TRUYỆN KIỀU
Nguyễn Du
Phần I
1. Trăm năm trong cõi người ta,
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau.
Trải qua một cuộc bể dâu,
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng.
Lạ gì bỉ sắc tư phong,
Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen.
Cảo thơm lần giở trước đèn,
Phong tình có lục còn truyền sử xanh.
Rằng năm Gia Tĩnh triều Minh,
10. Bốn phương phẳng lặng, hai kinh vững vàng.
Có nhà viên ngoại họ Vương,
Gia tư nghĩ cũng thường thường bực trung.
Một trai con thứ rốt lòng,
Vương Quan là chữ, nối dòng nho gia.
Đầu lòng hai ả tố nga,
Thúy Kiều là chị, em là Thúy Vân.
Mai cốt cách, tuyết tinh thần,
Một người một vẻ, mười phân vẹn mười.
Vân xem trang trọng khác vời,
20. Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang.
Hoa cười ngọc thốt đoan trang,
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da.
Kiều càng sắc sảo, mặn mà,
So bề tài, sắc, lại là phần hơn.
Làn thu thủy, nét xuân sơn,
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.
Một, hai nghiêng nước nghiêng thành,
Sắc đành đòi một, tài đành họa hai.
Thông minh vốn sẵn tư trời,
30. Pha nghề thi họa, đủ mùi ca ngâm.
Cung thương làu bậc ngũ âm,
Nghề riêng ăn đứt Hồ cầm một trương.
Khúc nhà tay lựa nên chương,
Một thiên bạc mệnh, lại càng não nhân.
Phong lưu rất mực hồng quần,
Xuân xanh sấp xỉ tới tuần cập kê.
Êm đềm trướng rủ màn che,
Tường đông ong bướm đi về mặc ai.
Chú thích:
- Trăm năm: từ Trang Tử nhân sinh thượng thọ bách niên. Người ta sống 100 năm gọi là thượng thọ; ý cả câu “đại phàm trong cõi người ta” hay là “xưa nay trong cõi người ta”. Ca dao ta cũng có câu:
“Trăm năm lòng gắn dạ ghi,
Nào ai thay nút đổi khuy cũng đừng”.
- Bể dâu: tích trong Thần Tiên Truyện. Ma Cô bảo Vương Phương Bình: “Ta đã ba lần thấy bể khơi biến thành ruộng dâu”; ý nói những thăng trầm trong cuộc sống con người.
- Bỉ sắc tư phong: kém đường này thì lại hơn đường nọ; có tài thì kém mệnh, có nhan sắc thì bị tạo hóa ghét ghen.
- Cảo thơm: tức pho sách thơm. Điển tích từ Liêu Trai Chí Dị! Vương Ngư Duơng muốn mua cảo này với giá một trăm ngàn.
- Phong tình có lục: có cái bản truyện phong tình. Các bản Nôm đều chép “có”. Phần lớn các bản quốc ngữ thì chép “cổ”.
- Sử xanh: từ chữ thanh sử vì thời xưa người ta thường chép sử vào mảnh tre xanh. Thư của Lương Giang Yêm gửi vua Kiến Bình câu khải đan sách, tịnh đồ thanh sử - đều mở sách đỏ, đều chép sử xanh.
- Gia Tĩnh: Vua thứ 11 nhà Minh là Thế Tông đặt niên hiệu là Gia Tĩnh.
- Hai kinh: Nhà Minh có hai kinh đô: Nam Kinh (Kim Lăng) và Bắc Kinh (Thuận Thiên).
- Niên ngoại: trưởng giả.
- Nghĩ: cho là, ước chừng. Bản của Bùi Kỷ, Trần Trọng Kim chép là “nghỉ” và chú thích là tiếng địa phương, có nghĩa: va, ông ấy. Bản Chiêm Vân Thị - Lê Mạnh Liêu chép là “xem”.
- Tố nga: người con gái đẹp. Tích La Công Viễn dẫn Đường Minh Hoàng lên cửa khuyết thành Chí Đại. Nơi đó có bảng đề Phủ Quảng Hàn Thanh Hư, bên dưới có vài chục cô tố nga múa hát.
