Diễn đàn của người dân Quảng Ngãi
giới thiệu | liên lạc | lưu niệm

 April 10, 2025
Trang đầu Hình ảnh, sinh hoạt QN:Đất nước/con người Liên trường Quảng Ngãi Biên khảo Hải Quân HQ.VNCH HQ.Thế giới Kiến thức, tài liệu Y học & đời sống Phiếm luận Văn học Tạp văn, tùy bút Cổ văn thơ văn Kim văn thơ văn Giải trí Nhạc Trang Anh ngữ Trang thanh niên Linh tinh Tác giả Nhắn tin, tìm người

  Biên khảo
...THÀNH LẬP NƯỚC TRUNG-HOA - Phần II
NGUYỄN ƯỚC
Các bài liên quan:
    ...THÀNH LẬP NƯỚC TRUNG-HOA - Phần I


(Tiếp theo Phần I)

Bài 4: Làm cách mạng bằng kỹ thuật số
Kate Herkel-Hess
Nguyễn Ước dịch

Lời người dịch:

Kate Merkel-Hess là nghiên cứu sinh hậu tiến sĩ tại Ðại học California ở Irvin và biên tập viên blog The China Beat (Nhịp điệu Trung Quốc). Cùng với Kenneth L. Pomerang và Jeffrey N. Wassertrom, bà biên tập cuốn China in 2008: a Year of Great Significance (Trung Quốc năm 2008: một năm có ý nghĩa trọng đại), Nxb Rowman Rowman and Littlefield, HK, 2009.

Bài dưới đây dịch toàn văn của “The Revolution Will Be Digitized” (Cuộc cách mạng sẽ được kỹ thuật số hóa), đăng trong Current History: A Journal of Contemporary World Affairs (Lịch sử Hiện thời – Tạp chí Các sự vụ Thế giới Ðương đại), số đặc biệt China and East Asia (Trung Quốc và Ðông Á), tháng 9 năm 2009, xuất bản tại Hoa Kỳ.

Ðây là bài điểm cuốn sách nổi tiếng The Power of the Internet in China: Citizen Activism Online (Sức mạnh của Internet tại Trung Quốc: Sinh hoạt vận động trực tuyến của công dân), của Guobin Yang (Dương Quốc Bân), Nxb Columbia University, 2009. Về Guobin Yang, chúng tôi xin mời bạn đọc bài “Ðấu tranh trực tuyến tại Trung Quốc” của ông được chúng tôi dịch và vừa cho lên mạng.

Vào tháng 7-2008, con số người Trung Quốc (TQ) dùng internet được tường trình là đã lên tớỉ 338 triệu. Cũng trong tháng đó, phản ứng vụ bất ổn sắc tộc tại khu vực Tân Cương phía tây, chính quyền TQ gia tăng việc ngăn chặn các trang web chính của nước ngoài, một công tác đã bắt đầu trước đó, vào ngày 4 tháng Sáu, kỷ niệm hằng năm lần thứ hai mươi vụ tàn sát Thiên An Môn tại Bắc Kinh.

Mâu thuẫn giữa việc sử dụng rộng rãi internet (dĩ nhiên vẫn còn một tỉ người TQ không dùng tới) và những nỗ lực của chính quyền nhằm kiểm soát các hoạt động trực tuyến, làm thành cơ sở cho nhiều câu chuyện nóng hổi lan truyền trong cảnh giới ảo TQ. Cảnh giới ấy, tùy vào người quan sát, hoặc đang sôi sùng sục, hoặc được cư trú bởi những công dân sẵn sàng tin vào những cái nhảm nhí trấn an của chế độ, như một thứ cháo sền sệt ăn vào ấm bụng. Tuy nhiên, có một chủ đề độc nhất mà ở giữa những người bình luận không hiện hữu một tranh luận nào: đó là, việc am hiểu internet TQ và mạng lưới mênh mông các “công dân mạng” (netizen) cùng người trông nom nó là một dự án có ý nghĩa quan trọng cho việc lĩnh hội xứ sở ấy và tương lai của nó.

Trong cuốn sách mới xuất bản của mình, The Power of the Internet in China: Citizen Activism Online (Sức mạnh của Internet tại Trung Quốc: Sinh hoạt vận động trực tuyến của công dân), nhà xã hội học Guobin Yang (Dương Quốc Bân) thuộc trường Barnard College phác họa phạm vi và tầm mức của sinh hoạt vận động trực tuyến tại TQ và những cách thức được người sử dụng internet TQ dùng để trình bày mục đích của họ. Bằng lối văn vẫn rõ ràng kể cả khi vật lộn với các lý thuyết phức tạp về xã hội dân sự và các phong trào xã hội, Guobin Yang chứng tỏ rằng phương tiện trung gian ấy chưa làm thay đổi TQ và cũng sẽ không làm điều đó. (Tác giả gạt bỏ niềm tin thuộc loại như “chủ nghĩa tất định công nghệ, technological determinism”). Ðúng hơn, ông lập luận rằng huy động trực tuyến và tranh luận là những biểu thị của các thay đổi xã hội rộng lớn hơn. Ðối với ông, internet tự nó không là một lực tạo ra thay đổi; nó là một khí cụ có thể được vận dụng bởi các công dân mạng có trình độ và khôn ngoan.

Những biến đổi rộng lớn hơn mà Guobin Yang nhấn mạnh là sự bùng nổ kinh tế, thất vọng của các trí thức và chủ nghĩa thực dụng của những năm sau-Thiên An Môn. Ông quả quyết rằng phản ứng đối với sự tăng trưởng nhanh chóng của TQ và cởi mở kinh tế – bất chấp những sở đắc to lớn về xã hội và kinh tế nhưng vẫn để lại đằng sau hàng trăm triệu ngưới – là một chuyển đổi trong các mục tiêu và những tiếp cận của các trí thức TQ hiện đại. Từ lâu, các sử gia nhấn mạnh rằng, bắt đầu với cuộc Chiến tranh Nha phiến vào giữa thế kỷ 19, các chủ đề quan trọng của trí thức TQ là đoàn kết và cứu quốc. Trọng tâm ấy rõ ràng trong năm 1989 khi người phản đối là các sinh viên khôn khéo đã nhấn mạnh rằng mục đích của họ không nhằm thay đổi chế độ mà là củng cố quốc gia bằng cách phản đối các viên chức tham nhũng. Nhưng kể từ năm 1989, theo Guobin Yang, đặc điểm chủ yếu của phong trào hoạt động xã hội đã khác: các nhà hoạt động nay không còn thỏa mãn với việc rao giảng các lý tưởng cao, họ muốn mang lại những thay đổi cụ thể và thực tế.

Văn hóa tranh luận

Guobin Yang mô tả về “tranh luận có nghệ thuật” xảy ra trên internet TQ, mọi sự đều rõ rệt, từ các kiến nghị ủng hộ quyền của người mang bệnh siêu vi gan B tới việc những người đột nhập có tinh thần dân tộc chủ nghĩa bôi xóa trang web nước ngoài. Dùng những quan sát riêng của mình quyện với các tường trình những sự cố chính trong thập niên vừa qua của internet TQ, Guobin Yang kể câu chuyện về sự tăng trưởng của phương tiên trung gian ấy [internet] tại TQ, đồng thời nối kết nó với ẩn dụ khác trong các tin tức gần đây: những phản đối của công chúng đang ngày càng gia tăng.

Con số chính thức liên quan tới những phản đối trong qui mô nhỏ từ năm 2002 tới năm 2005 (sau năm cuối ấy, chính phủ chấm dứt việc công bố con số) cho thấy một sự gia tăng đáng chú ý các sự cố. Các nhà quan sát bên ngoài cho rằng con số tiếp tục tăng, với một ước lượng tổng số các sự cố năm vừa qua lên tới 125.000 vụ. Các phản đối trong qui mô nhỏ hầu như không bao giờ nhắm tới việc lật đổ chính quyền trung ương; thay vào đó, chúng đặt trọng tâm vào tham những địa phương, các vấn đề môi sinh địa phương hoặc các quan tâm kinh tế.

Trong mấy năm qua, những nối kết quan trọng giữa việc tổ chức xã hội và kỹ thuật đã ngày càng rõ ràng – như trong phản đối “đi dạo nhàn tản”, được tổ chức với thông điệp bằng văn bản (text message), mà Guobin Yang thảo luận chi tiết. Cái đầu tiên của những cuộc đi dạo có phối hợp ấy diễn ra năm 2007 nhằm phản đối một công ty hóa chất tại Hạ Môn và Phúc Kiến, và những cuộc đi dạo kiểu đó tiếp tục tại Thành Ðô, Thượng Hải và Bắc Kinh. Bằng việc phá vỡ các qui định đòi buộc người phản đối phải xin giấy phép, hàng trăm người biểu tình đã làm cuộc “đi dạo” – tất cả cùng một thời điểm và cùng một địa điểm – đều dựa vào linh cảm, thường là chính xác, nên công an không thể nào tìm ra lý do để bắt họ vì việc đi dạo.

Trong ý nghĩa ấy, công nghệ tin học phục vụ chức năng đó tại TQ khiến người lạc quan ở hải ngoại luôn luôn hi vọng nó sẽ làm được việc. Nó cung cấp một mạng lưới các tài nguyên và thông tin cho các cá nhân và các tổ chức, cho dù thông tin trao đổi ấy không lúc nào đi xa hơn sự hợp tác liên quốc gia mà người lạc quan đã kỳ vọng.

Dù Guobin Yang xem xét việc tổ chức trực tuyến trong cảnh giới đang gia tăng của các tổ chức dân sự “thế giới thật” của TQ, một số những quan sát thú vị nhất của ông liên quan tới những cách thức mà tiếp cận internet ảnh hưởng đến các kiểu mẫu phản đối xã hội.

Giới học giả gần đây xem xét những cách thức trong đó người phản đối thuở trước, từ “tân thanh niên” vào năm 1919 (những kẻ chống lại sự đối xử tệ bạc với Trung Hoa tại Hội nghị Versailles) tới các sinh viên và người lao động năm 1989 (những kẻ đòi hỏi chấm dứt tệ nạn tham nhũng và tham dự nhiều hơn vào việc cai trị), dẫn tới những nghi lễ (ritual) và biểu tượng chủ nghĩa (symbolism) của chính trị TQ trong những hành động tập thể của họ. Một trong những nghi lễ loại đó là các nỗ lực của sinh viên “kiến nghị” lên các quan chức chính phủ cấp cao nhất, xin tái ban hành địa vị đáng tôn kính, có tính truyền thống của kẻ sĩ như những người nói lên sự thật đối với các quan chức cho dẫu tính mạng có lâm nguy.

Guobin Yang lập luận rằng mặt khác, “văn hóa tranh luận” của internet đã làm gia tăng việc thưởng ngoạn sự xúc phạm, cao hơn sự tôn kính có tính lịch sử và sự tùy thuộc vào biểu tượng quyền lực của các trí thức. Trên internet TQ, lời lẽ báng bổ luân phiên nhau xoi mòn và chế giễu quyền lực cùng nhà cầm quyền. Thí dụ mới đây là lễ kỷ niệm rộng rãi “Ngày bảo vệ internet TQ” vào 4.6.2009: nhiều websites thay thế các trang của mình bằng một thông báo về “ngày nghỉ lễ” tưởng tượng, như một cú đánh đột ngột, thọc sâu vào chính phủ vì sự kiểm soát mang tính trấn áp vây quanh ngày kỷ niệm cuộc tàn sát Thiên An Môn.

Như thế, nghiên cứu của Guobin Yang là một tác phẩm đầy đủ và sâu sắc nhất xuất hiện trên internet của TQ. Nó thể hiện một công tác quan trọng trong việc chiến đấu chống lại quan điểm cho rằng internet TQ bị khống chế bởi các tiếng ò e (drones) của chính phủ và những kẻ chơi game. Có lẽ cuốn sách của ông quá tô hồng cái nhìn về khả năng tương lai của công dân mạng khi thao tác nội trong các giới hạn bị chính quyền áp đặt nhằm kiềm chế theo kiểu “lập lề đường” (to curb) cho sự tham dự của công dân.

Ðối đầu quyết liệt điện tử

Các nhà quan sát khác có cái nhìn lu mờ hơn Guobin Yang; họ cảnh giác rằng chính quyền đang gia tăng một cách chuyên nghiệp việc quản lý mạng, bằng những kỹ thuật tốt hơn và cũng bằng ý kiến công khai sắc bén và tích cực. (Họ vạch ra rằng, thí dụ, những nhà bình luận trên mạng do đảng bảo trợ, được thuê mướn để “đóng góp” vào các cuộc thảo luận trực tuyến.)

