được 41 phiếu bầu vào chức vụ Hội Trưởng HQN nhiệm kỳ 2008- 2010.

Tuy nhiên mọi chuyện không chấm dứt ở đây khi ông Hội Trưởng Trần Ngọc Ảnh tuyên bố ban chấp hành mới không hợp pháp, vì theo ông Ảnh, với cương vị chủ tịch, mặc dù đã hết nhiệm kỳ và ông cũng không muốn ra tranh cử, nhưng việc tổ chức bầu ban chấp hành mới phải do ông ta và ban tổ chức bầu cử quyết định ngày giờ, theo một số hội viên còn ở lại cho biết, đây là một cuộc đảo chánh, và tuyên bố không hợp tác với ban chấp hành mới, và ban chấp hành cũ vẫn tiếp tục hoạt động cho đến khi có cuộc bầu cử chánh thức. Triển vọng sẽ có 2 hội Quảng Ngãi giống như 2 hội Phú Yên trong những tháng vừa qua do hệ lụy danh xưng Little Saigon

Dương Nguyễn.
- - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - -

Trang: 344

TRANG KHUYẾN HỌC

Hân-hạnh giới-thiệu các học-sinh xuất sắc trong học vấn và sinh hoạt học đường thuộc niên học 2008-2009, là con em của miền núi Ấn sông Trà thuộc HAH.ĐH Quảng Ngãi miền Bắc California có tên sau đây:

1- AMY NGUYỄN TRẦN, Lớp 9, GPA: 4.00, Oak Grove High School, Con của Ông Bà Trần Ngọc Ảnh, cư-ngụ tại San Jose, California.

2- MỸ LINH THỊ HUỲNH, Lớp 9, GPA: 4.00, Andrew Hill High School, Con của Ông Bà Huỳnh Hiền, cư-ngụ tại San Jose, California.

3. NATALIE BÀNH, Lớp 7, GPA: 4.0, học sinh trường Prescott Senior Elementary School, con của ÔB Bành Hùng, cư ngụ tại Modesto, California.

4. CINDY TRẦN, Lớp 7, GPA: 4.0, học sinh trường Prescott Senior Elementary School, con của ÔB Vincent Trần, cư ngụ tại Modesto, California.

5. TỐ-UYÊN LÊ, Lớp 5, GPA: 4.0, Alum Rock Union Elementary School, con của Ông bà Lê Chánh Ngạch, cư ngụ tại San Jose, California.

6- VANESSA BÀNH, Lớp 5, GPA: 4.00, Stanislaus Union Elementary District, Con của Ông Bà Bành Hùng, cư-ngụ tại Modesto, California.

7- KYLE BÀNH, Lớp 4, GPA: 4.00, Stanislaus Union Elementary District, Con của Ông Bà Bành Hùng, cư-ngụ tại Modesto, California.

Ban Chấp Hành HÁHĐHQN Bắc California xin gởi lời chúc mừng đến quý vị phụ huynh và khen ngợi các em học sinh đã có thành tích xuất sắc trong học tập và sinh hoạt học đường. BCH Hội cám ơn các vị hảo tâm đã bảo trợ cho chương trình Khuyến học để Hội có điều kiện gởi đến các em những phần quà nhằm khích lệ tinh thần cố gắng học tập của các em.

Ban Khuyến Học.

HẾT.

 


Nếu độc giả, đồng hương, thân hữu muốn: 

* Liên-lạc với Ban Điều Hành hay webmaster 
* Gởi các sáng tác, tài liệu, hình-ảnh... để đăng 
* Cần bản copy tài liệu, hình, bài...trên trang web:

Xin gởi email về: quangngai@nuiansongtra.net 
hay: nuiansongtra1941@gmail.com

*  *  *

Copyright by authors & Website Nui An Song Tra - 2006


Created by Hiep Nguyen
log in | ghi danh