- Mai cốt cách, tuyết tinh thần: Lấy từ lời chú trong Quảng Sự Loại: mai dĩ vận thắng, dĩ cách cao - cây mai thắng về vận, cao về cách. Đường thi: Hữu mai vô tuyết bất tinh thần - có hoa mai mà gặp trời không có tuyết thì cũng chẳng có tinh thần. Cả câu muốn nói “nhị Kiều” cốt cách thì thanh lịch như cây mai, còn tâm hồn thì trắng trong như tuyết.
- Khuôn trăng: thơ Đỗ Mục:
“Ngọc chất tùy nguyệt mãn
diện thái trục vân thư”
Chất ngọc đầy đặn như mặt trăng tròn, vẻ tươi như áng mây lơ lửng.
Thanh Tâm Tài Nhân cũng tả:
“Thúy Kiều dong như thu nguyệt”.
- Nét ngài: lông mày như con tằm nằm ngang.
- Hoa cười ngọc thốt: từ Đông Châu Liệt Quốc: Tề Văn Khương mạo mỹ, tỷ hoa hoa giải ngữ, tỷ ngọc ngọc sinh hương - nàng Văn Khương nước Tề hình dung đẹp đẽ, nếu đem so với hoa thì như là hoa biết nói, nếu đem so với ngọc thì như là ngọc toát hương thơm. Vua Đường Minh Hoàng khi thưởng ngoạn hoa sen trắng cũng có nói với tả hữu: khởi cập ngã giải ngữ hoa - Hoa sen kia há sánh kịp với bông hoa biết nói của ta đây (ý chỉ Dương Quý Phi).
- Mây thua nước tóc: điển cố từ Trường Hận Ca của Bạch Cư Dị, vân mấn, tuyết phu - Dương Quý Phi tóc như mây, da như tuyết.
-Thu thủy, xuân sơn: trong truyện Tây Sương: “Tha vọng xuyên liễu doanh doanh thu thủy, túc tổn liễu đạm đạm xuân sơn” người ấy trông mong mòn mỏi cả nước mùa thu đầy đầy, buồn bã héo cả núi mùa xuân nhàn nhạt.
- Nghiêng nước nghiêng thành: điển tích lấy từ bài ca của Lý Diên Niên đời Hán:
“Bắc phương hữu giai nhân
Tuyệt thế nhi độc lập
Nhất cố khuynh nhân thành,
Tái cố khuynh nhân quốc”.
(Phương bắc có người con gái đẹp, đẹp nhất đời mà còn ở một mình, quay đầu lại một lần thì nghiêng thành, quay lại lần nữa thì nghiêng nước)
- Ngũ âm: năm nốt trong nhạc bộ Trung Hoa - cung, thương, giác, chủy, vũ; tương đương với các nốt hồ, xự, xang, xế, cống trong cổ nhạc Việt Nam.
- Hồ cầm: còn có tên là đàn tỳ bà - cây đàn gắn liền với tích Vương Chiêu Quân cống Hồ thời nhà Hán.
- Cập kê: kê là cái trâm cài đầu (viết khác chữ kê - con gà); cập là đạt đến. Người ta quen dùng chữ cập kê để chỉ con gái đã lớn, đến tuổi biết cài trâm, lấy chồng.
- Trướng rủ màn che: tích vua Hán Vũ Đế cưng nàng Lệ Quyên; làm trướng Lưu Ly cho nàng ở, sợ bụi làm nhơ nàng, lại sợ gió cuốn nàng bay mất.
- Tường đông: từ bài phú Hiếu Sắc của Tống Ngọc - Đông gia chi tử đăng tường khuy thần dĩ tam niên hỷ - cô gái nhà bên Đông trèo lên tường dòm tôi đã ba năm nay rồi!.
- - - - - - - - - - - - - - - - - -
Ngày xuân con én đưa thoi,
40. Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi.
Cỏ non xanh tận chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.
