Diễn đàn của người dân Quảng Ngãi
giới thiệu | liên lạc | lưu niệm

 April 10, 2025
Trang đầu Hình ảnh, sinh hoạt QN:Đất nước/con người Liên trường Quảng Ngãi Biên khảo Hải Quân HQ.VNCH HQ.Thế giới Kiến thức, tài liệu Y học & đời sống Phiếm luận Văn học Tạp văn, tùy bút Cổ văn thơ văn Kim văn thơ văn Giải trí Nhạc Trang Anh ngữ Trang thanh niên Linh tinh Tác giả Nhắn tin, tìm người

  Hải Quân - VNCH
ĐỜI THỦY THỦ (Chương 7, 8 & 9)
VŨ THẤT
Các bài liên quan:
    ĐIỂM SÁCH “ĐỜI THỦY THỦ” CỦA VŨ THẤT (Hoàng Lan Chi)
    ĐỜI THỦY THỦ (Chương 13, 14, 15 & Kết)
    ĐỜI THỦY THỦ (Chương 10, 11 & 12)
    ĐỜI THỦY THỦ (Chương 4, 5 & 6)
    ĐỜI THỦY-THỦ (Chương 1, 2 & 3)

BIỂN TÌNH
Sáng tác: Lam Phương
Ca sĩ: Tâm Đoan

*  *  *


ĐỜI THỦY THỦ 
Vũ Thất



 

 

Chương 7

Tôi nhìn về hướng mũi tàu. Sa mù xám đục ngập phủ, ập xuống mặt nước như cố ngăn những lượn sóng ào ạt cuốn vào bờ. Từng loạt gió hâm hấp, cuốn theo các hạt nước bắn lên từ các ngọn sóng ngã đổ, vùn vụt lướt qua chiến hạm. Những vạt nước tóe lên từ bên hông tả hạm, tạt vào mặt vào mắt ran rát và cay xót. Gió va vào các bộ phận lộ thiên, phát ra những âm vang dị biệt, tạo thành một hợp âm lạ lùng đầy vẻ dọa dẫm. Chiến hạm lay lắc, từng khi hích mạnh vào cầu tàu, gây nên những cơn giật bất thường, ngầy ngật.

Từ đài chỉ huy trên chóp khối trụ tròn thiết trí ngay giữa hữu hạm, ông hạm trưởng nghiêng người nhìn dọc theo mạn tàu, kiểm soát tình trạng sẵn sàng của nhân viên trong nhiệm sở rời cầu. Ông quay sang hạm phó nói bằng giọng điềm đạm như khuôn mặt của ông:

- Biển còn động mạnh quá!

Hạm phó nhìn ông mỉm cười. Tôi thấy những tia hy vọng lung linh từ nụ cười cầu tài đó. Trong bữa cơm trưa, hạm phó đã đề nghị hoãn khởi hành đi Hoàng Sa thêm một vài ngày. Ông cho rằng việc hoán chuyển quân là việc không gấp gáp, tội gì phải oằn người vì sóng gió. Tôi biết cái lý do thầm kín mà ông không thể nêu ra. Sóng gió đối với ông là chuyện bỏ đi. Suốt hai ngày đêm từ Sài Gòn đi Đà Nẵng biển động tưng bừng, tôi gần như bỏ ăn bỏ uống nhưng ông và Hạm trưởng vẫn đều đều ngày ba bữa và vẫn hút thuốc trọn gói hai mươi bốn giờ. Đêm qua, ông khoe riêng với Tâm và tôi là mới quen được một cô nữ sinh trường Sao Mai. Chúng tôi đã trố mắt ngạc nhiên mà không mấy tin. Lẽ nào ông vẫn… hào hoa khi mới bắt bảy ngày phép cưới vợ trước khi tàu khởi hành chuyến này? Giọng cà tửng quen thuộc của hạm phó:

- Hoãn thêm một ngày nữa là phải quá, thưa hạm trưởng. Một ngày rỗi rãi, hạm trưởng sẽ làm thêm được vài bài thơ tình, hạm phó sẽ hưởng thêm được những phút giây êm đềm trước khi…bó thân về với vợ!

Tôi không cười mà ngước nhìn hạm trưởng với hy vọng ông không đổi ý. Một tuần tránh cơn bão đầu mùa đủ để tôi quá chán cái thành phố xa lạ này. Những hôm trực thì tiêu khiển một ngày bằng những con bài qua các trò chơi cá nhân hoặc tập thể. Những bữa tự do thì đội mưa mà đi, la cà hết quán cà phê lại đến quán kem, nơi nào cũng nghe Hùng Cường hát Sầu Đông giữa mùa Hè. Thành phố có dáng của thủ đô Sài Gòn, cũng có dòng sông êm đềm chảy ngang qua nhưng trọn một tuần gần như thiếu vắng bóng hồng. “Đà Nẵng vắng bóng hồng, hỏi rằng tôi yêu ai?”. Lẽ ra giờ này tôi đã ngồi ở một quán kem ở đường Lê Lợi nhìn ông đi qua bà đi lại. Lẽ ra tôi đã được xem vài cuốn phim mới và lẽ ra tôi đã gặp lại… Tôi cười nhạo cho chính tôi. “Lẽ ra” cho lắm rồi cũng chẳng khác gì các lần về bến ba tháng qua, lần nào cũng phải ca bài “một trăm phần trăm em ơi giờ đây lại cấm trại rồi!” Và lần nào, người nhà của thủy thủ đoàn xuống tàu thăm nườm nượp, riêng Tuyết và Hiền đều bóng chim tăm cá… Về Sài Gòn bị cấm trại thì mong đi công tác. Đi công tác thì mong về Sài Gòn.

- Phải khởi hành thôi, hạm phó. Đại đội địa phương quân đã lên tàu. Tin khí tượng cho biết bão đã yếu dần. Phong vũ biểu đã tăng gần bình thường. Binh lính ngoài Hoàng Sa thì đang mong ngóng được về gặp lại vợ con. Họ đã quá cái hạn sáu tháng và chắc chắn là họ đang mỏi cổ ngóng trông hình dáng một con tàu. Không còn lý do gì mà không tách bến ông hạm phó thân mến ạ!

Ông đổi giọng rắn rỏi, dứt khoát:

- Tháo hết dây, trừ dây số ba.

Tôi vui sướng nghe anh vô tuyến lặp lại mệnh lệnh vào điện thoại nội bộ. Mặc cho các dây đã kéo về tàu nằm gọn vào ổ, con tàu vẫn bám chặt vào cầu. Hạm trưởng nhìn lên lá cờ để định hướng gió. Ông ban lệnh:

- Tay lái số 0. Máy tả lùi một.

Trung úy Được có trách nhiệm lặp lại lệnh hạm trưởng vào chiếc loa dẫn xuống phòng lái. Rất nhanh chóng, có tiếng hạ sĩ Thành từ phòng lái vang lên:

- Tả đã lùi một. Tay lái số không.

Sĩ quan vận chuyển đáp nhận rõ rồi lặp lại cho hạm trưởng. Ông gật đầu, hết xoay nhìn phía lái lại nhìn hướng mũi. Con tàu rùng mình rên khẻ bắt đầu chạy lùi. Tiếng điện thoại viên liên lạc sân mũi:

- Báo cáo dây số ba căng. Dây số ba rất căng.

Đúng vào lúc sợi dây duy nhất còn lại rung bần bật, bốc khói thì mũi tàu chầm chậm tách ra khỏi cầu. Giọng trầm tĩnh của Hạm trưởng:

- Hữu tiến một. Tay lái 15 bên trái.

Nhìn vẻ mặt an nhiên ung dung của ông, tôi tự nhủ mình phải rèn luyện được như thế. Đây là lần đầu tôi được cho lên đài chỉ huy để học hỏi cách cặp và rời cầu. Ba tháng vừa qua, tôi quanh quẩn sân mũi, sân giữa, sân lái để học cách buộc dây, cách ném dây lên cầu và thu dây về tàu. Mỗi mạn tàu trung bình thường có sáu dây buộc. Phải buộc thế nào để bất kể nước lớn hay ròng, con tàu vẫn cặp sát cầu, không xê dịch và không bị căng đứt dây. Tôi đã học cách thả neo, kéo neo và cho neo vào ổ. Học cách sử dụng hệ thống điện đàm nội bộ giữa đài chỉ huy với các sân, các tổ súng, hầm máy, hầm lái tay, cửa đổ bộ…

Hôm nay là buổi nhập môn vận chuyển rời cầu trong điều kiện sóng gió chếch mũi. Mỗi khi hạm trưởng quay mặt hướng nào, tôi quay theo hướng đó. Mỗi lệnh ông ban ra tôi thầm lập lại và nghiền ngẫm. Và bây giờ mũi chiến hạm chầm chậm tách rời cầu…

Tôi nghe lệnh thật sắc của hạm trưởng hòa trong tiếng máy rầm rập, tiếng nước xoáy rào rào:

- Máy tả ngưng. Tháo dây số ba.

Một nhân viên đơn vị bờ nhanh nhẹn nâng sợi dây cuối cùng lúc này đã chùng khỏi chiếc trụ đen ngắn. Sợi dây được nhân viên sân mũi kéo về thật nhanh, kết vào ổ.

- Giải tán nhiệm sở vận chuyển. Hai máy tiến một. Tay lái bên trái 20.

Rất chậm và lầm lũi, chiến hạm hục hặc vùng vằng tiến tới theo góc bốn mươi lăm độ so với cầu tàu. Càng ra xa, con tàu càng chao đảo. Tiếng gió rít đâu đó như tiếng sáo ở cung bậc cao, hòa quyện với tiếng bầm bập từ tấm vải bố rộng lớn che kín lòng tàu và tiếng phần phật từ lá quốc kỳ ở chóp trụ sắt bên trên đài chỉ huy. Tôi ngẩn nhìn lá cờ vàng ba sọc đỏ mới tinh đang năng nổ phất phới tung bay và chợt thấy vui vui, hăng hái….

- Lái thẳng.

Tiếng Thành vọng lên rõ mồn một:

- Lái thẳng đường hai bảy hai.

- Hai máy tiến hai.

Tiếng leng keng báo máy đã tiến chìm trong tiếng sóng dồi gió dập ì ầm. Con tàu bất ngờ chui vào một vùng mây mù xám xịt. Vô vàn mảng nhỏ xoắn xuýt rồi tan nhanh. Người tôi nóng bừng, bứt rứt. Miệng tôi nhờn nhợn, khó chịu. Mồ hôi rịn ra ở ngực và lưng. Tôi biết là tôi đang muốn mửa. Cái khả năng chịu sóng của tôi qua mấy tháng thực tập hải nghiệp ở quân trường được ghi nhận là yếu. Trong suốt thời gian đó biển ngày nào cũng động, nhưng dù động mạnh hay nhẹ, không ngày nào tôi không ói mửa. Có hôm mửa cả mật xanh mật vàng. Tôi nhớ đã nghĩ đến chuyện đào ngũ, bỏ cuộc. Sáu chuyến công tác ngắn hạn vừa qua lúc nào biển cũng êm nên thấy đời nơi nào cũng đẹp. Giờ đây, ý nghĩ đào ngũ lảng vảng đâu đây. Tôi đặt ống dòm lên mắt, cố chú tâm quan sát. Phía trước mù mịt. Tôi chúc ống dòm xuống mặt nước. Mặt nước đục ngầu, giận dữ, lồng lộn sủi bọt. Hạm trưởng ra lệnh anh giám lộ kéo còi hải hành trong sương mù. Tiếng còi vang lên kéo dài, bị nuốt chửng vào không gian âm u rồi lại vang lên, kéo dài, đều đặn. Tôi cũng lắng nghe tiếng còi vọng đến từ đâu đó nhưng mọi phía vẫn chỉ là những âm thanh hỗn tạp, khó nghe…

Hạm trưởng ngồi vào chiếc ghế nệm bọc da dành riêng cho ông. Người ông đong đưa, đôi mắt đăm đăm nhìn xuyên qua khung trời mù mịt. Tôi đoán là ông đang ưu tư. Tôi nhớ một lời nói đùa khi học về hải hành trong sương mù. Nó không khác gì… hiệp sĩ mù nghe gió kiếm. Con tàu phải lắng nghe tiếng còi để tránh nhau. Khi “thấy” nhau thì coi như quá muộn.

Hạm phó nói lớn:

- Phòng radar báo cáo ba écho gần nhất.

Tôi nghe lệnh truyền đi và tiếng đáp nhận. Một lúc sau là tiếng báo cáo hướng và khoảng cách. Hạm phó loay hoay đo đạt, chấm tọa độ vị trí chiến hạm lên tấm hải đồ. Ông đề nghị hạm trưởng cho đổi đường.