Cựu trưởng văn phòng CNN tại Bắc Kinh, Rebecca McKinnon, người hiện dạy tại Ðại học Hongkong, là nhà quan sát thuộc loại vừa kể. Bà đang soạn cuốn sách về “chủ nghĩa toàn trị không gian ảo” (cybertarianism) chớm nở với TQ là một thí dụ hàng đầu. Các bài viết của bà về internet TQ, giống như của Guobin Yang, nhấn mạnh óc sáng tạo của công dân mạng – trong khi đó cũng mô tả khả năng đối đầu quyết liệt giữa nhà nước tìm cách kiểm soát ngôn luận và các công dân càng ngày càng được nhận thêm thông tin (và háo hức thực hành) các quyền của mình.
Cho dẫu sinh hoạt vận động tại TQ trong tương lai có bị uốn nắn thành cái gì đi nữa, dường như không có khả năng chính phủ có thể kéo lùi ý thức đang gia tăng mà internet góp phần truyền bá. Trong niềm tin rằng ý thức về các quyền vẫn tồn tại tại chỗ, Guobin Yang viết rằng internet TQ bộc lộ một “sức đẩy cách mạng” làm tín hiệu cho “khả năng một cuộc cách mạng khác đang tới”. Tuy nhiên, ông nhấn mạnh rằng cuộc cách mạng ấy không giống như cuộc đại biến động đầy bạo lực đã khuấy đục TQ trong thế kỷ 20. Thay vào đó, nó sẽ nhấn mạnh vào những cải tổ xác thực mà các nhà trí thức hiện đại coi trọng.


Bài 5: Các trí thức bị bao vây của Trung Quốc
Merle Goldman
Nguyễn Ước dịch

MERLE GOLDMAN nguyên là giáo sư lịch sử tại Ðại học Boston, Hoa Kỳ. Bà nghỉ hưu và nay cộng tác với Trung tâm Nghiên cứu Trung Quốc Fairbank (Fairbank Center for Chinese Studies) ở Harvard. Trong số các sách của bà có From Comrade to Citizen: The Struggle for Political Rights in China (Từ đồng chí tới công dân: cuộc đấu tranh đòi quyền chính trị tại Trung Quốc), Nxb Harvard University Press, 2005.
________________

Lâu nay các nhà khoa học chính trị phân biệt giữa chế độ cực quyền (totalitarian regime, cũng thường được gọi là chế độ toàn trị) và chế độ chuyên quyền (authoritarian regime). Sự phân biệt ấy thích đáng cách riêng khi đối chiếu kỷ nguyên cải cách hiện nay tại nước Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc với giai đoạn trước đó. Dưới thời Mao Trạch Ðông, người nắm quyền lực từ 1949 tới 1976, Trung Quốc (TQ) bị cai trị bởi một hệ thống cực quyền, trong đó Mao và Ðảng Cộng sản khống chế không chỉ đời sống chính trị của xứ sở mà còn cả cuộc sống cá nhân, kinh tế, nghệ thuật và tri thức của thần dân.

Sau khi Mao qua đời năm 1976 và người kế vị là Ðặng Tiểu Bình, đồng chí trong cuộc Vạn lý Trường chinh của ông, TQ chuyển từ chế độ độc tài cực quyền sang chế độ độc tài chuyên quyền. Ðảng vẫn khống chế hệ thống chính trị, và chỉ trừ những cuộc bầu cử cấp xã, nó quyết định phẩm trật chính trị. Những cải cách kinh tế của chính quyền và việc nới lỏng kiểm soát các sinh hoạt phi chính trị cùng việc mở cửa đất nước ra thế giới bên ngoài, cho phép sự tự do lan vào, tới một cấp độ nào đó, đời sống tri thức, văn hóa, kinh tế và cá nhân của dân chúng. Thời kỳ sau-Mao chứng kiến một sự nảy nở các ý tưởng, hoạt động và các nỗ lực nghệ thuật bên ngoài sự kiểm soát của Đảng.

Dĩ nhiên không khỏi liều lĩnh khi quá đặt nặng phân biệt giữa độc tài cực quyền và độc tài chuyên quyền. Chính quyền TQ hiện nay vẫn nằm dưới sự kiểm soát của Ðảng Cộng sản và hầu hết công dân TQ cũng bị như thế. Một thế hệ mới các lãnh tụ Đảng, dẫn đầu bởi cựu Thị trưởng Thượng Hải Giang Trạch Dân, lên nắm quyền sau hành động đã thẳng tay đàn áp những người biểu tình ủng hộ dân chủ tại Quảng trường Thiên An Môn ngày 4 tháng Sáu năm 1989. Tập đoàn lãnh đạo đó – và đặc biệt thế hệ các lãnh tụ hiện thời, cầm đầu bởi Chủ tịch Hồ Cẩm Ðào cùng các cộng sự viên của ông, những kẻ lên nắm quyền vào năm 2002 – tìm cách giáo huấn trở lại cán bộ Đảng để họ thấm nhuần hệ tư tưởng Lê-ni-nit. Trong khi củng cố năng lực của chính quyền nhằm đối phó với những bất bình đẳng ngày càng tăng và tệ nạn tham nhũng tràn lan, những kẻ lãnh đạo xứ sở ấy cũng tái tập trung quyền lực chính trị.

Trong kỷ nguyên sau-Mao này, có lẽ không chỗ nào dễ thấy rõ các giới hạn đối với tự do cho bằng trong cách nhà nước độc tài chuyên quyền xứ này đối xử với các nhà trí thức xã hội (public intellectuals). Trong khi có một cấp độ thảo luận mang tính đa nguyên và sự cởi mở cho tư tưởng nước ngoài hiện hữu tại các trường đại học, các tạp chí học thuật, và trung tâm hay viện nghiên cứu nghiên cứu lý thuyết và điều nghiên trong chiều hướng giải quyết các vấn đề của xã hội, khoa học và công nghiệp (think tank), cách riêng trong các ngành khoa học, những định chế này vẫn nằm dưới quyền kiểm soát của viên chức Đảng. Và chế độ của họ Hồ bắt giam, quản chế hoặc ném ra ngoài những học giả có uy tín hàn lâm nào bất đồng ý kiến về mặt chính trị và công khai phê bình chính sách của Đảng.

Tuy thế, các nhà trí thức thời sau-Mao vẫn tìm cách đẩy mạnh cải cách chính trị. Trong kỷ nguyên Mao, nhà trí thức nào bất đồng ý kiến không chỉ với quan điểm chính trị của Đảng mà kể cả với quan điểm lịch sử, hay nghệ thuật, khoa học của nó, thậm chí quan điểm kinh tế, nói chung đều bị mất việc làm, không có khả năng kiếm sống và bị trục xuất, đúng theo nghĩa đen, khỏi cộng đồng trí thức. Trong kỷ nguyên sau-Mao, những cải cách kinh tế của TQ và việc mở ra thế giới bên ngoài khiến các nhà trí thức bất đồng ý kiến có khả năng xuất bản ở hải ngoại và tại Hongkong, để tự giúp đỡ bản thân cùng gia đình, bằng những việc làm nghiệp dư.

Tóm lại, tuy sự chuyển dịch của TQ từ tổ chức nhà nước độc tài cực quyền tới độc tài chuyên quyền không bảo vệ các nhà trí thức xã hội khỏi sự trả thù và bị bắt giam, nó cũng làm cho họ thỉnh thoảng có thể phát biểu công khai về các vấn đề chính trị và gây được tác động vượt quá bên kia các nhóm trí thức gần mình nhất.

Những người kế tục Khổng tử

Ðối với văn minh phương Tây, các nhà trí thức xã hội không là cái gì đó độc đáo. Thật thế, dù bị đàn áp trong hầu hết kỷ nguyên Mao, suốt dòng lịch sử TQ họ đóng vai trò có ý nghĩa trọng đại trên đất nước mình. Các nhà trí thức thời tiền-hiện đại của TQ – các sĩ phu hoặc nho sĩ (Confucian literati) – không chỉ điều hành guồng máy chính quyền thư lại mà còn được xem là lương tâm của xã hội. Sự gắn bó của họ đối với việc cải thiện điều kiện sống của con người dẫn họ tới việc đảm đương các trách nhiệm, có thể so sánh với các trách nhiệm của nhà trí thức xã hội tại phương Tây thời hiện đại. Họ là những người có đủ trình độ hoặc có khả năng hiểu biết trong một số lãnh vực hay nhiều hoạt động khác nhau (generalist). Họ là những người công khai thảo luận và tranh đấu, về các vấn đề xã hội, kinh tế và chính trị. Họ tổ chức các nỗ lực tương thân tương ái và nền giáo dục có giám sát. Quan trọng hơn hết, nho sĩ xem mình có trách nhiệm phê phán các quan lại và ngay cả hoàng đế khi các chính sách chính thức hoặc việc thực hiện chúng đi trệch với các lý tưởng Khổng giáo về đạo đức và công bằng.

Các nhà trí thức xã hội ấy đã góp phần đưa tới sự chấm dứt triều đại quân chủ của TQ, chuẩn bị con đường cho cuộc Cách mạng 1911, với vị lãnh đạo là Tôn Dật Tiên, người được xem là hiện thân của một trí thức xã hội. Dù chính quyền Quốc dân Ðảng (QDÐ) của Tưởng Giới Thạch (1928-1949) ra sức bóp nghẹt sự phê phán và bất đồng ý kiến, nhưng nó quá yếu, không đủ sức làm các nhà trí thức công khai thôi chỉ trích các viên chức đàn áp và các chính sách của QDÐ, đồng thời chủ trương cải tổ chính trị. Nhưng dưới sự lãnh đạo độc tài toàn trị của Mao – ngoại trừ các khúc dạo ngắn ngủi ở giữa, thí dụ thời kỳ “Trăm hoa đua nở” 1956 và 1957 – các nhà trí thức xã hội bị im tiếng và không thể nào đóng vai trò truyền thống của mình.

Không giống như ở phương Tây, tại TQ, suốt các kỷ nguyên quân chủ, QDÐ và Mao, không có luật pháp nào bảo vệ cho các nhà trí thức. Khi các nhà phê bình nói điều gì đó không hài lòng giới lãnh đạo, họ có thể bị làm cho phải im lặng tuy không bị kết án. Trong thập niên 1980, rõ ràng tất cả các nhà trí thức từng bị Mao ngược đãi đều được phục hồi, và hầu hết tìm được chỗ đứng trong các cơ sở trí thức và chính trị.

Không gian công cộng dành cho thảo luận chính trị và các quan điểm đa nguyên đã được cởi mở trong việc xuất bản sách, truyền thông đại chúng, các đại học, các trung tâm nghiên cứu. Tuy thế, ngay cả lúc đó, vẫn không ban hành luật pháp nào để bảo vệ quyền dân sự và chính trị; như thế, các nhà trí thức xã hội vẫn dễ bị xâm hại trước ý thích bất chợt của giới lãnh đạo Đảng. Hầu hết các nhà trí thức được phục hồi trong kỷ nguyên sau-Mao đều trở nên thành viên của cơ quan nhà nước và Đảng. Nhưng khi có một số nhỏ trong họ yêu cầu cải cách nhà nước toàn trị, thì thêm lần nữa, những kẻ đó bị thanh trừng, đặc biệt trong hậu quả ngay sau cuộc phản đối Thiên An Môn.

Và rồi, cho dẫu các nhà phê bình ấy bị im tiếng trong một thời gian, chuyển động của TQ tới nền kinh tế thị trường đã khiến cho họ trong thập niên 1990, có thể kiếm sống, xuất bản và phát biểu đều đặn theo từng thời kỳ về các vấn đề chính trị. Họ có thể làm được điều đó nhờ công nghệ mới internet, việc xuất bản tư nhân, và liên hệ với các đài phát thanh nước ngoài như Tiếng nói Hoa kỳ, BBC, Á châu Tự do, để các đài này phát trở lại quan điểm của họ vào TQ.

Ðàn áp của Hồ Cẩm Ðào

Năm 2002, khi thế hệ các lãnh tụ do Hồ Cẩm Ðào dẫn đầu nắm quyền, đã có kỳ vọng rằng tập đoàn quan chức trẻ này – với nhiều người có gốc từ Hội Liên hiệp Thanh niên Trung Quốc, một tổ chức được giả dụ có ít tính giáo điều hơn tự thân Đảng – sẽ tiếp tục mở ra không gian công cộng cho thảo luận chính trị dù nó vẫn bị bao bọc bởi những giới hạn nhất định. Nhưng rồi thực tế chứng minh rằng không đúng như thế. Không gian công cộng dành cho thảo luận chính trị, trong thực tế, bị thu nhỏ lại kể từ năm 1990 khi Ðặng Tiểu Bình đứng đầu Đảng.

Chế độ Hồ Cẩm Ðào thẳng tay đàn áp một số người dùng công nghệ truyền thông mới – thí dụ những kẻ lập trang web để thảo luận các vấn đề chính trị. Hàng hai chục người bất đồng chính kiến trên không gian ảo bị bắt bỏ tù, như một lời cảnh cáo liên quan tới giới hạn mà họ có thể đi tới trong thảo luận về cải cách chính trị trên internet. Các nhà trí thức xã hội phát biểu và công bố các luận văn về các chủ đề có thể gây tranh cãi, cũng nhanh chóng bị bắt giam.