Thanh minh trong tiết tháng ba,
Lễ là tảo mộ, hội là Đạp Thanh.
Gần xa nô nức yến anh,
Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân.
Dập dìu tài tử, giai nhân,
Ngựa xe như nước áo quần như nêm.
Ngổn ngang gò đống kéo lên,
50. Thoi vàng vó rắc tro tiền giấy bay.
Tà tà bóng ngả về tây,
Chị em thơ thẩn dan tay ra về.
Bước dần theo ngọn tiểu khê,
Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh.
Nao nao dòng nước uốn quanh,
Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang.
Sè sè nấm đất bên đàng,
Dàu dàu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh.
Rằng: “Sao trong tiết thanh minh,
60. Mà đây hương khói vắng tanh thế mà?”
Vương Quan mới dẩn gần xa:
“Đạm Tiên nàng ấy xưa là ca nhi.
Nổi danh tài sắc một thì,
Xôn xao ngoài cửa hiếm gì yến anh.
Kiếp hồng nhan có mong manh,
Nửa chừng xuân thoắt gãy cành thiên hương.
Có người khách ở viễn phương,
Xa nghe cũng nức tiếng nàng tìm chơi.
Thuyền tình vừa ghé tới nơi,
70. Thì đà trâm gẩy bình rơi bao giờ.
Buồng không lạnh ngắt như tờ,
Dấu xe ngựa đã rêu lờ mờ xanh.
Khóc than khôn xiết sự tình,
Khéo vô duyên ấy là mình với ta.
Đã không duyên trước chăng mà,
Thì chi chút ước gọi là duyên sau.
Sắm xanh nếp tử xe châu,
Vùi nông một nấm mặc dầu cỏ hoa.
Trải bao thỏ lặn ác tà,
80. Ấy mồ vô chủ ai mà viếng thăm!”.
Lòng đâu sẵn mối thương tâm,
Thoắt nghe Kiều đã đầm đầm châu sa.
“Đau đớn thay phận đàn bà!
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.
Phũ phàng chi bấy hoá công,
Ngày xanh mòn mỏi má hồng phôi pha.
Sống làm vợ khắp người ta,
Khéo thay thác xuống làm ma không chồng.
Nào người phượng chạ loan chung,
90. Nào người tích lục tham hồng là ai?
Đã không kẻ đoái người hoài,
Sẵn đây ta kiếm một vài nén hương.
Gọi là gặp gỡ giữa đường,
Họa là người dưới suối vàng biết cho".
Lầm rầm khấn khứa nhỏ to,
Sụp ngồi vài gật trước mồ bước ra.
Một vùng cỏ áy bóng tà,
Gió hiu hiu thổi một vài bông lau.
Rút trâm sẵn giắt mái đầu,
100. Vạch da cây vịnh bốn câu ba vần.
Lại càng mê mẩn tâm thần
Lại càng đứng lặng tần ngần chẳng ra.
Lại càng ủ dột nét hoa,
Sầu tuôn đứt nối, châu sa vắn dài.
105. Vân rằng: “Chị cũng nực cười,
Khéo dư nước mắt khóc người đời xưa".
Rằng: “Hồng nhan tự thuở xưa,
Cái điều bạc mệnh có chừa ai đâu?
Nỗi niềm tưởng đến mà đau,
110. Thấy người nằm đó biết sau thết nào?”
Quan rằng: “Chị nói hay sao,
Một lời là một vận vào khó nghe.
Ở đây âm khí nặng nề,
“Bóng chiều đã ngả dậm về còn xa".
Kiều rằng: “Những đấng tài hoa,
Thác là thể phách, còn là tinh anh,
Dễ hay tình lại gặp tình,
Chờ xem ắt thấy hiển linh bây giờ".
Một lời nói chửa kịp thưa,
120. Phút đâu trận gió cuốn cờ đến ngay.
Ào ào đổ lộc rung cây,
Ở trong dường có hương bay ít nhiều.
Đè chừng ngọn gió lần theo,
Dấu giày từng bước in rêu rành rành.
