Mở speakers ON, click vào mũi tên màu trắng để nghe âm-thanh.
Muốn OFF, click vào ô vuông (góc trái dưới cùng, cạnh hình tam giác).
LÁ DIÊU BÔNG
Sáng tác: Trần Tiến
Ca sĩ: Như Quỳnh & Mạnh Đình
* * *
BÍ ẨN VỀ HAI MỐI “TÌNH CHỊ” TRONG BÀI THƠ “LÁ DIÊU BÔNG”
CỦA THI SĨ HOÀNG CẦM
Nguyễn Thế Đại
I. VÀI NÉT VỀ HUYỀN THOẠI LÁ DIÊU BÔNG
“Lá Diêu Bông” là lá trong trí tưởng tượng của nhà thơ Hoàng Cầm, không có thực trong loài thảo mộc ở ngoài đời. Có thể đây là tên ẩn dụ của một loại lá mà tác giả đã đặt, để bày tỏ một mối tình hết sức u uẩn, bi thương và vô vọng, một huyền thoại về chiếc lá biểu tượng cho một tình yêu chất ngất, rướm máu, nóng bỏng, đam mê và lãng mạn mà một cậu bé mới lên 8 đã cảm nhận được, thần tượng và theo đuổi như bóng với hình một cô gái lớn hơn mình những 8 tuổi trong suốt 4 năm dài, cho đến khi Chị đi lấy chồng!
“Váy Đình Bảng buông chùng cửa võng”
Câu thơ mở đầu ghi trên của bài Lá Diêu Bông đã để lộ tác giả có ý muốn giới thiệu với người đọc về cách trang phục và nét diễm kiều của cô gái quê đất Kinh Bắc xinh đẹp và đa tình, một miền quê nổi tiếng với dân ca Quan Họ trữ tinh:
Gió dục cái đêm đông trường
Nửa chăn, nửa chiếu, nửa giường để chờ ai?
Hình ảnh và bóng dáng của cô gái ấy là chị Vinh, hiện ra trước mắt cậu bé tên Việt như một thiên thần rực rỡ, khiến con tim của cậu đã phải choáng váng và đê mê vì yêu đương! Và từ sau lúc tiếng sét ái tình đã nổ, cậu Việt yêu say đắm Chị Vinh không lúc nào nguôi nguây, đến quên cả học hành, sách vở, suốt ngày chỉ chong ngóng nhìn sang nhà Chị, nằm xế bên kia đường cách nhà bố mẹ của cậu độ 20 mét.
Bốn năm sau (1934), một buổi chiều Đông, gió heo may lạnh, chị ra cánh đồng sau nhà, đi tìm..., tìm cái lá... (không rõ là lá gì!). Cậu bé có đi theo, cậu hỏi chị tìm cái gì thì chị bảo:
-“Đứa nào tìm được cái lá... ấy, thì ta gọi là chồng!”.
Hai mươi lăm năm sau, câu chuyện đi tìm lá... của Chị Vinh mới hiện lại trong tim não, đúng hơn trong vô thức của nhà thơ Hoàng Cầm. Chúng ta hãy nghe nhà thơ Hoàng Cầm giải thích:
-“Khoảng 3 giờ sáng một đêm Đông năm 1959, trên giường ngủ, trong ánh sáng lờ mờ của ngọn đèn ngủ 6 watts, bên cạnh người vợ đang ngủ ngon và các con những giường bên cũng đang ngủ say, tôi không gây một tiếng động khả dĩ làm mất giấc ngủ của những người thân. Chợt bên tai vẳng lên một giọng nữ rất nhỏ nhẹ mà rành rọt, đọc chậm rãi, có tiết điệu, nghe như thời nào xa xưa vẳng đến, có lẽ từ tiền kiếp vọng về: “Váy Đình Bảng buông chùng cửa võng”.
Tôi xoay người trong chăn về phía trái và ghi ngay, ghi lia lịa trong bóng tối mờ. Đến lúc giọng nữ im hẵn, lòng tôi nhẹ bổng lên, một lát sau tôi ngủ thiếp đi. Sớm hôm sau, nhìn lại thì có chỗ rõ đọc được, nhiều chỗ dòng nọ đè lên dòng kia, chữ nọ xóa mất chữ khác. Phải mất gần nửa tiếng đồng hồ tôi mới tách được ra theo thứ tự đúng như lời người nữ kỳ diệu nào đó đã đọc cho tôi viết nửa đêm hôm qua. Cái lá Diêu Bông là cái lá gì, ở đâu, nào tôi có biết, thần linh đọc Diêu Bông thì tôi chép Diêu Bông, thế thôi!”.
Bài thơ Lá Diêu Bông ra đời như vậy đó! Nói có người không tin, nhưng tôi thiết nghĩ bây giờ khoa Tâm thần học, Vô thức luận hay Tâm linh học rất có thể lý giải được hiện tượng đó một cách rất khoa học”.
II. BÀI THƠ LÁ DIÊU BÔNG.
“Váy Đình Bảng buông chùng cửa võng
Chị thẩn thờ đi tìm
Đồng chiều,
Cuống rạ.
