Diễn đàn của người dân Quảng Ngãi
giới thiệu | liên lạc | lưu niệm

 April 07, 2025
Trang đầu Hình ảnh, sinh hoạt QN:Đất nước/con người Liên trường Quảng Ngãi Biên khảo Hải Quân HQ.VNCH HQ.Thế giới Kiến thức, tài liệu Y học & đời sống Phiếm luận Văn học Tạp văn, tùy bút Cổ văn thơ văn Kim văn thơ văn Giải trí Nhạc Trang Anh ngữ Trang thanh niên Linh tinh Tác giả Nhắn tin, tìm người

  Đất nước, con người
TRƯƠNG ĐĂNG QUẾ, NHỮNG ĐIỀU KỲ LẠ!
LÊ VĂN CÔNG
Các bài liên quan:
    NHÂN CÁCH TRƯƠNG ĐĂNG QUẾ
    TRƯƠNG ĐĂNG QUẾ
    TRƯƠNG ĐĂNG QUẾ MỘT VỊ QUAN LIÊM KHIẾT
    TRƯƠNG ĐĂNG ĐỒ, MỘT BỀ TÔI TIẾT NGHĨA
    DANH THẦN TRƯƠNG ĐĂNG QUẾ: MỘT TÂM HỒN THƠ NẶNG LÒNG VỚI QUÊ HƯƠNG
    TRƯƠNG ĐĂNG QUẾ VÀ SỰ PHÁT TRIỂN SÀI-GÒN, GIA-ĐỊNH


TRƯƠNG ĐĂNG QUẾ, NHỮNG ĐIỀU KỲ LẠ!
Lê Văn Công 


 

Chân dung Danh Thần Trương Đăng Quế

 

Các nhà nghiên cứu lớn như Trần Văn Giàu, Vũ Khiêu, Nguyễn Trường Lưu… đã công nhận đất Quảng Ngãi là một vùng địa linh nhân kiệt, từng sản sinh nhiều anh tài cho đất nước

Trong nửa đầu thế kỷ 19, từ làng quê Mỹ Khê nghèo khó của huyện Sơn Tịnh, đã xuất hiện một nho sinh, mà sự nghiệp sau này của ông thể hiện sự đóng góp đầy ấn tượng cho đất nước, về mọi mặt: chính trị, quân sự, kinh tế, văn hoá.

Song ấn tượng nhất có lẽ là tính chất kỳ lạ trong mỗi giai đoạn cuộc đời của ông, khiến cho người đời sau rất đồng tình với Tuy Lý Vương Miên Trinh, tác giả bài “Thần Đạo Bi” khắc trên bia mộ Trương Đăng Quế, trong đó có câu:

Cầu chi thiên cổ, duyệt sở hãn kiến
(Nghĩa là: ”Tìm cả nghìn xưa, chưa từng thấy được một người như vậy“)

* * *

Vương triều Nguyễn thống nhất đất nước, đánh dấu sự trị vì của một triều đại bằng lễ lên ngôi Hoàng Đế của vua Gia Long năm 1802, và kết thúc bằng sự thoái vị của Bảo Đại năm 1945, với mười ba triều vua: Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, Dục Đức, Hiệp Hoà, Kiến Phúc, Hàm Nghi, Đồng Khánh, Thành Thái, Duy Tân, Khải Định, Bảo Đại.

Trong 143 năm trị vì, qua 13 đời vua đó, thì Trương Đăng Quế (TĐQ) đã có mặt ở triều đình này đến bốn đời vua, tức Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, với tổng thời lượng là 44 năm (1819-1863), tức là gần một phần ba thời gian tồn tại của vương triều..

Bản thân sự kiện này đã là một điều hiếm có trong lịch sử, song nếu đi sâu vào cuộc đời ông, ta sẽ được chứng kiến biết bao điều kỳ lạ khác nữa.

TỪ NGUỒN GỐC XUẤT THÂN LÀ “NGỤY”

Điều kỳ lạ đầu tiên chính là xuất thân của ông, từ hàng ngũ thù địch với vương triều này.

Ai cũng biết, vương triều Nguyễn ra đời trong bối cảnh kết thúc cuộc nội chiến tàn khốc giữa Gia Long và vương triều Tây Sơn.

Một cuộc nội chiến kéo dài sẽ dẫn đến hậu quả tất yếu là sự căm thù sâu sắc giữa hai lực lượng. Sau khi đánh đổ nhà Tây Sơn, bắt sống được vua Tây Sơn Cảnh Thịnh (tức Quang Toản) cùng các em trai, và nhiều tướng lĩnh Tây Sơn khác, Gia Long đã có dịp thể hiện mối căm hờn ấp ủ từ lâu, bằng câu tuyên bố:

-“Trẫm vì chín đời mà trả thù“.

Và Gia Long đã tổ chức một cuộc trả thù kinh thiên động địa, gọi là “lễ Hiến phù”, được ghi nhận lại như dưới đây:

- “Ngày 7 tháng 11 năm Nhâm Tuất (1802), Gia Long làm lễ Hiến Phù ở Thái Miếu, sai Nguyễn Văn Khiêm là Đô Thống chế, Nguyễn Đăng Hựu là Tham tri bộ Hình, áp giải Nguyễn Quang Toản và các em là Quang Duy, Quang Thiệu, Quang Bàn ra ngoài cửa thành, xử lăng trì, bằng cách cho năm voi xé xác (ngũ tượng phanh thây)

- Vua Gia Long còn ra lệnh đào lấy hài cốt của Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Cha, Mẹ và các bà vợ, chém đầu hài cốt (để làm phép yểm), giã nát thi thể vứt đi, còn đầu lâu thì giam ở nhà Đồ Ngoại
. (Đại Nam chính biên liệt truyện - tập III trang 85),

Các tướng sĩ Tây Sơn bị bắt như Đô đốc Bùi Thị Xuân, Trần Quang Diệu, đều cùng chung số phận:

- “Ra lệnh phá huỷ mộ Tây Sơn Nguyễn Huệ, bổ săng phơi thây, bêu đầu ở chợ. Con trai, con gái, họ hàng và tướng lĩnh giặc 31 người đều bị lăng trì, cắt nát thây” (Đại Nam thực lục chính biên, tập II, trang 451 - NXB Sử học - Hà Nội 1962)

Chưa hết, Gia Long còn cho truy tìm mầm mống Tây Sơn trên cả nước, loan báo với dân địa phương làng Thái Lão, huyện Hưng Nguyên, Nghệ An, là quê gốc của Tây Sơn, rằng “Ai là bà con tộc thuộc của Tây Sơn, ra khai báo, sẽ được trọng dụng, bổ làm quan”

“Các tộc thuộc Tây Sơn ở Huyện Hưng Nguyên tưởng thật đã ra khai báo. Không ngờ tất cả đều bị bắt và bị giết. Hiện nay có 24 gia đình gốc họ Hồ ở Hưng Nguyên có ngừơi chết trong ngày đại tang Tây Sơn, ngày kỵ là 20 tháng 10 âm lịch hàng năm”.
(*)

Đã nuôi dưỡng trong lòng sự hận thù ghê gớm, và đã vô cùng dã man trong phương cách trả thù như vậy, liệu có ai hình dung ra được, chế độ ấy có thể mở đường cho con cháu của những người mà Gia Long gọi là “Ngụy“ bước chân vào chốn quan trường?




Vua Gia Long (1762-1820)


Chắc chắn chính sách tiếp theo của tân triều sẽ là “đào tận gốc, trốc tận rễ” những gì liên quan đến Tây Sơn, sao cho không còn một mầm mống nào của cái triều đại cũ có thể ngoi lên được, như những gì người ta có thể chứng kiến, ngay cả ở thế kỷ 20, sau này.

Trong những điều kiện như vậy, sự vươn lên của Trương Đăng Quế chính là một ngoại lệ, vô tiền khoáng hậu.

Trương Đăng Quế là con trai của Trương Đăng Phác, Tri phủ Quảng Ngãi dưới triều Tây Sơn, một chức vụ tương đương Tỉnh trưởng dưới thời VNCH.

Chú ruột ông là Tú Đức Hầu, Đô Đốc Trương Đăng Đồ cùng vợ là nữ Đô Đốc Huỳnh Thị Cúc (một trong Ngũ Phụng Thư Tây Sơn) đều là tướng lĩnh Tây Sơn, đã chiến đấu một cách ngoan cường chống quân Gia Long ở bên cạnh Hoàng tử Quang Thuỳ của Quang Trung tại Thăng Long và Sơn Tây, cho đến khi sức cùng lực kiệt. Rồi khi thành vỡ quân tan, cả hai đã cùng tử tiết để bày tỏ tấc dạ trung thành với nhà Tây Sơn.

Rõ ràng lý lịch của Trương Đăng Quế, nói theo kiểu miền Nam sau 1975, chính là thuộc một gia đình “Ngụy gộc” và có “nợ máu” với vương triều Nguyễn.

LÝ LỊCH “NGỤY GỘC” MÀ VẪN ĐƯỢC DỰ THI ĐỂ RA LÀM QUAN?

Theo logic thông thường, ở những triều đại coi “chủ nghĩa lý lịch” như là phương tiện bảo vệ chế độ, thì với cái lý lịch nặng nề và phức tạp của mình, Trương Đăng Quế sẽ vĩnh viễn không ngóc đầu lên nổi, sẽ không được học, không được đi thi, do đó sẽ không có chuyện được ra làm quan, có phấn đấu lắm, có lẽ cũng chỉ là một bác đồ nho khiêm tốn ở quê nhà.

Thế nhưng, ông đã được vợ chồng người anh ruột tạo điều kiện để tiếp tục học hành, và được tham dự khoa thi Hương mở ra năm Gia Long thứ 17 (1819). Ông đỗ Cử nhân và trở thành vị Cử nhân đầu tiên của Quảng Ngãi.

Việc một người có lý lịch nặng nề và phức tạp như Trương Đăng Quế được dự thi và chấm đỗ ngay trong thời kỳ Gia Long trị vì, đã là một sự kiện hiếm có và kỳ lạ, ngay cả ở thế kỷ 20 sau này, nói chi là thời phong kiến.

Gia Long đã đưa ra một định chế kỳ quặc, với mục đích tập trung quyền lực của vương triều, đó là định chế bốn không: không Trạng nguyên - Tiến sĩ, không Thừa tướng - Thái sư, không Thái tử - Hoàng hậu, không phong Vương cho người ngoài hoàng tộc.

Chính vì vậy đã không có kỳ thi Hội, thi Đình và Trương Đăng Quế không thể có học vị Tiến sĩ. Sau này, vua Minh Mạng đã thay đổi định chế của vua cha, và đặc cách cho Trương Đăng Quế học vị Đồng Tiến sĩ đệ nhị giáp xuất thân.

Sau khi đỗ Cử nhân, ông được triều đình bổ nhiệm một chức quan nhỏ nhoi đầu tiên là Hành tẩu bộ Lễ.

Năm 1920, vua Gia Long băng hà, Minh Mạng lên nối ngôi.

Vua Minh Mạng là một vị vua thông minh, mẫn tiệp, cương nghị và có tầm nhìn xa trông rộng, rất chú trọng đến việc học hành của các con. Vua đã tổ chức khảo sát năng lực của các quan, với mục đích tìm kiếm một nhân vật tài năng để làm thầy dạy cho các hoàng tử.

Bằng cách chứng minh chân tài thực học của mình, Trương Đăng Quế đã được vua Minh Mạng chú ý và được phong chức “Đông cung Bạn Độc”, nghĩa là người cùng đọc sách, nghiên cứu với các hoàng tử, thực chất là để dạy dỗ các Hoàng tử trong cung. Năm ấy ông 27 tuổi.

Học trò ông có những nhân vật sau này lưu danh trong văn học sử như Tùng Thiện Vương Miên Thẩm, Tuy Lý Vương Miên Trinh. Tất nhiên, có cả Hoàng tử Miên Tông, sau này trở thành vua Thiệu Trị.

HOẠN LỘ THÊNH THANG VÀ ĐỈNH CAO DANH VỌNG

Tuy nhiên, có thể nói, Trương Đăng Quế chỉ thực sự dấn thân vào chính trường, khi rời khỏi chức vụ Đông cung Bạn Độc, mà công việc hàng ngày chỉ là rao giảng thi thư với các Hoàng tử nơi cung Học.


Năm Minh Mạng thứ 11 (1930) Trương Đăng Quế 37 tuổi, được cử làm Tả Thị Lang bộ Công (tương đương với chức vụ Thứ trưởng sau này), sau đó chuyển sang làm Tả Thị Lang bộ Lễ, Tả Thị Lang bộ Hộ, làm việc ở Nội các (Hội đồng chính phủ).

Năm Minh Mạng thứ 13 (1832), Trương Đăng Quế 39 tuổi, được cử làm Thượng thư bộ Binh, lãnh ấn Đô sát viện, chính thức bước vào hàng ngũ quan lại cao cấp của triều đình.

Làm Thượng thư bộ Binh (tức bộ Quốc phòng ngày nay) là phải chịu trách nhiệm về tình hình an nguy của đất nước trước vua và triều đình. Đúng năm đó, Trương Đăng Quế phải đối diện với nhiều thách thức liên quan đến lãnh vực phụ trách của mình:

- Năm 1833, Lê Văn Khôi làm binh biến chiếm thành Phiên An (Gia định) và các tỉnh phụ cận.

- Quân Xiêm thừa cơ tấn chiếm Chân Lạp rồi xâm lược nước ta.

- Lê Duy Hiển, tự xưng dòng dõi nhà Lê, chiêu tập binh mã, lôi kéo được các thổ hào, nổi lên ở miền Bắc.

Bằng các sách lược khôn khéo, bộ Binh đã điều động lực lượng khống chế các cuộc nổi loạn, chận đứng và phá tan quân xâm lược Xiêm La.