Mắt nhìn ai nấy đều kinh,
Nàng rằng: “Này thực tinh thành chẳng xa.
Hữu tình ta lại gặp ta,
Chớ nề u hiển mới là chị em".
Đã lòng hiển hiện cho xem,
130. Tạ lòng nàng lại nối thêm vài lời.
Lòng thơ lai láng bồi hồi,
Gốc cây lại vạch một bài cổ thi.
Dùng dằng nửa ở nửa về,
Nhạc vàng đâu đã tiếng nghe gần gần.
Trông chừng thấy một văn nhân,
Lỏng buông tay khấu bước lần dặm băng.
Đề huề lưng túi gió trăng,
Sau chân theo một vài thằng con con.
Tuyết in sắc ngựa câu giòn,
140. Cỏ pha màu áo nhuộm non da trời.
Nẻo xa mới tỏ mặt người,
Khách đà xuống ngựa tới nơi tự tình.
Hài văn lần bước dặm xanh,
Một vùng như thể cây quỳnh cành dao.
Chàng Vương quen mặt ra chào,
Hai Kiều e lệ nép vào dưới hoa.
Nguyên người quanh quất đâu xa,
Họ Kim tên Trọng vốn nhà trâm anh.
Nền phú hậu, bậc tài danh,
150. Văn chương nết đất, thông minh tính trời.
Phong tư tài mạo tót vời,
Vào trong phong nhã, ra ngoài hào hoa.
Chung quanh vẩn đất nước nhà,
Với Vương Quan trước vẩn là đồng thân.
Trộm nghe thơm nức hương lân,
Một nền Đồng Tước khoá xuân hai Kiều.
Nước non cách mấy buồng thêu,
Những là trộm nhớ thầm yêu chốc mòng.
May thay giải cấu tương phùng,
160. Gặp tuần đố lá thoả lòng tìm hoa.
Bóng hồng nhác thấy nẻo xa,
Xuân lan thu cúc mặn mà cả hai.
Người quốc sắc, kẻ thiên tài,
Tình trong như đã, mặt ngoài còn e.
Chập chờn cơn tỉnh cơn mê.
Rốn ngồi chẳng tiện, dứt về chỉn khôn.
Bóng tà như giục cơn buồn,
Khách đà lên ngựa, người còn nghé theo.
Dưới cầu nước chảy trong veo,
170. Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha.
Kiều từ trở gót trướng hoa,
Mặt trời gác núi chiêng đà thu không.
Mảnh trăng chênh chếch nhòm song,
Vàng gieo ngấn nước, cây lồng bóng sân.
Hải đường lả ngọn đông lân,
Giọt sương gieo nặng cành xuân la đà.
Một mình lặng ngắm bóng nga,
Rộn đường gần với nỗi xa bời bời:
“Người mà đến thế thì thôi,
180. Đời phồn hoa cũng là đời bỏ đi!
Người đâu gặp gỡ làm chi,
Trăm năm biết có duyên gì hay không?”
Ngổn ngang trăm mối bên lòng,
Nên câu tuyệt diệu ngụ trong tính tình.
Chênh chênh bóng nguyệt xế mành,
Tựa nương bên triện một mình thiu thiu.
Thoắt đâu thấy một tiểu kiều,
Có chiều thanh vận, có chiều thanh tân.
Sương in mặt, tuyết pha thân,
190. Sen vàng lãng đãng như gần như xa.
Rước mừng đón hỏi dò la:
“Đào nguyên lạc lối đâu mà đến đây?”
Thưa rằng: “Thanh khí xưa nay,
Mới cùng nhau lúc ban ngày đã quên.
Hàn gia ở mé tây thiên,
Dưới dòng nước chảy bên trên có cầu.
Mấy lòng hạ cố đến nhau,
Mấy lời hạ tứ ném châu gieo vàng.
Vâng trình hội chủ xem tường,
200. Mà sao trong sổ đoạn trường có tên.
Âu đành quả kiếp nhân duyên,
Cùng người một hội, một thuyền đâu xa.