Chị bảo:
Đứa nào tìm được Lá Diêu Bông
Từ nay ta gọi là chồng.
Hai ngày em tìm thấy lá
Chị chau mày: đâu phải lá Diêu Bông.
Mùa Đông sau em tìm thấy lá
Chị lắc đầu,
Trông nắng vãng bên sông.
Ngày cưới Chị
Em tìm thấy lá
Xòe tay phủ mặt Chị không nhìn.
Từ thuở ấy
Em cầm chiếc lá
Đi đầu non cuối bể.
Gió quê vi vút gọi:
Diêu bông hời... ới Diêu Bông!“
III. TIỂU SỬ CỦA THI SĨ HOÀNG CẦM
Hoàng Cầm tên thật là Bùi Tằng Việt, sinh ngày 12 tháng Giêng năm Nhâm Tuất (22-2-1922) tại xã Phúc Tằng, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang, nhưng gốc quê là ở xã Song Hồ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh (tên cũ là Kinh Bắc). Tên ông có lẽ được đặt ghép từ 2 địa danh quê hương là Phúc Tằng và Việt Yên. Hoàng Cầm học Trung học ở Bắc Ninh và năm 1938 ra Hà Nội học tại trường Thăng Long để đậu Tú tài toàn phần vào năm 1940.
Chân dung Hoàng Cầm
Ngay từ khi còn học Đệ Tứ, ông đã dịch cuốn “Graziella” của Lamartine sang tiếng Việt, lấy nhan đề là “Hận ngày xanh”. Ông cũng dịch cuốn “Một nghìn một đêm lẻ”, đăng trong tạp chí Tân Dân của Vũ Đình Long. Kể từ khi viết văn, dịch sách, cộng tác với Tân Dân, ông lấy bút hiệu là Hoàng Cầm, tên của một vị thuốc đắng trong thuốc Bắc. Thân sinh của Hoàng Cầm là một nhà nho, thi không đỗ, về nhà dạy chữ Hán và mở tiệm thuốc bắc.
- Năm 1944, do Thế chiến thứ II nổ ra quyết liệt, ông đưa gia đình về lại quê ở Thuận Thành. Tại đây, ông tham gia hoạt động Thanh niên cứu quốc của Việt Minh. Cách mạng Tháng Tám nổ ra, ông về Hà Nội, thành lập đoàn kịch Đông Phương. Khi chiến tranh Đông Dương bùng nổ, ông theo đoàn kịch rút khỏi Hà Nội, biểu diễn lưu động tại các vùng Bắc Ninh, Bắc Giang, Sơn Tây, Thái Bình một thời gian, rồi giải thể. Diễn viên Tuyết Khanh đóng vai Kiều Loan trong vỡ kịch thơ Kiều Loan của ông đã trở thành người vợ đầu tiên của ông, sau một cuộc tình thơ mộng và cho ra đời một tác phẩm Kiều Loan bằng xương bằng thịt.
- Tháng 8-1947, ông tham gia Vệ quốc đoàn ở Chiến khu 12. Cuối năm đó, ông thành lập đội Tuyên truyền văn nghệ (Văn công quân đội) đầu tiên. Năm 1951, ông được kết nạp vào đảng Cọng sản. Chịu ảnh hưởng của tư tưởng Mác-xít về nghệ thuật, ông từ bỏ lối viết kịch thơ. Năm 1952, ông được cử làm Trưởng đoàn Văn công Tổng Cục Chính trị, để phục vụ các chiến dịch. Trong thời gian này, ông nổi tiếng với các bài thơ “Đêm Liên hoan”, “Bên kia sông Đuống”, “Cót thóc”, “Con Đường”, “Về Kinh Bắc”, “Mưa Thuận Thành” ...!
- Tháng 10-1954, đoàn Văn công về Hà Nội. Đầu năm 1955, do đoàn Văn công mở rộng thêm nhiều bộ môn, Hoàng Cầm được giao nhiệm vụ làm Trưởng đoàn Kịch nói.
- Sau 1954, Tuyết Khanh và Kiều Loan di cư vào Nam. Người bạn đời thứ hai của ông là Lê Hoàng Yến được kết hợp sau đó vài năm.
- Cuối năm 1955, ông về công tác ở Hội Nhà Văn Việt Nam và được bầu vào Ban Chấp hành, bởi lẽ ông đã quyết tâm “lột xác” để theo kịp đà tiến của chủ nghĩa xã hội hiện thực trong Văn chương!
- Nhưng từ năm 1953, sau khi ông được đi “tham quan” Cải cách ruộng đất, ông nhận chân được thực chất của chế độ Cọng sản. Từ ngày ấy trở đi, Hoàng Cầm quay trở về với con người cũ và thực của mình để rồi ông trở lại viết kịch và thơ như ngày xưa.