Năm Minh Mạng thứ 15 (1934), vua Minh Mạng chính thức thành lập Cợ Mật viện, cơ quan chuyên trách về các vấn đề quân quốc trọng sự. Cơ Mật viện có năm thành viên là vua Minh Mạng và bốn vị đại thần: Binh bộ Thượng thư Trương Đăng Quế, Lại bộ Thượng thư Nguyễn Kim Bảng, Tả phó Đô ngự sử Đô Sát viện Phan Bá Đạt, và Đại lý Tự khanh bộ Hình Phan Thanh Giản. Với tư cách thành viên Cơ Mật viện, Trương Đăng Quế trở thành một trong tứ trụ đại thần.

Năm Minh Mạng thứ 16 (1835) Quân triều đình triệt hạ thành Phiên An, dẹp tan dư đảng Lê Văn Khôi.

Năm Minh Mạng thứ 17 (1836), Trương Đăng Quế kinh lý và lập địa bạ thành công ở Nam kỳ lục tỉnh, rồi thân chinh dẹp loạn Lê Duy Hiển ở miền Tây Thanh Hoá.

Cuộc nổi dậy của Lê Duy Hiển, ở miền Bắc đã kéo dài nhiều năm. Triều đình đã huy động nhiều tướng tài cùng điều động quân lực 8 tỉnh miền Bắc, song vẫn chưa dẹp yên. Cuối năm 1836, tin xấu liên tục cấp báo về triều, vua Minh Mạng rất lo lắng, đành phải yêu cầu Trương Đăng Quế xuất chinh, mặc dù biết rõ Trương Đăng Quế vừa đi kinh lược Nam Kỳ trở về, còn rất mỏi mệt, và ở thời điểm năm hết tết đến. Trương Đăng Quế tuân mệnh lên đường vào ngày Hai mươi ba tháng Chạp âm lịch.

Quả nhiên, dưới sự điều động của Trương Đăng Quế, vừa sử dụng lực lượng cường kích, vừa ra bảng chiêu an, đối xử tử tế với những người lầm lạc, chỉ 3 tháng sau, cuộc nổi loạn của Lê Duy Hiển đã được dẹp yên.

Đầu năm Minh Mạng thứ 18 (1837), thắng trận trở về, Trương Đăng Quế được gia phong Hiệp Biện Đại học sĩ, tòng nhất phẩm. Sau đó ông kiêm quản bộ Lễ, bộ Công rồi kiêm nhiệm Khâm Thiên giám. Ông trở thành nhân vật đứng đầu nội các năm 44 tuổi.

Có thể thấy, hoạn lộ của ông thật thênh thang. Chỉ trong vòng 18 năm sau khi vào triều và 7 năm sau khi chính thức bước vào chính trường, ông đã bước lên ngôi cao tột đỉnh của hàng ngũ quan lại.

Điều này không khỏi khiến người ta đặt ra dấu hỏi: phải chăng vương triều Nguyễn là một vương triều thực sự tiến bộ, không quan tâm đến vấn đề lý lịch của các quan? Hay Trương Đăng Quế đã có cách gì đó bịt mắt cả một triều đình, để không ai sờ mó gì đến cái lý lịch “kinh khủng” của mình?

Đây là một câu hỏi đã có câu trả lời, trong Đại Nam thực lục chính biên.

LẠI VẤN ĐỀ LÝ LỊCH.

Thực ra, vương triều Nguyễn, cũng giống như mọi triều đại phong kiến khác, đều hết sức quan tâm đến vấn đề lý lịch của các quan lại. Có đến hai bộ được giao trọng trách này. Bộ Lễ là cơ quan điều tra, sưu tầm, nghiên cứu và lưu trữ lý lịch ba đời của các quan. Còn bộ Lại là cơ quan thẩm tra, giám sát và đề xuất việc bổ nhiệm quan lại.

Như vậy, lý lịch ba đời của Trương Đăng Quế, với đặc điểm dòng dõi là con của Tri phủ Ngụy Tây Sơn (tương đương Tỉnh trưởng VNCH) có chú thiếm ruột đều là Đô đốc Nguỵ từng gây “nợ máu” với quân Gia Long, dĩ nhiên không thể nào không nằm trong sổ đen của hai bộ này.

Huống chi, với những bứt phá ngoạn mục trên hoạn lộ, chắc chắn Trương Đăng Quế đã tạo ra vô số kẻ ghen ghét và thù địch, sẵn sàng tấn công vào chỗ yếu nhất của ông. Cho nên dĩ nhiên chuyện man khai lý lịch là hoàn toàn không thể thực hiện, khi mà hàng trăm cặp mắt đố kỵ đang bới lông tìm vết, dõi theo từng bước chân của ông.

Vấn đề ở chỗ, triều đình, mà biểu tượng là các vua nhà Nguyễn, đã có một quan niệm ra sao về vấn đề lý lịch và đã nhìn nhận về cái con người mang lý lịch nặng nề đó như thế nào.

Trước hết là vua Gia Long. Năm 1819, vua cho mở khoa thi Hương để tuyển người ra làm quan, và lấy đỗ Trương Đăng Quế với học vị Cử Nhân. Năm ấy không mở kỳ thi Hội, nên không có Tíên sĩ. Tất nhiên lý lịch thí sinh đã phải trình cho vua xét duyệt. Chính là Gia Long, ông vua mà vì quá căm thù Tây Sơn, đã từng tổ chức cái lễ “Hiến Phù” man rợ cách đó 17 năm, lại sẵn sàng chấp nhận cho một người thuộc dòng dõi quan lại Tây Sơn được thi và được đỗ. Điều gì đã xảy ra trong đầu óc của vị Hoàng đế phong kiến này, khiến cho nhà vua có được thái độ bao dung như vậy?

- Giả định thứ nhất:

Có thể là với thời gian, lòng căm thù đã phần nào phai nhạt. Có thể là suốt mười mấy năm, những hình ảnh ghê rợn của lễ Hiến Phù năm xưa cũng đã từng ám ảnh nhà vua. Để vua thấy lương tâm cắn rứt, thấy rằng mình đã quá đáng trong cái cung cách báo thù mà sau này lịch sử sẽ còn phê phán mãi mãi. Vả chăng “oan có đầu, nợ có chủ”, không thể vì thù hận Tây Sơn, mà nuôi dưỡng mãi lòng căm thù nghi kỵ đối với những người có quan hệ với Tây Sơn.

- Giả định thứ hai:

Hoặc cũng có thể, ở cương vị mới, Gia Long thực tâm lo nghĩ đến việc xây dựng đất nước. Mà muốn xây dựng đất nước thì phải có sự đóng góp của nhân tài. không kể nguồn gốc xuất thân. Bởi vì theo lẽ đương nhiên, trong một cuộc nội chiến, thì hầu hết nhân tài trong thiên hạ tất yếu phải dính líu vào một trong hai phe. Khi nội chiến kết thúc, cần đến nguồn nhân lực mang tầm vóc “nguyên khí quốc gia”, mà lại cứ khư khư ôm lấy cái chủ nghĩa lý lịch, thì có nghĩa là đã tự chọn con đường thoái hoá. Vì sao như vậy? Bởi vì, khi nhân tài bị loại bỏ vì lý lịch, thì chế độ đó đã dọn chỗ cho những kẻ kém cỏi nhưng có lý lịch phù hợp, thủ đắc những trọng trách mà chúng không xứng đáng để nắm giữ. Kết quả là đất nước sẽ không phát triển, do được điều hành bởi những kẻ bất tài.

Dù sao, vua Gia Long đã có tiến bộ trong nhận thức, nên không hề có hành động gạt bỏ nhân tài chỉ vì yêu tố lý lịch.




Vua Minh Mạng (1791-1841)


Vua Minh Mạng thì còn đi xa hơn nữa. Đã dám giao phó các con của mình cho một người có lý lịch phức tạp, dính dáng đến Tây Sơn, dạy dỗ suốt gần 10 năm. Sau đó còn đề bạt và giao phó cho Trương Đăng Quế nhiều trọng trách. Sự tin cậy của vua Minh Mạng đối với Trương Đăng Quế lên đến đỉnh điểm khi đưa ông vào Cơ Mật viện (Tương đương Bộ Chính Trị ở VN ngày nay), rồi sau đó lại thác cô Hoàng thái tử Miên Tông trước khi băng hà.

Thực ra mọi chuyện cũng không hẵn là hoàn toàn suôn sẻ. Quá trình này đã có những cơn sóng ngầm, mà nguyên nhân đến từ lý lịch phức tạp của Trương Đăng Quế.

Theo Đại Nam thực lục chính biên, năm 1837, sau những thành công rực rỡ trong việc kinh lược Nam kỳ và bình định Tây Thanh Hoá, Trương Đăng Quế được triều định luận công ban thưởng. Ông được gia phong Hiệp biện Đại học sĩ, Thượng thư bộ binh, sung Cơ Mật viện đại thần. Theo tục lệ phong kiến, người làm con có công thì cha mẹ, ông bà cũng được thụ phong. Nhưng sắc phong cho cha mẹ của Trương Đăng Quế thì lại đụng đến vấn đề lý lịch. Bởi vì cha ông là tri phủ Quảng Ngãi triều Tây Sơn, đã phạm vào điều cấm kỵ nhất của triều đình, nên đương nhiên không thể nào phong tặng. Còn trường hợp của ông nội Trương Đăng Quế thì sao?

Theo hồ sơ lưu trữ của bộ Lễ, cha và chú ruột của Trương Đăng Quế từng làm quan to nhà Tây Sơn, nên ông nội của ông là Trương Đăng Lượng cũng đã được triều đình Tây Sơn sắc phong, căn cứ vào công trạng của các con mình.

Triều đình bàn cãi sôi nổi về trường hợp của ông nội TĐQ. Có nên phong tặng hay không?

Dĩ nhiên đơn giản nhất là có thể không xem xét việc phong tặng. Song như vậy liệu có phải là thiếu chiếu cố đến công trạng của Trương Đăng Quế và không thể hiện được chính sách ưu ái dành cho người có công của Hoàng đế Minh Mạng?

Mặt khác, nếu tâu xin phong tặng, thì chưa chắc gì đã không vấp phải sự đàn hặc từ Ngự sử đài, vì việc phong tước cho môt người đã từng nhận tước của Ngụy rõ ràng là vi phạm quy chế của vương triều, là một sự kiện lớn, một ngoại lệ chưa từng xảy ra.

Bộ Lại dâng tấu, muốn thoái thác trách nhiệm, nên cố ý đẩy quả bóng quyết định về phía nhà vua:

-“Hạ thần trộm nghĩ, trường hợp Hiệp biện Đại học sĩ Trương Đăng Quế, theo lẽ thì cha và ông nội đều được phong tặng. Song hai đời cha và ông nội của Hiệp Biện Đại học sĩ đều có nhận tước phong của Nguỵ, nên theo quy chế không thể được phong. Duy còn một điểm đáng xem xét lại là: ông nội của Hiệp Biện Đại học sĩ tuy có nhận sắc phong của Nguỵ, nhưng lại chưa từng làm quan cho Ngụy, vậy có được phong hay không, là tuỳ ở Thánh Thượng quyết định”

Vua Minh Mạng cũng đâm ra bối rối, vì không nghĩ rằng câu chuyện lý lịch lại phức tạp đến thế, bèn hạ chiếu:

- “Ông nội của Trương Đăng Quế theo lẽ rất đáng được phong. Nhưng vì có con là Trương Đăng Phác và Trương Đăng Đồ theo Ngụy, cho nên che mờ cả điều hay, nếu phong tặng ngay thì có lẽ lòng người chưa phục. Vậy nay truyền cho bô Lại kết hợp bàn thảo với bô Lễ, tham khảo lệ cổ và cả luật lệ nhà Minh, nhà Thanh bên Trung Quốc, sao cho thoả đáng rồi tâu lên”

Hai bộ nghiên cứu, sau đó có lẽ đã tìm ra trường hợp tương tự trong lịch sử, nên cùng tâu lên xin phong tặng cho ông nội của Trương Đăng Quế. Vua Minh Mạng chuẩn y. (Đại Nam thực lục chính biên quyển V, trang 312.)

Điều này chứng tỏ, đối với Minh Mạng, Trương Đăng Quế là một đại thần được nhà vua hết sức tin yêu và trân trọng.

Song cũng từ câu chuyện lý lịch đầy phức tạp trên đây, một câu hỏi của người đời sau được đặt ra cho Trương Đăng Quế. Đó là: với lý lịch dính líu nhiều đến “ngụy quyền Tây Sơn” như thế, bằng cách nào ông có thể đạt được sự tin cậy tuyệt đối của ba vị Hoàng Đế là Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức? Có khi nào ông cảm thấy mình đã phản bội cha ông, để một lòng một dạ ra sức phục vụ vương triều Nguyễn, kẻ đã tiêu diệt Tây Sơn, trong đó có người thân của mình ? Phải chăng ông đã cam tâm phủ định Cha Chú của mình để mưu cầu danh lợi?

Đó là một câu hỏi không dễ trả lời, và cho đến tận ngày nay, đó vẫn là một câu hỏi mang tính thời sự, nhất là sau cuộc thống nhất Việt Nam năm 1975, và chủ nghĩa lý lịch được mang ra áp dụng sau đó.

DÂN VI QUÝ, XÃ TẮC THỨ CHI, QUÂN VI KHINH.

Sẽ không có câu trả lời chính thức nào được đưa ra từ TĐQ, song ta có thể tìm thấy câu trả lời trong hành trạng của ông suốt cả cuộc đời. Ông đã chiếm được niềm tin yêu của các vua triều Nguyễn bằng cách nào? Có thể tóm tắt trong bốn chữ” cúc cung tận tuỵ”, bốn chữ này đã bao hàm đầy đủ tài năng và đạo đức của ông.