Này mười bài mới mới ra,
Câu thần lại mượn bút hoa vẽ vời".
Kiều vâng lĩnh ý đề bài,
Tay tiên một vẩy đủ mười khúc ngâm.
Xem thơ nức nở khen thầm:
“Giá đành tú khẩu cẩm tâm khác thường
Ví đem vào tập Đoạn Trường
210. Thì treo giải nhất chi nhường cho ai".
Thềm hoa khách đã trở hài,
Nàng còn cầm lại một hai tự tình.
Gió đâu sịch bức mành mành,
Tỉnh ra mới biết rằng mình chiêm bao.
Trông theo nào thấy đâu nào
Hương thừa dường hãy ra vào đâu đây.
Một mình lưỡng lự canh chầy,
Đường xa nghĩ nỗi sau này mà kinh.
Hoa trôi bèo dạt đã đành,
220. Biết duyên mình, biết phận mình thế thôi!
Nỗi riêng lớp lớp sóng dồi,
Nghĩ đòi cơn lại sụt sùi đòi cơn.
Giọng Kiều rền rĩ trướng loan,
Nhà Huyên chợt tỉnh hỏi: “Cơn cớ gì?”
Cớ sao trằn trọc canh khuya,
Màu hoa lê hãy đầm đìa giọt mưa?”
Thưa rằng: “Chút phận ngây thơ,
Dưỡng sinh đôi nợ tóc tơ chưa đền.
Buổi ngày chơi mả Đạm Tiên,
230. Nhắp đi thoắt thấy ứng liền chiêm bao.
Đoạn trường là số thế nào,
Bài ra thế ấy, vịnh vào thế kia.
Cứ trong mộng triệu mà suy,
Phận con thôi có ra gì mai sau!”
Dạy rằng: “Mộng huyễn cứ đâu,
Bỗng không mua não chuốc sầu nghĩ nao".
Vâng lời khuyên giải thấp cao,
Chưa xong điều nghĩ đã dào mạch Tương.
Ngoài song thỏ thẻ oanh vàng,
240. Nách tường bông liễu bay ngang trước mành.
Hiên tà gác bóng chênh chênh,
Nỗi riêng, riêng trạnh tấc riêng một mình.
Cho hay là giống hữu tình,
Đố ai gỡ mối tơ mành cho xong.
Chàng Kim từ lại thư song,
Nỗi nàng canh cánh bên lòng biếng khuây.
Sầu đong càng lắc càng đầy,
Ba thu dồn lại một ngày dài ghê.
Mây Tần khóa kín song the,
250. Bụi hồng lẽo đẽo đi về chiêm bao.
Tuần trăng khuyết, đĩa dầu hao,
Mặt mơ tưởng mặt, lòng ngao ngán lòng.
Buồng văn hơi giá như đồng,
Trúc se ngọn thỏ, tơ chùng phím loan.
Mành Tương phất phất gió đàn,
Hương gây mùi nhớ, trà khan giọng tình.
Ví chăng duyên nợ ba sinh,
Thì chi đem thói khuynh thành trêu ngươi.
Bâng khuâng nhớ cảnh, nhớ người,
260. Nhớ nơi kỳ ngộ vội dời chân đi.
Một vùng cỏ mọc xanh rì,
Nước ngâm trong vắt, thấy gì nữa đâu!
Gió chiều như gợi cơn sầu,
Vi lô hiu hắt như màu khảy trêu.
Nghề riêng nhớ ít tưởng nhiều,
Xăm xăm đè nẻo Lam Kiều lần sang.
Thâm nghiêm kín cổng cao tường,
Cạn dòng lá thắm dứt đường chim xanh.
Lơ thơ tơ liễu buông mành,
270. Con oanh học nói trên cành mỉa mai.
Mấy lần cửa đóng then cài,
Đầy thềm hoa rụng, biết người ở đâu?
Tần ngần đứng suốt giờ lâu,
Dạo quanh chợt thấy mái sau có nhà.
Là nhà Ngô Việt thương gia,
Buồng không để đó người xa chưa về.