Mũi tàu quay dần về phía hữu. Bất chợt con tàu chao đảo dữ dội. Tôi chụp lấy thành đài, bám chặt. Hạm phó buông thõng chiếc ống dòm lủng lẳng trước ngực, phóng tới ôm chiếc la bàn điện đặt trên một trụ sắt giữa đài chỉ huy. Ông nhìn vào chiếc la bàn, giọng thật sắc:

- Lái thẳng.

Tiếng vọng:

- Lái thẳng, đúng hướng bắc.

Con tàu hăm hở chúi mũi vào hết ngọn sóng bạc đầu này đến ngọn sóng khác. Trời vẫn mịt mù. Nó không còn lắc lư mà lúc nào cũng chồm lên hụp xuống. Nước bắn tóe vào đài chỉ huy từ mọi phía. Các bộ kaki màu nước biển lấm tấm những đốm xanh thẫm. Sau hơn nửa tiếng sóng dập gió vùi, những tiếng ụa mửa bắt đầu phát ra từ lòng tàu. Chính lúc đó, hạm trưởng lại cho lệnh đổi đường:

- Tay lái bên phải 15.

- 15 bên phải.

- Hướng 10 độ. Hướng 20. Hướng 30. Hướng 40…

- Hai máy tiến ba. Lái đường 120.

Tiếng máy rầm rập lớn hơn như đang ráng sức đẩy con tàu nhanh hơn. Bây giờ thì khối sắt hình chữ nhật bắt đầu lăn qua lắc lại và chồm lên hụp xuống. Các sĩ quan hiện diện đều tỏ vẻ chịu đựng nhưng riêng hạm trưởng, hạm phó thì vẫn thong dong hợp tác điều khiển con tàu rời quân cảng và vịnh Sơn Trà.

Cho tới khi radar báo cáo thấy Cù lao Chàm ở phía Nam ông mới rời khỏi ghế, bước lại bàn hải đồ. Ông gật gù tỏ vẻ hài lòng khi thấy vị trí chiến hạm nằm trên hải trình vạch sẵn. Từ điểm này đến điểm đổi đường trực chỉ Hoàng Sa chừng mười hải lý. Cũng từ điểm đó, coi như chiến hạm rời vùng cảng vịnh lắm thương thuyền. Ồng mở quyển nhật ký hải hành và ghi vài dòng tiêu lệnh. Ông hỏi hạm phó:

- Ai là sĩ quan đương phiên?

- Thưa trung úy Được.

- Ai kế?

- Thưa, Thiếu úy Tâm.

Ông quay sang tôi:

- Thiếu úy Bằng đi ca với trung úy Hào.

Ca của trung úy Hào bắt đầu tám giờ tối. Không đợi tôi đáp nhận, ông quay sang hạm phó:

- Hạm phó trách nhiệm hải hành từ giờ phút này cho đến khi tàu đổi đường tám mươi tư. Nhớ trừ độ dạt. Mình hiện còn trong vịnh, chạy máy tiến ba được rồi. Thiếu úy Bằng có thể xuống nghỉ ngơi.

Tôi hăng hái lên tiếng:

- Thưa hạm trưởng, tôi xin ở đây cho đến khi nhận phiên.

Ông gật gù:

- Còn năm tiếng nữa mới đến phiên. Mệt lắm đó. Tùy anh.

Ông xoay người bước đến cầu thang. Hạm phó hô nghiêm. Tất cả nhân viên đưa tay chào. Đợi Hạm trưởng khuất hẳn, hạm phó cười cười với Được:

- Anh hùng thấm mệt? Chưa bao giờ thấy mặt anh xanh như lần này.

Được tựa lưng vào thành đài, nhăn nhó:

- Đêm qua quần nhau tới sáng. Giờ gặp sóng gió thế này chắc…chết.

- Muốn hạm phó đi giúp ca này chăng?

Được lắc đầu:

- Rất cám ơn nhã ý nhưng tôi biết chắc hạm phó còn… mệt hơn cả tôi! Mới trăng mật mà!

- Đằng nào tôi cũng phải ở đây cho đến khi đổi đường. Nếu không muốn xuống thì cứ đứng… nhắm mắt cho lại sức. Mãn phiên cùng xuống với tôi.

 

 

Nhưng Được không nhắm mắt, chốc chốc lại nâng ống dòm nhìn xuyên qua tấm kính chắn gió. Thỉnh thoảng anh loạng choạng, quơ tay lung tung để giữ thăng bằng khi con tàu nghiêng quá đà. Tôi biết là tôi chưa làm thế được. Tôi còn cần bám vào một cái gì đó mới khỏi bị ngã nhào. Tiếng gió rít veo véo, tiếng rào rào của các mảng nước bắn tung, tiếng đì đùng của các đợt sóng ngầm chặt vào lườn. Thỉnh thoảng chiến hạm va phải cơn sóng mạnh, cả thân tàu run rẩy theo tiếng răng rắc vang lên. Tất cả những âm thanh đó gợi tôi cái cảm giác bất an. Suốt mấy tháng trước, dù được đi ca chung với hạm phó, học hỏi được nhiều nhưng tôi vẫn chưa quen với những tiếng động lạ thường, những tiếng động tưởng chừng chiến hạm sắp gãy đôi.

Tiếng của hạm phó lạc vào âm thanh hỗn độn:

- Thiếu úy Bằng xuống kiểm soát việc trực radar. Đừng để nhân viên thám xuất rời mắt khỏi màn ảnh. Mọi bất thường báo cáo ngay.

Tôi đáp nhận rõ rồi xiên xẹo lần ra đầu cầu thang dẫn xuống phòng lái. Cầu thang như dài hơn, sâu hơn thường ngày. Tôi lần dò đặt chân lên từng bậc. Hai tay bám chặt thanh sắt an toàn. Con tàu chầm chậm nghiêng về bên phải rồi vặn mình nghiêng về bên trái. Tôi phải dồn toàn lực vào hai tay để bám víu mỗi khi con tàu nghiêng hết về một phía. Sự cộng hưởng tạo một sức ly tâm cực mạnh khiến tôi có thể bị bắn văng khỏi tàu. Xuống đến chân cầu thang, tôi thận trọng bước lần dò về cửa phòng lái. Cửa là một tấm sắt dềnh dàng đóng kín khi sóng to gió lớn. Cần khóa đang ở thế thẳng đứng. Muốn mở, phải vặn cho nó nằm ngang. Trời vẫn oi bức nhưng tôi cảm thấy lành lạnh, rợn người. Với mức độ chòng chành thế này, không cẩn thận chọn đúng thời điểm, cánh cửa ngàn cân có thể bật tung vào người gây thương tích nặng. Và một khi cửa đã mở mà không bước vào kịp, nó sẽ bật vụt lại, chặt gãy tay chân.

Một tay bám vào thanh an toàn, tay kia nắm cần chốt, tôi nín thở chờ đợi. Vừa khi con tàu trở về vị trí thăng bằng, tôi xoay phần tư vòng, mở vụt cánh cửa, lách vô thật lẹ. Chân vừa rút vào thì cánh cửa ập sầm lại. Tôi gài chốt mà… hú hồn. Phòng lái lờ mờ. Tôi bước đến chiếc radar đặt gần vách trong. Anh trung sĩ nhất thám xuất đưa tay chào. Tôi gật đầu, thân mật:

- Các anh đều…êm cả chứ?

Anh cười:

- Cám ơn thiếu úy, tụi này cũng đỡ.

Tôi vỗ vai hạ sĩ Thành, nói đùa:

- Anh vẫn còn ôm… bánh xe nước mía?

Anh cười thân thiện:

- Sau nhiệm sở vận chuyển là nhận luôn ca lái. Trông thiếu úy còn tỉnh táo lắm!

Tôi bước sang nhìn vào mặt kính radar hình tròn. Từ điểm trung tâm, một vệt sáng quét chầm chậm tạo nên hình ảnh hải cảng vịnh Sơn Trà. Phần sáng rực là bờ và núi. Phần nhạt hơn là biển với vài ba đốm trắng nổi bậc. Anh thám xuất cho biết các đóm sáng đó là những đối vật di động, có thể là thương thuyền đang đi vào cảng. Ánh sáng khi lóe, khi lòe làm mắt và đầu tôi căng nhức. Tôi bước lui, tựa lưng vào vách. Qua lổ châu mai, mũi tàu cất lên thật cao rồi gục xuống đánh sầm. Một mảng sóng lớn tràn qua mũi như muốn nhận chìm chiến hạm. Nước tốc lên, túa ào ạt vào lòng tàu và ập vào ô kính các lỗ châu mai. Tôi nghĩ thầm, may mà tàu còn ở tiến ba, chớ tăng nữa thì coi như là đời đi đứt.

Như để thách đố, một giọng uể oải phát từ miệng loa:

- Phòng lái, hai máy tiến bốn. Lái đường 78.

Tôi cay đắng mỉm cười. Với tốc độ đường trường này, rồi mày lại thấy mật xanh mật vàng. Rồi mày sẽ còn mửa dài dài, còn khốn khổ dài dài… Tiếng lạch cạch từ cần tốc độ. Tiếng leng leng báo hiệu máy đã tăng. Con tàu vật vã, giật mình, rên rỉ. Nhìn về tả hạm qua lỗ châu mai, một khoảng không gian nhỏ bé chầm chậm chuyển từ vòm trời âm u sang vùng biển xáo động và ngược lại. Đôi lần, cả mặt hông biến thành đáy tàu một thời gian khá lâu. Những lúc đó, hai tay tôi bám chặt vào bất cứ vật gì vững chắc để chờ con tàu trở về sự nghiêng ngửa bình thường. Nhìn về trước mũi, có lúc nó cất lên thật cao rồi nghiêng mình chúc xuống trông tựa chiếc tiềm thủy đỉnh gầm gừ rẽ sóng. Những lúc đó ruột gan tôi như trào lên đè bẹp buồng phổi.

Tôi lại thấy ngột ngạt, bụng quặn lên, nước mắt ứa tràn. Đến cơn quặn đau thứ ba, tôi phóng tới chiếc sô đặt gần cửa ra vào. Chưa kịp gục mặt xuống, miệng đã há rộng. Tôi nôn thốc hết thức ăn bữa trưa. Rồi tiếp tục các chất bầy nhầy lợn cợn chừng là thức ăn chưa kịp tiêu của buổi sáng và của ngày trước đó. Nước mắt tôi ràng rụa. Tôi nín thở mà vẫn ngửi được mùi tanh hôi nồng nặc. Tôi không dám đứng lên, vẫn tiếp tục ôm chiếc sô chờ tới phiên mật xanh mật vàng. Trong giây phút toát mồ hôi đó, đầu óc tôi chợt hiện ra hình ảnh câu ca dao đã được một anh thủy thủ hiệu đính nhân một lần thấy tôi ói mửa: “Hôm qua lên gác đài cao, trông cá cá lặn trông sao sao mờ, buồn trông thiếu úy ôm sô”. Tôi thấy vui vui và bỗng nghe người nhẹ đi. Một cảm giác dễ chịu lan nhanh. Theo kinh nghiệm, tôi hiểu là công tác…nuôi cá đã tạm dứt và từ giờ có quyền chờ dịp khác. Tôi gắng gượng đứng lên, bám vào vách, hổn ha hổn hển. Đúng lúc đó tôi nghe văng vẳng giọng ca Thanh Thúy. Tôi tưởng tôi đang mê nên cố lắng tai…Giọng ca nỉ non, rõ ràng từng tiếng: “… thì dù xa xôi tôi vẫn là của người”. Tôi bậc cười thì thầm: “Cám ơn em, cho dù có em ở đây, anh cũng chẳng… ăn được cái giải gì!”.

Nghe tiếng tôi cười, hạ sĩ Thành quay sang:

- Phòng vô tuyến chơi điệu lắm, thiếu úy. Những lúc sóng to, biển động, họ mở nhạc yêu cầu nghe hết xảy!

Tôi gật đầu tán đồng nhưng không dám lên tiếng. Tôi biết, nếu há miệng, tôi sẽ không nói mà là mửa tiếp. Tôi nín hơi cố ngăn một cơn nôn. Giọng ca nức nở, ngọt ngào như ru tôi vào cõi mộng. “Nhiều khi ưu tư, tựa song cửa nhỏ, nhìn ngoài mưa tuôn sao nghe lạnh vào hồn”... Tôi thấy lạnh ở thân nhưng hồn thì tan theo tiếng hát.