- Năm 1956, Hoàng Cầm hoạt động tích cực trong nhóm Nhân văn Giai phẩm và được anh em gọi đùa là “con ngựa chiến”. Ông đã viết nhiều bài trong Nhân Văn, để bút chiến với phe theo Đảng. Ngoài ra, Ông có viết 2 bài: thơ và kịch thơ rất đặc sắc. Đó là bài thơ “Em bé lên sáu tuổi”, đăng trong Giai phẩm mùa Thu, để tố cáo việc đảng Cọng sản bao vây những gia đình địa chủ, khiến cho con cái của họ phải chết hết. Bài hai là vở kịch thơ “Tiếng Hát”, trong đó ông dùng lời của Trương Chi để kêu gọi nhân dân hãy nổi dậy đấu tranh chống Đảng.
Người bạn đời thứ hai của ông là Lê Hoàng Yến được kết hợp vài năm sau khi thụ án vụ Nhân Văn Giai Phẩm. Hai người mở quán nước ở số nhà 43 Lý Quốc Sư, Hà Nội để độ nhật qua ngày.
Chân dung nhà thơ Hoàng Cầm
Trường hợp của Hoàng Cầm, chứng tỏ rằng ông là một người có tâm hồn nghệ sĩ, thành thật yêu tự do, không thể nào hòa mình với chế độ Cọng sản được.
Những bút danh của tác giả: Hoàng Cầm, Bằng Việt, Lê Thái, Lê Kỳ Anh, Bằng Phi
IV. SỰ TÍCH BÀI THƠ LÁ DIÊU BÔNG (DỰA LỜI TỰ THUẬT CỦA TÁC GIẢ)
Cái điều ly kỳ và bí ẩn nhất về bài thơ LÁ DIÊU BÔNG là không phải chỉ có duy nhất một người “Tình Chị” là cô Vinh của:
“... Đứa nào tìm được lá Diêu Bông
Từ nay ta gọi làm chồng...“
mà lại có thêm một người “Tình Chị” thứ hai nữa, đó là cô Nghĩa!
Trên thi đàn Việt-Nam, hầu như ai cũng biết rõ về cô Vinh, chỉ là một người “Tình Chị” thôi, vì có rất ít người biết thêm về cô Nghĩa, người “Tình Chị” thứ hai.
1) NGƯỜI “TÌNH CHỊ” THỨ NHẤT.
* Chuyện bắt đầu
Từ năm lên tám tuổi (1930), tác giả trọ học trên thị xã Phủ Lạng Thương của tỉnh Bắc Giang. Chiều thứ Bảy, cậu bé đáp xe lửa chỉ có 10 phút về nhà tại cái phố ga xếp Như Thiết (thực tên là Thiết Sơn), nằm trên quốc lộ số 1, chỉ cách Phủ Lạng Thương có 6 km, và cách Hà Nội đến 44 km. Nhà cậu có tủ thuốc Bắc của ông bố, có đôi bồ hàng xén của bà mẹ.
Một buổi chiều thứ Bảy, lúc khoảng 4 giờ hơn, cậu bé về đến nhà thì thấy có một cô gái đang mua một món hàng gì của mẹ cậu. Vừa trông thấy mặt cô ta, cậu bé choáng người lên như bị sét đánh, đúng vậy, đó là tiếng sét của ái tình! Cô gái đẹp đến mê hồn, khiến cậu bé yêu mê, yêu say! Cậu làm ngay một bài thơ lục bát tỏ tình, viết trên một trang giấy học trò trên có vẽ hoa, bướm, vài ngọn núi, một dòng sông, bằng mực tím, với hàng chữ nắn nót: “Em gửi Chị Vinh của Em“. Thứ Bảy tuần sau đó, về đến nhà, cậu tìm gặp chị để trao thư tận tay chị. Chị không mở ra xem, chỉ mỉm cười ra vẻ bí mật, rồi bỏ thư vào túi, không nói gì.
Từ đấy, cậu bé không chỉ về nhà trong chiều thứ Bảy, mà còn về trong chiều thứ Tư nữa (vì thứ Năm cũng nghỉ học). Do quá mê say chị, nên chị đi đâu, cậu đi theo đó, và cũng chỉ biết gọi chị ơi chị hỡi... mà thôi, chứ biết nói gì hơn!
Cha chị, một nhà Nho, mất sớm, mẹ chị dẫn hai con: chị và em trai 4 tuổi lên cái phố xếp này, mở sạp hàng bán kẹo, bánh, nước chè tươi, nước vối, cả bánh đa, bánh đúc và bánh khoai nữa. Chị Vinh có biết võ vẽ chữ Nho, đọc thông Quốc ngữ, quê cũng gốc Tiên Du, nên hát quan họ rất hay làm mê lòng người giống như sắc đẹp của chị vậy! Chị Vinh thừa biết thằng bé con này nó mê đắm mình, nên chị thường hay cho cậu ngồi bên cạnh chị. Nhưng ngược lại, chị cũng hay trêu đùa cậu, khiến cậu nhiều khi cũng phải phát khóc lên.