Lấy điều du học hỏi thuê,
Túi đàn cặp sách đề huề dọn sang.
Có cây, có đá sẵn sàng,
280. Có hiên Lãm thúy, nét vàng chưa phai.
Mừng thầm chốn ấy chữ bài,
Ba sinh âu hẳn duyên trời chi đây.
Song hồ nửa khép cánh mây,
Tường đông ghé mắt ngày ngày hằng trông.
Tấc gang đồng tỏa nguyên phong,
Tuyệt mù nào thấy bóng hồng vào ra.
Nhân từ quán khách lân la,
Tuần trăng thấm thoắt nay đà thèm hai.
Cách tường phải buổi êm trời,
290. Dưới đào dường có bóng người thướt tha.
Buông cầm xốc áo vội ra,
Hương còn thơm nức, người đà vắng tanh.
Lần theo tường gấm dạo quanh,
Trên đào nhác thấy một cành kim thoa.
Giơ tay với lấy về nhà:
“Này trong khuê các đâu mà đến đây?
Ngẩm âu người ấy báu này,
Chẳng duyên chưa dễ vào tay ai cầm!”
Liền tay ngắm nghía biếng nằm,
300. Hãy còn thoang thoảng hương trầm chưa phai.
Tan sương đã thấy bóng người,
Quanh tường ra ý tìm tòi ngẩn ngơ.
Sinh đà có ý đợi chờ,
Cách tường lên tiếng xa đưa ướm lòng:
“Thoa này bắt được hư không,
Biết đâu Hợp Phố mà mong châu về?”
Tiếng Kiều nghe lọt bên kia:
“Ơn lòng quân tử sá gì của rơi,
Chiếc thoa nào của mấy mươi,
310. Mà lòng trọng nghĩa khinh tài xiết bao!”
Sinh rằng: “Lân lý ra vào,
Gần đây nào phải người nào xa xôi.
Được rày nhờ chút thơm rơi,
Kể đà thiểu não lòng người bấy nay!
Bấy lâu mới được một ngày,
Dừng chân gạn chút niềm tây gọi là".
Vội về thêm lấy của nhà,
Xuyến vàng đôi chiếc, khăn là một vuông.
Thang mây rón bước ngọn tường,
320. Phải người hôm nọ rõ ràng chẳng nhe?
Sượng sùng giữ ý rụt rè,
Kẻ nhìn rõ mặt, người e cúi đầu.
Rằng: “Từ ngẩu nhĩ gặp nhau,
Thầm trông trộm nhớ bấy lâu đã chồn.
Xương mai tính đã thâu mòn,
Lần lừa ai biết hãy còn hôm nay!
Tháng tròn như gửi cung mây,
Trần trần một phận ấp cây đã liều.
Tiện đây xin một hai điều,
330. Đài gương soi đến dấu bèo cho chăng?”.
Ngại ngần nàng mới thưa rằng:
“Thói nhà băng tuyết chất hằng phỉ phong,
Dù khi lá thắm chỉ hồng,
Nên chăng thì cũng tại lòng mẹ cha.
Nặng lòng xót liễu vì hoa,
Trẻ thơ đã biết đâu mà dám thưa!”
Sinh rằng: “Rày gió mai mưa,
Ngày xuân đã dễ tình cờ mấy khi.
Dù chăng xét tấm tình si,
340 Thiệt đây mà có ích gì đến ai?
Chút chi gắn bó một hai,
Cho đành rồi sẽ liệu bài mối manh.
Khuôn thiên dù phụ tấc thành,
Cũng liều bỏ quá xuân xanh một đời.
Lượng xuân dù quyết hẹp hòi,
Công đeo đuổi chẳng thiệt thòi lắm ru?”
Lặng nghe lời nói như ru,
Chiều xuân dễ khiến nét thu ngại ngùng.
Rằng: “Trong buổi mới lạ lùng,
350. Nể lòng có lẽ cầm lòng cho đang!
Đã lòng quân tử đa mang,
Một lời vàng tạc đá vàng thủy chung".