Tiếng còi báo đổi phiên vang lên đúng mười lăm phút trước 3 giờ. Tôi nhớ tới lời bốc đồng với hạm trưởng là ở luôn trên đài chỉ huy cho tới nhận ca 8 giờ tối mà… hối hận. Tôi cảm thấy quá mệt mỏi và thèm chiếc giường êm ái của tôi.

Tiếng vọng từ đài chỉ huy:

- Mời thiếu úy Bằng lên gặp hạm phó.

Tôi nói lớn đáp nhận rồi dứt khoát bước nhanh về cánh cửa sắt. Tôi xoay cần chốt, vừa đẩy mạnh vừa kềm giữ. Cánh cửa bật tung. Tôi bước nhanh ra. Cửa tự động ập lại. Tôi xoay cần chốt khóa chặt. Gió rít từng hồi mang theo những giọt nước li ti bắn túa vào người. Tôi lại lạng quạng từng bước lên các bậc thang. Con tàu chao nghiêng, trườn tới rồi chao nghiêng, chừng như đang biểu diễn một điệu luân vũ giữa muôn ngàn hoa sóng. Chiếc mũ lưỡi trai bất ngờ rời khỏi đầu. Tôi ngoái lui. Chiếc mũ bay vụt cao, la đà rồi lại vụt cao và mất hút. Cơn ớn lạnh len dài theo xương sống. Tôi nhớ ra là đã quên cái áo mưa trong phòng lái. Tôi muốn trở lui nhưng nghĩ đến phút giây phải mở cánh cửa chết người nên đành chịu ướt, chịu lạnh bước tiếp. Hạm phó nhìn tôi cười:

- Cho cụ chạy xuống chạy lên thử xem sức cụ tới đâu! Quả là… chì! Thôi, xuống nghỉ ngơi đi. Sóng gió thế này mà đòi đi ca liên tiếp chín tiếng là …thăm thẳm chiều trôi đấy!

Mệt quá, tôi không cười nỗi với lời đùa của ông. Và cũng tự lờ đi lời vừa cam kết ngon lành với hạm trưởng. Tôi bước sang bàn hải đồ mở sổ Tiêu lệnh ông ghi trước đây “Hải đạo 84. Độ dạt - 6. Hướng thật 78. Bớt gió, lái hướng 80. Áp dụng điều luật hải hành trong sương mù. Tốc độ phỏng định 10 gút. Quan sát bằng ống dòm và radar thật cẩn thận. Mọi bất thường gọi ngay hạm trưởng”. Tôi đọc lần thứ hai rồi chào từ biệt hạm phó và Tâm vừa lên nhận phiên. Có lẽ phải mất đến mười phút tôi mới lần dò tới được chiếc giường êm ấm của tôi bên dưới lòng tàu. Nhưng chỉ cần vài phút là tôi đã chìm vào giấc ngủ mê mang, bỏ luôn bữa cơm tối.
* * *

Tiếng còi rền rĩ báo đổi phiên vang vang mơ hồ. Tôi muốn trở mình ngồi dậy nhưng lại chìm vào sâu vào giấc ngủ. Rồi tôi cảm giác được vai tôi bị lay động nhiều lần. Rồi âm giọng quen thuộc của trung úy Hào lọt vào tai tôi:

- Hê! Hê! Dậy đi ca chứ!

Tôi ngồi bật dậy, đong đưa chân ngoài giường cố định thần. Màn tối huyền ảo bao trùm khu buồng ngủ sĩ quan phát từ ánh đèn màu đỏ trên các vách. Sóng gió dường như tăng thêm cường độ… tiện xoáy bào. Chờ con tàu trở về thế thăng bằng, tôi nhảy phóc xuống. Giường tôi ở tầng ba, bên trên giường Tâm và Hào. Giữa cơn lắc lư thế này mà leo lên được vào giường là cả một công trình. Phía đối diện là hai giường treo của Trung úy Hải và Được. Tiếp liền là buồng ngủ riêng biệt của hạm phó có phần nhỏ hơn buồng của hạm trưởng. Cấp bậc thấp thường thiệt thòi nhiều thứ kể cả cái chỗ ngủ. Hạ sĩ quan thì giường treo bằng vải bố có lót nệm. Lính thì chỉ là giường bố và được đặt chồng chất nhiều tầng.

Tôi mang giày, nhét áo vào trong quần, ôm chiếc áo mưa rồi quờ quạng lên nhà tắm. Vài phút sau tôi lần mò đến cánh cửa sắt, thận trọng quay chốt, thận trọng đẩy mạnh và bước nhanh ra sân giám lộ. Đêm mịt mùng, không một ánh lửa như khi hải hành cận duyên trong thời tiết tốt. Mưa tạt khá mạnh. Gió vẫn rít từng cơn. Tôi khoác áo mưa, bước lên từng bậc thang. Trung úy Hào trưởng phiên đã có mặt ở đài chỉ huy nói vói xuống khi tôi vừa ngang phòng lái. Anh giao tôi trách nhiệm phòng lái, quan sát radar và kiểm soát nhân viên đương phiên. Tôi cởi chiếc áo mưa mắc vào vách. Dưới chân tôi và quanh sàn một số nhân viên nằm la liệt. Một người đang độc quyền ôm cái sô thường được gọi mỉa mai là cái ao nuôi cá. Một phiên hải hành thường là bốn tiếng. Tất cả nhân viên được chia thành ba phiên. Trong mỗi phiên, tùy nghề nghiệp, tùy vị trí phiên trực và tùy số nhân viên hiện diện, mỗi nhân viên thường chu toàn phần nhiệm của mình từ một tiếng đến hết phiên. Phòng lái mỗi phiên có bốn hoặc năm người. Trừ anh thám xuất lãnh trọn suốt phiên, còn lại chia nhau luân phiên quay tay lái hoặc đẩy cần tốc độ. Lên phiên là không được lơ là. Con tàu không thể thắng như thắng… xe đạp. Muốn thắng, con tàu phải được điều khiển cho ngưng máy rồi lùi máy. Tất cả tùy thuộc vào kinh nghiệm và phản ứng của từng người. Anh thám xuất phải phân biệt và báo ngay mọi đối vật xuất hiện trên màn ảnh. Với thời thiết xấu như đêm nay, radar khó khám phá đối vật hoặc cho đối vật giả tạo từ sóng nước. Các nhân viên khác cần phản ứng nhanh và chính xác trước mỗi lệnh được ban ra. Đó chính là lý do hạm trưởng cần người thạo nghề, phản ứng nhanh nhẹn và chính xác, như thám xuất Tạo, vận chuyển Thành, giám lộ Nhẫn. Anh thám xuất đang đứng cạnh radar. Anh vận chuyển đang ngồi trước bánh lái. Còn nhân viên đánh cần tốc độ thì mất dạng. Tôi hỏi anh cầm lái:

- Ai đánh cần tốc độ?

- Thưa, thủy thủ Hòa.

- Thủy thủ Hòa đâu rồi?

Anh vận chuyển chỉ tay xuống sàn. Tôi đưa mũi giày hít nhẹ vào lưng người nằm sát chân tôi. Anh ngóc đầu rồi… gục xuống. Tôi hét:

- Xuống hầm lái tay mà nằm!

Ba tiếng “hầm lái tay” quả là có tác dụng mạnh mẻ. Biển êm mà bị phạt xuống đó cũng đủ thấy đời khốn nạn huống hồ vớ phải cái tình trạng biển rất… khốn nạn lúc này. Anh lồm cồm quỳ một chân, chống tay lên đầu gối, gắng gượng đứng lên. Đúng lúc đó con tàu đánh sầm vào ngọn sóng lớn và anh lại từ từ rụng xuống. Tôi cũng muốn rụng theo nhưng cố lấy sức bước gần nâng cánh tay anh. Anh vẫn nằm yên, cố tình không hay biết hoặc quả tình đã mất hết tri giác. Tự dưng lòng tôi dâng lên mối cảm thương. Nếu tôi không là sĩ quan, không ôm cái mộng làm… ông Trời trên chiến hạm, chắc chắn là tôi cũng sụm như anh. Thôi thì radar vẫn còn chạy tốt và không đối vật hiển thị, một người vừa ôm tay lái vừa họa hoằn đánh cần tốc độ thì kể cũng đã quá đủ. Tôi ngầm lơ cho anh… yên nghỉ! Phần tôi cũng có cái ao ước lúc này phải chi mình được… an giấc nghìn thu!

Tôi nhắm mắt, nín hơi, làm như mình đã chết và thân không còn dính dáng gì đến… sóng gió loạn cuồng. Cái hình ảnh quỳ một chân, tay chống lên đầu gối của anh đánh cần tốc độ chợt hiện ra. Hình ảnh đó gợi tôi liên tưởng đến buổi lễ ra trường cách đây gần bốn tháng. Buổi sáng hôm đó, tám mươi sinh viên sĩ quan của khóa tôi phải qua một phần nghi lễ trong các nghi lễ mãn khóa nhớ đời. Chúng tôi đứng thành hàng ở thế nghiêm trước sân cờ. Người điều khiển chương trình hô to:
- Sinh viên. Quỳ xuống!

Chúng tôi đồng loạt đưa chân trái tới một bước, đồng loạt quỵ đầu gối mặt xuống đất và đồng loạt đưa tay mặt lên dở chiếc mũ cát kết đặt trên đầu gối trái.

Sau khi nghe huấn lệnh và lời chúc mừng của vị Tổng tư lệnh Quân lực Việt Nam Cộng Hòa, tiếng hô lại vang lên mạnh mẽ:

- Sĩ quan. Đứng lên!

Chúng tôi nhất loạt đứng lên nhưng thay vì đội mũ và đứng nghiêm, chúng tôi dùng hết sức mình ném tung chiếc cát két. Cả đàn bướm trắng vút túa lên không trung. Không một ai quan tâm đến chúng, tất cả tìm nhau, ôm nhau mừng rơi nước mắt…

 

 

Lễ mãn khóa Sĩ quan Hải Quân Nha Trang

 

Tôi đã “đứng lên” thì giờ đây không còn lý do để “quỳ”, nhất là không thể để quỵ. Tôi bước đứng gần cần đánh tốc độ, một tay nắm chặt thanh sắt tròn gắn vòng quanh vách phòng lái. Tôi như muốn ngợp thở với cái bầu không khí hâm hấp, tanh tưởi.

Tôi hít vào, thở ra thật nhiều lần và lại nhắm mắt định thần. Tôi như thấy còn đang hưởng những ngày thật hạnh phúc ở quần đảo Hải Tặc (les Pirates) gần hai tháng trước. Đó là chuyến thứ ba của bảy chuyến công tác đầu đời thủy thủ, gồm cả chuyến này. Quần đảo nằm cách Rạch Giá chưa đầy 20 cây số, cách Hà Tiên 28 và Phú quốc 40. Hải tặc là tên gọi từ cuối thế kỷ 17 vì từ thời đó quần đảo gồm 16 hòn đảo là sào huyệt của bọn hải tặc đánh cướp thương thuyền. Thật ra chỉ có sáu đảo là có thể ở được. Đến thời điểm tàu tôi công tác vùng này vào cuối mùa Xuân năm sáu ba, một trung đội Biệt Động Quân được cho đổ bộ lên sáu đảo này không chỉ để tiêu diệt bọn cướp biển mà còn để truy lùng lũ Cộng nô. Tàu tôi, trên danh nghĩa là một đơn vị tham dự, nhưng thật ra chỉ có mỗi nhiệm vụ là chở trung đội từ đảo này sang đảo khác, tựa như đưa du khách thưởng ngoạn kỳ quan giữa biển trời nên thơ. Quả là có ba đảo trông rất nên thơ và có hình dáng thật độc đáo nhìn xa từ chiến hạm. Với đảo lớn, tôi có trọn hai ngày thưởng thức những đường nét thiên nhiên lạ mắt và tận hưởng sự thanh tịnh đến lạ thường. Với đảo nhỏ cũng thảnh thơi trọn ngày câu cá và thỏa thuê qua vị ngọt của nước dừa. Suốt thời gian đó dáng vóc của Hiền, của Tuyết đôi khi hiện ra mờ nhạt rồi cũng bị tôi thẳng thừng xua đuổi: “Làm ơn… biến!”.

- Thiếu úy! Có écho hướng 10 giờ, cách 22 hải lý. Écho di chuyển nhanh.

Tôi bước vội đến chiếc radar. Trên cái màn ảnh đầy chấm trắng như hạt cát phản ánh từ cái mặt biển đầy ngọn sóng đổ vỡ, một vệt trắng lớn đang di chuyển hướng về chiến hạm. Tôi bước trở lui báo cáo lên đài chỉ huy:

- Đài chỉ huy! Có écho hướng 10 giờ cách 20 hải lý. Có thể là máy bay.