Lên 12 tuổi (năm 1934), trong những đêm sáng trăng mùa Hè, mùa Thu, chị Vinh thường tập họp trẻ em từ 10 đến 15 tuổi cả trai lẫn gái trên bãi cỏ sau ga, để hát ví, trống quân, hát ống, hát giao duyên, hát vấn đáp. Đặc biệt, với môn hát Quan họ, chị Vinh đáng là bậc thầy. Giọng của chị cao, trong vắt mà ngọt ngào biết bao! Lại thêm đôi mắt đẹp, buồn thăm thẳm với hàng mi cong và dài, đôi má luôn ửng hồng, đôi môi mọng đỏ màu hồng son, hàm răng hạt na đen nhưng nhức, khiến ai nhìn thấy cũng khó tránh khỏi phải xiêu lòng! Những đêm tháng Chín, tháng Mười, trời se lạnh, trên bãi cỏ, dưới gốc cây, đứng sát bên chị, cậu được hơi ấm từ người chị truyền sang, nên cảm thấy hạnh phúc vô cùng! Có những lúc cậu bé được chị ôm lấy vai, cậu vội ngả đầu vào người chị, khiến chị hình như cũng cảm thấy được sự ham muốn của cậu. Có một lần cậu được chị ôm vào lòng, nhưng cậu chưa bao giờ dám chủ động ôm người chị.
* Tâm sự (tự thuật) của tác giả viết tại Hà Nội trong những ngày cuối năm Nhâm Thân, 1992:
-“Trong dịp Noel năm ấy, sau vụ gặt tháng 10, cánh đồng bát ngát chỉ còn trơ gốc rạ. Đang đứng ở sân nhà, trông thấy chị Vinh mặc áo trắng, yếm cánh sen, váy lụa màu kiểu Đình Bảng chùng xuống đến mắt cá chân, chị rời sạp hàng của mình đi ra cánh đồng phía sau nhà. Em vội vã chạy theo, như đã từng chị đi đâu em đi đấy suốt 4 năm qua! Chị tròn 20 thì em cũng đã 12. Em đã chạy theo chị, cách chị chỉ có ba bước, như đã theo chị đi về Kinh Bắc, lúc vào Vườn Ổi, lúc đánh Tam cúc, lúc lên ngọn sông Thương, lên tít ngọn Kỳ Cùng, lúc đếm Sao, đếm Nắng, đếm Giờ, em theo chị qua hội Hè, cho đến mùa rét 1934. Và cái LÁ DIÊU BÔNG cũng bắt nguồn từ buổi chiều năm ấy, trong dịp nghĩ lễ Giáng sinh những bốn năm ngày liền được về nhà. Trời xanh trong màn sương cực mỏng, không một gợn mây. Gió heo may se lạnh! Chị theo bờ ruộng, vạch từng búi cỏ, cắm cúi tìm kiếm. Bỗng chị quay phắt lại, nhìn vào mặt em cất lời mắng nhẹ “Ơ hay! Sao mày cứ theo tao lẳng nhẳng mãi thế này nhỉ?”. Em không trả lời, nhưng người thấy nóng ran lên và cảm thấy sung sướng vô cùng, vì như thế này là chị đã có chú ý tới em rồi. Chị bước lên gò có nhiều bụi cây dại, cuối xuống như tìm tòi một vật gì đó. Em hỏi chị tìm cái gì. Chị đã nhìn thẳng vào mắt em rồi trả lời
-“Chị tìm cái lá...!”.
Em không nhớ hay hoặc không nghe là chị gọi cái lá gì nữa. Rồi chị nói tiếp:
-“Đứa nào tìm được, ta gọi làm chồng...“.
Nghe nói thế, em cảm thấy vô cùng sung sướng vì biết rằng giữa em và chị đã có xuất hiện một tình yêu rất là mãnh liệt!”
* Chị Vinh đi lấy chồng.
Một tuần sau, cậu bé từ tỉnh về, nhìn sang nhà chị thấy cửa đóng im ỉm. Cậu vội hỏi mẹ bên nhà đó đi đâu. Mẹ cậu trả lời giọng như muốn khóc “Nó đi lấy chồng rồi, con ạ!”. Cậu òa lên khóc rồi gục đầu vào lòng mẹ. Cậu cũng không rõ là mẹ cậu có biết mối tình của cậu với chị Vinh không. Về sau mẹ cậu có kể cho cậu biết là có một ông Quản khố xanh đi qua đây, trông thấy chị đã mê nhan sắc của chị. Chị bằng lòng lấy lẻ ông và ông Quản đã đưa cả mấy mẹ con về Phủ Lý quê của ông. Từ đấy, cậu không còn gặp được chị nữa!
* Tâm sự (tự thuật) của tác giả viết ngày 17-9-2004: Tình cờ gặp lại chị Vinh.
-“Nhưng câu chuyện chưa kết thúc ở đây. Năm đó (1940), tôi đã 18 tuổi, vừa thi đỗ Tú tài xong, đang sống ở Hà Nội. Nhân ngày nghỉ, có một người bạn ở Sen Hồ có người anh cưới vợ, đã rủ tôi về nhà chơi, luôn tiện ăn cổ cưới. Cổ bàn xong, chiều hôm đó tôi dạo ra phố Sen Hồ chờ tàu về Bắc Giang. Lúc đó tôi đã viết báo nên cũng có tiền. Tôi mặc bộ complet, thắt cà vạt, đầu đội mũ phớt, ra dáng người dân chốn thị thành.