Được tin cậy và phong Đông cung Bạn Độc là vì ông đã chứng tỏ được khả năng, kiến thức, năng lực và tư duy sáng tạo của mình trước một ông vua mẫn tiệp là Minh Mạng. Đông cung Bạn Độc, có nghĩa là người cùng các hoàng tử đọc sách, nghiên cứu, thực chất là chức Thái phó, tức thầy dạy các hoàng tử, trong các vương triều phong kiến. Làm Đông Cung Bạn Độc gần 10 năm, ông đã dạy dỗ những học trò của mình ra sao? Nhiều người trong đó đã thành danh. Không kể Trường Khánh Công Miên Tông trở thành vua Thiệu Trị, bên cạnh đó là những học trò xuất sắc, để lại tên tuổi trong văn học sử như Tùng Thiện vương Miên Thẩm và Tuy Lý vương Miên Trinh:

Văn như Siêu, Quát vô tiền Hán,
Thi đáo Tùng, Tuy thất thịnh Đường
.
(Tự Đức)

(Văn mà như Nguyễn Văn Siêu, Cao Bá Quát, thì văn học thới Tiền Hán hầu như không có, Thơ đến như Tùng Thiện Vương, Tuy Lý Vương thì các thi bá thời thịnh Đường cũng cảm thấy kém thua))

Khi bước ra chính trường, đảm trách Thượng thư bộ Binh, cũng là lúc vận nước ngặt nghèo: ngoại xâm, nội loạn, quốc khố rỗng không. Ông điềm tĩnh giúp vua gỡ rối từng khâu một.

Vận trù kế sách dẹp giặc an dân, không nề hà đi làm công việc đo đạc ruộng đất, hoàn thiện địa bạ, đinh bạ ở Nam kỳ lục tỉnh, để thu thuế về cho quốc khố gấp 3 lần trước đó, nhưng vẫn đảm bảo sự công bằng. Ông thâm nhập thực tế địa bàn Nam bộ, “nắm rõ như lòng bàn tay” (Nhận xét của Phan Thanh Giản), cho thiết lập các cứ điểm quân sự chiến lược tại Nam vang, Battambang và Tây Ninh; ngồi thuyền vượt sóng ra hải đảo để xác lập địa hình chiến lược cần bố trí phòng thủ. Ngày 23 tháng chạp năm 1836, sắp Tết, mới đi kinh lược phương Nam về chưa kịp nghỉ ngơi, ông đã lên đường ra Thanh Hoá để trực tiếp cầm quân dẹp loạn. Chia sẻ nỗi khổ của ngưới dân bị ép buộc tham gia vào hàng ngũ chống lại triều đình, ông đề xuất chính sách chiêu an. Lo cái lo của dân, ông xung phong phụ trách giám sát đê điều miền Bắc

Có lẽ, ông là một nhà Nho, thấm đẫm tinh thần của đạo trung quân ái quốc. Cái lấn cấn có thể đến trong lòng ông là sự xung đột về ý thức triều đại. Cha và chú ông thuộc triều đại trước. Họ đã làm hết phận sự của họ và đã đền nợ nước. Còn ông, ông thuộc triều đại hiện tại, với những ưu việt và nhược điểm của nó. Nhưng cũng với tư cách nhà Nho, tất yếu ông phải thuộc nằm lòng Mạnh Tử:

“Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh”
(Dân quý nhất, kế đó là đất nước, vua thì nhẹ hơn)

Triều đại trước mà Cha và Chú ông phụng sự là một triều đại đã mở ra những trang sử oanh liệt, như đánh đổ phong kiến cường quyền họ Nguyễn ở phương nam, rồi họ Trịnh ngoài đất bắc, đánh tan quân xâm lược Xiêm La ở Rạch Gầm, nhất là chiến thắng hai mươi vạn quân xâm lược hùng hậu của Mãn Thanh, thống nhất giang sơn về một mối. Nhưng triều đại đó đã mang trong lòng nó nhiều mối mâu thuẩn tự thân, như sự tranh giành quyền lực giữa anh em ruột thịt. Những mâu thuẩn đó đã làm nó suy yếu và không đủ sức gắn kết để đề kháng. Cho nên, khi đại biến xảy ra là cái chết của vua Quang Trung, thì triều đại đó đi vào những bước suy tàn.

Là kẻ sĩ, ông hiểu đạo xuất xử, lẽ được mất ở đời, và tất nhiên ông hiểu mình phải phục vụ ai. Chính là người dân, người chủ thực sự của đất nước này.

AI LÀ NGƯỜI CÓ CÔNG XÁC LẬP CHỦ QUYỀN ĐẠI VIỆT Ở BIỂN ĐÔNG?




Lăng Minh Mạng


Triều đai Minh Mạng có thể coi là triều đại hùng cường nhất của Đại Nam ta. Đây là thời đại duy nhất trong lịch sử, mà biên giới nước ta bao gồm toàn cõi Đông Dương. Ai Lao (tức Lào) đã được phiên chế thành phủ Trấn Ninh và chia thành quận huyện để cai trị. Chân Lạp (tức Cambodia ngày nay) thì đưới quyền bảo hộ của Đại Nam, mà Trấn Tây Đại tướng quân Trương Minh Giảng thay mặt cho triều đình Đại Nam, đóng quân tại Trấn Tây Thành (Phnom Penh), để bảo vệ an ninh theo đề nghị của triều đình Chân Lạp. Vua Minh Mạng là một vị vua đầy hùng tâm tráng chí, mưu lược, có tầm nhìn xa trông rộng và rất biết dùng người. Chính từ triều đại này, mà biên cương, biển đảo Việt Nam đã được xác lập, trong đó vai trò của Trương Đăng Quế hết sức quan trọng.

Khi Trương Đăng Quế chấp chưởng Thượng thư bộ Binh thì cũng đúng là lúc thù trong giặc ngoài nổi lên. Trách nhiệm của một Thượng thư bộ Binh đã gắn kết Trương Đăng Quế với Minh Mạng trong sứ mệnh dẹp giặc an dân. Với các sách lược hiệu quả của bộ Binh, sự ủng hộ của nhà vua, sự tận tụy của tướng sĩ, thù trong giặc ngoài đã được dẹp yên trong một thời gian kỷ lục.

Sau khi đẩy lui quân Xiêm, và dẹp yên Lê Văn Khôi, Trương Đăng Quế đã kinh lược Nam Kỳ, hoàn thành xuất sắc địa bạ và đinh bạ Nam kỳ lục tỉnh trong thời gian có năm tháng. Đây la một kỳ tích được triều đình coi như công lao mở nước.

Sau đó ông kinh lược Chân Lạp, và từ Trấn Tây Thành (Nam Vang), ông đã vạch ra sách lược phòng thủ Chân Lạp để tránh tình trạng quân Xiêm tái diễn cuộc xâm lược, tranh giành quyền bảo hộ của Đại Nam. Ông cho thành lập 3 cơ sở quân sự lớn của Đại Nam tại Nam Vang, Battambang và Tây Ninh để hỗ trợ lẫn nhau. Tại các tỉnh của Chân Lạp đều có đồn binh kết hợp giữa biền binh người Việt và người Chân Lạp. Giao cho Tổng đốc An Giang và Hà Tiên giữ nhiệm vụ hậu cần cho lực lượng quân sự Đại Nam đóng trên xứ Chùa Tháp.

Lương Khê Phan Thanh Giản đánh giá tài năng thao lược của Trương Đăng Quế:

“Vả lại, tiên sinh từng trải, nắm vững vùng đất Nam kỳ lục tỉnh như long bàn tay, nhìn xa trông rộng, xác định những nơi hiểm yếu, tâu xin xây dựng thành trì ở Tây Ninh, là điều mà tôi tuy từng là người gốc Nam bộ, thực tình cũng chưa nghĩ tới” (Phan Thanh Giản – Lời tựa Học Văn Dư Tập)

Ông đi thuyền ra các hải đảo và nhận thức được tầm quan trọng của biển đảo, ông phái quân ra trấn đóng tại Côn Sơn, Phú Quốc, Thổ Chu.

Đồng thời, ông yêu cầu quốc sử quán sử dụng kết quả đo đạc được trong chuyến kinh lược sáu tỉnh Nam kỳ, để hoàn chỉnh bức địa đồ đầu tiên của Đại Việt “Đại Nam Nhất Thống Toàn đồ”, trong đó có ghi rõ hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc lãnh thổ Đại Nam.

Châu Bản triều Nguyễn hiện vẫn còn lưu lại bản đồ này.

Về việc hoàn thành bức bản đồ: Đại Nam Nhất thống Toàn đồ, theo các sử liệu còn lưu lại, thì không phải một sớm một chiều có thể tập hợp được tất cả dữ liệu, nhất là đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Bản thân vua Minh Mạng, chắc cũng khó có điều kiện để bỗng dưng lại đi quan tâm đến một vài hải đảo xa xôi, không có người ở. Như vậy ai là người đã đề xuất thành lập và sắc phong Hải đội Hoàng sa kiêm quản Bắc Hải?

Đây là một dữ liệu lịch sử rất quan trọng, cần được làm sáng tỏ, căn cứ vào các tài liệu, bản, biểu, tấu chương của vương triều Nguyễn còn lưu lại.

-“Năm ngoái (1834), vua sai dựng miếu lập bia ở Hoàng Sa, vì gặp sóng to gió lớn nên không làm được,. Đến nay(1835) mới khiến cai đội Nguyễn Văn Nguyên đem lính và giám thành cùng phu thuyền hai tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định chuyên chở vật liệu đến dựng bia đá, phía trước xây bình phong, làm xong rồi về.” (Đại Nam thực lục chính biên kỷ II, quyển 154)

Năm Minh Mạng thứ 17 (1836) bộ Công tâu:

-“Đảo Hoàng Sa thuộc vùng biển nước ta, đây là nơi rất hiểm yếu, trước đã từng sai vẽ bản đồ, nhưng vì hình thể xa rộng, nên mới chỉ vẽ được một đảo, hiện cũng chưa biết làm cách nào cho rõ. Nay sai Thuỷ quân đội trưởng Phạm Hữu Nhật, vâng mệnh ra Hoàng Sa xem xét đo đạc, và đặt bia lưu dấu để ghi nhớ.” (Đại Nam thực lục chính biên kỷ II, quyển 165).

Thời điểm 1836, chính là thời điểm mà Trương Đăng Quế đang giữ chức Thượng thư bộ Binh kiêm quản bộ Công và bộ Hộ.


 



Bản đồ bờ biển và hải đảo Đại nam trong: Đại Nam Nhất Thống Toàn Đồ
(Quốc sử quán triều Nguyễn 1838)


Ngày nay, khi tranh chấp với Trung Quốc về bằng chứng chủ quyền biển đảo, chúng ta đã có chứng tích sống động là “Đại Nam Nhất Thống Toàn đồ” cùng với các đạo sắc phong của vua Minh Mạng dành cho Hải đội Hoàng sa kiêm quản Bắc hải tại Lý Sơn, mà thời điểm châu phê là năm 1836, như là một bằng chứng không thể tranh cãi, chứng minh Việt Nam từng làm chủ liên tục quần đảo Hoàng sa và Trường sa, và chỉ gián đoạn về mặt quản lý nhà nước, khi bị Trung Quốc dùng vũ lực cưỡng chiếm vào tháng 1 năm 1974

NGƯỜI ĐƯỢC HAI VỊ HOÀNG ĐẾ UỶ THÁC CON CÔI.

Vua Minh Mạng đánh giá rất cao vai trò của Trương Đăng Quế, nhất là sau chuyến kinh lược, lập địa bạ 6 tỉnh Nam kỳ, và dẹp loạn Lê Duy Hiển ở miền Bắc. Vua đã chính thức xem Trương Đăng Quế như cánh tay phải đắc lực nhất của mình.

Năm 1840, Minh Mạng lâm bệnh nặng. Lúc lâm chung, ông gọi quan đại thần Trương Đăng Quế đến bên giường và ban dụ rằng:

-“Hoàng tử Trường Khánh Công lấy về ngôi thứ là hàng trưởng, lấy về đức độ, về tuổi thì nên nối ngôi lớn. Ngươi nên hết lòng giúp rập, hễ việc gì chưa hợp lẽ, ngươi nên lấy lời nói của ta mà can gián. Ngươi trông mặt ta, nên ghi nhớ lấy.” (Trích: Wikipedia)

Sau đó, ông cầm tay con trưởng là Trường Khánh Công Nguyễn Phúc Miên Tông trối trăng:

“Trương Đăng Quế thờ ta đến 21 năm, trọn đạo làm tôi, một lòng công trung, bày mưu dưới trướng, ra sức giúp việc ngoài biên, thực là một người công thần kỳ cựu của triều đình. Ngươi nên đãi ngộ một cách ưu hậu, hễ nói thì phải nghe, bày mưu kế gì thì phải theo, ngày sau có thể được thờ vào nhà thế miếu.”

Thiệu Trị nguyên niên (1840) Trương Đăng Quế trở thành Phụ chính Đại thần. Năm sau được phong Văn Minh Điện Đại học sĩ, Binh bộ Thượng thư, sung Cơ Mật viện.

Năm 1847, nhân dịp mừng tảo phạt thành công ở Tây nam, vua Thiệu Trị cho đúc 3 cỗ súng đồng đặt tên là Thượng Tướng Quân, cho khắc tên các công thần vào từng cỗ súng, Trương Đăng Quế được khắc tên vào cỗ súng thứ nhất.

Ta chịu mệnh trời đất và Tổ khảo, cai trị nước Đại Nam. Năm trước đất miền Tây (thuộc Nam Kỳ) chưa được mở mang, ta thường lấy làm thẹn. Năm Ất Tỵ (1845), cất quân đi đánh nước Chân Lạp, dẹp được. Năm Bính Ngọ (1846), ta lên thọ 40 tuổi, đã 30 lần ân dụ ban ra, năm ấy nước Xiêm phục, nước Miên hàng, nộp lễ cống, chầu hầu. Năm nay (1847), tướng quân kéo về, tâu báo thắng trận, thôi không đi đánh, võ công cáo thành.