Một thí dụ là Jiang Yangong (Tưởng Ngạn Vĩnh), bác sĩ quân y, từng chữa trị cho nạn nhân của cuộc đàn áp đầy bạo lực ngày 4 tháng Sáu năm 1989, đã phản bác lời quả quyết của Đảng năm 2003 rằng dịch bệnh SARS đang trong tầm kiểm soát. Ông bị bắt giam rồi bị quản chế năm 2004 khi kêu gọi Đảng thay đổi lời mô tả các cuộc biểu tình Thiên An Môn năm 1989 từ “phản cách mạng” thành phong trào “yêu nước”.

Cộng thêm vào việc đàn áp một số nhà trí thức độc lập nổi tiếng và áp đặt lệnh cấm các nhà trí thức xã hội thảo luận, chính quyền Hồ Cẩm Ðào siết chặt kiểm soát sự bất đồng ý kiến trên truyền thông và các đài phát thanh đa dạng. Các tường trình của truyền thông về những cuộc phản đối ngày càng tăng nhằm chống tham nhũng, viên chức lạm dụng, tịch thu tài sản và các điều kiện làm việc, đều bị nghiêm cấm. Jiao Guobao (Tiêu Quốc Tiêu), giáo sư môn báo chí, đã phê bình trên internet về sự kiểm soát mang tính đàn áp của Đảng đối với truyền thông; ông không còn được phép dạy ở Ðại học Bắc Kinh. Một nhà trí thức xã hội khác, Wang Yi, giáo sư thỉnh giảng môn luật tại Ðại học Thành Ðô, kêu gọi một hệ thống có kiểm tra và cân bằng trong đời sống công cộng; ông cũng bị cấm dạy. Tạp chí Strategy and Management (Sách lược và Quản trị), một cơ sở của các nhà trí thức phái cấp tiến, bị đóng cửa.

Tìm một con đường

Dù có sự tiếp tục đàn áp truyền thông và các tiếng nói phê phán, dù internet bị kiểm duyệt, vai trò của các nhà trí thức xã hội vẫn không thay đổi một cách có ý nghĩa, như một hậu quả của các khác biệt chính sách giữa kỷ nguyên Mao và kỷ nguyên sau-Mao, cũng như do bởi những thay đổi trong chiến lược của những người phê bình. Trong phong trào đấu tranh Chống-Hữu khuynh (1957-1958) và trong cuộc Cách mạng Văn hóa (1966-1976), có tới hàng triệu người bị ngược đãi khắc nghiệt mặc dù chỉ có một số nhỏ dấn thân vào hành động phê bình và phản đối.

Ngược lại, trong kỷ nguyên sau-Mao, sự ngược đãi đối với người bất đồng ý kiến công khai đã không lan ra tới bên ngoài những kẻ bị kết án và các cộng sự viên của họ. Còn nữa, dù có thể bị mất việc làm trong giới hàn lâm hoặc truyền thông và có thể bị ở tù ngắn hạn, các nhà phê bình công khai ấy có thể tìm được việc làm và các cơ sở để nói lên quan điểm của mình trong nền kinh tế thị trường đang trải rộng của TQ.

Như thế không giống trong kỷ nguyên Mao, các nhà trí thức xã hội ngày nay không hoàn toàn bị im tiếng. Một số vẫn cố gắng hoạt động đúng với chức năng công dân, hoặc tự một mình hoặc với người khác, và họ tiếp tục trình bày quan điểm chính trị của mình qua sách báo xuất bản không chính thức và trên internet bằng cách nối kết với các server bên ngoài. Thêm nữa, đây là lần đầu tiên tại nước Cộng hoà Nhân dân Trung Quốc có một số luật sư tự nguyện biện hộ cho những người bị cáo buộc phạm tội chính trị và có các ký giả tường trình chính sách đàn áp của Đảng trên một số phương tiện truyền thông, thí dụ tờ Southern Metropolitan Post (Nam phương Ðô thị Bưu báo), đặt cơ sở tại tỉnh Quảng Ðông.
Cũng có sự khác biệt giữa thái độ của các nhà trí thức trong thập niên 1980 và trong thập niên đầu của thế kỷ 21. Một số nhà trí thức trong thập niên 1980 tự gọi mình là “nhà nhân bản Mác-xít” (Marxist humanist), và vạch ra rằng các chính sách của Đảng đã trệch với các lý tưởng của học thuyết Marx ra sao. Kể từ lúc đó, vì sự phá sản ngày càng tăng của Mác-xít-Lê-ni-nít như một triết thuyết cai trị, hầu hết các nhà trí thức xã hội chuyển dịch khỏi sự đặt trọng tâm lên hệ tư tưởng, thay vào đó, họ nhấn mạnh việc thiết lập những định chế mới để thành tựu các cải cách chính trị.

Còn nữa, cho tới khi xảy ra cuộc biểu tình Thiên An Môn năm 1989, các nhà trí thức xã hội tự đánh giá mình là tinh hoa và không liên kết với các giai cấp xã hội khác trong hành động chính trị. Nhưng vào lúc khởi sự những cuộc phản đối năm 1989, một nhóm nhỏ bắt đầu liên kết với công nhân và người điều hành tiểu doanh nghiệp trong các đợt phát động thỉnh nguyện thư và trong việc tổ chức các nhóm nhỏ để tạo sức ép lên chính quyền, đòi hỏi các cải cách chính trị. Như thế, trong thập niên đầu của thế kỷ 21, dù đàn áp vẫn tiếp tục, đã có những thay đổi phẩm tính xuất hiện trong tư duy và hành động của các nhà trí thức xã hội ở TQ: họ ngày càng trở thành diễn viên chính trị độc lập và cho thấy ý nguyện sẵn sàng liên kết với các nhóm xã hội khác trong hành động cổ vũ các cải cách.

Hỗ tương hành động ngày càng tăng với phần còn lại của thế giới, đặc biệt với phương Tây, là một nhân tố khác đang đẩy mạnh cấp độ của sự tự do hóa trong môi trường trí thức. Trung Quốc đã ký Công ước Liên hiệp quốc về Quyền Chính trị và Dân sự vào tháng Mười Một năm 1998, và trước đó đã ký Công ước LHQ về Quyền Văn hóa, Xã hội và Kinh tế vào năm 1997.

Dù con dấu cao su của Quốc hội Trung Quốc đã phê chuẩn Công ước về Quyền Văn hóa, Xã hội và Kinh tế, nó cũng chưa làm điều như thế đối với Công ước về Quyền Chính trị và Dân sự. Tuy thế, sự tán trợ của Đảng đối với các công ước LHQ về các quyền cũng như sự bớt căng thẳng trong việc kiểm soát chính trị ở trong nước đã là thành phần trong nỗ lực của TQ nhằm tạo thiện chí ở nước ngoài, cách riêng với Hiệp chúng quốc Hoa Kỳ và các nước phương Tây khác. Cùng lúc ấy, hàng ngàn sinh viên TQ ra nước ngoài du học tại các trường đại học phương Tây. Sự nới lỏng những kiểm soát mang tính hệ tư tưởng ở trong nước đã và đang tương liên với sự hứa hẹn của nó với cộng đồng quốc tế.

Mùa Xuân 1998

Các nhà trí thức và sinh viên, đều đặn theo thời kỳ, đưa ra những yêu cầu cải cách chính trị tại TQ sau-Mao. Sau cuộc phản đối Thiên An Môn năm 1989, có hai biến cố mang tính chương hồi, xảy ra cách nhau mười năm, góp phần minh họa vai trò đang tiến hóa của các nhà trí thức xã hội trong xã hội và trong quan hệ với nhà nước. Có lẽ cuộc thảo luận công khai trên qui mô rộng rãi về cải cách chính trị kể từ Thiên An Môn, xảy ra năm 1998, một thế kỷ sau vụ “Bách nhật Duy tân” ở TQ, một phong trào dẫn tới những thay đổi chính trị sau đó và sự sụp đổ của triều đại nhà Thanh năm 1911.

Giống với những nhà “Duy tân 100 ngày”, và quả thật, giống với những nhân vật chính vận động cải cách chính trị trong suốt thế kỷ vừa qua và đầu thế kỷ 21, các nhà trí thức xã hội trong sự kiện 1998 là những nhà trí thức có uy tín – viện sĩ hàn lâm, nhà văn, nhà báo, luật sư, cựu viên chức – những kẻ không ở tâm điểm của quyền lực. Họ làm việc tại các trung tâm hay viện nghiên cứu (think tank), đại học, tạp chí và văn phòng luật sư hoặc nghỉ hưu, tuy thế, họ xoay xở tìm cách cổ động cho những ý tưởng cải cách bằng sách báo uyên bác, diễn đàn hàn lâm và những kênh khác trong lãnh vực hoạt động công cộng. Thỉnh thoảng, họ còn liên kết với người bên ngoài các cơ sở ấy để yêu cầu thay đổi chính trị.

Dù không một nhà trí thức có uy tín nào của TQ công khai đề nghị một hệ thống đa đảng hoặc các cuộc bầu cử trực tiếp hàng ngũ lãnh đạo chính trị bằng phổ thông đầu phiếu, nhưng vẫn có một nhóm nhỏ cổ vũ việc thiết lập các định chế khác liên hệ với dân chủ tự do. Một số nhấn mạnh sự cai trị của luật pháp; một số khác nhấn mạnh tự do ngôn luận và lập hội; còn những người khác kêu gọi có các cuộc bầu cử có tranh đua hơn. Một số quan tâm tới dân chủ trong nội bộ Đảng; một số khác quan tâm tới dân chủ của người dân thường (grassroots). Tuy thế, rõ ràng tất cả đều đòi hỏi một hệ thống chính trị đặt cơ sở trên một hình thức nào đó của kiểm tra và cân bằng. Tất cả đều nhấn mạnh nhu cầu cải cách chính trị để đối phó với tệ nạn tham nhũng tràn lan và những bất bình đẳng xã hội cùng kinh tế đang tăng nhanh theo với các cải cách kinh tế của TQ.

Những quan điểm chính trị cấp tiến trình bày trong năm 1998 khác với các nhà nhân bản Mác-xít trong thập niên 1980 ở chỗ chúng tương đối độc lập hơn đối với sự bảo trợ chính trị – không chỉ bởi nền kinh tế thị trường đang tăng nhanh của TQ và sự mở ra đối với thế giới bên ngoài mà còn do bởi khát vọng muốn sở đắc một sự tự trị trí thức hơn. Cũng thế, với sự sụp đổ của Bức tường Berlin năm 1989 và sự sụp đổ của Liên bang Sô-viết cùng các nhà nước cộng sản Ðông Âu năm 1991, các nhà trí thức ấy không còn yêu cầu cải cách bên trong khuôn khổ Mác-xít-Lê-ni-nít. Thế hệ trẻ hơn của những người cấp tiến ấy trích dẫn một chuỗi các nhà tư tưởng phương Tây từ Adam Smith tới Popper để hỗ trợ các luận cứ của mình.

Các diễn đàn cấp tiến

Năm 1998, các nhà kinh tế học, khoa học chính trị, triết gia và sử gia phát biểu công khai nhu cầu cải cách dân chủ, trên hai tạp chí Cải tổ và Phương pháp và chúng trở thành hai diễn đàn chính của các quan điểm cấp tiến. Nhân số kỷ niệm năm thứ mười tháng Giêng 1998, tờ Cải tổ cho công bố một diễn văn của Li Shenzhi (Lí Thận Chi), nguyên cố vấn chính trị của Thủ tướng Chu Ân Lai, có nhan đề “Cũng phải thúc đẩy cải cách chính trị”. Chào đời năm 1923 trong một gia đình thương gia giàu tại thành phố Vũ Tích, tỉnh Giang Tây, Li Shenzhi hấp thụ giáo dục kiểu phương Tây và tốt nghiệp kinh tế học tại Ðại học Yên Kinh, tiền thân của Ðại học Bắc Kinh, trước khi gia nhập Ðảng Cộng sản năm 1940.

Li Shenzhi bị gắn nhãn “hữu khuynh” năm 1957 vì đặt vấn đề sự cai trị độc đảng; hậu quả ông bị khai trừ gần hai thập niên. Tuy thế, sau cái chết của Mao, ông được phục hồi và làm cố vấn chính sách ngoại giao. Li Shenzhi trở thành Phó Chủ tịch Viện Khoa học Xã hội Trung Quốc và thành lập Viện Nghiên cứu Hoa Kỳ ở đó năm 1981.

Sau ngày 4 tháng Sáu năm 1983, Li Shenzhi bị truất khỏi địa vị đó vì chỉ trích cuộc đàn áp thẳng tay Thiên An Môn. Tuy thế, tới cuối thập niên 1990, ông là một trong những người ủng hộ hùng hồn nhất và công khai nhất chủ nghĩa tự do và cải cách chính trị. Các tiểu luận của ông đăng trên Cải tổ và Phương pháp công bố không chút dè dặt một nghị trình chính trị tự do.