Đang thả bộ đi dọc phố, chợt nghe có tiếng gọi:
-“Cậu Việt ơi!”.
Nghe giọng quen quen, tôi nhìn sang bên kia đường, thì thấy chị Vinh đang ngồi bên một cái chõng bán nước chè. Tôi bước sang đường, chị Vinh mừng rỡ chạy ra, đặt hai tay lên vai tôi rồi kéo vào nhà nói chuyện. Bà mẹ đã già nhưng còn nhớ tôi, hỏi thăm cha mẹ tôi. Một lát sau bà bảo bà có việc phải đi vào làng, tối có thể không về, cậu cứ ở lại xơi cơm. Cậu em đã lớn cũng theo mẹ đi luôn. Hình như cả hai đều biết giữa tôi và chị Vinh còn có nhiều điều muốn nói với nhau. Chị kéo tôi ngồi xuống chõng, chị ngồi cạnh ôm ngang lưng tôi. Tôi nhẹ nhàng khẽ gỡ tay chị ra. Chị kể cho tôi biết tình cảnh của chị sau khi lấy chồng. Chị lấy ông Quản đã có một mặt con. Mấy mẹ con chị về Phủ Lý cũng vẫn tiếp tục buôn bán làm ăn. Nhưng dần dần, ông Quản ruồng bỏ chị, đi theo người khác. Cuối cùng, ông đã đuổi mấy mẹ con đi. Gia đình chị không muốn trở về chốn cũ, nên đưa nhau về Sen Hồ.
Tôi ái ngại nhìn chị. Lúc này trong tôi không còn cái tình yêu say mê của thời thơ ấu. Tôi chỉ cảm thấy thương cho một con người tiều tụy, nhan sắc đã tàn phai. Bảy tám năm đã trôi qua, nhưng hình ảnh của chị năm tôi lên 10 vẫn còn đọng mãi trong tôi.
Ngày cưới Chị
Em tìm thấy lá
Chị cười xe chỉ ấm trôn kim.
Và cảm giác khi đánh mất chị như vẫn còn đi suốt đời thơ tôi:
Từ thuở ấy
Em cầm chiếc lá
Đi đầu non cuối bể
Gió quê vi vút gọi
Diêu bông hời!...
... ới diêu bông!... “
* Tình cờ gặp lại chị Vinh lần thứ hai.
Đến cuối năm 1954, Hoàng Cầm đang là sĩ quan trong quân đội Bắc Việt, một hôm đạp xe qua phố Lò Đúc, Hà Nội, bỗng thấy người đàn bà khoảng 40, mộc mạc quê mùa đang ngước nhìn ông. Người đó là chị Vinh. Hai người nhận ra nhau. Chị nhìn ông, rồi bối rối, như muốn chạy trốn. Chị kêu lên: ”Ôi chết, tôi phải đi vội!”. Chưa đầy một phút sau, chị đã biến nhanh vào đám đông trên đường phố rồi! Hoàng Cầm đã chết lặng vì xót thương! Người con gái Thuận Thành “long lanh mắt ướt” đâu còn tuổi xuân thì “thơm hơi ấm ổ rơm”, đâu còn lanh lảnh giọng hát Quan họ “rung suốt dây si, nhịp quá mê”. Chị đã chạy trốn quá khứ, chạy trốn kỷ niệm, mặc cho “gió quê vi vút gọi...!”.
2) NGƯỜI “TÌNH CHỊ” THỨ HAI (theo Tự thuật, tâm sự của nhà thơ Hoàng Cầm).
Sau khi chị Vinh đi lấy chồng, cậu Việt vẫn tiếp tục đi học trên tỉnh lỵ Bắc Giang. Năm 13 tuổi, đỗ Tiểu học xong, cậu sang thị xã Bắc Ninh học Trung học 4 năm. Việt mất chị Vinh và mất luôn cả cánh đồng chiều, những đêm trăng hát Quan họ, cậu lạc loài như một kẻ tha hương! Qua năm thứ ba, Việt dọn nhà trọ học về nhà bà Cửu Đạt (chủ nhà) ở làng Đại Tráng. Hôm đầu tiên đến nhà trọ, Việt đã run rẩy như khi gặp chị Vinh thời cậu 8 tuổi, lúc trước mặt cậu xuất hiện một cô gái xinh đẹp lạ thường với đôi mắt bồ câu, môi trầu đỏ thắm, lại cũng hàm răng đen hạt na và đôi má lúm đồng tiền. Đó là chị Nghĩa con bà Cửu, mà tên gọi trong nhà là cái Bống “Cái Bống là cái Bống bang, Mẹ Bống yêu Bống, Bống càng làm thơ”.
Chị Nghĩa cũng lớn hơn Việt 8 tuổi. Và Việt cũng đã phải lòng chị, yêu chị đắm đuối như cậu đã từng yêu chị Vinh! “Phải chăng đây là sự bố trí của Số mệnh và Duyên kiếp?”, Việt đã tự nhũ với lòng mình như thế!