- Theo dõi và báo cáo liên tục.

Tôi bảo anh thám xuất thi hành lệnh và chuyển tin lên đài chỉ huy khi hướng và khoảng cách đối vật thay đổi. Anh đánh cần tốc độ tự động đứng vào vị trí của mình. Tôi nghe tiếng xì xào vọng xuống từ đài chỉ huy. Khi báo cáo écho biến mất trên màn ảnh, tôi thấy ánh đèn pha sáng rực chiếu thẳng lên tàu. Tôi mơ hồ nghe tiếng động cơ hòa vào tiếng máy tàu rồi tan mất.

- Thiếu úy Bằng lên gặp hạm trưởng.

Vừa bước khỏi phòng lái, tôi vừa lo thầm. Không biết mình báo cáo sơ xuất gì đây. Tôi lại quên áo mưa nên bị sóng tạt lấm tấm ướt bộ kaki hòa điệu với những giọt mồ hôi. Gió rất mạnh nhưng không đủ làm khô.

Lên đến bậc thang chót, tôi đưa tay chào:

- Thiếu úy Bằng trình diện hạm trưởng.

Ông đợi tôi bước hẳn vào đài chỉ huy mới lên tiếng:

- Vừa có một máy bay của ta bay không tuần hỏi mật hiệu. Khi nào anh trở thành trưởng phiên, nhớ sử dụng mật hiệu có ghi trong đặc lệnh truyền tin giữ trong ngăn kéo của bàn hải đồ. Trường hợp anh là trưởng phiên tối nay, trước tiên anh phải làm gì?

- Thưa nhận chuông gọi hạm trưởng.

- Trong khi chờ đợi tôi lên, anh làm gì?

- Thưa, cho tắt hết đèn.

- Rồi làm gì nữa?

Tôi cố nghĩ nhưng đầu óc trống rỗng …

- Trường hợp gặp máy bay địch thì anh làm sao?

- Thưa tôi cho nhận còi nhiệm sở tác chiến.

- Làm sao anh biết máy bay địch?

Tôi lại im lặng, lúng túng. Hạm trưởng hỏi tiếp:

- Anh có học cách nhận dạng phi cơ của ta, của bạn và của địch?

- Thưa hạm trưởng chưa.

- Thế thì anh phải học từ ngày mai. Hạm phó nhớ lấy hồ sơ nhận dạng phi cơ giao cho thiếu úy Bằng.

Tôi nhìn cái dáng lù lù đứng sát thành đài được nói đến là hạm phó. Tiếng hạm trưởng lại cất lên dành cho tôi:

- Ban đêm, khi thấy đối vật di chuyển nhanh bằng radar, anh cho gọi tôi và cho darken ship là đúng rồi. Còn ban ngày, nếu anh chưa biết nhận dạng phi cơ thì cứ coi như phi cơ nào cũng là của địch. Anh gọi ngay tôi và cho chạy chữ chi. Tàu nào của chúng ta, trên nóc đài chỉ huy đều có sơn lá cờ vàng ba sọc đỏ to tổ bố. Nếu phi cơ là của phe ta, nó thấy lá cờ sẽ bay thẳng. Còn nếu là phi cơ địch có thể nó sẽ tấn công. Trường hợp bị bắn, lập tức nhận còi nhiệm sở tác chiến. Nhận còi liên tục để thúc hối nhân viên vào ổ súng cho nhanh. Lên hai máy tiến full và đổi hướng liên tục… Anh nhận rõ chưa?

- Thưa hạm trưởng rõ.

- Thôi anh trở về vị trí cũ.

Tôi chào ông và trở xuống phòng lái. Ánh sáng khi mờ khi lóe phát ra tự mặt kính radar vừa đủ để nhận dạng. Anh quay tay lái và anh đánh cần tốc độ đã thay phiên. Tôi bước qua đứng cạnh chiếc radar, hai tay dang thẳng nắm thanh sắt tròn, áp lưng vào vách. Và tôi nhắm mắt, thở dài. Sau hai năm vùi đầu, mệt xác ở quân trường, tưởng tốt nghiệp được thảnh thơi, nào ngờ còn… mệt hơn. Vừa công tác liên tục, vừa học hỏi không dứt. Vừa được chấm đậu nội dung Huấn thị Điều hành Chiến hạm, vừa bàn giao xong chức Ẩm thực, thì xúc tiến thảo bản tường trình tìm hiểu cấu trúc chiến hạm. Vừa xong bản này thì lần lượt được hạm trưởng đưa thêm các quyển Hải quy và Quy luật tác chiến trên biển, trong sông. Từ ngày mai lại thêm chuyện nhận dạng phi cơ! Xem chừng không dễ! Chiếc nào chẳng có mũi, có thân, có cánh, có đuôi? Vậy khác nhau chỗ nào hả trời!?


 

Rồi tôi bỗng lang bang nhớ đến tai nạn phi cơ giết chết ba má Tuyết. Số mệnh con người sao quá vô thường, mong manh. Là đứa con duy nhất, Tuyết đang hưởng trọn tình thương của cha mẹ, đang sống trong giàu sang ấm êm thì đột nhiên mất tất cả, thành kẻ long đong giữa chợ đời. Đúng là hồng nhan bạc mệnh. Tuyết đã ngỏ lời muốn làm vợ tôi hoặc Tâm, ai cũng được, vậy mà cả hai chúng tôi đều lơ là. Chúng tôi mê cái sắc đẹp của Tuyết nhưng cả hai đôi chân đều còn nặng bước hải hồ. Thêm vào đó tôi chưa có một đồng xu dành dụm.

Cái màn radar đột nhiên mất hình cùng lúc mọi loại đèn phụt tắt. Phòng lái chỉ còn chút phát quang lờ mờ từ ngọn đỏ dự phòng tù mù trên vách đối diện. Anh vận chuyển la lớn:

- Báo cáo tay lái mất điện.

Anh thám xuất cũng hô to:

- Báo cáo radar mất điện.

Tiếng của trung úy Hào từ đài chỉ huy vọng xuống:

- Hai máy tiến ba. Trừ thám xuất và nhân viên đang lái, tất cả xuống ngay hầm lái tay. Báo cáo khi lái tay sẵn sàng.

Tôi dựng dậy các nhân viên đang nằm và đôn đốc họ thi hành lệnh trưởng phiên. Con tàu giảm độ nghiêng ngửa nhưng tăng cơn chồm lên hụp xuống. Tôi lại nghe lệnh truyền sắc lạnh của trung úy Hào:

- Máy tả tiến hai.

Tôi nói lớn vào miệng loa và vói hai tay kéo hai cần tốc độ lui thêm một nấc:

- Đáp nhận, tả tiến hai, hữu tiến ba.

Tiếng leng keng báo thi hành của hầm máy. Tôi lại nói vào miệng loa dẫn lên đài chỉ huy:

- Báo cáo tả tiến hai, hữu tiến ba.

- Tả tiến một, hữu tiến hai.

Tiếng rầm rừ của hai máy chánh giảm xuống. Con tàu như sựng lại. Vẫn tiếng của trung úy Hào:

- Thiếu úy Bằng lên đài chỉ huy. Tôi xuống hầm lái tay. Thi hành lệnh tôi qua điện thoại.

Khi tôi bước lên các bậc thang thì trung úy Hào đang vội bước xuống. Tôi ép người sang một bên nhường lối cho anh. Khi lên đến đài chỉ huy, tôi nghe tiếng hạm trưởng từ phía đầu cầu thang. Tôi quay lui đưa tay chào ông. Ông bảo:

- Không có radar, các anh quan sát cho kỹ!

- Thưa hạm trưởng, nhận rõ.

Tôi đeo chiếc ống dòm dành riêng cho tôi vào cổ rồi bước sang đứng sát thành đài bên trái sau khi thấy hạm trưởng bước sang thành đài bên mặt. Tôi nâng ống dòm lên mắt. Trước mặt là vùng tối đen ngòm, chốc chốc lại ánh lên màu đỏ của đèn hải hành tả hạm qua ngọn sóng tạt vào tàu. Phải quan sát chăm chú mới thấy màu xanh của đèn hữu hạm loang loáng trong màn hơi nước. Các ngọn sóng cao nghệu liên tục tạt mạnh vào mạn tả tạo thành những cơn mưa xối xả. Bầu khí quyển như thêm hâm hấp và ẩm ướt. Con tàu đang nghiêng về hữu mạn bị một bức tường sóng ập vào làm nghiêng thêm, thêm nữa. Đài chỉ huy không còn cách mặt biển bao xa. Trời ơi! Một đợt sóng lớn nữa là con tàu khó tránh khỏi lật úp. Tôi nghe ớn lạnh khắp người. Hình như cái mong manh nhất của cuộc sống đang thể hiện rõ rệt lên khối sắt đang chênh vênh giữa biển bạo tàn.

Một đợt sóng khác lại đánh sầm vào mạn tả. Tôi buông ống dòm, cả hai tay bám chặt thanh an toàn, ngực và bụng dính vào thành đài đang nằm gần ngang mặt nước xoáy cuồng, hung tợn. Tôi nín thở chờ đợi, van vái con tàu đừng chìm… Và trong lúc tuyệt vọng nhất, đài chỉ huy bất ngờ bật ngược lại. Con tàu không còn trồi lên hụp xuống. Nó chỉ còn lăn qua, lăn lại, thường là hết về bên phải. Trời ơi, tôi còn phải chịu cái sóng ngang chết người này đến bao giờ! Như để giúp cơn sợ hãi của tôi tăng đến mức tối đa, nhiều tiếng ụa mửa, rên la của binh lính đại đội địa phương quân từ lòng tàu vọng đến đài chỉ huy. Tiếng ụa mửa rên la này trước đây chỉ văng vẳng nhưng lúc này thì át hẳn hợp âm lạ thường của tiếng gió rít, của tiếng sóng dập, của tiếng hai máy tàu rầm rập tốc độ đường trường.

- Trời ơi! Trời! Trời ơi! Sao mà khốn khổ thế này hả trời! Cho tôi chết còn… sướng hơn!

Tôi đồng ý với lời rên rỉ đó. Lúc này, đúng là chết còn sướng hơn! Hay tệ nhất cũng được nằm yên trên nệm ấm!

Tiếng của điện thoại viên:

- Báo cáo hạm trưởng hầm lái tay sẵn sàng.

Hạm trưởng nhanh nhẹn bước sang, chiếu đèn pin vào chiếc la bàn từ. Tiếng của ông át cả tiếng sóng gió:

- Máy tả tiến hai. Tay lái hết bên trái.

Anh hạ sĩ quan phòng tai đứng gần miệng loa lập lại lệnh hạm trưởng xuống phòng lái:

- Máy tả tiến hai.

Điện thoại viên nói với hầm lái tay qua đường dây nội bộ:

- Tay lái hết bên trái.

Tôi nghe các tiếng báo cáo thi hành. Tôi nghe các tiếng báo hiệu đã máy tăng. Hạm trưởng vẫn đứng ôm chiếc la bàn từ, chốc chốc lại rọi sáng. Con tàu bắt đầu cỡi lên các đợt sóng. Lệnh hạm trưởng:

- Hai máy tiến ba. Tay lái mười lăm bên trái.

Lại tiếng chuyển lệnh, tiếng đáp nhận, tiếng leng keng. Hạm trưởng bảo hạm phó thay ông giữ hướng 75 của la bàn từ. Ông bước sang ngồi thỏm vào ghế, bật lửa châm thuốc. Tôi tự hứa là ba tháng nữa tôi sẽ hút khi biển động như ông.

Tôi chợt nghe giọng reo mừng rỡ của anh hạ sĩ quan:

- Báo cáo đã có điện.

Tôi quay lui. Mặt kính chiếc la bàn điện đã bật sáng. Lại tiếng của hạm trưởng:

- Hạm phó cho lái hướng cũ, tốc độ cũ.

Tiếng vọng từ phòng lái:

- Tay lái đã có điện.

- Radar hình ảnh tốt.

Hạm trưởng cho lệnh giải tán hầm lái tay rồi rời đài chỉ huy. Hạm phó nói với trung sĩ Tất phòng tai:

- Hai máy tiến bốn. Lái đường 78.

Con tàu tăng tốc độ và dần dần trở lại tình trạng trước đây là vừa lăn qua lật lại, vừa hụp vừa chồm. Tôi lại nhờn nhợn nhiều lần nhưng không mửa. Còn gì đâu mà mửa. Cả mật xanh lẫn mật vàng đã tuôn hết ra từ khuya. Dù sao, tôi cũng mừng là đã làm quen được với sự đong đưa lay lắt.