Nay sai công thần trông nom chế ra ba cỗ súng đồng Thượng Tướng Quân, truyền đến con cháu, giữ thứ bảo khí ấy lâu dài. Ta quyết không say mê tửu sắc, nghĩ cách làm việc mới, noi việc cũ, noi theo mưu mô công liệt, trọng văn tu võ, kỳ vọng ức muôn năm làm mạnh nước Đại Nam ta.

Vả lại, ngự ban cho cố mệnh lương thần, Thái bảo, Tuy Thạnh bá Trương Đăng Quế, trước kia vâng cố mệnh củaTiên Đế khi gần băng hà để lại, cùng ta trù tính việc biên cương, rồi thành tựu được võ công, giúp rập đức tốt, thực không phụ ơn tri ngộ. Vậy cho khắc tên vào cỗ súng thứ nhất (Đại Nam thực lục tập 6, NXB Giáo dục 2007, trang 1040-1041).

Cuối năm 1847, vua Thiệu Trị lâm bệnh nặng. Trước khi băng hà , vua đã uỷ thác cho tứ trụ đại thần là Trương Đăng Quế, Nguyễn Tri Phương, Vũ Văn Giải và Lâm Duy Hiệp phò tá Phước Tuy Công tức Hoàng tử Hồng Nhậm lên ngôi, niên hiệu là Tư Đức.




Lăng Thiệu Trị


Tự Đức nguyên niên, Phụ chính đại thần Trương Đăng Quế, được gia phong Cần Chánh Điện Đại học sĩ, tước là Tuy Thạnh Quận Công.

Cần nhắc lại, vương triều Nguyễn không đặt ra chức Thừa tướng,Thái sư,cũng không phong vương cho người ngoài hoàng tộc. Vì vậy, những phẩm hàm mà Trương Đăng Quế được sắc phong đã là tột đỉnh, chỉ xếp sau nhà vua.

Tuy nhiên, tác phong làm quan của ông lại vô cùng khiêm tốn và giản dị:

Về vai trò của một ông quan, trong sách Đại Nam chính biên liệt truyện, có đoạn chép về ông như sau:

Trương Đăng Quế lúc làm quan, giữ mình khiêm tốn, chính trực, kiến văn nhiều, xử đoán khéo, trài làm quan hơn 40 năm, ngồi ở chức Tể tướng; thế mà ăn mặc giản tiện sơ sài, không khác gì lúc còn chưa làm quan, và lại có tính siêng năng như bộc sạ họ Phòng (tức Phòng Huyền Linh), có mưu trí như Ngụy Công họ Hàn (tức Hàn Kỳ), đã biết thì không điều gì không nói, đã nói thì không có điều gì không nói hết lời. Triều đình lấy làm trọng, các tiên thánh vốn vẫn chọn dùng...Các danh thần lúc bấy giờ, như Tráng liệt bá Nguyễn Tri Phương, mà vua cũng bảo là phong độ không bằng Trương Đăng Quế. Sau khi Trương Đăng Quế chết, hoàng thượng (Tự Đức) thương nhớ, triều đình lấy làm tiếc. Các hoàng thân, công chúa và sĩ phu trong ngoài đều làm thơ văn câu đối đem đến phúng. Ấy là Trương Đăng Quế làm cho người ta cảm mộ đến như thế...(Đại Nam chính biên liệt truyện - trang 459-464).

 

 

 

Lăng Thiệu Trị (ảnh chụp tháng 4-2008)

Cần nói rõ, nhận xét trên đây về Trương Đăng Quế, được đưa ra bởi Quốc Sử quán triều Nguyễn dưới thời vua Duy Tân (1910), tức là sau khi Trương Đăng Quế qua đời 45 năm, là thời điểm đã có đủ độ lùi thời gian cần thiết, để có thể đảm bảo được tính khách quan và trung thực.

1. NGHI ÁN TẦY ĐÌNH: ÂM MƯU SOÁN ĐOẠT NGÔI BÁU.

Sau khi Tự Đức lên ngôi năm 1847, trong dân gian ở kinh thành Huế đã rộ lên một luồng dư luận: vua Tự Đức không phải là con của vua Thiệu Trị, mà đích thực là con ruột của Trương Đăng Quế. Luồng dư luận không có gốc rễ đã lan truyền hết sức nhanh chóng, không chỉ ở kinh thành mà còn đến cả các tỉnh xa xôi.

Người ta cắt nghĩa thông tin này như sau: Trương Đăng Quế là một quyền thần, không khác gì Đổng Trác hay Tào Tháo đời Hán bên Trung Quốc, ra vào nơi cung cấm như ở nhà riêng, lợi dụng sự yếu đuối của vua Thiệu Trị, đã tư thông với Hoàng Hậu Từ Dũ và sinh ra hoàng tử Hồng Nhậm, tức vua Tư Đức. Chính vì vậy mà Trương Đăng Quế đã tìm cách gạt bỏ An Phong Công Hồng Bảo là anh vua Tự Đức, để tìm cách đưa Tự Đức lên ngôi.




Vua Tự Đức (1829-1883)


Một luồng dư luận khác, cho rằng Trương Đăng Quế (TĐQ) đã tìm cách tráo người: vì Hoàng hậu Từ Dũ và vợ TĐQ sinh cùng ngày, nên TĐQ đã bỏ con sơ sinh của mình trong tay áo thụng, vào cung tráo đổi con trai mình là Trương Quang Đản vào chỗ Hoàng tử Hồng Nhậm. Nhiều người trông thấy nhưng vì sợ quyền lực của TĐQ, nên không dám hé răng.

Những lời đồn đại này đã sống mãi với thời gian và thậm chí đã đi vào các tư liệu của ngành truyền thông ở thế kỷ 20.

Chúng ta thấy chúng xuất hiện trong một bài viết ở tạp chí Phổ Thông năm 1960.


“Theo lời truyền khẩu, vua Tự Đức là con Trương Đăng Quế do tư thông với bà Từ Dũ” (Nguyễn Quang - Giặc Chày Vôi - Tạp chí Phổ Thông số 32 - Sàgòn 15/04/1960


Sau đó, năm 1973, luận điểm này xuất hiện trong tác phẩm “Tinh thần trào phúng thi ca xứ Huế”, mà tác giả là Hoàng Trọng Thược:

-“Tương truyền rằng Hồng Nhậm (sau này là vua Tự Đức) là con Trương Đăng Quế, lúc bấy giờ là một quyền thần rất có thế lực, lại là chồng của một bà công chúa em vua Thiệu Trị, nên xuất nhập bất cấm ở cung điện nhà vua. Nhân dịp hoàng hậu Từ Dũ và vợ Trương Đăng Quế sinh con cùng ngày, nên TĐQ đã lợi dụng sự bất cấm ấy, đem con trai mình tên là Trương Quang Đản, giấu trong tay áo thụng, đánh lộn sòng với con trai vua Thiệu Trị. Trong hàng ngũ nội giám và thị nữ trong cung, có người hay chuyện, nhưng không ai dám hé môi vì sợ Quế hãm hại. Có lẽ đây cũng là duyên cớ mà Đoàn Hữu Trưng vin vào để tổ chức lật đổ vua Tự Đức và lập con Hồng Bảo là Ưng Đạo lên ngôi” (Hoàng Trọng Thược - Tinh thần trào phúng thi ca xứ Huế - 1973).

Thậm chí, ngay cả các nhà làm từ điển cũng đã đưa các chi tiết này vào từ điển Nhân vật lịch sử Việt Nam:

-”Dư luận đương thời cho rằng Trương Quang Đản là con vua Thiệu Trị, còn vua Tự Đức chính là con của Trương Đăng Quế do tư thông với bà Từ Dũ" (Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam. Nhà xuất bản khoa học xã hội, 1991)

Nếu đó là sự thật và được điều tra làm rõ, thì chắc chắn TĐQ sẽ bị buộc vào tội âm mưu soán đoạt ngôi vua, và theo bô Hình Luật Gia Long, thì đây là đại trọng tội, đứng đầu trong thập ác, trời không dung, đất không tha. Chắc chắn TĐQ sẽ phải đối diện với án phạt xử lăng trì và tru di tam tộc.

Và nếu như đó là sự thật, thì dù TĐQ có quyền thế đến đâu, cũng chỉ có thể tự bảo vệ đến hết đời mình, hoặc cùng lắm là hết đời vua Tự Đức. Bởi vì sau vua Tự Đức, còn đến 9 đời vua và vương triều Nguyễn vẫn tiếp tục tồn tại 62 năm nữa. Chẳng lẽ 9 đời vua, với thời gian 62 năm, không có lấy một vị quan nào có đủ năng lực điều tra để làm sáng tỏ một nghi án tày đình, từng ảnh hưởng đến uy tín, đe dọa sự tồn vong của cả một vương triều?

Dù sao, thì nghi án lịch sử này đã bao trùm lên dư luận hàng trăm năm, và ở một chừng mực nhất định, đã tác động đến sự nhìn nhận của giới chức có trách nhiệm về văn hoá, ở các thế hệ sau này.

Một hậu quả cụ thể nhất, có thể là do bị tác động bởi cái nghi án tầy đình đó, mà mãi đến nay, giới chức có trách nhiệm về văn hoá của nhiều địa phương, kể cả Quảng Ngãi - quê hơng của TĐQ - vẫn còn ngần ngừ, không chịu lấy tên TĐQ để đặt tên cho bất cứ một con đường nào của các địa phương đó, trong khi thành phố Hồ Chí Minh đã làm việc này từ lâu: đó chính là con đường Trương Đăng Quế nối liền hai quận Gò Vấp và Bình Thạnh.

Thái độ của nhà chức trách tại các địa phương kia, được cắt nghĩa ra sao?

Cũng giống như trường hợp của Thái sư Trần Thủ Độ, cho đến nay, tại thủ đô Hà Nội vẫn không thấy một con đường nào mang tên người đã sáng lập nhà Trần, và từng là linh hồn của cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông lần thứ nhất.

Người ta cho rằng Trần Thủ Độ là một con người có tài nhưng không có đức. Để đạt được mục đích, ông đã không từ một thủ đoạn nào. Ngoài âm mưu cướp ngôi nhà Lý, ông đã có thủ đọan độc ác khi tiêu diệt toàn bộ hoàng thân quốc thích của nhà Lý. Để bảo vệ vương triều Trần, ông chủ trương cho phép sự loạn luân trong dòng họ Trần, bắt ép Trần Cảnh lấy chị dâu đang mang thai.

Ở một góc độ nhất định, thái độ của các nhà văn hoá đời sau đối với Trần Thủ Độ, là hoàn toàn có thể chấp nhận. Bởi chuyện Trần Thủ Độ âm mưu và hành động cướp ngôi nhà Lý là có thật. Trần Thủ Độ giết toàn bộ hoàng thân quốc thích họ Lý là chuyện thật. Trần Thủ Độ chủ trương loạn luân và ép Trần Cảnh lấy chị dâu Thuận Thiên công chúa (vợ An sinh vương Trần Liễu) cũng là chuyện có thật, đã được ghi vào sử sách.

Song trường hợp của Trương Đăng Quế thì lại hoàn toàn khác hẳn, khi những nghi án về ông vẫn chỉ là những lời đồn đại, cho đến mãi tận ngày nay.

Mặc dù tình trạng mơ hồ trong kiến giải về một ẩn số lịch sử, cho đến nay, vẫn rất ít người đặt ra vấn đề, phải đưa các nghi vấn đó ra trước ánh sáng phán quyết của công luận. Điều này là phi lý, bởi lẽ một nghi án có ảnh hưởng đến cả sự tồn vong của vương triều Nguyễn, và uy vọng của một con người từng có những đóng góp lớn lao cho đất nước như TĐQ, thì không thể để chìm vào sự im lặng đáng sợ, hàng trăm năm như vậy.




Lăng Tự Đức


2- ĐI TÌM SỰ THẬT LỊCH SỬ.

Tuy nhiên, đi tìm sự thật về một nghi án đã diễn ra gần 200 năm, là một công việc cực kỳ khó khăn. Đối với nhà nghiên cứu đời sau, những gì còn lại của nghi án chỉ là những tài liệu lịch sử. Muốn có một thái độ khách quan phù hợp với yêu cầu tìm kiếm sự thật thì phải vận dụng hai yếu tố:

- Các tư liệu lịch sử phải mang tính khoa học: khách quan và trung thực.

- Sự vận dụng tư duy phải mang tính logic.

Từ các tư liệu lịch sử mang tính khoa học, các nhà nghiên cứu sẽ xây dựng nên những luận điểm tán đồng hay bác bỏ các giả thuyết của nghi án.

Trong tinh thần đó, căn cứ vào những chứng cứ được rút ra từ các tài liệu đã được thẩm định của Quốc sử quán triều Nguyễn, chúng ta có thể xây dựng nên luận cứ để giải mã những lời đồn đại trong nghi án:

1/ TĐQ có thể nào tư thông với Hoàng Hậu Từ Dũ để sinh ra vua Tự Đức?

Đại Nam thực lục chính biên ghi rõ: vua Tự Đức sinh ra vào ngày 25 tháng 8 năm Kỷ sửu tức năm Minh Mạng thứ 10(1829).

Như vậy, nếu như việc tư thộng giữa TĐQ và Hoàng hậu Từ Dũ là có thật, như lời đồn đãi, thì sự kiện này bắt buộc phải xảy ra trước năm 1829.