Cũng trong số kỷ niệm 10 năm của tờ Cải tổ, nhà kinh tế học nổi tiếng Mao Yushi (Mao Vu Thức) xuất hiện như một người cổ vũ bộc trực cho cải tổ chính trị. Chào đời năm 1928, và giống như Li Shenzhi, ông bị đóng dấu sắt nung hữu khuynh năm 1957. Tác phẩm của ông bị cấm xuất bản và ông bị tước hết công việc. Dù xuất thân từ gia đình cách mạng, Mao Yushi từ chối khi được mời gia nhập Ðảng Cộng sản vào thập niên 1980. Là kinh tế gia tại Viện Khoa học Xã hội, ông thành lập một nhóm nghiên cứu kinh tế độc lập gọi là Unirule (Thiên tắc Kinh tế Nghiên cứu Sở). Ông cũng tổ chức một diễn đàn để thảo luận việc dịch một bản Trung văn mới cho cuốn The Constitution of Liberty (Hiến pháp của tự do) của Friedrich Hayek. (Hayek, triết gia và kinh tế gia, là người phê bình gay gắt nhất chủ nghĩa xã hội và là người đề xuất chủ nghĩa cá nhân cùng quyền tư hữu; ông được đọc rộng rãi trong các nhà trí thức cấp tiến ở TQ.) Mao Yushi viết một luận văn dài nhan đề: “Chủ nghĩa tự do, qui chế bình đẳng và nhân quyền” năm 1998, trong đó ông ca ngợi chủ nghĩa tự do phương Tây và đòi hỏi nhân quyền. Ông lập luận rằng kinh tế thị trường đòi hỏi sự nới lỏng các kiểm soát chính trị để phát triển đầy đủ.

Ngay cả nhà cách mạng lão thành Li Rui (Lí Nhuệ), nguyên thư ký của Mao Trạch Ðông, công bố một bài đòi hỏi cải cách chính trị, trên tờ Cải tổ số tháng Giêng. Bài báo của Li Rui là bản tóm tắt bức thư ông viết cho một đồng chí không tên trong chính phủ trung ương, đề ngày 10 tháng Chín năm 1997, trong đó ông than phiền việc Đảng vẫn tiếp tục chịu ảnh hưởng của tả khuynh. Trích dẫn diễn văn ngày 18 tháng Tám năm 1980 của Ðặng Tiểu Bình, Li Rui vạch ra rằng “sau 17 năm, những vấn đề họ Ðặng chỉ trích trong bài diễn văn đó, thí dụ… tập trung quá đáng quyền lực, sự bất lực trong việc tách sinh hoạt Đảng khỏi guồng máy chính quyền, việc Đảng thay thế chính quyền; sinh hoạt dân chủ bất thường trong nội bộ Đảng, sự bất toàn của hệ thống pháp luật chưa được giải quyết tốt.”

Từ năm 1997 tới 1998, cũng như hai tờ Cải tổ và Phương pháp, một số tạp chí và báo tin tức khác đăng các bài đòi hỏi cải cách chính trị, thậm chí có cả vài bài trong tờ Nhân dân Nhật báo chính thức. Tất cả được tập hợp lại làm thành hai tuyển tập, một xuất bản tháng Bảy với chủ đề Chính trị Trung Quốc: Ðối diện kỷ nguyên chọn lựa một cấu trúc mới (Political China: Facing the Era of Choosing a New Structure); một xuất bản tháng Chín với chủ đề Chính trị Trung Quốc: Văn học Giải phóng 1978-1998 (Political China: Liberation Litterature 1978-1998). Sự tập hợp các bài báo cổ vũ cải cách chính trị trong hai quyển, được viết bởi các viện sĩ, nhà báo, thành viên các nhóm nghiên cứu, góp phần làm tăng thêm tác động của các đề xuất từ những người cấp tiến.

Ðặc biệt có ý nghĩa là nguồn tài trợ cho hai quyển đó vén lộ cho thấy có một số phần tử trong giai cấp doanh nghiệp mới đang bắt đầu dùng lợi nhuận của mình để bảo trợ việc thảo luận các vấn đề chính trị và cổ vũ cho thay đổi chính trị. Hầu hết doanh gia đang phất của TQ đều câu kết với viên chức địa phương để tăng tiến tình trạng kinh tế của mình, hệ quả là hầu hết dân kinh doanh tránh xa những nỗ lực đưa tới thay đổi chính trị. Thế nhưng vẫn có một ít trường hợp ngoại lệ, thí dụ Wan Runnan (Vạn Nhuận Nam), đứng đầu tập đoàn Stone Group (Thạch Ðoàn), do Wan thành lập như một think tank vào thập niên 1980 để nghiên cứu về cải cách chính trị và rồi ủng hộ những người biểu tình tại Thiên An Môn năm 1989.

Sở dĩ hai tuyển tập đó được tài trợ bởi doanh gia tư nhân là vì trong họ, có một số trước đây từng tham gia các hoạt động chính trị trong thập niên 1980 và bị loại khỏi các cơ sở trí thức. Thay vào đó, họ đi làm doanh nghiệp. Tới cuối thập niên 1990, họ tự nguyện và có khả năng tài trợ cho các nỗ lực trí thức và chính trị thuộc loại đó.

Linh bát Hiến chương

Một biến cố mang tính chương hồi xảy ra gần đây trong việc thảo luận công khai tại TQ, chỉ cho thấy một hiện tượng vừa xuất hiện trong thập niên qua: cách thức mà hiện nay các nhà trí thức xã hội cùng các công dân khác đòi hỏi chính quyền phải sống theo những nguyên tắc mà nó đã chấp nhận bằng văn bản. Ngày 10 tháng 12 năm 2008, kỷ niệm năm thứ 60 ngày ban hành Bản Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền, một nhóm người từ các tầng lớp xã hội khác nhau đã phát động phong trào được gọi là Linh bát Hiến chương trong đó đưa ra một sơ đồ cho các cải cách cơ bản về chính trị và luật pháp hầu đạt tới một hệ thống chính trị dân chủ.

Lấy kiểu mẫu từ phong trào Hiến chương 77 của Václav Havel tại nước Tiệp Khắc cũ, Linh bát Hiến chương phê phán chính quyền TQ thất bại trong việc thi hành các điều khoản nhân quyền mà các nhà lãnh đạo của nó đã ký vào, thí dụ Công ước LHQ về Quyền Chính trị và Dân sự ký năm 1998 và các tu chính án năm 2004 cho bản hiến pháp của TQ, trong đó có câu “tôn trọng và bảo vệ quyền con người.” Linh bát Hiến chương vạch rõ rằng:

-“Rủi thay, hầu hết tiến bộ chính trị của TQ được mở ra không xa hơn trang giấy trên đó nó đã ký.”

Về thực tại chính trị, Hiến chương tuyên bố:

-“rằng TQ có nhiều luật lệ nhưng không có sự cai trị của luật pháp; nó có bản hiến pháp nhưng không có chính quyền hợp hiến.”

Linh bát Hiến chương đòi hỏi một hệ thống chính trị đặt căn bản trên các định chế chính trị của kiểm tra và cân bằng.

Thêm một lần nữa, các nhà trí thức và sinh viên TQ, theo từng thời kỳ đều đặn, lại đưa ra những yêu cầu như thế. Ðiều làm cho Linh bát Hiến chương, về mặt phẩm tính, khác với hầu hết các phản đối trước đây là nó đã trở thành một phong trào chính trị vượt qua các lằn ranh giai cấp. Trước đây, các cuộc biểu tình thường được tiến hành bởi các giai cấp chuyên biệt và đặt trọng tâm trên các vấn đề kinh tế cá biệt, thí dụ phản đối của dân quê chống lại việc viên chức địa phương tịch thu đất của họ, hoặc phản đối của công nhân chống lại việc không trả tiền lương. Ngay cả trong các cuộc biểu tình năm 1989 tại Thiên An Môn, ban đầu sinh viên nối tay nhau, giữ không để công nhân và thị dân tham dự vì họ biết rằng Đảng sợ sự liên minh giữa các nhà trí thức và công nhân. Tới cuối tháng Năm 1989, khi các giai cấp xã hội khác tự mở lối đi vào cuộc phản đối ấy và phong trào lan sang các thành phố khác cùng các giai cấp khác, Ðặng Tiểu Bình sợ nó đe dọa tới sự cai trị của Đảng. Và đó là lý do ông ra lệnh quân đội thẳng tay đàn áp phong trào.

Một đặc điểm khác làm Linh bát Hiến chương thành khác thường tại TQ là rằng, dù khởi thủy chỉ có hơn 300 nhà trí thức ký tên, nhưng rồi rất lẹ làng, nó được những công dân thường, thuộc các tầng lớp xã hội khác nhau – doanh gia, chuyên viên, viên chức địa phương, công nhân, nông dân, bà nội trợ, người mua bán dạo – thêm tên mình vào khi nó luân lưu trên internet và những nơi khác. So với các phong trào chính trị bình dân tại nước Cộng hòa Nhân dân TQ, Linh bát Hiến chương có thêm một điều mới mẻ nữa, đó là có sự tham gia của một số luật sư biện hộ cho những người bị cáo giác phạm tội chính trị.

Bất chấp việc giam giữ nhà văn Liu Xiaobo (Lưu Hiểu Ba), người khởi thảo Linh bát Hiến chương, và bất chấp sự lên án khắc nghiệt của chính quyền đối với phong trào ấy, ngay trước khi Đảng giật sập trang web của Linh bát Hiến chương vào giữa tháng Giêng 2009 đã có hơn 8.000 người xoay xở ký tên vào.

Sự kiện Linh bát Hiến chương lộ ra cho thấy rằng không chỉ các nhà trí thức bày tỏ lòng bất mãn đối với hệ thống độc tài chuyên quyền của TQ mà còn có các tầng lớp nông dân, công nhân, tiểu doanh gia, những người được coi là hưởng lợi từ kiểu mẫu chính trị của TQ. Sự tham gia của họ vào phong trào Linh bát Hiến chương có thể qui phần nào cho tình hình kinh tế ngày càng xuống dốc vào cuối năm 2008. Các xưởng máy trong nhiều ngành kỹ nghệ xuất khẩu của TQ phải đóng cửa vì giảm yêu cầu đặt hàng tiêu thụ tại phương Tây, và nhiều sinh viên tốt nghiệp, lần đầu tiên trong kỷ nguyên sau-Mao, không tìm được việc làm.

Cơ bản hơn, phong trào Linh bát Hiến chương nêu vấn đề hệ thống chính trị đặt cơ sở tính chính thống của nó trên khả năng của Ðảng Cộng sản phân phối sự tăng trưởng kinh tế. Mặc dù bị đàn áp thẳng tay và Lưu Hiểu Ba cùng vài người ký tên khác bị bắt giam, Linh bát Hiến chương biểu hiện cho một phong trào đa giai cấp đòi hỏi thay đổi chính trị, và nó có khả năng tiếp tục.

Một phong trào như thế cần tới sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế, kể cả Hiệp chúng quốc Hoa Kỳ, để thành công. Những phản đối công khai và mạnh mẽ của quốc tế về vụ đàn áp phong trào Hiến chương 77 tại Tiệp Khắc đánh dấu sự bắt đầu việc tháo gỡ hệ thống cộng sản tại Ðông Âu. Các nhà lãnh đạo của TQ, cũng giống với các nhà lãnh đạo Liên bang Sô-viết cũ, đều không được miễn trừ khỏi sức ép của nước ngoài trên các vấn đề chính trị.

Người ta hi vọng rằng chính quyền Barrack Obama có thể là một xúc tác trong nỗ lực đạt tới sự tự do hơn trong học thuật và trí thức cho các nhà trí thức TQ, bằng cách tiếp tục và gia tăng những trao đổi hàn lâm và thảo luận quốc tế về các chủ đề chính trị cũng như khoa học và kinh tế. Trong nỗ lực này, sự dấn mình của quốc tế ngày càng tăng với các trí thức của TQ cũng như với các nhà lãnh đạo chính trị của TQ, có thể đóng được vai trò trong việc bảo vệ những người yêu cầu cải cách chính trị. Một sự dấn thân như thế có thể ảnh hưởng lên cách Đảng đối xử với các nhà trí thức xã hội.

Hướng tới dân chủ?

Mùa Xuân năm 2009, trong thời gian chuẩn bị ngày kỷ niệm năm thứ hai mươi vụ đàn áp Thiên An Môn, Cục Tuyên truyền (Propaganda Department) của TQ kiểm duyệt cắt bỏ những thảo luận trên truyền thông nước ngoài về các biến cố năm 1989. Nó ngăn chặn nhiều trang của International Herald Tribune và nhật báo Hongkong South China Morning Post, cũng như những thảo luận trên đài BBC, YouTube và Twitter. Thế nhưng trong dân chúng TQ, những người quan tâm tới những gì từng xảy ra tại Thiên An Môn đã tìm được cách khám phá qua máy BlackBerry cầm tay của họ và tiếp cận internet với các server nước ngoài.