Hạm trưởng giao quyền chỉ huy cho trung úy Hào khi anh từ hầm lái tay mò lên đài chỉ huy. Ông khen ngợi trung úy Hào đã báo cáo ông kịp thời tình trạng mất điện, đã cho giảm máy đúng cách đối với sóng gió chếch mũi tả hạm. Nhưng ông thêm rằng, lần sau, phải theo dõi la bàn từ, tùy độ lệch mà điều khiển sai biệt máy đúng mức để giữ đúng đường. Nếu để tàu bị sóng gió đẩy ngang như vừa rồi, rất nguy hiểm. May là cơn bão đã qua, sóng gió đã giảm.

Tôi thầm cám ơn Trời Phật, thầm cám ơn hạm trưởng lên đúng lúc. Hạm trưởng vừa xuống khuất, Hào phóng ngay vào ghế của ông. Anh nhăn nhó:

- Tao giao ca cho mày. Xuống hầm lái tay có 10 phút mà muốn bá thở.

Tôi gật đầu và đảo mắt một vòng. Các nhân viên câm lặng hoàn toàn, trái hẳn lúc gió lặng biển êm. Ý thức trách nhiệm bắt họ đứng đó mà thật ra cũng như tôi, họ chỉ muốn nằm bẹp… Lúc này mà được nằm bẹp là “quốc sách”! Tôi không thể nằm mà đứng cũng không còn sức. Xương cốt tôi đã rã rời. Tôi bật ngang mảnh nệm tròn nhỏ gắn chặt vào thành đài và xê dịch cái bàn tọa lên đó. Đây là chiếc ghế dành cho sĩ quan đương phiên khi trời trong biển lặng, không có dấu hiệu chiến hạm thiếu an toàn. Nhưng đêm nay, với cái radar chạy tốt nhìn xuyên cả khối sương mù, với cái mặt đại dương là những ngọn núi di chuyển tiếp liền các thung lủng tử thần, chắc chắn là không có tàu đánh cá nào dám ra khơi. Vậy thì có khác chi đang hải hành giữa ban ngày trời trong bể lặng?

Bất chợt nhớ ra một điều, tôi lạng quạng bước lại bàn hải đồ bật ngọn đèn nhỏ vừa đủ sáng. Tôi ngó đồng hồ. Gần mười một giờ khuya. Tôi lấy compa đo đường kính 10 hải lý rồi ghim đầu nhọn vào vị trí phỏng định lúc 10 giờ và quay đầu có viết chì gạch ngang đường hải trình. Từ vị trí phỏng định mới lúc 11 giờ đến hòn đảo gần nhất thuộc quần đảo Hoàng Sa dài 90 hải lý, tôi thấy đáy biển suốt chiều rộng mỗi bên hải trình hai mươi lăm dặm đều có độ sâu rất đáng kể và gần như bằng nhau. Như vậy không còn gì mà không an toàn. Tôi mạnh dạn trở lại ghế ngồi, chân đạp chắc vào một chiếc loa, mắt nhìn mông lung…

Đầu tôi như có cái gì đè nặng trĩu. Tôi nhắm mắt lại, hai tay xoa thái dương rồi mở mắt tìm trong vùng mù sương mịt mùng một hình bóng thân yêu. Tuyết hiện ra. Rồi Hiền cũng hiện ra. Ai đẹp hơn ai đây? Hiền yêu kiều và Tuyết sắc xảo. Tôi yêu ai đây? Hiền có Thanh và Tuyết có Tâm. Hiền hôn Thanh và Tuyết hôn Tâm. Tôi thở dài chán nản!

Một thủy thủ trách nhiệm quan sát đứng cạnh tôi buông xuôi ống dòm, gục mặt xuống. Tôi nghe tiếng ọc ọc từ miệng hắn. Âm thanh rên rỉ vì quá gần nên nghe càng rền rĩ, rùng rợn hơn tiếng kêu trời của những người lính địa phương. Theo đà nghiêng của con tàu, hắn nghiêng theo rồi ngã sấp. Trung sĩ Tất thản nhiên vạch áo, quẹt lửa rèn rẹt cố châm điếu thuốc. Ánh lửa giúp tôi thấy trung úy Hào đang nhìn anh mỉm cười. Mùi thuốc làm tôi thấy thèm nhưng biết rằng chưa phải lúc.

Tiếng vọng từ phòng lái:

- Đài chỉ huy! Có écho hướng 2 giờ, khoảng cách 5 hải lý.

Tôi giật mình dõi mắt về hướng báo cáo. Bầu trời vẫn mịt mùng tối đen. Tôi đứng lên, nâng cái ống dòm chầm chậm đưa qua đưa lại. Vẫn chả thấy một dấu hiệu gì. Năm hải lý là quá gần, không thể không thấy. Tiếng vọng lại vang lên, kèm theo tiếng vỗ rầm rầm vào ông loa:

- Đài chỉ huy! Đài chỉ huy!

Tôi định đáp thì đã nghe trung úy Hào lên tiếng:

- Đài chỉ huy nghe. Có việc gì thế?

- Báo cáo écho hướng 1 giờ, cách 5 hải lý.

Hảo quát to:

- Sao để gần thế này mới chịu báo cáo? Bộ ngủ hả?

- Thưa radar mới khám phá.

Hào hừ một tiếng, rời ghế hạm trưởng, đứng sát thành đài bên phải vừa quan sát vừa nói lớn:

- Báo cáo liên tục hướng và khoảng cách.

Trung sĩ Tất nhanh nhẩu nhắc lại vào miệng loa. Một lúc sau, có tiếng đáp:

- Vẫn hướng 1 giờ, 4 hải lý.

Tôi phóng qua đứng cạnh trung úy Hào, chống hai khuỷu tay lên mặt thành để giữ vững ống dòm. Mặt biển đen thẩm trở thành xam xám rồi mất hút. Tôi quét thật chậm ống dòm từ mũi tàu qua hướng ba giờ và chầm chậm quét trở lại. Tất cả 2 quan sát viên đều làm như tôi.

- Hướng 2 giờ, 3 hải lý.

Hào và tôi càng chú tâm quan sát hướng 2 giờ. Tấm màn đùng đục vẫn che kín như bưng. Hào ra lệnh:

- Trung sĩ Tất. Nhận chuông phòng hạm trưởng.

- Hướng 2 giờ 2 hải lý.

Hào la to:

- Kéo ba tiếng còi dài.

Tiếng còi lay động đêm khuya. Có tiếng la từ chuồng cu đèn giám lộ:

- Đã thấy ánh đèn hướng 2 giờ.

Hào quát:

- Đèn màu gì?

- Đèn chớp màu trắng!

- Bố khỉ. Nó đánh đèn hiệu. Giám lộ bắt xem nó nói gì.

Bây giờ bằng mắt thường tôi đã nhận được ánh chớp ngắn dài. Hào hỏi anh giám lộ:

- Nó nói gì thế?

- Dạ nó đánh bằng tiếng Mỹ.

Hào bật cười thành tiếng:

- Đồng ý là tiếng Mỹ nhưng tiếng Mỹ nói gì?

- Thưa nhanh quá bắt không kịp.

Tôi thông cảm anh giám lộ mới ra nghề lại gặp cái thời tiết thổ tả, lên tiếng:

- Anh bảo nó slow down please.

Anh giám lộ chớp đèn. Anh đánh nhanh hơn tôi tưởng. Sóng gió chỉ làm anh hốt hoảng khi nhận. Đèn từ phía ngang hông đánh trả. Tôi đã đọc được nhưng lặng thinh nhường anh giám lộ báo cáo:

- Thưa trung úy, nó hỏi which ship?

Tiếng hạm trưởng từ phía sau:

- Đánh hỏi lại nó which ship.

Anh giám lộ chưa kịp thi hành đã gục mặt ụa mửa liên hồi. Ngay khi dứt, anh lấy tay lau mặt và dùng tay kia chuyển tín hiệu. Đèn đối tác đáp trả. Tôi nhận ra chữ USN ship (US Navy ship) vừa lúc hạm trưởng lên tiếng:

- Đánh trả nó VNN ship. (tàu Hải quân Việt Nam).

- Đài chỉ huy! Hướng 3 giờ. 2 hải lý.

Lại đèn từ tàu Hải quân Mỹ. Anh giám lộ nói ngay khi tin hiệu dứt chuyển:

- Thưa hạm trưởng nó nói where are you heading for.

- Bảo nó Hoàng Sa. À không, Paracel. Papa-Alfa-Romeo-Alfa-Cierra-Echo-Lima.
Anh giám lộ lại vật lộn với sóng gió và đèn hiệu. Đèn chớp thật rõ nhưng vẫn chưa thấy được hình dạng con tàu. Thậm chí cũng không nhìn thấy hai đèn hải hành xanh đỏ.

- Đài chỉ huy! Hướng 4 giờ. Một hải lý rưởi.

- Thưa hạm trưởng nó nói best wishes to the captain and sailors.

- Trả lời nó thank you, same to you all and good night.

- Đài chỉ huy! Hướng 5 giờ, 3 hải lý.

Anh giám lộ thận trọng rời chuồng cu leo xuống đài chỉ huy. Giọng hạm trưởng thân mật:

- Khá lắm giám lộ Bảo. Cám ơn anh.

Hào rọi đèn pin vào đồng hồ. Anh bảo trung sĩ Tất:

- Anh nhận còi đổi ca.

Tiếng còi quen thuộc vang lên nghe thật dễ thương! Tôi thở phào nhẹ nhõm. Khi Tâm vừa xuất hiện nhận ca, tôi vỗ nhẹ vào vai anh rồi lặng lẽ len lén xuống phòng.

* * *

Tôi chợt thức giấc vì cảm nhận một sự êm ả bất thường. Chiến hạm không còn đong đưa, lay lắt, không còn rên rỉ vì những cú đập tàn bạo của các đợt sóng ngầm. Tôi nghe máy tàu vẫn còn chạy ở vận tốc cao nhưng dường như đang hải hành trong một vùng vịnh không sóng gió.Tôi nhìn đồng hồ: 7giờ sáng. Khuya đêm qua, khi rời đài chỉ huy, biển còn động dữ dội. Không lẽ chỉ qua một giấc Nam kha mà lại êm ru bà rù? Thì cũng dễ hiểu. Giấc Nam kha kéo dài suốt bảy tiếng, đủ để tàu vượt qua một đoạn đường dài, dứt bỏ vùng bão tố.



Đi bờ


Bụng tôi chợt cồn cào, ran ran. Tôi nhớ ra là tôi đã bỏ bữa ăn tối qua, đã mửa liên tục. Tôi cũng nhớ ra nhiệm vụ chính của tôi trên chiến hạm là kiểm soát việc ăn uống của thủy thủ đoàn. Bây giờ là giờ điểm tâm. Tôi ngồi bật dậy, cảm nhận cơn mệt mỏi, rã rời… Tôi rửa mặt thật chậm, tận hưởng cơn sảng khoái từ độ mát của nước. Tôi mặc bộ quân phục mới rồi bước lên nhà bếp. Hai nhân viên hỏa đầu vụ đưa tay chào. Tôi chào đáp và hỏi:

- Trung sĩ Quân đâu, anh Lâm?

- Thưa Thiếu úy, trung sĩ đang kiểm soát phòng ăn đoàn viên. Thiếu úy cần, tôi đi gọi?

Tôi nhìn nhà bếp gọn gàng, sạch sẽ:

- Thôi khỏi. Còn thức ăn sáng cho sĩ quan?

- Tôi dọn thêm món trứng chiên này là xong. Thiếu úy đã bỏ cơm chiều hôm qua.

Tôi cười gượng:

- Sáng nay chắc cũng thế.

Giọng Lâm vui vẻ:

- Biển đã yên. Ăn được rồi, thiếu úy.

Tôi lắc đầu:

- Vấn đề là…ăn không vô. Thức ăn chưa qua khỏi cổ là…vọt ra liền! Hy vọng bữa trưa, may ra.

- Trưa không chừng mình có vít ăn. Đảo Hoàng Sa có nhiều vít, thịt ngon hơn thịt gà.

- Vít là con gì vậy?

- Một loại rùa nhưng lớn hơn con ba ba nhiều.

Tôi cười, lắc đầu:

- Rùa rắn là không có tôi.

Tôi bước qua khung cửa vào lòng tàu. Cả đại đội địa phương quân còn say sóng nằm la liệt từ mũi tới lái. Họ như ngủ say sưa, mà thật ra họ còn mê thiếp, như tôi đêm qua. Nhiệm vụ buộc tôi phải…tỉnh lại. Không bao lâu nữa họ sẽ hạnh phúc lên bờ. Còn tôi, trọn đời khó thoát khỏi biển.