Thời điểm 1829, Trương Đăng Quế 36 tuổi, đang giữ nhiệm vụ Đông cung Bạn Độc, hàm ngũ phẩm, chỉ là một thầy giáo của các Hoàng tử, sáng đến cung Học giảng sách, chiều phải rời khỏi cung, không có chức quyền gì khác. Cung Học, như sơ đồ hoàng cung còn lưu lại, là một cung điện thiết kế đơn giản, nằm ở phía tây nam hoàng thành, nằm ngoài và hoàn toàn cách biệt với Tử cấm thành. Cung Học được thiết kế dành riêng cho việc học tập, vui chơi của các hoàng tử.

Còn Tử cấm thành là gì? Là thành cấm màu tía. Màu tía là màu áo của các quan lại của triều đình. Đây là khu vực riêng tư của nhà vua, chỉ có thân nhân của vua, cung nữ và thái giám. Các quan lại tuyệt đối không được xâm nhập, nếu không muốn bị mất đầu. Ngay cả cha mẹ của các vị phi tần trong cung vua, cũng không được phép vào thăm con, ngoại trừ những trường hợp có phép đặc biệt của vua. Khi đó, cha mẹ của các vị phi tần này cũng chỉ được gặp con qua sự ngăn cách bởi một bức rèm, dưới sự giám sát của thái giám Tổng quản và Tôn nhân phủ.

Rõ ràng, với vai vế và phẩm hàm khiêm tốn như vậy ở thời điểm trước 1829, TĐQ hoàn toàn không thể là một quyền thần mà có thể ra vào Tử cấm thành như ra vào nhà riêng của mình, để tư thông với các vương phi, như dư luận gán ghép. Ngay cả năm 1830, tức một năm sau khi Tự Đức ra đời, TĐQ bước ra chính trường, thì chức vụ đạt được mới là chức Tả thị lang bộ Công, tương đương chức Thứ trưởng ngày nay, thì cũng chỉ là một quan chức trung bình, có thể nào so sánh với một quyền thần như Đổng Trác hay Tào Tháo?

Còn thời điểm đó, thì Từ Dũ, nhủ danh Phạm Thị Hằng, con gái của Lễ Bộ Thượng thư, Cần chánh điện Đại học sĩ Phạm Đăng Hưng, đang là con dâu trưởng của vua Minh Mạng, vương phi của Hoàng thái tử Miên Tông, mới có 18 tuổi, trẻ đẹp, sống cấm cung dưới những điều lệnh kỷ cương chặt chẽ của cung đình Minh Mạng. Mỗi bước chân của vương phi đi lại trong cung hay ra ngoài, luôn phải tuân thủ các điều lệnh nghiêm ngặt ở Tử cấm thành.

Với hoàn cảnh và điều kiện như vậy, thì việc gặp mặt giữa Trương Đăng Quế, một vị sư phó dạy các Hoàng Tử và Phạm Thị Hằng (sau này là Từ Dũ), một vương phi của thái tử, đã gần như không thể nào thực hiện được, chứ đừng nói gì đến việc tư thông.

2/ Có thể nào thực hiện việc đánh tráo ấu chúa?

Trương Quang Đản sinh năm 1833, chứ không phải là 1829. Vậy khi Tự Đức sinh ra thì Trương Quang Đản chưa hề chào đời.

Vả chăng, giả định là có một Trương Quang Đản sinh cùng ngày với hoàng tử Hồng Nhậm đi nữa, thì làm sao một ông thầy dạy các hoàng tử, một vị quan chỉ mang hàm ngũ phẩm, lại có thể đi vào Tử cấm thành để thực hiện thủ đọan tráo đổi một đứa bé sơ sinh? Mà đứa bé sơ sinh ấy là ai? Là con trai do vương phi chính thức của Hoàng thái tử sinh ra, cháu nội trai của đương kim Hoàng đế, mà cả hệ thống cung đình nổi tiếng nghiêm cẩn như cung đình Minh Mạng đang chăm chú theo dõi như một sự kiện trọng đại của hoàng cung. Hệ thống đó có thể nào không biết hoặc nhắm mắt làm ngơ?

Thành ra, câu chuyện bỏ đứa bé sơ sinh vào tay áo thụng, đi vào cung để tráo đổi một đứa bé sơ sinh khác, có lẽ đến từ óc tưởng tượng của người bịa chuyện, sau khi đọc những câu chuyện hư cấu trong truyện Tàu Đông Chu liệt quốc.

Luận điểm về việc tráo đổi ấu chúa nêu ra trong “Tinh thần trào phúng thi ca xứ Huế” của Hoàng Trọng Thược đã bị bác bỏ hoàn toàn khi tra cứu gia phả Trương Đăng Quế: TĐQ không hề có bà vợ nào là em ruột của vua Thiệu Trị.

Và như vậy, chỉ những ai không biết rõ diễn biến cuộc đời TĐQ và các luật lệ cung đình nghiêm khắc thời MInh Mạng, mới có thể tin vào những lời đồn đại về gốc gác của vua Tự Đức.

3/ Nhân thân của một nghi can.

Với nguyên tắc tư pháp: án tại hồ sơ, với hồ sơ liên quan được thẩm định qua thời gian, thì cái nghi án tày đình về vua Tự Đức, đã được lý giải bởi những luận cứ chặc chẽ hết sức thuyết phục. Tuy nhiên, dù muốn hay không, dư âm của nghi án vẫn còn đọng lại một nỗi ám ảnh kéo dài. Ám ảnh đối với người trong cuộc là bản thân vua Tự Đức, Trương Đăng Quế và cả triều đình. Cuối cùng là nỗi ám ảnh đối với các nhà sử học đời sau.

Cũng theo nguyên tắc tư pháp, mặc dù các luận điểm chứng minh sự trong sáng của Trương Đăng Quế có thuyết phục đến đâu, thì yếu tố thuyết phục nhất cũng không hoàn toàn nằm trong luận điểm, mà chính là nằm ở tính cách con người Trương Đăng Quế. Thuật ngữ tư pháp gọi đó là nhân thân.

Nghi án tầy đình này không khỏi khiến ta liên tưởng đến vụ án ”buôn vua” của Lã Bất Vi thời chiến quốc, từng được mô tả tỉ mỉ dưới ngòi bút của sử gia lừng danh Tư Mã Thiên.

Nếu so sánh giữa hai con người cùng bị cáo buộc vào một trọng tội tương đương trong lịch sử, thì ta sẽ thấy rằng có sự khác biệt lớn lao về nhân cách giữa Lã Bất Vi và Trương Đăng Quế, đến nỗi gần như tương phản.

Là một con buôn, Lã Bất Vi đã nhìn ngai vàng như một món hàng, cho nên bất chấp thủ đoạn, tìm cách đưa dòng dõi của mình lên ngôi để trục lợi. Khi đã thành công trong thủ đoạn, Lã Bất Vi đã cố sống cố chết bám lấy quyền lực, để hưởng thụ sự giàu sang phú quý, cho đến khi phải chết vì chính lệnh của con ruột mình.

Ngược lại, Trương Đăng Quế là một nhà nho, một kẻ sĩ, đã cúc cung tận tụy phục vụ triều đình và đất nước, cho nên rất khó lòng có được cái tâm cơ và xảo thuật của Lã Bất Vi. Ngay cả khi đang đứng trên đỉnh cao danh vọng, ông vẫn nằng nặc từ bỏ, để xin cáo lão về quê, trở lại với cuộc sống bình thường của một nhà nho thanh bạch. Một con người với nhân cách và phương thức hành xử như vậy, có thể nào là một kẻ buôn vua bán nước, và buôn vua bán nước để mưu tìm cái gì?

4/ Vì đâu TĐQ trở thành nghi can trong vụ trọng án lịch sử?

Thế nhưng, để sáng tỏ vấn đề, thì một câu hỏi không thể không đặt ra: vậy ai là tác giả những luồng dư luận vu cáo TĐQ, và với mục đích gì?

Câu trả lời không khó, nếu xem xét lại quá trình lên ngôi của vua Tự Đức.

Vua Tự Đức huý là Hồng Nhậm, là con trai thứ của Thiệu Trị. Con cả Thiệu Trị là Hồng Bảo, bị vua Thiệu Trị đánh giá là ngu độn, không chịu học hành, chỉ ham hưởng lạc. Theo Đại Nam thực lục, thì ngay cả ngày Thiệu Trị hấp hối, Hồng Bảo cũng không có mặt trong cung vì đang mãi vui chơi ở ca lâu.

Vua Thiệu Trị đã di chiếu nhường ngôi cho con thứ Hồng Nhậm và uỷ thác cho 4 vị đại thần là Trương Đăng Quế, Nguyễn Tri Phương, Phan Thanh Giản và Lâm Duy Hiệp cùng nhau phò tá Hồng Nhậm lên ngôi.

Di huấn của Thiệu Trị cho bốn vị đại thần nêu rõ:

-”Ta nối nghiệp lớn đã bảy năm nay, ngày đêm lo lắng không dám thong thả vui chơi, bấy lâu se mình, hôm nay mệt lắm. Ta lo cho nghiệp lớn mà tổ tông đã phó thác nên phải chọn người nối nghiệp để yên bề xã tắc. Trong mấy người con ta, Hồng Bảo tuy lớn, nhưng là thứ xuất (con vợ thứ), mà lại ngu độn ít học,ham chơi, nối nghiệp không được. Con thứ hai là Phước Tuy Công Hồng Nhậm thông minh, ham học, rất giống tính ta, đáng nối nghiệp vua. Hôm trước ta đã phê vào tờ Di chiếu, để trong long đồng.Nay ta giao cho các ngươi niêm phọng lại. Vạn nhất ta có mệnh hệ nào, thì phải lập tức công bố cho thần dân trong ngoài đều biết. Sở dĩ ta cẩn thận chọn người nguyên lương là bởi ý tứ cẩn thận, lo sâu nghĩ xa. Các ngươi đều là đại thần của nước nhà, chịu ân sâu nghĩa nặng, nên đem tấm lòng phò ta mà giúp tự quân. Các ngươi phải kính cẩn, đừng trái mệnh ta.”

Ngày 04-11-1847, nhằm ngày 27 tháng 9 năm Đinh Mùi, vua Thiệu Trị băng hà. Các đại thần và bá quan văn võ đọc di chiếu của Thiệu Trị tại điện Cần Chánh, truyền ngôi cho Hồng Nhậm, cùng phò tá Hồng Nhậm lên ngôi, niên hiệu là Tự Đức (Đại Nam thực lục chính biên tập 6-Trang 1074).

Việc bỏ trưởng lập thứ trong nhiều triều đại thừờng dẫn đến bi kịch cung đình.

Bị mất ngôi, Hồng Bảo vô cùng căm tức, đã câu kết với một số phe cánh và các giáo sĩ Thiên chúa giáo, cùng một số người nước ngoài để tiến hành âm mưu lật đổ. Việc bại lộ, tất cả những kẻ âm mưu đều bị bắt và gia hình. Hồng Bảo được các giáo sĩ người Pháp tổ chức trốn đi Singapore, nhưng không thoát, bị bắt giam vào ngục và sau đó đã tự sát trong ngục.

Chính trong thời điểm tranh chấp cung đình, những luồng dư luận mà mục tiêu là TĐQ đã được tung ra. Phe Hồng Bảo nhận định, TĐQ chính là chỗ dựa vững chắc của Tự Đức. Hạ bệ Trương Đăng Quế sẽ là một mũi tên bắn được hai con chim:

1. Tiệu diệt lực lượng nòng cốt của Tự Đức là TĐQ. Mất chỗ dựa, Tự Đức sẽ dễ dàng bị đánh đổ.

2. Hạ bệ uy tín chính trị của Tự Đức để vận động đình thần truất phế vua, đưa Hồng Bảo lên ngôi. Nếu Tự Đức là sản phẩm của một cuộc tư thông bất chính, thì việc truất phế và tiêu diệt là điều tất yếu mà triều đình bắt buộc phải thực hiện.

Sách Lữ Khôn có câu ”Ngôn ngữ chi ác, mạc đại ư tạo vu” (Nghĩa là: sự độc ác nhất của ngôn ngữ, thì không gì bằng sự vu khống)

Dù âm mưu thất bại, song những đòn phép hiểm độc của phe nhóm Hồng Bảo đã khiến cho triều đình bối rối, và phần nào gây ra khó khăn trong mối quan hệ giữa vua Tự Đức cùng Trương Đăng Quế sau này. Song cái thâm hiểm và độc ác nhất của sự bịa đặt và vu khống, đến từ những tranh chấp quyền lực cung đình, chính là chúng không chỉ tác động đến người cùng thời, mà còn tạo ra một mảng tối của lịch sử.

Lịch sử, như bản chất đặc thù của nó, ở một thời điểm nào đó có thể hàm chứa một dung lượng nhất định của nghi vấn và sự huyễn hoặc. Song thời gian, như một dòng nước, sẽ gột rửa bao lớp phấn son, để trả lại cái dung mạo đích thực của lịch sử.

TRƯƠNG ĐĂNG QUẾ DƯỚI CÁI NHÌN CỦA MỘT SỬ GIA NƯỚC NGOÀI.




Giáo sư Yoshaharu Tsuboi
(1948- ) (Đại học Waseda - Tokyo)


Giáo sư Tiến sĩ Yoshaharu Tsuboi (Nhật), trong luận án Tiến sĩ sử học đệ tam cấp được trình tại Đại học Khoa học Xã hội và Nhân Văn Paris năm 1982 mang tiêu đề: Nước Đại Nam đối diện với Pháp và Trung Hoa (bản tiếng Pháp: ”L’Empire Vietnamien face à La Chine et à La Frnce” Bản dịch của Nguyễn Đình Đầu – NXB Hội Sử học Hà Nội) đã dành một phần quan trọng, viết về Trương Đăng Quế.