Như đã thấy trong biến cố mang tính chương hồi Linh bát Hiến chương, kỷ nguyên sau-Mao chứng kiến sự gia tăng ý thức quyền công dân cùng sự gia tăng những nỗ lực có tổ chức trong người dân bình thường lẫn các nhà trí thức để đòi quyền chính trị. Những phát triển ấy không nhất thiết có hàm ý chuyển động hướng tới dân chủ, nhưng quả thật chúng là những dấu hiệu tiên quyết cho một môi trường trí thức tự do hơn và cho sự dẫn tới việc thiết lập các định chế dân chủ.

Dân chủ tùy thuộc vào khát vọng của các công dân có tổ chức nhằm tham gia một quá trình chính trị để buộc chính quyền phải chịu trách nhiệm về hành động của nó đối với việc cải thiện các phúc lợi công cộng. Do đó, dù những nỗ lực đòi quyền chính trị tại TQ bị đàn áp nhanh chóng và dù chỉ mới có một ít cải cách chính trị được đưa vào, hẳn là lầm lẫn khi xem nhẹ tác động của những nỗ lực ấy.

Không giống như trong kỷ nguyên Mao là thời mà bất cứ sự bất đồng ý kiến nào cũng bị trấn áp tàn bạo tới nơi tới chốn, các nhà trí thức xã hội của TQ ngày nay đang trải nghiệm chủ nghĩa đa nguyên trí thức, tranh luận mạnh mẽ và dấn thân với cộng đồng quốc tế. Ðặc biệt họ đang liên kết với các giai cấp khác và các nhóm xã hội khác trong hành động đòi hỏi các cải cách chính trị. Trong khi chuyển dịch của TQ từ chế độ độc tài cực quyền tới chế độ độc tài chuyên quyền không làm chấm dứt sự đàn áp việc thảo luận chính trị, nó cũng không thể ngăn chặn các nhà trí thức, theo những thời kỳ đều đặn, thể hiện vai trò lịch sử của mình hoặc tìm kiếm một tác động rộng rãi hơn lên xã hội TQ.

Nguồn: Toàn văn bài “China’s Beleaguered Intellectuals” (Các trí thức bị bao vây của Trung Quốc) của Merle Goldman đăng trong đăng trong Current History: A Journal of Contemporary World Affairs (Lịch sử Hiện thời – Tạp chí Các sự vụ Thế giới Ðương đại), số đặc biệt China and East Asia (Trung Quốc và Ðông Á), tháng 9 năm 2009, xuất bản tại Hoa Kỳ, tr. 264-269.

Bài 6: Chiếc bóng của cuộc tàn sát Thiên An Môn
Jean-Philippe Béja
Nguyễn Ước dịch

Jean-Philippe Béja là nhà nghiên cứu kỳ cựu của Centre Nationale de la Recherche Scientifique (Trung tâm Nghiên cứu Khoa học Quốc gia) và Center for International Studies and Research (Sicences-Po) (Trung tâm Nghiên cứu và Ðiều nghiên Quốc tế (Khoa học-Chính trị)) tại Paris, hiện có cơ sở tại The French Center for the Study of Contemporary China (Trung tâm Pháp Nghiên cứu Trung Quốc đương đại). Trong số các sách đã xuất bản của ông có A la recherche d’une ombre chinoise: Le mouvement pour la democratie en Chine, 1919-2004 (Nghiên cứu chiếc bóng Trung Quốc: Phong trào dân chủ tại Trung Quốc, 1919-2004), Edition du Seuil, Paris, 2004.
_____________

Cứ giết hai trăm ngàn để có được hai chục năm yên ổn.” Hai chục năm sau cuộc tàn sát tại Quảng trường Thiên An Môn ngày 4 tháng Sáu năm 1989, lời trích dẫn ấy được qui cho Ðặng Tiểu Bình và dường như nó không lên tới con số lớn lao đó. Chỉ tốn có một ngàn hai trăm người chết để Ðảng Cộng sản Trung Quốc (ÐCSTQ) đạt được nguyện vọng hai thập niên bình lặng. Tuy thế, bên dưới bề mặt ổn định đó, cuộc tàn sát ấy vẫn tác động sâu xa lên các nhà cai trị Trung Quốc (TQ) cũng như phía đối kháng họ. Sự căng thẳng mà các lãnh tụ ÐCSTQ nói tới khi đến gần ngày kỷ niệm năm thứ 20 Thiên An Môn cho thấy rằng, bất chấp mọi nỗ lực tẩy xóa biến cố này của các sử gia chính thức và ký ức của đại chúng, Đảng vẫn còn bị nó ám ảnh. [1]

Khi chiến xa của Quân đội Nhân dân Giải phóng (QÐNDGP) lăn vào trung tâm thành phố Bắc Kinh ngày 4 tháng Sáu để ủi các sinh viên, những kẻ – với sự trợ giúp của các công dân đang cố sức ngăn cản những cuộc chuyển quân – chiếm cứ Quảng trường Thiên An Môn từ trung tuần tháng Năm, ÐCSTQ và lãnh tụ chóp bu Ðặng Tiểu Bình đột nhiên cay nghiệt ném ra một ngọn lửa mới.

Kể từ hành động củng cố quyền lực của mình vào cuối thập niên 1980, Ðặng càng ngày càng có vẻ là một anh hùng đối với hầu hết người TQ. Ông phục hồi nhiều nạn nhân của Mao, cho phép những thanh niên nam nữ bị vị Chủ tịch quá cố phái xuống nông thôn được quay về thành thị, nới lỏng các kiểm soát đối với kinh tế nông thôn và trong cuộc sống hằng ngày, và như thế, ông thu phục được sự ủng hộ của nông dân, trí thức và thanh niên.

Ðặng được đánh giá là người theo chủ nghĩa thực dụng, kẻ dũng cảm đương đầu với những người theo phái tân-Mao-ít, đồng thời muốn cải thiện tiêu chuẩn đời sống của người công dân trung bình. Triệu Tử Dương, người được chính tay Ðặng chọn lựa kỹ càng để làm Tổng Bí thư ÐCSTQ, lúc này nói tới việc đối thoại rộng rãi hơn với xã hội, thậm chí tới việc tách Đảng ra khỏi chính quyền. Trên qui mô lớn, các công dân có cảm giác tự do hơn khi nói lên bất mãn của mình, trong lúc sinh viên và các nhà trí thức đang tranh luận về những viễn cảnh cho một sự dân chủ hóa gia tăng. Những cuộc biểu tình của sinh viên hồi năm 1986 đã gặp phản ứng nhẹ nhàng của chính quyền khiến dường như có thể có một ít bằng chứng cho ý niệm rằng Đảng đã thay đổi và đang được lãnh đạo bởi các nhân vật ít dị ứng với sự bất đồng ý kiến hơn Người Cầm lái Vĩ đại trước đây. Thế rồi, những phát súng bắn ngày 4 tháng Sáu và sự thẳng tay đàn áp tiếp đó đã gây choáng váng tột độ, đảo ngược các ấn tượng vừa kể cũng như các kỳ vọng vào tính bao dung của chế độ.

Liền theo sau biến cố Thiên An Môn ngày 4 tháng Sáu, Ðặng Tiểu Bình chỉ tỏ lòng thương tiếc các bộ đội và viên chức công an đã chết[2], trong khi sinh viên và công dân địa phương từng chống cự QÐNDGP thì bị kết án là “những tên phiến loạn”. Sự tương phản giữa bài diễn văn này và thực tại đã gây sốc tới độ nó giáng một đòn cực mạnh vào tính chính thống của ÐCSTQ mà bản chất của nó dường như không thay đổi, bất chấp mọi cải cách trong thập niên 1980.

Những bản án tử hình và giam cầm dài ngày phát cho “những tên phiến loạn” và những người khác đã dám chống lại quân đội; sự áp dụng những kiểm soát nghiêm ngặt báo chí; và việc giải tán hết thảy các nhóm xã hội dân sự xuất hiện thời thập niên 1980, đã cho thấy Đảng muốn áp đặt sự cai trị của mình bằng vũ lực. Không có vấn đề phát biểu ý kiến bất đồng và chỉ đề cập tới cuộc đàn áp thôi cũng đủ khiến người ta có thể đi tù.

Bài học chính mà Ðặng rút ra từ “cuộc rối loạn” hoặc “cơn bão” năm 1989 là nhu cầu tái xác nhận cái gọi là Bốn Nguyên lý Chủ đạo: Chủ nghĩa xã hội; Tư tưởng Mao-ít Mác-xít Lê-ni-nít; Chế độ chuyên chính dân chủ nhân dân; và Quyền lãnh đạo của Ðảng CSTQ. Ðối với một người Lê-ni-nít như Ðặng, sự rạn nứt của ÐCSTQ đã là và vẫn còn là mối đe dọa trầm trọng nhất. Triệu Tử Dương, trong khi tiếp tục giữ niềm tin vào việc đối thoại sâu rộng hơn với xã hội, muốn mở những cuộc nói chuyện với sinh viên biểu tình, kể cả sau khi Ðặng Tiểu Bình đã viết trong Nhân dân Nhật báo số ra ngày 26 tháng Tư rằng bọn chúng chẳng hơn gì “một nhúm những tên phản cách mạng.”[3]

Khi Ðặng tuyên bố thiết quân luật vào ngày 20 tháng Năm, Triệu từ chức để phản đối (cũng có hai nguyên soái chống lại việc thiết quân luật), khiến họ Ðặng lo lắng sâu xa về sự nứt rạn trong hàng ngũ cao cấp hơn của Ðảng. Việc Triệu không chịu hứa sẽ tự kiểm điểm hành động của mình khiến ông bị quản chế tại gia cho tới ngày qua đời vào năm 2005.[4] Từ đó, tên ông bị xóa khỏi truyền thông chính thức, kể cả sách giáo khoa sử ký.

Trước biến cố Thiên An Môn, cạnh tranh giữa những người cải cách tập hợp chung quanh Ðặng và những người bảo thủ của Đảng do Trần Vân (Chen Yun) cầm đầu. Kể từ lúc đó, ÐCS sẵn sàng trả bất cứ giá nào để duy trì sự đoàn kết trong Đảng. Rõ ràng là các lãnh tụ lão thành khác nhau từng phân rẽ theo những chính sách khác nhau nhưng điều quan trọng là không bao giờ được phép đạt tới điểm “tranh chấp giữa hai đường lối”. Sự thôi thúc ÐCS phải siết chặt hàng ngũ và giữ gìn đoàn kết là một trong những di sản chủ yếu của ngày 4-6-1989.

Tính chính thống qua sự kết nạp ưu tuyển

Không lâu sau biến cố Thiên An Môn, sự rạn nứt của Liên bang Sô-viết (LBSV) và những tai ương kinh tế làm rung chuyển các nhà nước kế thừa của nó đã cho các lãnh tụ của ÐCSTQ một cơ hội tuyệt vời để lấy lại thế chủ động. Không phải chính sách glasnost (cởi mở) đầy tai họa của Mikhail Gorbachev đã làm vỡ LBSV một thời hùng mạnh thành từng mảnh, khiến ÐCS đánh mất quyền lực sao? Nếu ÐCSTQ làm theo ý muốn của Triệu Tử Dương mà nhượng bộ phong trào dân chủ thì liệu Tây Tạng và Tân Cương sẽ không ly khai, Ðảng sẽ không tuột mất quyền lực và một TQ chia cắt sẽ không tự thấy nó trườn trở lại tình trạng nghèo khổ khủng khiếp? Phải chăng giấc mơ một TQ “hùng cường và thịnh vượng” – giấc mơ không chỉ được chia sẻ bởi các lãnh tụ ÐCSTQ mà còn bởi các thế hệ trí thức TQ từ Chiến tranh Nha phiến vào giữa thế kỷ 19 – đang bị nghiền nát? Chẳng phải cách giải quyết của họ Ðặng trên bề mặt của cuộc xáo trộn thân dân chủ nguy hiểm đã giữ cho TQ thống nhất và cứu nó thoát khỏi những âm mưu đáng ngờ của phương Tây sao?

Bỏ sang một bên lối hùng biện ấy, Ðặng hiểu rất rõ rằng lý do chính khiến LBSV sụp đổ là vì thất bại kinh tế của nó và rằng hành động tăng gấp đôi các kiểm soát mang tính độc tài chuyên chế tự nó không thể giải quyết các vấn đề của TQ. Vì thế ông khắc phục tâm trạng lưỡng lự của các đồng đảng bảo thủ (người Mác-xít chính thống) và phát động một đợt sóng mới gồm những cải cách kinh tế vào năm 1992.[5] Trong khi đề quyết rằng công tác chủ yếu của ÐCSTQ là làm cho TQ giàu và mạnh, Ðặng thêm rằng các câu hỏi như việc chính sách đã định mang tính “tư bản chủ nghĩa” hay mang tính “xã hội chủ nghĩa” đều lạc đề, vì “phát triển là vấn đề quan trọng nhất”. Ðể đạt được nó, Ðặng nhấn mạnh tầm quan trọng của cởi mở kinh tế, đi theo sự toàn cầu hóa và cho phép người mạo hiểm kinh doanh được làm giàu.