Có một hôm, Việt bước vào phòng chị, chị đang soi gương chải tóc. Cậu nhìn trân trân chị, mặt tràn đầy vẻ si ngây. Chị không một lời nói, chỉ mỉm miệng cười duyên rồi cầm cái lược đến bên Việt để chải mái tóc đang rối bời của cậu. Và cũng từ hôm đó chị Nghĩa đã lôi kéo Việt, chàng trai 15 tuổi vào cái thế giới Lá Diêu Bông thứ hai! Có khác chăng là với chị Vinh thì Việt lẽo đẽo theo Vinh, chị đi đâu, em theo đó. Còn bây giờ thì Bống cứ theo Việt. Việt chạy đi thì Bống chạy theo, níu kéo lại bằng đôi mắt quyến rũ và tình tứ.
Ngày ông Cửu Đạt, bố của Bống mất, đám tang công việc bề bộn, thế mà Bống vẫn cứ la cà đến chỗ ngồi trong rạp ngoài sân của Việt không rời, khiến cho bà Chánh, cô của Bống phải đe nẹt:
-“Bố nằm sờ sờ ra đấy mà suốt ngày mày cứ đờ mặt nhìn thằng con trai!”.
Mỗi ngày, Bống càng quyến luyến Việt thêm nhiều hơn. Chị đón Việt về học mỗi chiều, rủ chơi Tam cúc không ăn tiền mà chung bằng cách bẹo má, để chị cố ý làm để cho được bẹo má! Ở tuổi 15, gần 2 năm sống gần chị Nghĩa, giờ đây Việt đã trở thành là một bó rơm khô, dễ bén lửa, có thể bốc cháy bất cứ lúc nào không biết trước được! Nhưng do bản tính nhút nhát, nên Việt chưa dám một lần nào tấn công tỏ tình với Bống.
Sau 2 năm ở nhà chị Nghĩa, Việt phải dọn lên tỉnh. Nhớ thương chị Nghĩa vô cùng, nhưng mọi ngày Chủ Nhật, Việt vì bận học thi vào trường Bưởi nên không thể về thăm chị Nghĩa được.
Hè 1938, Việt được thư mời, nên về ăn cưới chị Nghĩa. Do bận tiếp khách, họ hàng và cổ bàn nên mãi đến lúc Việt chào hỏi ra về, chị Nghĩa mới xuất hiện ra tiễn. Chị đã òa ra khóc lớn trước sân!
Sau đó chị Nghĩa ra Hà Nội với mẹ, rồi theo chồng vào Nam.
Năm 1988, Hoàng Cầm gặp lại chị Nghĩa tại Saigon đúng một nửa thế kỷ (1938-1988). Lúc này thì hai người đều đã gìà, nên gọi nhau bằng “Ông” và “Bà”, nhưng vẫn có chiều âu yếm trong đó. Con gái chị Nghĩa tên Tế đặc biệt có đôi mắt đẹp mê hồn đến những gấp mười lần mẹ mình! Cô Tế bằng tuổi với Hải Yến con gái của nhà thơ (45 tuổi) và có 5 con rồi, mà trông vẫn như gái mới dậy thì. Nhà thơ HC đã có cảm giác rằng Tế và Yến là hai chị em sinh đôi. Mối nhân duyên tiền kiếp giữa 2 hồn Kinh Bắc (hồn Việt và hồn Nghĩa) đã sinh ra cô con gái Kinh Bắc tuyệt trần này! Có thể đây là hiện thân truyền kiếp tâm linh giữa hai người Việt và Nghĩa).
Tế thay mẹ săn sóc cho bố Hoàng Cầm rất chu đáo. Bố Hoàng Cầm có chép lại 3 bài thơ: LÁ DIÊU BÔNG, CÂY TAM CÚC, QUA VƯỜN ỔI, với lời đề tặng:
-“Con là con gái của bố từ kiếp trước. Bố chép lại 3 bài thơ này tặng con hình tượng tình yêu vĩnh hằng của Bố và Mẹ từ những ngày mẹ con 20 tuổi ở vùng quê Kinh Bắc!” .