Tôi trở lại phòng ăn sĩ quan, nhắp thử ly cà phê sữa. Đây là ly cà phê hằng ngày mà sao hôm nay thơm ngạt ngào, vị ngọt ngào. Tôi ăn ngon lành một miếng trứng, một mảnh bánh mì. Đúng như lời anh hỏa đầu vụ, tôi đã ăn được. Và tôi ngốn ngáo hết phần ăn sáng của tôi.

Tiếng còi đổi phiên vang lên đúng lúc tôi đặt chân lên đài chỉ huy. Tôi chào trung úy Được. Anh trước tôi hai khóa và vừa được thăng Trung úy. Anh đưa tay, thân mật:

- Biết chú mầy thường lên sớm nên tôi đang mong đây. Lái dùm tôi cho đến khi trung úy Hào lên nhận phiên. Tôi có việc xuống sớm một tý.

Không cần biết tôi bằng lòng hay không, ông tỉnh bơ rời vị trí. Tôi tưởng ông đùa vì ông thừa biết tôi chưa đủ khả năng hải hành. Theo hạm trưởng, tôi phải cần đến ba tháng đi biển nữa mới được xét định tư cách trưởng phiên. Tôi lo lắng nhìn quanh. Không bóng dáng một chiếc tàu thuyền nào. Chỉ bao la một thảm xanh lao xao, lấp lánh. Muôn ngàn tia sáng lung linh chạy dài đến tận mặt trời chưa lên cao. Gió nhẹ, mát rười rượi. Tôi hít một hơi dài, thấy an tâm và hãnh diện. Hẳn trung úy Được đã thấy tôi tận lực học hỏi như thế nào suốt thời gian qua.

Nhớ đến việc đầu tiên phải làm khi nhận trưởng phiên hải hành là xác định vị trí chiến hạm, tôi bước sang bàn hải đồ nhìn vào hải trình. Hàng chục vòng tròn nhỏ có gạch chéo cách đều nhau trên một đường kẻ kéo dài từ ngoài khơi Sơn Trà đến trung tâm quần đảo Hoàng Sa. Vòng cuối cùng với ghi chú 1100H, nằm gần một nhóm đảo trông giống như là những quả trứng lớn nhỏ nằm ngổn ngang. Tôi hiểu là còn khoảng ba tiếng nữa sẽ đến điểm đổ bộ là hòn đảo lớn nhất có tên trên hải đồ là Pattle Island. Đó chính là đảo Hoàng Sa.

Tiếng trung úy Hào từ phía sau:

- Mình đến đâu rồi, thiếu úy Bằng?

Tôi quay lại đưa tay lên chào nhưng anh chỉ cười cười đưa tay ra bắt:

- Còn sức lên nhận phiên sớm là ngon quá rồi. Cứ tưởng anh hùng đã thấm mệt!

Tôi ráng nở nụ cười:

- Thưa trung úy, theo phỏng định thì còn ba tiếng nữa là đến điểm đổ quân.

- Anh tin vào cái vị trí phỏng định là có cơ hội chẳng bao giờ thành…hạm trưởng. Trong mùa sóng gió bão bùng, vị trí phỏng định là vị trí… bi quan nhất. Theo tiêu lệnh hạm trưởng, hải trình là đường 84, trừ hao độ dạt – 6 ta cho lái hướng 78. Và chúng ta đã phỏng định tốc độ là mười gút. Nghĩa là chúng ta đi theo gió chếch mũi tả hạm, hướng gió do cơn bão tạo thành Nhưng chúng ta lại ở trong mùa gió Tây Nam, nghĩa là mùa gió thường trực thổi thổi từ chếch lái phía hữu hạm tới. Còn phải tính tới dòng nước ngầm… Tóm tắt, thật sự giờ này chúng ta ở nơi nào trên biển, chỉ có…Trời biết. Không chừng ta đã lạc sang vùng Amphitrite Group của người dưng khác họ hoặc tệ hại hơn là đang vào vùng nước cạn North Reef với những xác tàu chìm. Nói cho cùng, gặp cái nào thì cũng thân bại danh liệt. Tốt hơn hết là bắt đầu theo dõi độ sâu.

Anh kê miệng gần chiếc loa, đổi giọng lớn hơn:

- Phòng lái, cho mở Fathometer và báo cáo chiều sâu mỗi năm phút hoặc khi có thay đổi cạn hơn. Radar! Báo cáo ngay khi phát hiện écho. Thiếu úy Bằng và các quan sát viên quan sát cẩn thận bằng ống dòm, từ hướng 10 giờ đến 2 giờ.

Hào dò nhìn lên tấm hải đồ khi nghe phòng lái báo cáo chiều sâu. Anh gật gù vói tay lấy chiếc ống dòm rồi bước sang ngồi tỉnh bơ trên chiếc ghế của hạm trưởng, tréo chân thoải mái. Anh chầm chậm quét ống dòm qua lại vùng biển xanh thẳm trước mặt. Trung sĩ Tất, giám lộ Bảo và tôi cùng đưa ống dòm lên mắt. Vẫn chỉ là mặt biển lóng lánh, thăm thẳm, mênh mông… Con tàu thênh thang phóng tới, bọt biển tỏa hình cánh chim, đổ về phía sau thành một tràng dài trắng xóa.

Cột cờ trơ trọi cuối lái gợi tôi nhớ lá cờ trên đỉnh chót vót. Tôi bước ra phía ngoài ngẩn mặt. Tôi nhìn trân trân. Lá cờ đã nhạt màu, phần đuôi rách te tua. Lá cờ vẫn bay phất phới nhưng uyển chuyển, nhẹ nhàng, trái hẳn hình ảnh vẫy vùng, mãnh liệt chiều qua. Tôi có cảm tưởng lá cờ cũng cùng mang sức sống như chúng tôi, cũng chịu đựng những vất vả gian nan, cũng tận hưởng những niềm vui thành đạt. Tôi bước trở lui, đứng thẳng người, quan sát cẩn thận vùng biển trước mặt theo đúng nhiệm vụ của sĩ quan đương phiên ghi trong huấn thị. Tôi đứng như thế rất lâu, đầu óc thênh thang như bầu trời không gợn chút mây…

- Báo cáo có écho hướng một giờ, khoảng cách 28 hải lý.

Tự dưng tôi thở ra nhẹ nhỏm. Hào đứng thẳng lên, chếch ống dòm về phía tay mặt. Anh chầm chậm, thật chậm quét ống dòm qua lại. Được vài phút, anh rời ghế, chạy vội xuống phòng lái. Khi trở lên, anh cười tươi tắn:

- Hải hành phỏng định mà… chính xác gớm!

Anh nhấc điện thoại:

- Thưa hạm trưởng, tôi trung úy Hào. Trình với hạm trưởng, đã thấy đảo hướng một giờ, cách 27 hải lý bằng radar. Chưa thấy bằng ống dòm.

Anh lặng thinh nhận chỉ thị một lúc, đáp nhận rõ và gác máy. Anh nhìn la bàn, ra lệnh:

- Lái đường tám mươi tư.

Hào đưa ống dòm lên mắt. Tôi bắt chước anh. Biển vẫn thăm thẳm, chập chùng đến ngầy ngật. Dường như gió đổi chiều, đưa ngược khói tàu lên tận đài chỉ huy. Mùi khói khó ngửi nhưng lại gợi tôi thèm một điếu thuốc. Tôi đã quên nó từ lúc tàu khởi hành. Tôi mở nắp túi, gắn điếu thuốc lên môi, thong thả châm lửa. Tôi nhả ngụm khói đầu tiên rồi hít một hơi dài tưởng chừng như đang hôn người yêu. Bất ngờ tôi ho sặc sụa và nghe bứt rứt khó thở. Chưa hút được. Tôi nhủ thầm, dứt khoát ném điếu thuốc. Nó nương theo gió bay thật xa rồi rơi hút vào bọt biển.

Bầu trời trong sáng, xanh ngát, không một dấu vết sa mù. Gió nhè nhẹ, mát rượi. đến từ mạn phải. Tôi hít một hơi sảng khoái và thấy lại yêu đời yêu biển…

Hạm trưởng xuất hiện ở chân cầu thang. Tôi báo cho Hào. Anh ra dấu cho nhân viên chỉnh đốn quân phục, tư thế. Tôi hô nghiêm và đưa tay chào khi ông đặt bước lên đài chỉ huy. Ông thân mật hỏi han từng người. Tôi là người cuối cùng.

- Thiếu úy Bằng trông tỉnh táo lắm. Được lắm.

Tôi chỉ biết lí nhí cám ơn. Ông chưa yên vị trên ghế thì có tiếng báo cáo:

- Đã thấy đảo hướng mười hai giờ.

Tôi chụp ống dòm. Tôi vốn nôn nao, nôn nóng muốn biết cái… dung nhan mùa hạ của cái quần đảo đã làm tôi khốn khổ, đau đớn. Phải khó khăn lắm tôi mới trông thấy một vệt đen trên đường chân trời. Vệt đen đó dần dần rõ dạng. Nó vươn cao cùng lúc lô nhô những ngọn cây. Rồi toàn bộ cái đảo thấp lè tè. Tôi cảm thấy thất vọng. Hoàng Sa là thế đó sao? Tôi quét chiếc ống dòm thành vòng 360 độ. Tất cả vẫn chỉ là mặt biển xanh thẩm mênh mông.

Hạm trưởng ra lệnh từ chiếc ghế dành riêng cho ông:

- Trung úy Hào có thể cho bớt máy.

Hào ra lệnh, không do dự:

- Hai máy tiến ba.

Sau tiếng leng keng, cường độ tiếng máy dịu hẳn đi. Tôi cũng cảm nhận được sự giảm tốc của con tàu. Sự thất vọng của tôi cũng tiêu tan. Tôi nhìn thấy thêm hai hòn đảo nữa bằng mắt thường. Tôi không ngờ trên đời lại có những hòn đảo nhỏ và thấp đến thế. Chúng chỉ vừa đủ nổi trên mặt nước. Một trông như con rùa đang bơi bập bềnh và một như chiếc tiềm thủy đỉnh đang lặng lờ trôi. Giữa cái mênh mông của sóng nước, hai hình ảnh đó trông lạ và đẹp mắt.

Cơn mỏi mệt, ngật ngừ bỗng dưng tan biến. Người tôi chợt xao xuyến, lâng lâng. Một mùi hương lạ thoang thoảng, sảng khoái. Mùi hương đã đến với tôi lần đầu khi chiến hạm hướng mũi vào sông Lòng Tào sau chuyến công tác đầu tiên. Mùi đất liền. Chỉ những ai đi biển lâu ngày mới nhận ra mùi hương tuyệt dịu đó…

Hạm trưởng lên tiếng nhận quyền chỉ huy. Ông ra lệnh nhận còi nhiệm sở vận chuyển và cho giảm máy. Con tàu sựng lại rồi tiến thư thả trên vùng nước trong veo, phô bày đáy biển toàn cát đá trắng. Xa xa hai bên hông là những dãy san hô ngầm long lanh ánh sáng. Chẳng bao lâu hòn đảo thấp lè tè hiện ra trước mắt thường. Tôi chỉ một đóm trắng nằm ở cuối đảo, hỏi ông trung sĩ giám lộ đứng gần:

- Có cái gì màu trắng? Anh có nhận thấy không?

- Thưa thiếu úy, đó là đài khí tượng. Chúng ta có một toán khí tượng hoạt động trên đảo. Tin tức khí tượng cho tàu chạy ven biển là từ đài đó.

Tôi cười vui sướng với một khám phá mới mẻ….

Vào đúng thời điểm đã định, hạm trưởng ra lệnh thả neo. Con tàu xuôi theo gió nằm song song với hòn đảo khá lớn. Hòn đảo có những lùm cây rậm rạp sau một bãi cát vàng nhạt chạy vòng. Cuối bãi cát về phía mặt là một tòa nhà màu trắng vươn cao. Đó chính là đài khí tượng. Nổi bật trên nóc tòa nhà là lá cờ vàng ba sọc đỏ đang ngạo nghễ phất phới giữa nền trời xanh. Tôi đăm đăm nhìn lá cờ. Như một thói quen, tôi chụm hai chân đứng vào thế nghiêm, đưa bàn tay lên ngang mày.

Trong tôi, những xúc động dạt dào dâng lên….  