Ðối với giới trí thức từng đóng vai trò lớn trong các cuộc phản đối năm 1989, Ðặng đưa ra cái có nghĩa như một khế ước xã hội mới. Ông có thể phục hồi về mặt phẩm hạnh cho các nhà trí thức ấy bằng cách tuyên bố rằng họ thuộc thành phần giai cấp lao động tính từ năm 1978, nhưng như thế chẳng làm gì cho họ về mặt vật chất. Sau chuyến tuần du phương nam năm 1992, Ðặng cho họ được phép trở thành người mở cơ sở kinh doanh và tích lũy tài sản. Nhiều nhà trí thức nắm lấy cơ hội này và bận rộn túi bụi thành lập công ty dịch vụ hay công nghệ cao. Những kẻ ở lại trong giới hàn lâm được phép liên kết với cộng đồng khoa học quốc tế, và các điều kiện lương bổng, phúc lợi, cơ hội làm việc của họ được cải thiện rất lẹ.

Tóm lại, Đảng đã quyết định kết nạp các loại hạng xã hội có vấn đề nhất, những kẻ từng có mặt ở hàng đầu của phong trào dân chủ. Trái với thập niên 1980 là thời sinh viên miễn cưỡng gia nhập Đảng, tới cuối thập niên 1990, hơn 80% sinh viên nạp đơn xin làm thành viên ÐCSTQ. Như lời mô tả của Giang Trạch Dân, Đảng sẽ nới rộng để tiêu biểu cho các tập thể lớn lao của TQ và cũng sẽ là đại diện cho các lực lượng sản xuất tiên tiến (các doanh gia, kỹ sư và đại loại như thế) và các lực lượng văn hóa tiên tiến nhất (các nhà trí thức đồng ý không đặt vấn đề về sự cai trị của ÐCSTQ). Cái gọi là Ba-đại-diện cùng thao tác, cái này tiếp liền cái kia với nỗ lực kiên quyết ngăn chặn sự xuất hiện của bất cứ thực thể tự trị nào có thể thách đố sự cai trị của Đảng – và ÐCSTQ lấy được sự ủng hộ của những người ưu tú về kinh tế và nhận thức, những kẻ đi theo cái bị nhà nghiên cứu văn học và bất đồng ý kiến Lưu Hiểu Ba gọi là “triết lý con lợn”.[6]

Khi các chính sách phát triển hữu hảo với giới ưu tuyển (elite-friendly) mới mẻ được đưa vào thực hiện, chúng bắt đầu gây phiền nhiễu các công nhân trong công ty quốc doanh và các nông dân chắt bóp bằng việc sụt giá nông trại. Nhằm ngăn chặn tình trạng bất mãn sôi sục giữa các giai cấp bên lề ấy khỏi cô kết thành một phong trào giống như cái đã gây nên cuộc náo động năm 1989, các lãnh tụ Đảng dùng chính sách cây gậy và củ cà rốt.

Các toan tính thành lập nghiệp đoàn tự trị hoặc thậm chí các nhóm hội họp thảo luận thì sẽ gặp cây gậy trong hình thức đàn áp ngay tức khắc. Không được phép xuất hiện trở lại những cái từng nở rộ vào cuối thập niên 1980, những cái tương tự như đàm luận nơi phòng khách (salon), trung tâm nghiên cứu bán tự trị, truyền thông bán tự trị. Năm 1998, khi các nhà hoạt động ra sức thành lập Ðảng Dân chủ Trung Quốc, Giang Trạch Dân ra lệnh “Bóp chết [nó] ngay trong trứng nước”. Thậm chí “các nhóm suy tưởng” vô thưởng vô phạt như Nhóm Nghiên cứu Thanh niên Mới, cả thảy chỉ có tám thành viên cũng trở thành mục tiêu bị đàn áp nặng nề. [7] Các nhà trí thức ra sức giúp đỡ nông dân và công nhân trình bày rõ ràng những khiếu nại của họ đều luôn luôn bị Ðảng xem là ác mộng và được guồng máy công an nội chính chú ý đặc biệt. Việc lập ra những liên kết hoặc móc nối giữa các làng xã hoặc các đơn vị lao động đều bị nghiêm cấm.

Cà rốt gồm những nhượng bộ người bất mãn. Việc nhấn mạnh tới sự “cai trị của luật pháp” như một van an toàn từ những cú giao bóng đưa qua chuyền lại như là dẫn chứng cụ thể. Nạn nhân của các viên chức hà lạm được khuyến khích yêu cầu lập hồ sơ đưa ra tòa. Việc khiếu kiện như thế cho phép hệ thống sửa sai các khiếu nại của họ bằng cách tách các yêu sách của công dân ra rồi đề cập tới từng phần một như là khiếu nại của cá nhân, chứ không phải như một cụm, một món của một phong trào xã hội. Chính sự trông cậy vào tòa án liên quan tới sự công nhận tính chính thống của chế độ.

Khi nổ ra phản đối tại một xưởng máy hay một làng xã, chính quyền có thể điều đình hoặc phái công an tới (nếu không thì có bọn xã hội đen (hắc xã hội – hei shehui), băng đảng mafia địa phương thường câu kết với chính quyền địa phương). Tuy thế, các viên chức chính quyền sẽ chẳng bao giờ làm gì cả ngoài việc chỉ bỏ ra tí hơi sức để ngăn không cho phản đối lan rộng. Năm 2003, khi các công nhân tại một xí nghiệp ở Liêu Dương tìm cách mời gọi thêm công nhân từ các xưởng máy khác trong thành phố để có một cuộc biểu tình, những người tổ chức cuộc phản đối ấy nhanh chóng thấy mình nằm trong nhà tù.[8] Suốt hai thập niên vừa qua, sự vắng mặt của bất cứ phong trào xã hội có qui mô lớn nào, so sánh với phong trào dân chủ cuối thập niên 1980, đã góp phần không nhỏ cho bằng chứng rõ ràng nhất về hiệu quả các nỗ lực kiên quyết của chế độ nhằm ngăn chặn các cuộc phản đối.

Người lưu vong và người bất đồng ý kiến

Ðối với phía đối kháng, một trong các hậu quả trước hết của cuộc tàn sát Thiên An Môn là việc bay ra hải ngoại của một số lớn các nhà hoạt động. Vào tháng Chín năm 1989, lần đầu tiên tính từ khi thành lập nước Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc bốn chục năm trước, có cuộc tập họp bên ngoài TQ của lãnh tụ các phong trào quần chúng. Vào dịp này, họ gặp nhau tại Pháp với mục đích sáng lập một tổ chức lưu vong đối kháng có tên là Liên đoàn Trung Quốc Dân chủ (LÐTQDC – Federation for Democratic China). Liên đoàn ấy là một nỗ lực nhằm qui tụ các nhà đối kháng trong đó có một số đã sống ở hải ngoại mấy năm trước. Sinh viên trẻ, người cánh hữu, cán bộ Ðảng trong các mạng lưới của Hồ Diệu Bang và Triệu Tử Dương, gặp gỡ nhau hầu hoạch định sách lược đấu tranh chống ÐCSTQ. Thế nhưng thật khó tìm thấy một nền tảng cho sự hợp tác, và tình trạng của LÐTQDC như một tập đoàn lưu vong không tránh khỏi việc bị cắt đứt với các thực tại cơ bản tại TQ. Những tranh luận giữa thành viên thì trừu tượng và không tác động lên các phát triển tại TQ. Việc đua nhau tranh thủ sự ủng hộ của các sức mạnh chính trị ngoại quốc kích động đấu tranh nội bộ dữ dội, và thế là giấc mộng sẽ xuất hiện một Tôn Dật Tiên mới bay hơi. Mấy năm sau, các nhân vật hàng đầu khởi sự lảng xa LÐTQDC, và rồi nó chết dần.

Thành tựu lớn lao của những người lưu vong là góp phần giữ cho hồi ức về phong trào 1989 tiếp tục sống và thông báo cho các chính quyền ngoại quốc, công chúng và các cơ sở truyền thông tin tức về những vi phạm nhân quyền tại TQ. Trong thực tế, các tổ chức đặt trọng tâm lên chủ đề nói trên, thí dụ Humanrights in China (Nhân quyền tại Trung Quốc), Chinese Human Rights Defenders (Người bảo vệ Nhân quyền Trung Quốc) và Chinese Labour Bulletin (Trung Quốc Lao động Tập san), một tạp chí chuyên việc phổ biến những tấn kích vào quyền của công nhân, là ba cơ sở hoạt động hữu hiệu nhất và tạo được ảnh hưởng có ý nghĩa lên các giới chức chính quyền phương Tây. [9]

Thế nhưng đối với cộng đồng lưu vong như một toàn bộ, đại lộ thênh thang nhất để tác động lên đời sống tại TQ không phải là một tổ chức chính trị chính thức hay sự chú ý của các chính phủ ngoại quốc, mà là những móc nối riêng rẽ theo quan hệ cá nhân với đông đảo người TQ có học, đặc biệt từ giữa thập niên 1990, được ra nước ngoài du học, giảng dạy, tiến hành nghiên cứu hoặc tham gia những cuộc tụ họp về học thuật. Việc các nhà trí thức xuất du gặp gỡ đồng nghiệp đang lưu vong và cùng thảo luận với họ về tương lai của TQ thì cũng ít ỏi như ý thích của các cơ quan an ninh nhà nước TQ về vấn đề đó.

Sau khi chấm dứt thiết quân luật vào tháng Giêng năm 1990, và đặc biệt sau khi Ðặng Tiểu Bình, trong chuyến tuần du khắp Hoa Nam năm 1992, tái khẳng định lời cam kết cải cách kinh tế, hàng ngũ tích cực của phong trào thân dân chủ ngày càng mỏng hơn. Tuy thế, có một số nhỏ các nhà hoạt động tiếp tục thúc đẩy mặc dù môi trường bất thân thiện, không chỉ do sự có mặt khắp nơi của công an. Sau khi họ Ðặng thêm lần nữa tuyên bố lời cam kết của ông đối với chủ nghĩa tư bản, kiểu TQ, thì lập tức nổi bật lên trên mọi lãnh vực của quần chúng là một tâm trạng mới, quan tâm tới việc làm ra tiền. Ðòi hỏi dân chủ và cải cách chính trị bị xuống thấp, đặc biệt trong giới thị dân từng ủng hộ phong trào sinh viên năm 1989; lúc này, họ bận rộn với việc nắm lấy lợi thế trong các cơ hội mà chính sách mới của Ðặng mở ra cho mình.

Ðiều này không gợi cho thấy rằng các điều kiện trở nên thuận lợi khi dân chúng càng ngày càng bị xao lãng bởi viễn kiến làm giàu cho cá nhân. Liền theo sau vụ Thiên An Môn, các cuộc biểu tình chống chính phủ bị nghiêm cấm, công an có mặt khắp nơi, và khắp nơi tràn ngập sự sợ hãi bị đàn áp. Sinh viên bị bắt học các bài tập quân sự dưới sự giám sát của quân đội, và hầu hết thủ lãnh thấm nhuần tinh thần Bát Cửu (1989) đều phải lưu vong, ẩn trốn hoặc đi tù. Bất cứ hành động thúc đẩy dân chủ hóa nào dựa trên sự ủng hộ của giới ưu tú đều bị kết tội, bởi sau ngày 4 tháng Sáu năm 1989, các lãnh tụ Đảng từng che chở và nuôi dưỡng phong trào đó đều bị thanh trừng khỏi các vị trí quyền lực.

Do đó, hầu như không có không gian cho việc phô diễn sự bất đồng ý kiến. Tuy thế, một số nhà hoạt động, đặc biệt những người bị bắt giam trong cuộc đàn áp sau-Thiên An Môn không chịu buông bỏ cuộc đấu tranh cho dân chủ. Một khi được thả ra, họ thấy mình bị tống xuất khỏi đơn vị công tác liên hệ (thường là trường đại học hoặc viện nghiên cứu), bị công an cấm không cho mở cơ sở kinh doanh tư, chịu sự giám sát nghêm ngặt và bị cô lập khỏi phần còn lại của xã hội. Tình cảnh của họ có nét phảng phất với và làm ta nhớ lại những gì người bất đồng ý kiến ở Tiệp Khắc phải đối mặt sau khi chiến xa Sô-viết nghiền nát Mùa Xuân Prague vào năm 1968. Phản ứng của họ cũng thế. Giống với những tiền bối tinh thần Trung Âu của mình, nhiều người TQ bất đồng ý kiến kiên quyết “sống trong chân lý” bằng cách nói lên những ngược đãi của ÐCSTQ trong bất cứ cơ hội nào có được. Họ công bố các bài bình luận chính trị của mình tại Hong Kong hay trên truyền thông quốc tế, và về sau trên internet. Ho nỗ lực thiết lập các mạng lưới thông tin và phản đối trong truyền thông nước ngoài (truyền thông độc nhất mở cửa cho họ) mỗi khi có người trong bọn họ bị công an quấy nhiễu hay bắt giam.