V. NHỮNG TÁC PHẨM CỦA HOÀNG CẦM
* Hận ngày xanh (dịch Graziella của Lamartine, 1940)
* Bông sen trắng (dịch của Anderson, 1940)
* Cây đèn thần (Nghìn lẻ một đêm, 19041
* Thoi mộng ( truyện vừa, 1941)
* Tỉnh giấc mơ vua (Nghìn lẻ một đêm, 1942)
* Hận Nam quan (kịch thơ, 1942, 1944)
* Bốn truyện ngắn (đăng Tiểu thuyết Thứ Bảy từ 1939 đến 1943)
* Kiều Loan (kịch thơ, 1945)
* Ông cụ Liên (kịch nói, 1952)
* Đêm Lào Cai (kịch nói 3 hồi, 196=57)
* Tiếng hát Quan họ (Trường ca, in chung trong tập Cửa biển, 1956)
* Những niềm tin (thơ dịch của Bonalan Kanfa – Algérie, 1956)
* Men đá vàng (truyện thơ, 1989)
* Trương Chi (1993)
* Tương lai (kịch thơ, 1995)
* Bên kia sông Đuống (tập thơ chọn lọc, 1993)
* Lá Diêu bông (tập thơ chọn lọc, 1993)
* Về Kinh Bắc (tập thơ, 1994)
* 99 Tình khúc (tập thơ tình, 1885)
Những bút danh của tác giả: Hoàng Cầm, Bằng Việt Lê Thái, Lê Kỳ Anh, Bằng Phi
VI. ĐỘC GIẢ VÀ BÀI THƠ LÁ DIÊU BÔNG
* Chuyện tình LÁ DIÊU BÔNG của Hoàng Cầm được chuyền tay từ năm 1960, đã được rất nhiều độc giả hâm mộ và mến chuộng! Âm điệu và nội dung tình tứ của bài thơ đã ngân rung lên biết bao những nuối tiếc, luyến thương, khiến cho ta như đưa tay chộp bắt lấy, nhưng nó lại biến mất vào hư không, huyền huyền, ảo ảo! Đọc thơ lên, ta có nghe như đâu đây một điệu nhạc chơi vơi, làm xao xuyến và vấn vít tâm hồn ta vậy! Bài thơ mông lung, mới đọc, chả có ai hiểu được ý nghĩa cụ thể là gì, nhưng chỉ biết càng đọc càng thấy âm vọng của ngàn xưa thân thương kéo về rất gần gủi với ta, rồi lại xa xôi ra như ở từ một thế giới nào khác vậy!
* Từ chỗ không ai hiểu ý nghĩa gì của bài thơ như nói trên, và cũng do Hoàng Cầm thuộc nhóm Nhân Văn Giai Phẩm chống Đảng CSVN cùng với Văn Cao, nên đã có nhiều độc giả Lá Diêu Bông đã cảm nghĩ rằng bài thơ này có ẩn dụ tố cáo Đảng CSVN từ trước giờ chỉ biết lừa bịp và phỉnh gạt dân tộc Việt Nam mà thôi! Ẩn dụ này thể hiện ở chỗ ví ngầm trong bài thơ như: Chị Vinh là Đảng CSVN, lá Diêu Bông là chủ nghĩa CS ảo tưởng, cậu Việt là dân tộc VN được ăn bánh vẽ...! Cũng giống như trong bài “Lỡ bước sang ngang”, thân phận nước VN trong tay đảng CS ví như người Chị trao thân cho anh lái đò vụng về, dốt nát, để rồi bị đắm đò, chết bi thảm “Coi như Chị đã sang sông đắm đò!”.
Nhạc sĩ Phạm Duy và nhà văn Hoàng Hải Thủy đúng là hai trong số những độc giả đã có cảm luận đến ẩn dụ nói trên. Phổ nhạc xong mấy bài thơ Lá Diêu Bông, Cây Tam Cúc, Qua Vườn Ổi của HC, lúc xuất bản, nhạc sĩ họ Phạm đã đặt cho cái tên là “Hoàng Cầm ca” với dụng ý là thơ HC có nội dung được hiểu như nói trên. Nhưng sự thực thì chính tác giả HC đã chối bỏ điều này qua tâm sự:
-“... chẳng biết có phải ẩn dụ ẩn diếc gì chăng, chỉ có điều là qua 48 bài thơ, tôi không phút nào nghĩ đến chính trị và xã hội trước mắt. Tôi chỉ nhìn về một quê hương xa, có thực mà như ảo ảnh, là ảo ảnh mà tưởng như gần gũi đâu đây, cứ chập chờn năm tháng và bảng lảng trời mây, xanh mơ mong manh màu kỷ niệm pha chút tím của tiếc hận, chút hồng của tuổi thơ, chút biêng biếc thắm của say mê, não nùng của thương cảm, không có bến bờ buông neo!...“.
Không phải những độc giả nói trên đã cố tình xuyên tạc, gán cho lời thơ những ý nghĩa mà nó không có. Mà cũng không phải ai đọc LDB, cảm động, thấy hay, đều có cảm nghĩ như thế đâu! Bởi lẽ sáng tác là quyền của tác giả, nghĩ về tác phẩm là quyền của người đọc.
Góp nhặt và tổng hợp đôi dòng suy nghĩ và xúc cảm qua câu chuyện tình LÁ DIÊU BÔNG, người viết xin được thổ lộ nơi đây, để gợi ý quí độc giả lưu ý suy ngẫm xem như thế nào, trong những lúc trà dư tửu hậu, âu cũng là điều bổ ích cho những ai có máu yêu thích văn chương thi phú đó vậy!
VII. THƠ TÌNH LÁ DIÊU BÔNG ĐƯỢC CHUYỂN SANG NHẠC TÌNH LÁ DIÊU BÔNG
Có lẽ vì có nhiều độc giả đã ái mộ chuyện tình và bài thơ LÁ DIÊU BÔNG, cho nên đã có nhiều nhạc sĩ viết nhạc về đề tài này dưới nhiều nhạc phẩm đặt tên khác nhau, như:
* Nhạc sĩ Phạm Duy viết ca khúc “Lá Diêu Bông” ở hải ngoại vào giữa thập niên 1980 trong tuyển tập “Thấm thoắt mười năm”, xuất bản năm 1985. Phạm Duy dùng nguyên văn bài thơ để viết nhạc, chỉ bỏ vài câu đầu và thêm vào cuối bài hát 2 câu thơ “Em đi trăm núi nghìn sông, Nào tìm thấy lá Diêu Bông bao giờ!”. Các ca sĩ: Thái Hiền, Ý Lan, Phương Thảo, Ngọc Lễ, Hồng Minh.