Chương 8

Tôi gọi điện thoại cho hạm trưởng theo tiêu lệnh của ông rồi đo hướng ba đối vật cố định, kẻ thành giao điểm vị trí chiến hạm. Tôi mở quyển Nhật ký hải hành, ghi chép: “0730 H: Vị trí: Vĩ độ…N. Kinh độ… E. Hướng lái 240. Hai máy tiến 4. Biển động nhẹ. Gió nhẹ. Trời trong. Báo hạm trưởng tàu sắp ngang hải đăng Vũng Tàu”. Tôi gấp quyển sổ, bỏ vào ngăn kéo dưới bàn hải đồ rồi leo ngồi trên chiếc bệ vành tròn của thành đài chỉ huy, chân đạp lên mảnh sắt nhỏ dùng làm mặt ghế cho sĩ quan đương phiên. Đây là một vị thế thiếu an toàn khi biển động nhưng trong những ngày trời trong bể lặng, ở vị trí này, tôi vừa hưởng thụ được những đợt gió mát lành lại vừa có thể quan sát khắp vùng biển bao la. Rồi khi xoay người vào ở thế thoải mái, mắt tôi không bỏ sót nhất cử nhất động của các nhân viên mà không biểu lộ mình không tin tưởng họ.

Tôi đã chính thức trở thành sĩ quan trưởng phiên khởi từ chuyến công tác này. Ông hạm phó Trần Vĩnh Đắc bất ngờ rời tàu để đảm trách chức Hạm trưởng một tuần duyên hạm. Công điện từ Phòng nhân viên vẫn theo ưu tiên … thông lệ: “thi hành ngay khi nhận”. Hào được nâng lên chức hạm phó kiêm nhiệm sĩ quan Hải hành - Chiến tranh chính trị. Trung úy Được lên sĩ quan đệ tam đảm trách An ninh - Truyền tin. Tâm lãnh Trọng pháo. Riêng phần tôi thì khá ôm đồm. Ngoài cái chức cũ Ẩm thực, tôi lãnh thêm Trưởng ban Chuyển vận - Đổ bộ và Trưởng phiên hải hành. Đây là chức vụ lẽ ra tháng tới tôi mới được cứu xét.

Trong năm ngày đêm của chuyến đi này, có đến bảy lần tôi thay hạm trưởng một mình chỉ huy chiến hạm. Không phải nói, dĩ nhiên là tôi rất lo ngại, nhất là về đêm. Dù mưa gió hay không, trong cái tối mịt mùng đe dọa, lòng tôi không sao ngưng thấp thỏm nghi ngờ chiến hạm sắp tông phải ghe thuyền hoặc đang chệch hướng vào vùng nước cạn đá ngầm. Có những khi thấy ánh đèn xanh hoặc đỏ xa xa là cứ phập phồng trong việc áp dụng nguyên tắc tránh đụng nhau “xanh đối xanh, đỏ đối đỏ”. Xanh là biểu hiệu mạn hữu, đỏ là mạn tả của một loại tàu thuyền lớn đủ để không còn được coi là ghe. Một lần khác cùng lúc tôi thấy đối vật có cả đèn đỏ lẫn đèn xanh, có nghĩa là hai tàu đang chạy ngược chiều trên cùng thủy trình. Vậy vận chuyển thế nào cho “xanh đối xanh, đỏ đối đỏ?”. Lần đó tôi đã có phần lúng túng khi vận dụng bài học và trí phán đoán để đưa ra quyết định đổi hướng. Kết quả là… thật may, chiếc thương thuyền khổng lồ kia chỉ suýt cắt đứt ngang hông chiến hạm! Tôi mừng là mỗi ngày trôi qua là một ngày tôi thấy bĩnh tĩnh hơn, tự tin hơn.

Hạm trưởng lên đài chỉ huy theo sau là hạm phó Hào, thiếu úy Tâm. Tôi giao phiên từ 8 đến 12 cho Tâm và thấy nhẹ người khi trách nhiệm trưởng phiên chấm dứt. Tuy vậy, dù thèm ly cà phê, dù đói, tôi vẫn đứng nấn ná để thưởng thức cái quãng thời gian con tàu đi vào cửa sông, bỏ lại đàng sau những lớp sóng bạc đầu lúc nào cũng bủa vây chiến hạm. Hiện thời con tàu bị sóng đẩy từ sau lái trong vùng nước không sâu nên chỉ lướt tới êm ru như chiếc xe đò một mình trên xa lộ Biên Hòa. Ngõ nào cũng tới Sài Gòn. Giang lộ đang đưa tôi về với những quán kem có người đẹp ngồi quày, với những góc phố có lắm ông đi qua bà đi lại. Tôi đã gạt bỏ tên Hiền và Tuyết khỏi Sài Gòn yêu dấu của tôi…

Hạm trưởng lên tiếng nhận quyền chỉ huy, cho lệnh đổi đường hướng vào vịnh Vũng Tàu. Tâm cười toe toét được thoát gánh nặng sau mới chỉ nửa giờ lên phiên. Anh trở thành sĩ quan quan sát và kiểm soát. Hạm trưởng quay sang tôi, giọng vui vẻ:

- Khi anh ra đi, chưa đến với em môi sóng đã cười. Bây giờ anh trở về, môi sóng cũng đuổi theo. Còn đòi hỏi gì hơn cho cuộc đời thủy thủ, phải không thiếu úy Bằng?

Tôi không biết trả lời sao, đành nở nụ cười vô tội vạ. Ông hứng khởi tiếp:

- Đêm qua tôi mới làm được một bài thơ, anh nghe thử: “Em về biển hé môi cười. Gió lên vang động, khắp trời mây bay. Giao thừa dường thể hôm nay. Hồn tôi rào rực: Tết đầy trong tim”. (thơ Hữu Phương)

Tôi bật thành lời trước khi nhận biết đó là lời khen thiếu nghiêm túc:

- Bốn câu hay quá, thưa hạm trưởng. “Tết đầy tim” là một ý lạ mà súc tích, vừa diễn đạt được sự rộn rã của con tim như tiếng pháo, vừa cho thấy được sự hân hoan gặp lại em như gặp… tiền lì xì!

Tâm che miệng cười, các nhân viên thản nhiên vờ như không nghe thấy. Ông cũng mỉm môi cất giọng cợt đùa:

- Cựu hạm phó ra đi nhưng để lại một đệ tử chân truyền! Nhận xét nhạy bén và sắc sảo!

Tôi mừng húm khi thấy ông không giận mà còn… hân hoan. Tuy vậy tôi cũng tự nhủ là mình phải ăn nói thận trọng hơn. Vì vậy khi ông đọc các đoạn kế tiếp tôi chỉ gật gù khen hay! Đúng ra, nếu tôi thật sự là đệ tử chân truyền, tôi phải có một phát biểu kết thúc, tương tự như một lần hạm phó Đắc nghe hạm trưởng đọc dứt một bài thơ: “Thưa hạm trưởng, nghe thơ hạm trưởng mà hứng khởi muốn bắt chước. Tiếc là tôi thiếu thi từ nên đành phải viết các mẫu tự cho vào nón rồi bắt thăm ráp lại. Không chừng nhờ thế mà thành bài thơ hay không kém bài này!”

Ông hạm trưởng nhìn về phía mũi khi nhân viên báo cáo có thương thuyền đi ra ngược chiều. Tôi nhìn vào cửa sông. Nó còn xa tít mù, chỉ có vệt khói nhả ra thành một áng mây xám xịt. Hướng dần quanh phía tả hạm, đường giao tiếp giữa biển và trời mỗi lúc một mỏng dần cây cối để chỉ còn là một đường chân trời mong manh. Mặt biển đục ngầu sủi bọt, rải rác những chiếc ghe câu. Bên hữu hạm thì sắc nét hơn nhiều. Một nửa mặt trời còn thẩm đỏ nằm vắt bên trên đường viền của dãy núi lưng chừng vài ngôi nhà mái đỏ và vút cao ngọn hải đăng sơn trắng. Bên dưới là hình dáng phố xá hàng quán phơi bày, thậm chí thấy cả màu xanh vàng đỏ trắng của các cây dù cắm trên Bãi Trước. Ba chiếc thương thuyền bề thế có màu thân tàu khác nhau, chiếc đen, chiếc đỏ, chiếc đọt chuối đang buông neo xa cách như màu sơn của chúng. Trừ vài nét giống nhau là cùng có thượng tầng sơn trắng, cùng có những trụ cột to lớn hoặc đứng thẳng hoặc nghiêng nghiêng, chúng khác nhau về hình dạng như để phân loại chỡ dầu hay chỡ hàng…

Trước đây, có lần thấy các thương thuyền buông neo phơi mình thảnh thơi nhàn hạ, tôi cất tiếng so đo với hạm phó Đắc là đời thủy thủ thương thuyền xem ra … ngon cơm hơn đời thủy thủ chiến thuyền. Hạm phó Đắc nghiêm túc giải thích rằng trông có vẻ là vậy chớ neo một ngày là… mệt một ngày. Thủ tục hải quan buộc họ phải chờ hoa tiêu Việt Nam hướng dẫn vào thương cảng Sài Gòn. Mệt vì nhân viên bị tù túng, hai là hải quan chậm trễ ngày nào, họ phải trả tiền… đậu bến ngày nấy! Hải quan càng chậm trễ, họ càng… mất tiền! Còn so về gian khổ thì thủy thủ tàu nào chẳng là… thủy thủ? Mà kể… ngon cơm thì chiến thuyền với súng đạn đầy mình phải ngon hơn thương thuyền trên dzăng dưới dzế!

Cuộc đời thủy thủ của tôi tính đến hôm nay vừa được hơn năm tháng với mười hai chuyến đi. Chuyến đi Hoàng Sa dài nhất, lâu nhất và sóng gió nhất cho tôi cái kinh nghiệm về tính bạo tàn của biển cả. Chuyến đi nguy hiểm nhất là cuộc chuyển quân từ Năm Căn về Đại Ngãi, cho tôi cái tiên nghiệm về làn ranh sống chết trong chiến tranh. Trong chuyến này, cái chết mà tôi thấy kề cận nhất là khoảng không gian và thời gian đi vào và trở ra trên sông Bồ Đề nhưng lại bình an với chỉ vài tiếng súng lẻ tẻ làm trầy sơn vỏ chiến hạm. Trái lại, tại hai địa điểm ủi bãi trông an toàn trên bờ sông gần cửa Tranh Đề thì bị bắn khá nhiều. Chiến hạm bị thương một, tiểu đoàn bộ binh đổ bộ bị ba. Một bộ binh chết trên đường tản thương bằng trực thăng. Đáp lại, tiểu đoàn giết 15 địch, bắt sống năm và kịp thời giải tỏa hoàn toàn áp lực địch muốn tràn ngập hai tiền đồn án ngữ ven sông.

Còn những chuyến công tác khác ngắn hạn hơn, ít sóng gió hơn, thường là phối hợp hành quân với các tiểu khu ven biển, tiếp tế đạn dược và triệt thối phế liệu cho các Quân đoàn, Hải khu. Bốn chuyến sau cùng biển khá động nhưng chưa đủ mức làm tôi nôn thốc nôn tháo. Biển có tệ nhất tôi cũng ăn được một bữa cho trọn ngày và còn cảm nhận được cái truyền cảm từ giọng ca Thanh Thúy nức nở, qua lời nhạc Trúc Phương nghẹn ngào vẳng đưa từ phòng lái…

Con tàu lần lượt vượt qua các chiếc phao định lối thủy trình. Hạm trưởng ra lệnh lái tàu qua khoảng trống hẹp giữa hai hàng đáy để nhường thủy đạo sâu nhất cho chiếc tàu buôn dềnh dàng. Khi nó lướt ngang qua chúng tôi, tôi thấy từ trên cao, nhiều bàn tay vẩy chào và môi mấp máy như lời cám ơn. Chúng tôi vẫy chào đáp lễ. Rồi tôi thấy một phần chân vịt của tàu buôn quay chầm chậm trên mặt nước. Xem ra nó không có nhiều hàng mang theo chuyến trở về.

Mặt trời đã vượt ngọn hải đăng, treo trơ vơ trên nền xanh dịu, phất phơ mây trắng. Cái dáng phố đã mờ nhạt. Hình ảnh ba chiếc thương thuyền buông neo đã nhỏ lại nhưng các ngọn sóng cao vẫn xủi đầy bọt đuổi theo chiến hạm. Tôi vươn vai hít sâu một làn gió thơm mát và thấy sảng khoái…

Hạm trưởng và hạm phó cất tiếng cười vang sau câu chuyện gì đó do hạm trưởng kể. Ông thường kể chuyện tiếu lâm về thời gian một năm tu nghiệp ở Mỹ. Tôi cũng có nhiều chuyện tiếu lâm trong thời gian một tháng thực tập trên Đệ thất Hạm đội nhưng còn ngại ngùng. Ngộ nhỡ mình kể chuyện cười mà không ai cười…

Tâm bước sang đứng cạnh tôi, tựa lưng vào thành bên trái đài chỉ huy. Tôi nhìn theo hướng anh đặt ống dòm. Chếch bên tả hạm là hàng lớp đáy cá chăng ngang. Cửa sông hẹp lại, bờ đất rõ dần. Nhưng cũng cần nửa tiếng để con tàu giả từ biển cả.