Chúng ta có thể cho qua một số đánh giá mang tính phiến diện, mà nguyên do là tác giả đã căn cứ vào tài liệu của bộ Hải quân Pháp. Mà nội dung của các tài liệu này luôn có hậu ý xúc xiểm, gây chia rẽ giữa Trương Đăng Quế và triều đình, đồng thời mang nặng tư tưởng thù địch của bô Hải quân Pháp đối với TĐQ, vì họ nhận định rằng Trương Đăng Quế đã cầm đầu phe chủ chiến ở triều đình, chủ trương đánh Pháp đến cùng, gây trở ngại cho sự thôn tính của họ.

Nếu Y. Tsuboi chỉ căn cứ vào các tài liệu này để đánh giá Trương Đăng Quế, thì không khác gì việc các sử gia đã căn cứ vào quan điểm của phe Hồng Bảo để lên án Trương Đăng Quế có âm mưu soán đoạt ngôi vua. Kỳ dư, các ý kiên khác của Y. Tsuboi đều mang tính khách quan:

-“Trương Đăng Quế đã phục vụ lâu dài trong triều và được ân thưởng bởi một người biết đánh giá năng lực quan lại và có yêu cầu nghiêm khắc (chỉ vua Minh Mạng) (Sđd. trang 206)

Lịch sử đã công nhận, vua Minh Mạng là một vị vua mẫn tiệp và anh minh. Yêu cầu trong việc dùng người của ông rất nghiêm khắc.

- Thực tế chứng tỏ Trương Đăng Quế là người có tài tổ chức, có quan điểm dùng người đúng đắn, và có khả năng hoạt động thực tiễn rất cao trong nhiều lĩnh vực khác nhau: chính trị, quân sự, kinh tế, văn hoá. (sđd trang 208)

Đây là những nhận định khá chính xác của nhà sử học Y. Tsuboi, vì các dữ liệu lịch sử đã quá rõ ràng.

Trương Đăng Quế là một nhà chính trị thành công trong việc điều hành các bộ mà ông quản lý, đưa ra những đối sách an dân và giải quyết hài hoà vấn đề dân tộc ít người tại các địa phương miền núi.

Ông là nhà quân sự xuất sắc trong vai trò Thượng thư bộ Binh, từng hoạch định chính sách cũng như đích thân tham gia các cuộc tiểu phạt để giữ yên bờ cõi.

Là nhà kinh tế, ông đạt được thành công ngoạn mục với việc kinh lý, đo đạc, hoàn thành địa bạ Nam kỳ lục tỉnh trong thời gian kỷ lục, đem lại nguồn thu cho nhà nước cao gấp ba lần.

Về văn hoá, ông là nhà giáo dục kỳ cựu, đã dạy dỗ các hoàng tử của vua MInh Mạng một cách xuất sắc. Là nhà thơ lớn, ông từng đảm trách vai trò Chánh chủ khảo các kỳ thi Hội, vai trò độc quyển các kỳ thi Đình, Kiêm quản Khâm Thiên giám, Tư nghiệp Quốc tử giám, Tổng tài Quốc sử quán, chủ biên nhiều tác phẩm đồ sộ.

Y. Tsuboi cũng đưa ra nhận định về uy tín văn học của TĐQ:

“Trương Đăng Quế là người có kiến thức văn học uyên bác, rất khôn ngoan trong phép cai trị, vô cùng bướng bỉnh, có nghị lực phi thường, có sự mềm dẻo được tính toán khôn khéo, có nhiệt tình đáng sợ, có vai trò thủ lĩnh tối cao của các sĩ phu trong vương quốc” (sđd trang 209)

Chủ đề của công trình nghiên cứu: “Nước Đại Nam đối diện với Trung Hoa và Pháp” của Y. Tsuboi tập trung vào giai đoạn lịch sử 40 năm (1847-1887) là giai đoạn then chốt mà Việt Nam đi dần vào con đường phụ thuộc nước Pháp.

Một trong những đóng góp lớn nhất của Trương Đăng Quế trong giai đoạn lịch sử này, là thái độ chống Pháp của ông:

-“Đối với Pháp, ông luôn có thái độ không khoan nhượng và không nhượng bộ bất cứ yêu cầu nào của Pháp” (sđd trang 210)

Ông càng tỏ rõ thái độ chống Pháp khi triều đình ký hoà ước Nhâm Tuất, nhường cho Pháp ba tỉnh miền Đông. Ông đã ngầm tán trợ Trương Định, cung cấp binh phù, ấn tín và quân nhu để Bình tây Đại nguyên soái khởi binh chống Pháp.

Trong công trình này, có lẽ ít có cá nhận nào lại thu hút sự quan tâm và kính trọng của nhà sử học Nhật bản Y. Tsuboi nhiều như Trương Đăng Quế, ngoài vua Tự Đức và Nguyễn Tri Phương.

TRƯƠNG ĐĂNG QUẾ: MỘT TÁC GIẢ TIÊN PHONG CỦA CHỦ NGHĨA TỰ NHIÊN TRONG VĂN HỌC (?)

Chúng ta đã chứng kiến khá nhiều những điều kỳ lạ trong từng giai đoạn cuộc đời của Trương Đăng Quế. Song với những gì đã đề cập, chỉ mới làm rõ được một phần những đóng góp của ông cho đất nước và triều đình.

Ở một khía cạnh khác, là phần nội tâm của ông, không phải là không ẩn chứa những điều kỳ lạ.

Người ta có thể tìm hiểu phần nội tâm sâu kín của môt con người bằng cách nào? Nếu đó là một người có tâm hồn nghệ sĩ, thì có lẽ tác phẩm của người đó sẽ là tấm gương phản chiếu trung thực và sống động nhất.

Nhưng Trương Đăng Quế có thực sự là một con người mang tâm hồn nghệ sĩ hay không? Như nhà sử học Nhật Bản Yoshuharu Tsuboi đã nhận định, ông là người có kiến thức văn học uyên bác. Song từ kiến thức uyên bác về nghệ thuật, đến bản thể tâm hồn chất chứa cái cốt cách của một nghệ sĩ, là hai chuyện rất khác nhau.

Hãy xem ông tự viết về mình:

Lúc nhỏ tôi thích làm thơ. Không có thầy dạy, không đầu đuôi quy củ chi cả, xúc cảnh sinh tình, tôi làm thơ cốt thể hiện cái tình thật của mình, chứ không mong lưu danh để tiếng” (Trương Đăng Quế - Lời nói đầu - Học văn dư tập)

Yêu thơ đến mức tự tìm cách thể hiện tình cảm của mình qua thi ca, bất chấp quy củ, niêm luật, phải chăng đó là biểu hiện thiên tính của một nhà thơ?

Song con đường TĐQ đến với nghệ thuật, đặc biệt với thơ ca, là một con đường không bằng phẳng. Nó như một con suối len lỏi giữa các khe núi, rồi bỗng dưng vọt lên, trở thành một dòng thác, khi ông nhận thức được cái “phương pháp“ thích hợp với tâm hồn mình.

Như ông đã viết trong lời tự sự của Học văn dư tập, tình yêu đối với thơ đã có trong ông từ thuở còn thơ ấu. Rồi dần dà theo năm tháng, đồng thời với việc hấp thu kiến thức trên đường học vấn, ông có cơ hội tìm hiểu những phép tắc, tiêu chuẩn của các tác gia. Với những đồng liêu, phần lớn xuất thân từ giới khoa bảng, ông đã cùng họ miệt mài trong những trường văn trận bút:

-“…Kẻ xướng người hoạ, cùng nhau đẽo gọt mài dũa, truy tìm tận gốc, chắt lọc cho ra cái cốt lõi. Nhờ đó mà sành sỏi thơ văn qua các triều đại, từ thời Tấn, Ngụy, lưỡng Hán trở về trước, tôi đều cẩn thận,không bỏ sót một bài nào” (TĐQ - Lời tựa Học văn dư tập)

Thế nhưng, sau khi đắm mình vào các dòng văn học cổ điển, nghiên cứu thủ pháp của các danh gia, thì cuối cùng TĐQ lại đưa ra một kết luận khá bất ngờ:

-“…Tôi nhận ra rằng, chung quy không ngoài hai chữ TÁNH LINH. Cho nên làm thơ, nói cho cùng là không nên nương tựa vào cửa nhà người khác. Ý nảy ra là viết liền, chưa nói chi đến chỗ cao sâu, nhưng có được cái cái cốt cách riêng”

Kết luận này của TĐQ có thể coi như trùng hợp với tuyên ngôn của một trường phái văn học nổi tiếng sau này, mang tên là chủ nghĩa Tự nhiên (Naturalism).

Vậy đặc điểm của chủ nghĩa Tự nhiên là gì?

Chúng ta biết rằng, vào khoảng nửa sau thế kỷ mười chín, ở châu Âu, và Mỹ đã xuất hiện một trường phái có tên là chủ nghĩa Tự nhiên trong nghệ thuật. Đại biểu của trường phái này ở Pháp có Emile Zola (1840-1902), anh em nhà E de Goncourt và J. de Goncourt, ở Đức có Hauptmann, ở Bắc Âu có H. Ibsen, ở Mỹ có Grane.




Emile Zola
(1840-1902)


Chủ nghĩa tự nhiên (CNTN) là khái niệm chỉ một phương pháp sáng tạo nghệ thuật trong mỹ học và văn học, xuất hiện ở Châu Âu và Hoa Kỳ vào nửa cuối thế kỉ 19. CNTN chủ trương tái hiện một cách "trung thành với tự nhiên" một mảng hiện thực nào đó, chú trọng đến tính quy luật của môi trường tự nhiên, hoàn cảnh vật chất, quy luật tâm sinh lí, nhưng không loại trừ bản chất xã hội, lịch sử của chúng”. (Wikipedia)

Như vậy, từ kết luận rút ra về phương pháp sáng tác, TĐQ đã tự xếp mình vào hàng ngũ những nhà sáng lập chủ nghĩa Tự nhiên trong văn học, mà chính ông cũng không ngờ, cũng không hề nghĩ rằng, hơn nửa thế kỷ sau, nó đã trở thành một trào lưu trên quy mô thế giới. Cái mà TĐQ gọi là tánh lịnh, là cốt cách, chính là cái mà sau này trường phái Tự nhiên trong văn học gọi là bản sắc.

Có điều, cái tự nhiên của thơ Trương Đăng Quế hoàn toàn không phải là cái tự nhiên mộc mạc hay thô ráp. Ngược lại, nó là cái tự nhiên đã được kinh qua sự rèn dũa từ các trường văn trận bút, kinh qua sự tắm gội trong các dòng văn học bậc thầy, do đó nó có được sự tự nhiên mang đầy tính sáng tạo tinh tế, thuần thục, và vô cùng sang trọng.

Nói theo kiểu của Lương Khê Phan Thanh Giản:

“Thông thường, người ta chỉ nếm thử một miếng ăn là biết được đầu bếp nấu ăn ngon, thấy một cái vệt vằn đủ biết được cái đep của bộ lông con báo gấm” (Phan Thanh Giản - Lời tựa Học Văn Dư tập”

Chúng ta hãy đọc:

Tạc dạ vũ thuỷ hạ,
Xuân giang vi lãng sinh,
Thiếp tâm hữu sở cảm,
Diên ngạn tự vi hành.
(Xuân giang khúc - Thơ TĐQ)

Tạm dịch

Đêm qua có mưa nhỏ
Lòng sông sóng gợn mờ
Lòng em xao xuyến bấy,
Bên sông bước bước hờ.

Là một mệnh quan của triều đình, song tình cảm của ông thật dịu dàng, tinh tế. Nó thể hiện một tâm hồn nhạy bén, đồng cảm với từng chuyển biến của thiên nhiên. Có người đã so sánh sự tinh tế của Xuân giang khúc với bài Lương châu từ của Vương Hàn thời Đường.

Hoặc; những xao xuyến tâm hồn khi ông chứng kiến mùa Thu trở về. Ở đây tính cách của một con người mơ mộng, lãng mạn, bộc lộ khá rõ, và sẽ không ai ngạc nhiên về điều này, bởi lẽ đó hầu như là thuộc tính cố hữu ở mỗi nhà thơ. Chỉ với bốn câu thơ, ông đã khắc hoạ đựơc sự rung động với cảnh sắc mùa Thu đầy gợi cảm, đồng thời, bằng tánh linh của nhà thơ, ông như “nhìn thấy“ nỗi buồn của thời khắc tiệc vui đã tàn:

Phong phiêu quế phụ hương thiên đạm,
Sương nhiễm phong lâm, diệp tận hồng,
Nhất khúc nghê thường ca vũ tán,
Quảng Hàn sầu tịch cánh thù đồng
(Thu cảm - Thơ TĐQ)

Tạm dịch:

Gió xao cành quế hương thơm nhẹ
Sương thấm rừng phong, lá rực hồng,
Xong khúc nghê thường trăng cũng vắng,
Quảng hàn lạnh giá có buồn không?


Rõ ràng, thiên nhiên được mô tả trong thơ là một thứ thiên nhiên hiển hiện, đó là mùi thơm của quế, màu lá của cây phong, qua ngòi bút của tác giả, cảnh vật tự nhiên như đi thẳng vào tâm hồn con người, và chuyển biến thành một thứ tình cảm man mác. Đó là sự chuyển hoá từ cảnh sang tình, đạt đến tự nhiên một cách hoàn hảo..

Thật kỳ lạ, là một trong những trào lưu văn học nổi tiếng trên thế giới vào cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, trong khi phương pháp của trường phái Tự nhiên phương Tây, cho đến nay vẫn còn nhiều vấn đề tranh cãi, thì ít ai biết được rằng, thực tế đã được hình thành và phát triển một cách dung dị, tự nhiên, bởi một nhà thơ Việt Nam, từ đầu thế kỷ thứ mười chín

Lương Khê Phan thanh Giản, vị Tiến sĩ khai khoa của đất Nam kỳ, từng nhận xét về cái cốt cách nhà thơ của Trương Đăng Quế:

-“…Lúc bấy giờ, tiên sinh là người trên, người trước, làm quan ở kinh đô đã hơn 10 năm, không sách nào mà tiên sinh chưa đọc tới, đặc biệt sở trường thơ văn.Ở kinh đô, ai cũng bảo tiên sinh là bậc đáng kính, đứng đầu giới tao nhã. Trong những cuộc tương hội của giới mũ áo nơi văn đàn, thì tiên sinh lúc nào cũng làm người chủ trì” (Phan Thanh Giản – Bài tựa Học Văn dư tập).