Những người bất đồng ý kiến năng động nhất thường là các lãnh tụ sinh viên, thí dụ Vương Ðan, hoặc nhà trí thức, thí dụ Bao Tuân Tín (Bao Zunxin) và Lưu Hiểu Ba, người đã bỏ lại đằng sau sự nghiệp giảng dạy tại Hoa Kỳ để về tham gia phong trào dân chủ tại quê nhà và rồi chịu một thời gian ở tù sau cuộc tàn sát Thiên An Môn. Ông và những người như ông không chịu thỏa hiệp với chính quyền, và hành động như là lương tâm của xã hội bằng cách tái khẳng định các nguyên tắc từng có thời nằm tại tâm điểm của phong trào dân chủ. Họ thiết lập các quan hệ tốt với những nhà trí thức không bị tác động và các cán bộ cũ của Đảng xuất thân từ các mạng lưới của Hồ Diệu Bang và Triệu Tử Dương, những kẻ trở thành thù nghịch sâu xa với giới lãnh đạo của ÐCSTQ sau cuộc tàn sát Thiên An Môn.[10]

Suốt hai thập niên vừa qua, họ viết hàng tá thư tập thể tố cáo hành vi đàn áp các nhà hoạt động cho nhân quyền, bênh vực công nhân nạn nhân của chính sách hà khắc, đòi hỏi đảo ngược lời kết án chính thức biến cố 4 tháng Sáu, và chỉ trích những tấn công vào các dân tộc thiểu số, đặc biệt người Tây Tạng. Việc kiểm soát chặt chẽ báo chí thông thường có nghĩa là những tiếng gào thét phản đối ấy không được nghe rộng rãi bên trong TQ, dù internet góp phần tiếp tay cho các nhà bất đồng ý kiến “thế hệ 89” với tới các nhóm đấu tranh trẻ tuổi hơn, kể từ sau 1989, đang tham gia vào hàng ngũ bất đồng ý kiến mang tính dân chủ.

Trên cấp độ mặt đối mặt, các nhà hoạt động lớn tuổi hơn, có gốc rễ trong phong trào dân chủ 1989, có khả năng tụ họp với những người trẻ hơn mình tại nhà riêng hay, kể từ giữa thập niên 1990, tại các quán trà hoặc tiệm sách mà chủ nhân là các cựu chiến hữu từng cùng nhau hoạt động thuộc thế hệ 89. Một trong các địa điểm đó là nhà sách Vạn Thịnh (Wansheng) ở Bắc Kinh, thành lập bởi Gan Qi và Lưu Tô Lí (Liu Suli), người từng trải qua một năm trong nhà tù sau cuộc tàn sát Thiên An Môn. Nhà sách Tam Vị (Sanwei) cũng thế. Cả hai tiếp tục tổ chức hội luận về những sự vụ đang diễn ra và về các chủ đề triết học, luật pháp (những nhà bất đồng ý kiến nổi tiếng không được mời). Dĩ nhiên công an bám sát các địa điểm ấy và được biết là họ thường cấm các hội luận ở Tam Vị. Tuy thế, những cuộc tụ họp cá nhân tiếp tục đóng vai trò quan trọng trong diễn tiến cấu thành một phía đối kháng có thể có.

Phê bình hệ thống cùng quan chức chóp bu

Trong số các nhóm nhỏ thiểu số sinh viên và chuyên gia trí thức tiếp tục phê phán chế độ theo quan điểm dân chủ, có thể phân ra vài nhóm nhỏ nữa.

Nhóm nhỏ đầu tiên gồm các giáo sư và nhà nghiên cứu công khai nói lên những hoài nghi của mình về một số sinh hoạt chính trị. Tiêu Quốc Tiêu (Jiao Guobiao), giáo sư Ðại học Bắc Kinh công bố một bài báo tố cáo Ban Tuyên huấn Trung ương (Central Propaganda Department). Hậu quả là ông bị cấm dạy và không được giám thị sinh viên làm luận án tiến sĩ. Về sau, ông được phép ra nước ngoài, và khi về nước, ông lại đi sát hơn với cộng đồng bất đồng ý kiến.

Trường hợp của Lí Đại Đồng (Li Datong) cũng rất đáng quan tâm. Là nhà báo kỳ cựu, ông làm Tổng Biên tập tờ Băng Ðiểm (Bingdian), một phụ trang của Trung Quốc Thanh niên Báo, và bị bãi nhiệm vì cho in một bài báo về Loạn Quyền phỉ, khác với quan điểm chính thức. Việc sa thải ông kích động một cuộc náo nhiệt vì đây là lần đầu tiên kể từ năm 1949, các nhà báo (trong trường hợp này có 100 người) công khai kiến nghị nhà cầm quyền đảo ngược quyết định chính thức đó [11]. Họ Lí được giữ lại nhưng với một công việc thấp hơn, và cấm xuất bản Trung Quốc Thanh niên Báo. Hiện ông vẫn cho các bài báo của mình lên internet và các tạp chí ở Hong Kong; ông càng ngày càng gần gũi hơn những người bất đồng ý kiến và ký thư thỉnh nguyện của họ.

Khi xảy ra phong trào dân chủ 1989, một số người TQ còn quá trẻ, không thể tham gia; tuy thế họ cảm khái trước lòng dũng cảm của các bậc đàn anh và giờ đây, họ chứng tỏ mình không sợ hãi việc phê bình các khuyết điểm của chế độ. Ðối với ÐCSTQ, việc nắm chặt truyền thông cùng giảng dạy và nghiên cứu là một công tác hàng đầu. Dư Kiệt (Yu Jie), nghiên cứu sinh tiến sĩ văn chương tại Ðại học Bắc Kinh khi ông bắt đầu viết các tiểu luận phúng dụ xỏ xiên những nét đặc biệt tràn lan sau biến cố 4 tháng Sáu năm 1989. Sau khi tốt nghiệp, ông bị Hội Nhà văn Trung Quốc lấy lại việc làm đã hứa, và như thế, Dư trở thành một nhà trí thức độc lập và là người bất đồng ý kiến nổi bật.

Mạng lưới internet trãi rộng tạo thuận lợi cho sự xuất hiện một thế hệ mới của những người đối kháng trẻ tuổi. Hầu hết đều bắt đầu với những lời mỉa mai châm chọc trực tuyến. Ðó là cách mà Lưu Địch (Liu Di), người dùng bút hiệu Stainless Steel Rat (Chuột I-nốc) trở nên nổi tiếng. Nhà cầm quyền không tán thưởng óc khôi hài của cô và cô bị bỏ tù mà không đưa ta tòa xét xử. Những người bất đồng ý kiến phát động thỉnh nguyện thư, và cô được thả sau gần một năm ở tù[12]. Sau khi được phóng thích, cô cũng không tìm ra việc làm và ngày càng thân cận hơn với cộng đồng bất đồng ý kiến.

Hành động theo bài học rút tỉa được từ biến cố 4 tháng Sáu, chính quyền các cấp đẩy những nhà hoạt động ấy ra ngoài hệ thống bằng cách từ khước họ, không cho họ có cơ hội tìm được hay tiếp tục giữ được việc làm trong các đơn vị do nhà nước làm chủ, các cơ sở truyền thông hay các trường đại học. Như thế, mỉa mai thay, chính Đảng đã chỉ định thành viên của phía đối kháng. Từ giữa thập niên 1990 trở đi, một số nhà trí thức có thể công khai phê bình những thực hành của chế độ mà không mất việc làm, trong chừng mực họ đừng nêu ý kiến trực tiếp về các vấn đề cấm kỵ, thí dụ cuộc tàn sát Thiên An Môn. Thậm chí các nhà trí thức phê phán ấy khi ở bên trong những ràng buộc đã định, còn có thể hỗ trợ phong trào bất đồng ý kiến.

Sau biến cố ngày 4 tháng Sáu, trong số các chuyển dịch về phía đối kháng còn có những người bị mất thân nhân trong vụ đàn áp đó. Khởi hứng bởi các nhóm thí dụ như Madres de Plaza de Mayo (một nhóm bà mẹ của những “kẻ biến mất” tại Argentina), có một nhóm gồm thành viên gia đình của những nạn nhân, được thành lập bởi các bà mẹ có con chịu nạn trong biến cố ấy – Thiên An Môn Mẫu thân – dưới sự lãnh đạo của Đinh Tử Lâm (Ding Zilin), một giáo sư tại Ðại học Nhân dân; bà có đứa con trai 17 tuổi bị mất mạng trong ngày 4 tháng Sáu vì bạo lực của chính quyền. Các Mẫu thân thúc giục thân nhân những kẻ đã chết yêu cầu chính phủ phải công nhận trách nhiệm về cuộc tàn sát ấy. Sau ngày 4 tháng Sáu, ÐCSTQ tiếp tục sử dụng áp lực để tiếp tục bịt miệng bằng cách gợi ý rằng thân nhân của những kẻ phản đối trong vụ Thiên An Môn thậm chí có thể bị xem là kẻ đồng lõa với “những tên phiến loạn”.

Hằng năm, vào ngày 4 tháng Sáu, Thiên An Môn Mẫu thân nhắc nhở các cấp chính quyền rằng họ có bổn phận chấp nhận trách nhiệm và phải bồi thường. Bằng mọi phương tiện hòa bình, các Mẫu thân cố gắng làm sao dứt bỏ chiếc áo choàng im lặng mà chính quyền đang dùng để liệm một biến cố mà đối với họ, nó mang ý nghĩa tan tác cuộc đời. Hết năm này sang năm khác, những công dân bình thường từng một thời im lặng về mặt chính trị ấy càng ngày càng xác tín rằng họ sẽ chỉ cảm thấy lòng mình mãn nguyện một khi chế độ này cải cách và bảo đảm các quyền công dân. Giờ đây, họ thường liên kết với những người bất đồng ý kiến khác trong việc ký thư thỉnh nguyện đòi hỏi tôn trọng quyền con người.

Năm 1998, các Mẫu thân viết hai lá thư. Một tố cáo những xâm phạm nhân quyền, và một lên án tham nhũng đi kèm với những thay đổi kinh tế trong thập niên đó. Sự dũng cảm mà các Mẫu thân chứng tỏ khi đối mặt với những quấy nhiễu của công an thật đáng chú ý, và phải tính tới họ như một trong những luồng chính của phía đối kháng.

Chúng ta đang ứng xử với một phong trào lỏng lẻo, phi cơ cấu, thiếu sách lược và không có chương trình thống nhất, vì thế không nên để thực tại ấy bị lu mờ do những thuật ngữ vắn tắt được dùng cho tiện việc diễn tả, thí dụ “cộng đồng bất đồng ý kiến” hay “phía đối kháng”. Kể từ cuộc tàn sát Thiên An Môn và sự đàn áp tiếp theo đó, ÐCSTQ thận trọng ngăn ngừa sự xuất hiện của bất cứ cái gì giống như một tổ chức chính trị thế này thế nọ.

Trong bối cảnh đó, những người có thể được gọi một cách đúng đắn là người đối kháng cho thấy các khác biệt rộng rãi khi đưa đến những trải nghiệm, quan điểm chính trị và vân vân của cá nhân mỗi người. Tuy thế, điều ấy không có nghĩa họ không thể đoàn kết, như họ đã làm gần đây nhất vào ngày 8 tháng Mười Hai năm 2008, khi 303 người cùng ký tên phát động một hiến chương 19 điểm, được biết tới với tên gọi “Linh bát Hiến chương”.[13] Bản hiến chương ấy được công bố (qua internet) đúng thời điểm trùng với kỷ niệm năm thứ sáu mươi ngày ban hành bản Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền.

“Linh bát Hiến chương” gồm ba phần. Phần thứ nhất mô tả sự thất bại khi đưa thể chế dân chủ vào Trung Quốc kể từ nỗ lực đầu tiên với chế độ quân chủ lập hiến vào năm 1898. Phần thứ nhì trình bày chính thức thỏa thuận của những người cùng ký tên, đặt cơ sở trên các nguyên tắc của chủ nghĩa tự do – việc phân lập quyền hành; các cuộc bầu cử hợp thức, công bằng và tự do; trách nhiệm của chính quyền; và đại loại như thế. Phần cuối cùng cụ thể hơn, mô tả những bước phải tiến hành nếu TQ sắp sửa trở thành một chế độ dân chủ.

Hết thảy những người ký tên đều kêu gọi chấm dứt hệ thống độc đảng, chấp nhận và áp dụng thể chế cộng hòa liên bang và thành lập một ủy ban hòa giải (theo kiểu mẫu của Ủy ban Hòa giải và Sự thật của nước Nam Phi, South African Truth and Reconciliation Commission), có thẩm quyền đền bù thoả đáng cho thân nhân các nạn nhân của những chiến dịch đàn áp đa dạng mà ÐCSTQ tiến thành kể từ lúc nắm chính quyền năm 1949.