Được lời như cởi tấm lòng,
Giở kim thoa với khăn hồng trao tay.
Rằng: “Trăm năm cũng từ đây,
Của tin gọi một chút này làm ghi".
Sẵn tay bả quạt hoa quì,
Với cành thoa ấy tức thì đổi trao.
Một lời gắn bó tất giao,
360. Mái sau dường có xôn xao tiếng người.
Vội vàng lá rụng hoa rơi,
Chàng về viện sách, nàng dời lầu trang.
Từ phen đá biết tuổi vàng,
Tình càng thấm thía, dạ càng ngẩn ngơ.
Sông Tương một dải nông sờ,
Bên trông đầu nọ, bên chờ cuối kia.
Một tường tuyết trở sương che,
Tin Xuân đâu dễ đi về cho năng.
Lần lần ngày gió đêm trăng,
370. Thưa hồng rậm lục đã chừng xuân qua.
Ngày vừa sinh nhật ngoại gia,
Trên hai đường, dưới nữa là hai em.
Tưng bừng sắm sửa áo xiêm,
Biện dâng một lễ xa đem tấc thành.
Nhà lan thanh vắng một mình,
Gẩm cơ hội ngộ đã đành hôm nay.
Thì trân thức thức sẵn bày,
Gót sen thoăn thoắt dạo ngay mé tường.
Cách hoa sẽ dặng tiếng vàng,
380. Dưới hoa đã thấy có chàng đứng trông.
Trách lòng hờ hững với lòng,
Lửa hương chốc để lạnh lùng bấy lâu.
Những là đắp nhớ đổi sầu,
Tuyết sương nhuốm nửa mái đầu hoa râm.
Nàng rằng: “Gió bắt mưa cầm,
Đã cam tệ với tri âm bấy chầy.
Vắng nhà được buổi hôm nay,
Lấy lòng gọi chút sang đây tạ lòng!”
Lần theo núi giả đi vòng,
390. Cuối tường dường có nẻo thông mới rào.
Xắn tay mở khóa động đào,
Rẽ mây trông tỏ lối vào Thiên Thai.
Mặt nhìn mặt càng thêm tươi,
Bên lời vạn phúc, bên lời hàn huyên.
Sánh vai về chốn thư hiên,
Góp lời phong nguyệt nặng nguyền non sông.
Trên yên bút giá thi đồng,
Đạm thanh một bức tranh tùng treo trên.
Phong sương được vẻ thiên nhiên,
400. Mặt khen nét bút càng nhìn càng tươi.
Sinh rằng: “Phác họa vừa rồi,
Phẩm đề xin một vài lời thêm hoa.”
Tay tiên gió táp mưa sa,
Khoảng trên dừng bút thảo và bốn câu.
Khen: “Tài nhả ngọc phun châu,
Nàng Ban ả Tạ cũng đâu thế này!
Kiếp tu xưa ví chưa dày,
Phúc nào đổi được giá này cho ngang!”
Nàng rằng: “Trộm liếc dung quang,
410. Chẳng sân ngọc bội, cũng phường kim môn.
Nghĩ mình phận mỏng cánh chuồn,
Khuôn xanh biết có vuông tròn mà hay?
Nhớ từ năm hãy thơ ngây,
Có người tướng sĩ đoán ngay một lời:
Anh hoa phát tiết ra ngoài,
Nghìn thu bạc mệnh một đời tài hoa
Trông người lại ngắm đến ta,
Một dày một mỏng biết là có nên?”
Sinh rằng: “Giải cấu là duyên,
420. Xưa nay nhân định thắng nhiên cũng nhiều.
Ví dù giải kết đến điều,
Thì đem vàng đá mà liều với thân".
Đủ điều trung khúc ân cần,
Lòng xuân phơi phới chén xuân tàng tàng.
Ngày vui ngắn chẳng đầy gang,
Trông ra ác đã ngậm gương non đoài.
Vắng nhà chẳng tiện ngồi dai,
Giã chàng, nàng mới kíp dời song sa.
(Xem tiếp phần II)