Phan Thanh Giản
(1796-1867)


Song có lẽ, người hiểu rõ nhất tâm hồn, cốt cách thơ Trương Đăng Quế, trong số những người đồng thời với ông, không ai khác hơn là Tùng Thiện Vương Miên Thẩm. Vị Hoàng thân này là một đại danh sĩ ở đất đế đô, mà theo vua Tự Đức thì thơ của ông có thể làm lu mờ các thi bá thời thịnh Đường.

Tùng Thiện Vương đã dõi theo dấu chân thơ của TĐQ, hiểu được ngọn ngành tâm hồn nghệ sĩ thấp thoáng bên trong cái vỏ ngoài của một vị đường quan hết lòng vì sự nghiệp triều đình. Có như vậy, Tùng Thiện Vương mới cảm thụ được những lời lẽ tự nhiên không hề gọt dũa của TĐQ:

“Chưa từng gọt chữ, dũa câu, mà uyển chuyển tựa đường bay viên đạn. Lời lẽ nào trung nào hiếu, ý tưởng đủ cả chung cả riêng” (Miên Thẩm - Thơ Trương Đăng Quế - trang 558)

Tùng Thiện Vương chân thành khâm phục nội dung đặc sắc trong thơ TĐQ, bao quát trong những điều tưởng chừng đơn giản, song lại hàm chứa ý tứ sâu xa:

“Trong cái nhỏ mà nhìn thấy cái vô biên, như giấu quả núi to trong hạt cải mầm nhỏ xíu, kiếm chút nhàn trong công việc bận rộn, làm thơ văn viết đầy trên giấy hoa đàm. Hà Tôn Quyền liếc xem mà quên bước. Phan Thanh Giản nhác thấy hoá ngẩn ngơ” (Miên Thẩm - Thơ Trương Đăng Quế - trang 558).

 

 

Tùng Thiện Vương Miên Thẩm (1819-1870)

 

Chính vì vậy mà Tùng Thiện Vương đã tình nguyện đích thân sưu tầm, chọn lọc rồi cho khắc mộc bản in Thơ TĐQ gồm 4 tập, 244 bài thơ, vào năm 1857. Đây là một kỳ công, vì với kỹ thuật in ấn thời bấy giờ, số lượng sách được chọn in là vô cùng ít ỏi và hiếm quý.

Tùng Thiện Vương tâm sự:

“Miên Thẩm tôi, xin là miếng mồi dư của cá, sao chép biên tập thành sách, hái những hạt châu dưới cổ con Ly long, làm thành bốn quyển. Tuy những gì để lại của tiên sinh sẽ được ghi vào sử sách, song phần nhiều lời người quân tử vẫn thường bị quên đi. Sách này giữ lại những tinh hoa của tiên sinh để cho người đời sau thưởng lãm, góp phần rao giảng những điều tốt lành của các bậc tiên liệt” (Miên Thẩm - Thơ Trương Đăng Quế - trang 561)

NỖI ĐAU CUỐI ĐỜI VÀ SỰ TRỞ VỀ MÁI NHÀ XƯA

Công trình nghiên cứu của Yoshaharu Tsuboi tập trung nói về nội tình nước Đại Nam trong suốt gần 40 năm (1847-1885), mà Tsuboi đã cho đó là thời kỳ mấu chốt, thời kỳ quyết định tương lai của Đại Nam. Người ta dễ dàng đồng tình với quan điểm của Tsuboi, khi quy trách cho những cá nhân như Tự Đức, Trương Đăng Quế, Nguyễn Tri Phương, Phan Thanh Giản về những thất bại chiến lược trong việc điều hành đất nước, dẫn đến việc Đại Nam trở thành thuộc địa của Pháp suốt 80 năm. Rõ ràng, cũng vào thời điểm đó, nước Nhật, với hoàn cảnh tương tự, song bằng cuộc duy tân vĩ đại của mình, đã vươn lên, thoát khỏi cái số phận nghiệt ngã mà các nước đế quốc phương tây đang muốn tròng lên đầu các nước Á đông.

Tuy nhiên có một yếu tố cần lưu ý, là vào thời điểm mà Y. Tsuboi coi là thời điểm mấu chốt của lịch sử, thì cũng rơi đúng vào thời điểm mà, Trương Đăng Quế, mặc dù vẫn đang nắm giữ chức vụ cao cấp ở triều đình, song đã bước vào tuổi già và đang tìm cách rút lui ra khỏi hoạn lộ. Thật vậy, chỉ 4 năm sau khi Tự Đức lên ngôi, gần 60 tuổi, ông đã rút chân khỏi ghế phụ chính, rồi dâng sớ xin về hưu (1851). Sau đó, từ 1851 đến 1863 ông đã thêm năm lần nữa dâng sớ ngỏ ý rút khỏi việc triều chính. Lần nào cũng bị Tự Đức và triều đình từ chối, không chấp thuận cho ông được rút lui.

Đây có lẽ là một giai đoạn phức tạp của cuộc đời TĐQ. Một mặt, những ấn tượng đau buồn về câu chuyện tranh chấp cung đình, đã không thể nào phai nhạt trong ông. Đành rằng, ông chỉ là một trong bốn thành viên Cơ mật viện, tuân thủ di chiếu của tiên đế Thiệu Trị phò tá Hồng Nhậm lên ngôi. Song chắc chắn, cái cảnh huynh đệ tương tàn, nồi da xáo thịt sau đó, nhất là dư luận độc ác gán ghép ông vào vụ âm mưu soán đoạt ngôi vua, đã khiến tinh thần ông, vốn có cái nhạy cảm của một nhà thơ, phải hoàn toàn dao động.

Có thể, sự dao động đó đã là động cơ của việc sáu lần dâng sớ xin về hưu, và tâm sự của ông được phơi bày trong bài thơ “Xuân nhật thư hoài”:

Ngã kim cánh hà sự,
Nhật tịch đồ doanh doanh
Khởi vi thăng đấu lụy,
Lưu hận thử thân danh.

Tạm dịch:

Cớ sao ta cứ mãi
Đêm ngày ra vào cung,
Lụy vì thăng đẩu phỏng?
Để hận cái thân danh.

Mặt khác, với tầm nhìn của một nhà chính trị và quân sự tầm cỡ, ông thừa biết điều gì đang và sẽ xảy ra cho đất nước trước sức mạnh và vũ khí hiện đại của Tây dương. Cái đất nước mà ông đã cúc cung tận tuỵ phục vụ suốt đời, đang rã dần từng mảng trước bọn xâm lược, trong khi triều đình đã không tìm được tiếng nói chung trong sách lược cứu nước.

Có lẽ nỗi đau đã đến cùng lúc với niềm tiếc nuối về một quá khứ huy hoàng. Còn đâu những thời khắc mà ông và vua Minh Mạng gắn kết, giống như một cặp cá vàng mà nhà vua đã tặng ông, tâm đầu ý hợp trong mọi quyết sách, để giải quyết bao nhiêu phức tạp gây ra bởi thù trong giặc ngoài. Còn đâu hình ảnh oai hùng của một nước Đại Nam, mà biên giới mở rộng hết cõi Đông Dương!

Mặc dù, trước vận nước hiểm nghèo, trong cương vị của mình, ông đã nỗ lực tối đa với lập trường chống Pháp triệt để, song tình hình thực tiễn về sự chênh lệch lực lượng giữa ta và địch, cộng với sự chia rẽ trong triều đình, đã làm cho những nỗ lực của ông trở thành vô vọng. Đó chính là nỗi đau cuối đời của ông.

Năm Tự Đức thứ 15 (1862), Trương Đăng Quế lại dâng sớ xin về nghỉ hưu. Theo lời bàn của đình thần, nhà vua cho ông thôi giữ bộ Binh, vì ở đó lúc này rất nhiều việc. Trương Đăng Quế lại dâng sớ xin giáng hàm Thượng thư và bỏ tước Quận công của mình, vì lý do: ”để cho bốn cõi nhiễu loạn, là sự nhục của khanh đại phu, là không làm tròn chức vụ của thần". Vua không chuẩn tấu.

Trương Đăng Quế lại dâng sớ nói:

-“Thần không có kế gì để đẩy lui được giặc, nay xin đem một nửa số lương bổng (của thần) lưu lại ở kho để giúp quân phí”. Nhà vua phải miễn cuỡng làm theo ý ấy (Đại Nam chính biên liệt truyện - Kỷ II, tập V trang 449-451)

Năm 1863, một năm sau khi mất ba tỉnh miền Đông Nam kỳ với hoà ước Nhâm Tuất, trước sự cương quyết của một lão thần đã 71 tuổi, đơn cáo lão về hưu của ông mới được vua Tự Đức và triều đình chấp nhận. Vua Tự Đức và triều đình đã long trọng và lưu luyến tiễn đưa Quận công, Thái sư, Cần chánh điện Đại học sĩ Trương Đăng Quế về hưu.

Đang ở tột đỉnh của danh vọng, được vua yêu quý, triều đình kính trọng, nhưng tự xét bản thân, thấy rằng mình đã không phát huy được tài trí để cứu nước giúp vua, nên ông tình nguyện rút lui, chấp nhận rời bỏ lầu son gác tía, rời bỏ uy quyền với tất cả sự quyến rủ của nó, một cách hết sức nhẹ nhàng.

Ông trở về với mái nhà tranh đơn sơ mà tổ phụ để lại ở làng Mỹ Khê, nơi cách đây 44 năm, ông đã cất bước lai kinh. Đó là một căn nhà tranh vách đất, ba gian hai chái, đồ đạc bày biện sơ sài, trong nhà chỉ có hai bộ ván ngựa để tiếp khách. Khách của ông rất đông. Ngoài thân bằng quyến thuộc, còn có các học trò cũ, các quan lại địa phương đến xin lời khuyên về những vấn đề quan trọng. Ông cho trải thêm chiếu ngoài hè để tiếp khách.

Tác giả Ưng Trình, đã viết về Trương Đăng Quế:

“Tiên sinh làm Tể tướng 20 năm. Cung hàm đến chứcThái sư. Tước phong đến Quận công, Điện hàm đến Cần Chánh. Thế mà ngày về hưu, tại làng chỉ có một nóc nhà tranh. Trước cửa nhà, Tiên sinh treo một cặp liễn:

Cố quận tự liên vô biệt nghiệp,
Thử sinh nguyện dĩ hứa vi thần


Tạm dịch:

Quê nhà không có cơ đồ sẵn
Giúp nước đâu màng chút lợi riêng
.

Đang nắm giữ quyền lực và danh vọng chỉ đứng sau có một người là đương kim hoàng đế, thế mà lại tự nguyện trở về quê hương, sống cuộc đời thanh bạch của một nhà nho.

Đó phải chăng là đã thêm một điều kỳ lạ nữa, một nét đẹp thấm đẫm tính nhân văn, trong nhân cách và cuộc đời của Trương Đăng Quế?

Lê Văn Công
(11/11/2011)

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1- Đại Nam thực lục chính biên..

2- Đại Nam chính biên liệt truyện.

3- Trần Trọng Kim -Việt Nam sử lược.

4- Tư Mã Thiên - Sử ký

5- Từ điển Bách khoa Toàn thư Việt Nam

6- Từ điển Bách khoa Toàn thư mở (Wikipedia)

7- Yoshaharu Tsuboi. L’Empire Vietnamien face à La Chine et à La France (Nước Đại Nam đối diện với Trung Hoa và Pháp) Bản dịch của Nguyễn Đình Đầu. Nhà xuất bản Hội Sử Học Hà Nội 1993 – Tác giả: Phạm Trung Việt - Khuôn mặt Quảng Ngãi, Nhà Xuất bản Nam Quang 1973.

8- Nguyễn Văn Hàm. Tuyển tập Thơ, Nhạc, Hoạ Quảng Ngãi. Nhà xuất bản Lao động - 2006

9- Lê Sơn Phương Ngọc - Thơ Trương Đăng Quế (Trương Quảng Khê Tiên sinh tâp), Nhà xuất bản Phương Đông 2007

10- Nguyễn Văn Chừng - Dương Minh Chính - Lê Văn Công – Lê Sơn - Nguyễn Văn Thanh "Trương Đăng Quế - Cuộc đời & Sự nghiệp". Nhà xuất bản Văn Học 2008.

(*) Tác giả: Đỗ Bang: Những khám phá về hoàng đế Quang Trung - Nhà xuất bản Văn Hoá Thông Tin 2006 - Trang 6.
 

(**)  PHỤ LỤC

Lã Bất Vi buôn vua.

“Lã Bất Vi là người Dương Địch, buôn bán thành công nên rất giàu có.

Năm thứ 40 đời Chiêu Tương Vương nước Tần (267 TCN), thái tử mất. Năm thứ 42 (265 TCN), vua cho con thứ là An Quốc Quân làm thái tử. An Quốc Quân có hơn 20 người con, lại có người vợ mà ông yêu nhất lập làm chính phu nhân, gọi là Hoa Dương phu nhân. Phu nhân không có con. Tử Sở là con giữa của An Quốc Quân. Mẹ Tử Sở là Hạ Cơ không được vua yêu nên Tử Sở phải làm con tin của Tần ở nước Triệu. Tần mấy lần đánh Triệu, nên Triệu bạc đãi Tử Sở. Tử Sở làm con tin ở Triệu trong cảnh khốn khổ, nghèo túng.