Một số lớn bản thảo được luân lưu trực tuyến trên internet khoảng ba năm trước ngày ký tên và chính thức công bố. Những người cùng ký tên xuất thân từ các tầng lớp xã hội TQ khác nhau và những lãnh vực khác nhau của phía đối kháng. Các nhà trí thức bất đồng ý kiến, thí dụ Lưu Hiểu Ba – (cho tới khi tôi viết bài này, ông vẫn còn là đối tuợng bị giám sát và bị giam giữ) – có thể là những người đề xuất chủ yếu nhưng mọi người từ các giáo sư và nhà nghiên cứu có uy tín tới các nông dân hoạt động đều có tiếng nói trong việc hình thành văn bản sau cùng. Chính sự hiện hữu của “Linh bát Hiến chương” là một dấu hiệu cho thấy rằng, bất chấp những quấy nhiễu của ÐCSTQ, phía đối kháng vẫn có khả năng hình thành và huy động các mạng lưới.

Chính quyền các cấp ra sức trấn áp “Linh bát Hiến chương” nhưng tới nay, đã có thêm tám ngàn người (và còn đang đếm nữa) từ mọi tầng lớp xã hội khác nhau thêm tên của mình vào. Dĩ nhiên con số ấy rất nhỏ trong một đất nước có 1.2 tỉ người, nhưng vẫn đúng khi nói rằng kể từ biến cố Thiên An Môn, chưa có lời kêu gọi nào có tính hệ thống và tính nguyên tắc, đòi hỏi một sự chuyển thể sâu xa chế độ mà đạt được sự ủng hộ công khai của công chúng như thế.

Phong trào bảo vệ quyền dân sự

Năm 2004, khi ÐCSTQ quyết định thêm tu chính án về quyền con người vào bản hiến pháp TQ, nhiều luật sư, luật gia và công dân tin rằng có thể sử dụng điều khoản mới ấy để bảo vệ quyền của người dân thường và rằng họ có bổn phận tham dự cuộc tranh đấu ấy. Với sự tiếp tay của các nhà báo cùng các nhà hoạt động trực tuyến và mạng lưới tuy không chính thức nhưng rộng rãi của các luật sư và các luật gia, nhiều nạn nhân của các viên chức hà lạm bắt đầu trích dẫn các quyền của mình theo hiến pháp. Nhờ vào internet và các kiểu mẫu truyền thông mới, những người bị rơi vào tình trạng làm nạn nhân của những viên chức ác ôn trong chính quyền có thể huy động cái-gọi-là phong trào bảo vệ quyền dân sự. Khí cụ của họ gồm có biểu tình, đơn thỉnh nguyện, thư tập thể, khiếu kiện vì quyền lợi tập thể nhân danh những người thụ hưởng hoặc nhân danh cá nhân.

Mạng lưới luật pháp về quyền dân sự vượt qua lằn ranh giai cấp từng phân chia nhà trí thức với nông dân. Và như thế, nó khác với các tổ chức do giới trí thức lập ra trong thập niên 1980[14]. Thuở đó, hầu hết các phê phán ÐCSTQ đều có xuất xứ từ sinh viên cùng những lớp người có học khác, và đặt trọng tâm vào việc yêu cầu cải tổ hệ thống chính trị. Ngày nay ngược lại, phong trào bảo vệ quyền dân sự bắt nguồn từ những công dân bình thường; họ không đặt vấn đề địa vị của ÐCSTQ hoặc bản chất của chế độ và họ ra sức giải quyết những vấn đề cụ thể bằng cách thao tác với hệ thống chính trị đó.

Những người hoạt-động-công-dân đó (citizen-activist) và các nhà báo cùng luật sư giúp đỡ họ, đều không đang đòi “dân chủ và tự do”; nói chung, họ cũng không tố cáo tham nhũng. Thay vào đó, họ viện dẫn các luật lệ rõ rệt và hiện hành để điều chỉnh, đền bù cho các khiếu nại rõ rệt của họ. Thái độ mới mẻ ấy chắc chắn là kết quả của sự đàn áp phong trào dân chủ năm 1989.

Tuy thế, không nên đề cập quá đáng tới sự gián đọan ấy. Tuy nhiều người hoạt động cho quyền dân sự hôm nay còn nhỏ tuổi vào năm 1989 nhưng họ biết điều sinh viên đã làm năm đó. Họ có ấn tượng sâu sắc về nó, và trong chỗ riêng tư, họ sẵn sàng thừa nhận món nợ của mình đối với thế hệ Thiên An Môn, ngay cả khi họ giải thích mình khác với thuở đó như thế nào. Hứa Chí Vĩnh (Xu Zhiyong) tóm tắt theo cách này:
 

“Tôi kính trọng những ai trong quá khứ từng nêu lên các vấn đề nhân quyền, nhưng hiện nay chúng tôi hy vọng làm việc theo một phương cách mang tính xây dựng bên trong không gian được hệ thống pháp luật ban cho. Thay đổi cụ thể nhưng tiệm tiến – Tôi nghĩ rằng đó là cái hầu hết nhân dân TQ muốn.”[15]

Dường như không phải hết thảy các quan chức đều có ấn tượng về sự nhấn mạnh tính hợp pháp ấy. Năm 2007, thành viên Bộ Chính trị ÐCSTQ và đứng đầu các sự vụ an ninh La Cán tuyên bố rằng phong trào quyền dân sự nhận yểm trợ của phương Tây, và là “những lực lượng ngụy trang để lật đổ sự cai trị của Ðảng.”[16]

Một năm trước đó, cơ quan lập pháp đã thông qua các hạn chế mới về tính chất độc lập của luật sư và thẩm quyền hành động của họ khi nhân danh nạn nhân bị hà lạm. Kể từ lúc đó, luật sư phải xin gia hạn giấy phép hành nghề từng năm một, và thật dễ dàng khi muốn loại các luật gia về quyền dân sự ra khỏi công việc của họ, tuy hiện nay chưa chắc họ tiêu biểu cho con số 1% những người trong nghề.

Ðiều như thế đã xảy tới cho Gao Zishen vào tháng Mười Hai năm 2005, cho Li Jianqiang tại Thượng Hải vào tháng Bảy năm 2007, và cho các luật sư khác ở Sơn Tây.[17] Tuy thế, phong trào bảo vệ quyền dân sự vẫn tiếp tục trong khi công dân càng ngày càng nhận thức hơn về các quyền của mình.

Hai mươi năm sau cuộc tàn sát Thiên An Môn ngày 4 tháng Sáu năm 1989, dường như ÐCSTQ đang củng cố tính chính thống của nó. Nó không theo các chế độ cộng sản trong khối Sô-viết đi vào quên lãng. Các chính sách của nó về sự kết nạp giới ưu tú vào Đảng, về sự đáp ứng mờ ảo các mâu thuẫn xã hội và về sự hỗ trợ mang tính công cụ của “cai trị bằng luật pháp”, trở thành các phần bổ sung trọng yếu cho việc nó tiếp tục kiểm soát báo chí và hệ thống chính trị. Nó tạo ra nhượng bộ nhằm ngăn không để cho những bất mãn cô kết thành các phong trào xã hội có khả năng thách thức sự cai trị của nó, và nó sai công an tới để làm im lặng những người bất đồng ý kiến.

Trong dòng chảy của hai thập niên như một ấy, phía đề kháng vật lộn với những chấn thương của cuộc tàn sát Thiên An Môn 4 tháng Sáu và những khó khăn lớn lao phát sinh cho bất cứ kẻ nào thách đố địa vị độc tôn của ÐCSTQ. Sự bền gan của các nhóm nhỏ những người bất đồng ý kiến, được nuôi dưỡng bởi những chiến sĩ trẻ hơn, tuy ít ỏi về số lượng nhưng vững chắc, cho thấy rằng phía đối kháng tiêu biểu cho một sức mạnh và một chuỗi các ý tưởng đáng để ý.

Tuy phía đối kháng lúc này không vươn ra cũng gần như không thể huy động các công dân bất mãn và tổ chức biểu tình giống như thuở 1989. Thay vào đó, những người đối kháng hành động như là lương tâm của xã hội, những tiếng nói bênh vực cho các nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa nhân bản trong một xã hội bị ám ảnh bởi chủ nghĩa duy vật.

Sự xuất hiện bất chấp mọi trở ngại của phong trào bảo vệ quyền dân sự cho thấy rằng người công dân bình thường ngày càng nhận thức các quyền của mình và sẵn sàng liều để bảo vệ nó. Trung Quốc rõ ràng là một chế độ hậu độc tài đảng trị, bị cai trị bởi một đảng tàn nhẫn. Nhưng đang có các dấu hiệu gợi cho thấy rằng sự nắm chặt của Đảng không vô cùng kiên cố như nó có vẻ như thế.

Nguồn: Dịch toàn văn của bài “The Massacre’s Long Shadow” (Chiếc bóng dài của cuộc tàn sát ấy) của Jean-Philippe Béja, đăng trong Journal of Democracy, số tháng Bảy 2009, Volume 20, Number 3, Nxb The Johns Hopkins University Press, Journals Division, Washingon DC, Hoa Kỳ, tt.5-136.
Bản tiếng Việt © 2009 Nguyễn Ước
 

[1] Luo Bing. “Min’gan nian tishen jiebei bage yue” (Cảnh giác cao độ trong suốt tám tháng của một năm nhạy cảm). Zhenming. Tháng Tư 2009. 6-7
[2] Deng Xiaoping, “Address to Officers at the Rank of General and Above in Command of the Troops Enforcing Martial Laws in Beijing, June 9, 1989”. Có ở: http:// web.peopledaily.com.en/english/dengxp/vol3/text/c1990.html
[3] Xem “Overtly Oppose the Turmoil” (Qizhi xianmingde fandui dongluan) Nhân dân Nhật báo (Bắc Kinh) 26 tháng Tư 1989.
[4] Xem Zhao Ziyang, Prisoner of the State: The Secret Journal of Zhao Ziyang, dịich và biên tập bởi Bao Pu, Renée Chiang, và Adi Ignatius (New York: Simon and Schuster, 2009), 29.
[5] Suisheng Zhao, “Deng Xiaoping’s Southern Tour: Elite Politics in Post-Tianmen China.” Asian Survey 33 (Tháng Tám 1993): 739-56.
[6] Liu Xiaobo “Zhu de zhexue” (The philosophy of the pig) Dongxiang, tháng Chín 2000, 29-36.
[7] Philip P. Pan, “A Study Group Is Crushed in China’s Grip” Washington Post, 23, tháng Tư 2004; có ở www.washingtonpost.com/wp-dyn/content/article/2004/04/23/AR2005040206572.html.
[8] Philip P. Pan, “Three Chinese Workers: Jail, Batrayal and Fear; Government Stifles Labor Movement,” Washington Post, 28 tháng Mười Hai 2002.
[9] Jean-Philip Béja, “The Fly in Ointment? Chinese Dissent and U.S.-Chinese Relations,” Pacific Review 18 (6 tháng Chín 2003): 439-53.
[10] Các cán bộ này bày tỏ sự phê bình của họ hoặc qua những lá thư gởi các lãnh tụ chóp bu được phổ biến công khai tại Hongkong, hoặc trong hai tờ tạp chí mà họ cho phép xuất bản, trong đó có ảnh hưởng nhất là tờ Yanhuang Chunqiu.
[11] Joseph Kahn, “Ex-Officials Protest Censorship by China,” International Herald Tribune, 15-2-2006.
[12] Chan Siu Sin, “Prison-Style Protest Aims to Free Student: Liu Di Has Spent 11 Months in Custody for Her Net Pro-Democracy Messages,” South China Morning Post (Hong Kong), 3 October 2003.
[13] Perry Link, dịch, “China’s Charter ‘08”, New York Review of Books, 15 tháng Giêng 2009, có ở www.nybooks.com/articles/22210. Cũng xem Journal of Democracy 20 (Tháng tư 2009): 179-82.
[14] Về các tổ chức này, xem Jean-Philippe Béja, A la recherche of une ombre chinoise: Le mouvement pour la démocratie en Chine, 1919-2004, Paris: Edition du Seuil, 2004.
[15] Trích trong Erik Eckholm, “Petitioners Urge China to Enforce Legal Rights,” New York Times, 2 tháng Sáu 2003, có ở www.nytimes.com/2003/06/02/international/asia/02CHIN.html.
[16] “Chinese Official Urges Local Handling of Unrest,” International Herald Tribune, 8 tháng Giêng 2007.
[17] Về bản tường trình các sự cố này, xem ở http://crd-net.org/Artcle/Class9/Class10/Index.html.

(Xem tiếp phần III)

 


Nếu độc giả, đồng hương, thân hữu muốn: 

* Liên-lạc với Ban Điều Hành hay webmaster 
* Gởi các sáng tác, tài liệu, hình-ảnh... để đăng 
* Cần bản copy tài liệu, hình, bài...trên trang web:

Xin gởi email về: quangngai@nuiansongtra.net 
hay: nuiansongtra1941@gmail.com

*  *  *

Copyright by authors & Website Nui An Song Tra - 2006


Created by Hiep Nguyen
log in | ghi danh