* Nhạc sĩ Trần Tiến đầu thập niên 1990 viết tình ca này dưới nhiều nhạc phẩm mang tên khác nhau, mang âm điệu dân ca, bình dân hơn, nên được nhiều ca sĩ trinh bày, như:
- Nhạc phẩm “Lá Diêu Bông”, ca sĩ: Như Quỳnh+Mạnh Đình, Như Quỳnh+Mạnh Quỳnh, Mỹ Huyền+Thái Châu, Hạ Vân.
- Nhạc phẩm “Đừng Trách Lá Diêu Bông”, ca sĩ: Thu Hiền, Hạ Vy+Thái Châu, Như Quỳnh+Tường Nguyên.
- Nhạc phẩm “Sao em nở vội lấy chồng”: Tác giả phối hợp 2 câu ca dao “Bướm vàng đậu trái mù u, Lấy chồng chi sớm lời ru càng buồn!” với ý bài thơ LDB, để viết nhạc phẩm này: Phạm Ngọc Lân đàn và hát. Các ca sĩ hát bài này gồm: Ái Vân, Hương Lan. Thúy Nga, có 7 ca sĩ gồm Minh Tuyết, Hà Phương, Tú Quyên, Ngọc Liên, Thanh Trúc, Loan Châu, Hương Thủy đồng diễn.
Nhạc sĩ Trần Tiến (phải) và Hoàng Cầm thời đi kháng chiến
* Nguyễn Tiến viết nhạc phẩm “Chuyện Tình Lá Diêu Bông”, ca sĩ: Thu Hiền, Hạ Vân, Ái Vân.
* Trần Thiết Hùng viết nhạc phẩm “Đừng trách Lá Diêu Bông”, ca sĩ: Quang Linh, Thu Thủy, Như Quỳnh, Tường Nguyên, Thu Hiền.
* Vinh Sử viết “Lá Diêu Bông 2”, ca sĩ: Mạnh Quỳnh.
VII. THI SĨ HOÀNG CẦM ĐÃ VỀ VỚI CÕI VĨNH HẰNG
9.12 am ngày 6 tháng 5 năm 2011, thi sĩ Hoàng Cầm đã trở về với cõi vình hằng, thọ 89 tuổi, sau một chặng đường dài tham gia kháng chiến chống Pháp, yêu và viết và yêu,... cũng như sống và viết...! Biết yêu từ 8 tuổi, cầm bút từ 15, 18 tuổi (1940) ông đã có “Hận ngày xanh, Bông sen trắng”, làm ngạc nhiên giới cầm bút thời đó không ít! Năm 20 tuổi (1942) ông có “Hận Nam Quan”, vở kịch thơ lịch sử vẫn còn nguyên giá trị cho đến hôm nay! Những năm gần cuối đời, ông còn cho ra “99 Tình khúc” (2007)...!
Có thể nói: cùng với “Lá Diêu Bông”, “Cây Tam Cúc”, “Qua Vườn Ổi”..., tập thơ “Về Kinh Bắc” được viết trong những năm 1959, 1960, đã trở thành là những tác phẩm cốt lõi, cột trụ trong đời thơ của ông.
Thi sĩ Hoàng Cầm, những ngày cuối đời.
Nhà thơ đã có 30 năm sống trong “án kỷ luật”, lặng lẽ ngồi nhà như một vị thiền sư, và hồn thơ của tác giả đã âm thầm đi tìm về Kinh Bắc. Không phải về sau này, tác giả mới tìm về, mà hình như suốt cuộc đời của nhà thơ đã gói trọn trong hai chữ Tìm và Về. Ông tìm về nơi ông sinh ra mà ông đã trọn đời ray rứt nhớ thương “Cuối lạy mẹ con trở về Kinh Bắc”. Ông tìm về với tuổi thơ của mình “Ta con chim cu về gù rặng tre”. Và ông đi tìm về cả những gì không có, hay hoặc chỉ có trong giấc mơ như chiếc lá Diêu Bông nọ “Đi đầu non cuối bể, Gió quê vi vút gọi, Diêu Bông hời... ới Diêu Bông!“.
Và bây giờ thì ông đã tìm về với cõi vĩnh hằng rồi!
Cầu xin cho nhà thơ được yên giấc ngàn thu trong cõi vĩnh hằng để được đắm chìm trong những giấc mơ đẹp tuyệt vời của mình như giấc mơ về LÁ DIÊU BÔNG.
Salt lake City, đầu Mùa Giáng Sinh 2011
NGUYỄN THẾ ĐẠI
* * *
Xem bài liên hệ tại đây
Xem các bài khác cùng tác giả tại đây
Trở về homepage www.nuiansongtra.net