 

 

Chân dung Lã Bất Vi (ảnh minh họa)

 

Lã Bất Vi ở Hàm Đan trông thấy Tử Sở sống thiếu thốn, thương hại, nói:

- Món hàng này lạ, có thể buôn được đây!

Lã Bất Vi bèn về hỏi người cha, vốn cũng là một nhà buôn lớn, về lợi nhuận

- Buôn ngũ cốc, thực phẩm, một vốn có thể lợi gấp mấy lần?

- Một lời mười.

- Buôn vải vóc, lụa là, lợi gấp mấy lần?

- Một lời trăm

- Buôn vàng bạc châu báu, lợi gấp mấy lần?

- Một lời nghìn.

- Nếu giúp cho một người được lên làm vua, thống trị sơn hà, thì lợi gấp mấy lần?

- Lợi lộc không thể nào kể xiết.

Bất Vi bèn đến nói với Tử Sở:

- Tôi có thể làm cửa nhà ngài lớn lên.

Tử Sở cười:

- Ông hãy tự làm cho cửa nhà ông lớn lên đã, rồi hãy làm đến cửa nhà tôi.

Lã Bất Vi nói:

- Thế thì ngài không biết: Cửa nhà tôi phải đợi cửa nhà ngài mới lớn được.

Tử Sở hiểu ý, bèn ngồi cùng đàm luận.

Lã Bất Vi đưa cho Tử Sở năm trăm cân vàng để tiêu dùng và đãi tân khách. Rồi lấy tiền mua của báu vật lạ, đem sang Tần, xin ra mắt người chị Hoa Dương phu nhân để dâng những vật ấy cho Hoa Dương Phu nhân. Nhân đó, Lã Bất Vi khen ngợi Tử Sở tài giỏi, khôn ngoan, giao thiệp với người các nước, bạn hữu khắp thiên hạ. Hoa Dương phu nhân không có con, Bất Vi khuyên nhận Tử Sở làm con nuôi. Hoa Dương phu nhân nghe theo, vào xin An Quốc Quân lập Tử Sở làm thừa tự. An Quốc Quân chấp thuận, cùng phu nhân cho Tử Sở nhiều của cải và xin Bất Vi giúp đỡ cho.

Danh tiếng Tử Sở từ đó ngày càng nổi với chư hầu. Bất Vi có một người thiếp là Triệu Cơ, đàn hay múa giỏi, lại đang có mang. Bất Vi mời Tử Sở đến nhà, sai Triệu Cơ ra rót rượu. Tử Sở trông thấy triệu Cơ xinh đẹp,đem lòng say mê, Lã Bất Vi liền dâng Triệu Cơ cho Tử Sở. Tử Sở lập Triệu Cơ làm phu nhân, đến đủ tháng sinh con là Chính.

Năm 257 TCN, đời vua Chiêu Vương nước Tần, Tần sai Vương Ý vây Hàm Đan. Nước Triệu muốn giết Tử Sở. Tử Sở cùng Lã Bất Vi mưu đưa sáu trăm cân vàng cho kẻ coi giữ nên trốn thoát khỏi Triệu. Triệu muốn giết vợ con Tử Sở, nhưng Triệu Cơ là con nhà tai mắt ở Triệu, lẩn trốn được, vì thế mẹ con đều sống.

Năm thứ 56 (251 TCN), Tần Chiêu Tương Vương mất, thái tử An Quốc lên làm vua, tức là Tần Hiếu Văn vương, lập Hoa Dương phu nhân làm hoàng hậu, Tử Sở làm thái tử. Vua Triệu cũng cho đưa vợ của Tử Sở cùng con là Chính về Tần.

Nhưng Hiếu Văn vương lên ngôi được 3 ngày đã mất. Thái tử Tử Sở lên thay, tức là Trang Tương Vương, tôn mẹ nuôi là Hoa Dương hậu làm Hoa Dương thái hậu, mẹ là Hạ Cơ là Hạ thái hậu. Có ý kiến cho rằng chính Bất Vi chủ mưu hại vua Tần để Tử Sở sớm lên thay ngôi.

Năm đầu, Trang Tương Vương cho Bất Vi làm thừa tướng, phong là Văn Tín Hầu, được ăn thuế mười vạn hộ ở Hà Nam, Lạc Dương. Trang Tương Vương làm vua được ba năm thì mất. Thái tử là Chính lên ngôi, gọi là Tần vương Chính, tức Tần Thủy Hoàng sau này, tôn Lã Bất Vi làm tướng quốc, gọi là trọng phụ.

Vua Tần tuổi nhỏ, thái hậu thường lén lút tư thông với Lã Bất Vi. Trong nhà Lã Bất Vi có đến vạn người. Bấy giờ ở Ngụy có Tín Lăng Quân (Nguỵ Vô Kỵ), ở Sở có Xuân Thân Quân (Hoàng Yết), ở Triệu có Bình Nguyên Quân (Triệu Thắng), ở Tề có Mạnh Thường Quân (Điền Văn), đều đua nhau quý kẻ sĩ, chiều tân khách. Bất Vi thấy Tần mạnh mà mình không bằng họ nên xấu hổ cũng đón mời các kẻ sĩ đãi rất hậu, khách ăn trong nhà có đến ba nghìn. Khi ấy chư hầu có nhiều biện sĩ, như bọn Tuân Khanh làm sách truyền bá ra thiên hạ. Bất Vi bèn sai các khách soạn ra những điều mình biết, họp lại làm tám Lãm, sáu Luận, mười Kỷ gồm hơn hai mươi vạn chữ, cho là đủ hết những việc trời đất, muôn vật, xưa nay. Đặt tên sách là Lã Thị Xuân Thu bày ở cửa chợ Hàm Dương, đặt nghìn lạng vàng lên trên, mời các du sĩ của chư hầu ai có thể thêm bớt một chữ thì xin biếu một nghìn lạng vàng.

Khi Tần vương Chính đã lớn mà thái hậu cứ dâm loạn mãi. Bất Vi sợ lộ, mang vạ, bèn ngầm tìm kẻ có dương vật lớn là Lao Ái, dùng làm người nhà. Thường làm trò vui, sai Ái lấy dương vật của mình tra vào bánh xe gỗ mà quay, để thái hậu nghe biết chuyện đặng nhử thái hậu. Quả nhiên thái hậu nghe chuyện rồi, muốn được riêng Lao Ái. Bất Vi vờ sai người tố cáo y phạm tội đáng thiến. Bất Vi lại báo với thái hậu: Nên cho kẻ giả bị thiến này làm chức Cấp Sự Trung. Thái hậu bèn ngầm cho kẻ coi việc thiến nhiều tiền. Viên quan coi án lại luận tội vờ, cho nhổ râu mày Lao Ái, làm cho Lao Ái trở thành hoạn quan giả. Lao Ái nhờ vậy được vào hầu thái hậu.

Thái hậu cùng y gian dâm, sinh được hai đứa con, sợ người ta biết chuyện, bèn vờ xem bói nói nên tránh mùa, dời cung sang đất Ung.

Lao Ái thường xuyên đi theo, được thưởng rất hậu, việc gì cũng do Lao Ái quyết định. Nhà Lao Ái tôi tớ vài nghìn người, các khách cầu làm quan, làm môn hạ cho y đến hơn nghìn người.

Năm thứ 9 đời Tần vương Chính, có kẻ phát giác Lao Ái thực không phải là hoạn quan, thường tư thông với thái hậu, sinh hai con đều giấu đi. Lao Ái còn mưu với thái hậu: Hễ vua chết thì dùng con mình làm vua.

Tần Vương Chính liền giao cho pháp đình tra xét, biết rõ sự tình. Việc liên quan đến tướng quốc là Lã Bất Vi. Tháng 9 giết ba họ nhà Lao Ái, lại giết hai con do thái hậu đẻ ra và đày thái hậu sang đất Ung. Nhà cửa các môn hạ của Lao Ái đều bị tịch thu và họ bị đày sang đất Thục. Nhà vua muốn giết cả tướng quốc Lã Bất Vi, nhưng vì Bất Vi thờ vua trước có công lớn, lại được các tân khách, biện sĩ nói giúp khá đông nên không nỡ làm tội.

Tháng 10 năm thứ 10, Tần Vương cách chức tướng quốc của Lã Bất Vi. Đến khi có người nước Tề là Mao Tiều đến thuyết phục vua Tần, vua Tần mới sang Ung đón thái hậu về Hàm Dương như cũ và phong ấp cho Văn Tín Hầu Lã Bất Vi ở Hà Nam.

Được hơn một năm, các tân khách cùng sứ giả của chư hầu đến thăm Văn Tín Hầu lũ lượt ở trên đường. Vua Tần sợ Văn Tín Hầu làm loạn, bèn viết thư nói:

“Ông có công gì với Tần, mà Tần phong ông ở Hà Nam, ăn thuế của mười vạn hộ. Ông thân thích gì với Tần mà hiệu là Trọng Phụ?”

Rồi bắt đem cả nhà Bất Vi dời sang Thục. Lã Bất Vi tự liệu sẽ bị giết, bèn uống thuốc độc tự tử.” (Wikipedia) 




Nhóm nghiên cứu về Trương Đăng Quế, trước đền thờ Cụ Bùi Tá Hán,  

tại TP Quảng Ngãi, tháng 6/2008, từ trái: Nguyễn Văn Thanh, Lê Văn Công,  

Lê Sơn, Ngô Văn Tụ, Dương Minh Chính, Nguyễn Văn Chừng.

* * *



Hình bìa của cuốn sách viết về Trương Đăng Quế,
của nhiều tác giả
(có tên trong hình phía trên)

- - - 

Bài viết của "Giao Hưởng" về công trình biên khảo về Trương Đăng Quế, về buổi ra mắt sách.




Phóng ảnh về bài báo của Giao Hưởng


Công trình nghiên cứu về danh sĩ Trương Đăng Quế
20/01/2009 23:19


 

Buổi giới thiệu sách về danh sĩ Trương Đăng Quế - Ảnh: Giao Hưởng 
 

Ngày 16.1, tại TP.HCM, trong cuộc gặp gỡ thân mật nhân dịp mừng năm mới Kỷ Sửu 2009, chi nhánh NXB Văn học TP.HCM đã ra mắt cuốn sách mới nhất: Trương Đăng Quế - Cuộc đời và sự nghiệp, do PGS-TS, BS Nguyễn Văn Chừng, kỹ sư Dương Minh Chính, dược sĩ Lê Văn Công, TS Lê Sơn và thạc sĩ Nguyễn Văn Thanh đồng biên soạn, với nhiều bài tổng luận của các vị: 

 

Vũ Khiêu, Nguyễn Thiệu Lâu, Trần Văn Giàu, Phạm Trung Việt, Nguyễn Đình Đầu... Nhà sử học Dương Trung Quốc viết lời giới thiệu, nêu rõ Trương Đăng Quế (1793 - 1865) là một trí thức lớn, một vị quan đại thần, một danh sĩ đóng vai trò quan trọng trong các thời vua Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức, đã thể hiện lòng trung thành, liêm chính của mình trong 44 năm làm quan (1819 - 1863). Một trong những đóng góp đặc sắc nhất của Trương Đăng Quế là “hoàn thành việc đạc điền và lập địa bạ trên vùng đất Nam Bộ dưới triều Minh Mạng. Đây chính là một đóng góp to lớn vào việc hoàn thiện lãnh thổ quốc gia và phục hưng đất nước, đặc biệt với vùng đất phương Nam”.

Sách ghi nhận: Trương Đăng Quế là vị Tổng tài Quốc sử quán đầu tiên dưới triều Nguyễn và là người mở đầu sự nghiệp chép sử của triều ấy, đã chủ biên các tác phẩm đồ sộ còn đến ngày nay như: 1. Đại Nam thực lục tiền biên, 2. Đại Nam liệt truyện tiền biên, 3. Đại Nam thực lục chính biên (đến Thiệu Trị), 4. Hoàng Nguyễn thực lục tiền biên, 5. Hoàng Nguyễn thực lục hậu chính biên. Bên cạnh đó là các sáng tác có giá trị văn học như: 1. Quảng Khê văn tập, 2. Trương Quảng Khê văn tập, 3. Trương Quảng Khê tiên sinh tập (tức Học văn dư tập), 4. Sứ trình vạn lý tập, 5. Duyệt Giáp Thìn khoa Điện thí văn, 6. Về Diệu Liên thi tập, 7. Nhật Bản kiến văn tiểu lục.

Tại buổi ra mắt sách, nhà văn Triệu Xuân, đại diện chi nhánh NXB Văn học TP.HCM, cho biết những năm trước đây tài liệu về danh sĩ Trương Đăng Quế rất hiếm, sáng tác của ông cũng chưa được dịch ra chữ quốc ngữ, nên độc giả nhất là thế hệ trẻ rất khó khăn khi muốn tìm hiểu. Vì thế, cuốn sách nghiên cứu đầu tiên giới thiệu tương đối đầy đủ về ông, có phần phụ lục toàn tập tác phẩm Trương Quảng Khê tiên sinh tập dịch ra tiếng Việt (với phần chữ Hán khắc gỗ năm 1857 kèm theo) nhằm cung cấp cho bạn đọc trẻ những kiến thức hữu ích. Hiện TP.HCM có một con đường mang tên Trương Đăng Quế.

Giao Hưởng

* * *


Xem các bài khác cùng tác giả tại đây
Trở về homepage www.nuiansongtra.net  

 

 


Nếu độc giả, đồng hương, thân hữu muốn: 

* Liên-lạc với Ban Điều Hành hay webmaster 
* Gởi các sáng tác, tài liệu, hình-ảnh... để đăng 
* Cần bản copy tài liệu, hình, bài...trên trang web:

Xin gởi email về: quangngai@nuiansongtra.net 
hay: nuiansongtra1941@gmail.com

*  *  *

Copyright by authors & Website Nui An Song Tra - 2006


Created by Hiep Nguyen
log in | ghi danh