 

Con sông chia ba phần rõ rệt. Ở giữa khuấy động và hai bên sóng dạt đều. Hương rừng thoang thoảng từ các vòm tràm đước dọc hai bên bờ. Một chiếc ghe vừa vượt mũi tàu qua bờ bên trái. Cô gái ngưng tay chèo, hướng mặt về con tàu đang chạy ngang qua. Và cô ngước mặt nhìn lên đài chỉ huy. Bắt gặp các cặp ống dòm đang chỉa thẳng vào mình, cô gái cúi mặt, đưa tay nghiêng chiếc nón lá như muốn che dấu cả thân người. Mấy câu thơ từng được nhiều học sinh trường Võ Tánh ưa thích bất chợt hiện ra: “Sao em biết anh nhìn mà nghiêng nón. Trời mùa thu mây che có nắng đâu. Nắng sẽ làm phai má tóc xanh màu. Và làm khô làn môi em dịu ướt. Còn tia mắt anh, có sao đâu mà em cúi đầu từ khước?” Vì trời đang chang chang nắng nên tôi biết mình chỉ tưởng tượng. Tuy nhiên mấy câu thơ đã đưa vào tâm tư tôi một bóng hình tưởng là mờ nhạt. Tôi có tệ lắm không khi suốt sáu tháng qua không viết cho nàng lấy một dòng!

Hôm đó, lần đầu tôi được ra phố Nha Trang sau hơn một năm về Sài Gòn và sau ba tháng quân trường. Trong sự háo hức gặp lại Tuyết, tôi đã ngẩn ngơ khi người chủ mới của ngôi nhà khăng khăng cho biết Tuyết không để lại địa chỉ chuyển tiếp thư từ. Tôi thất vọng nhưng không mất hy vọng, chắc rằng Tuyết còn quanh quẩn đâu đây, ở nhà người thân nào đó. Mỗi cuối tuần tôi cứ lang thang qua lại nhiều lần con đường nhà nàng và phố Độc Lập đông người. Một hôm, tôi mừng rơn khi bắt gặp một dáng đi quen thuộc phía trước. Cái mái tóc thề óng ả buông ngang vai đó. Cái dáng đi hơi hấp tấp mà uyển chuyển của ngày nào. Tôi bước vội đến gần cất tiếng reo vui:

- Tuyết!

Cô gái sựng người, quay lui. Đôi mắt mở to vừa ngỡ ngàng vừa phiền trách đủ cho tôi thấy tôi nhầm trước khi cô xoay người bước tiếp. Tôi quýnh quáng bước theo, miệng thì rối rít xin lỗi mà mắt thì không chịu buông tha cái dáng người. “Nhà không xa sao em bỗng nhanh chân. Sao loanh quanh chẳng chịu chọn đường gần!”… Cô gái vào nhà đóng cửa, cài then. Tôi thu hết can đảm đưa tay nhấn chuông. May quá, bộ quân phục trắng chững chạc tạo uy tín cho tôi được ba nàng cho phép vào nhà. Từ đó cuối tuần tôi ghé nhà nàng để ngồi nhâm nhi trà ngon, để nghe ba nàng vốn là cựu dân biểu luận bàn thế sự và để len lén thu hình ảnh khuôn mặt hài hòa kiêu sa. Và khuôn mặt đó đã xua tan khuôn mặt tươi vui hiền hậu của Tuyết. Thêm một trớ trêu, nàng tên Hồng nhưng không với Tuyết cùng nòi tình đồng điệu. Tuyết chiều tôi đi bất cứ nơi nào tôi thích. Còn với Hồng, tôi có rủ đi đâu nàng cũng nhất mực chối từ. Tuần nào nàng cũng lặng lẽ lo châm trà, thỉnh thoảng tặng tôi nụ cười bằng ánh mắt cho đến khi tôi từ giã. Chỉ thế thôi mà nàng giữ được chân tôi và chính nhờ vậy mà tôi nắm rất vững tình hình thời sự thế giới trong suốt hai năm thụ huấn. Nếu có thiếu sót thì chắc chắn chỉ thua có… ba nàng! Nghĩ đến Hồng, tôi bỗng tha thiết nhớ nàng. Đến bao giờ tàu mới có dịp ghé lại Nha Trang? Và đến bao giờ tôi mới khỏi lu bu để rảnh rang tâm trí thảo một tình thư!

Tâm bỏ ống dòm treo ngang ngực, nghiêng mặt nói nhỏ:

- Lúc ăn sáng, hạm trưởng thông báo có công điện cấm trại 100% và ông chỉ thị hạm phó chia nhân viên ra thành hai phân đội, mỗi phân đội đi bờ một ngày. Sau hai ngày đó, tùy tình hình, ông tính tiếp. Tao đã nài nỉ ỉ ôi với Hào cho tao và mày vào phân đội đi bờ hôm nay vì hôm nay… thứ ba.

Còn đang mơ màng bóng dáng Hồng, tôi theo không kịp hàm ý của Tâm. Thứ ba hay cuối tuần thì có ăn nhậu gì đến cấm trại. Cấm trại thì ngày nào tôi cũng ôm lấy con tàu, còn tệ hơn đi biển. Đi biển thì biết chắc rằng mình đã thực sự xa Sài Gòn! Tâm tiếp:

- Thứ ba, Tuyết đợi chúng mình.

Thấy cơ hội đã đến, tôi nói:

- Mày… chịu khó đi một mình. Tao phải đến nhà Hiền. Hôm trước Hiền xuống tàu mời tao đến nhà ăn cơm mà từ đó đến nay tao chưa đến.

Tâm trố mắt nhìn tôi:

- Chưa đến? Lần về bến vừa rồi, mày đã chẳng bảo là không thể đến Tuyết vì phải đến nhà Hiền ăn cơm tối?

Tôi ngẫm nghĩ một lúc rồi dứt khoát:

- Tâm nè! Tao muốn nói với mày điều này từ lâu, từ sau lần mày đưa tao đến nhà Tuyết. Lẽ ra tao từ chối ngay hôm đó nhưng tao cũng có phần tò mò muốn nhìn lại Tuyết. Tao đã gặp và không còn gì thắc mắc. Vì vậy tao quyết định không đến nữa. Đó là lý do lâu nay tao tìm cách từ chối khi mày rủ rê.

Tâm đăm đăm nhìn tôi:

- Đi thẳng vào vấn đề. Mày biết tao ghét quanh co. Mày giận gì tao chăng?

Thấy Tâm tỏ vẻ bực bội, tôi cười:

- Tuyệt không! Vấn đề là mỗi tuần, vào ngày Thứ ba Tuyết dành riêng cho mày. Rõ ràng là vậy. Rõ ràng việc hẹn hò đó có trước khi tao xuất hiện. Và tao không muốn làm kẻ… không được mời! Và tao phải biết tự xử cho phải đạo!

Giọng Tâm đều đều:

- Sẽ không có một ngày khác riêng cho mày. Tuyết làm việc sáu ngày một tuần, chỉ nghỉ ngày thứ ba. Sáng thứ ba ngủ dậy trễ. Sau đó giặt giũ, đi chợ. Tao không… phiền về sự có mặt của mày. Trái lại, vui hơn…

- Mày thì vui nhưng còn Tuyết?

- Tuyết yêu mày, tất nhiên càng vui! Hay là mày không muốn tao đi cùng?

Tôi thấy không cần phải mất thì giờ chiêm nghiệm về tấm lòng vị tha của Tâm. Tôi đã từng “phá đám” một lần và Tâm rộng lượng xem như không có. Nay tôi nên dứt khoát để Tuyết…dứt khoát chọn Tâm. Tôi nói:

- Mày cũng thấy đấy, tao đang yêu Hiền. Nghe mày xúi dại mò đến nhà Tuyết, lỡ Hiền biết được, tao chỉ còn nước khóc! Vậy, từ nay mày nên chấm dứt rủ rê! Cứ đến Thứ ba, khi về bến, mày đi đường mày, tao theo lối tao. Vả lại, hai đứa đeo đuổi một đứa, hoặc là chẳng ai được cái giải gì, hoặc là cả hai cùng ăn… cái giải rút!

- Nhưng Tuyết nó yêu mày!

- Khó mà biết Tuyết đang yêu mày hay yêu tao nhưng theo ý Tuyết lần gặp rồi, là Tuyết sẽ yêu người nào cưới Tuyết làm vợ. Tuyết cho thấy đã quá mệt mỏi với cuộc sống độc thân và đang rất cần một người chồng, rất cần một mái ấm gia đình. Mày ra trường trước tao. Có lẽ mày sẵn sàng tạo cho nàng một mái ấm.

- Nói thật là khi gặp lại Tuyết, tao đã có cái ý cưới Tuyết. Nhưng khi gặp lại mày, tao bỏ cái ý định đó. Thiếu gì đứa để cưới, việc gì phải cưới cái đứa bạn mình yêu hay yêu bạn mình!

Tôi nói một cách mạnh dạn, dứt khoát:

- Tao nói lại: Tao không còn yêu Tuyết.

Thấy Tâm nhìn tỏ vẻ ngờ vực, tôi bồi thêm một điều mà gần đây không còn đúng sự thật:

- Tao xác nhận một lần nữa là tao không còn yêu Tuyết. Bây giờ tao đang túi bụi bận rộn khổ sở vì Hiền…

- Nếu mày nói chắc như vậy thì tao… xét lại! Tao cũng quá mệt mỏi với việc ăn ngủ triền miên trên tàu. Có một tổ ấm thực sự vẫn… ấm hơn!

 

 

Tâm vừa cười vừa nhìn con tàu không giảm tốc độ lượn vòng theo một khúc quanh khá gắt. Sóng dồn dập vỗ ven bờ khi phần lái tàu tạt sang gần sát hàng cây. Tôi nghĩ hạm trưởng hẳn đang nôn nóng về với gia đình. Tôi liếc nhìn ông, bắt gặp đôi mắt ông đang chiếu tướng vào… mái tóc bờm xờm của tôi. Vài lần trong các bữa ăn, ông hạm trưởng cũng đã nhìn tóc tôi. Rất may cho đời tôi là có được một ông hạm trưởng với tâm hồn một nhà thơ. Tóc ông thường để dài chỉ vừa… quá mức ấn định của một quân nhân. Còn tóc tôi thì đáng lẽ đã phải được hớt từ tháng trước. Tôi không cố tình nhưng quả là việc đưa tôi lên hai chức vụ cùng lúc làm tôi quên săn sóc bản thân mình. Rồi tàu đi công tác, tôi lại mãi mê bến lạ bờ xa. Cái nhìn của ông lần này khá nghiêm khắc như một nhắc nhở cuối cùng. Tôi không còn cách nào hơn là đi tìm nhân viên hớt tóc để kịp cho ông thấy trước khi ông rời tàu là tôi đã tiếp nhận cái nhìn của ông rõ ràng như cảm nhận thơ ông.

Mặc xong bộ tiểu lễ tôi leo lên tả hạm đứng dàn chào cùng toàn thể thủy thủ đoàn. Chiến hạm vừa qua khỏi thương cảng, bắt đầu tiến về cột cờ Thủ Ngữ. Tiếng còi từ đài chỉ huy ré lên một hồi dài. Chúng tôi đồng loạt đưa tay chào thủ đô Sài Gòn yêu dấu. Con đường Nguyễn Huệ nhộn nhịp, lao xao tận tòa Đô chính. Tượng đài Hai bà Trưng bất kể tiếng xì xầm vẫn là hình tượng nhắc nhỡ công đức tiền nhân. Bộ Tư lệnh Hải quân uy nghiêm với sân cờ thiết trí bốn khẩu súng đồng trấn thủ và tận đỉnh cao đang phất phới lá đại kỳ Việt Nam Cộng Hòa. Những đôi nhân tình thì thầm trên ghế đá công viên mang thêm vẻ mộng mơ cho các biệt thự sang đẹp bên kia đường Bạch Đằng. Hai hàng cây chạy dọc đại lộ Cường Để tỏa cành thành hình cánh cung hun hút. Tất cả như còn mang nguyên vẹn hình ảnh của ngày đi. Chiến hạm tiến thẳng vào Thị Nghè rồi quay đầu cặp vào các ponton cầu R.

Nửa giờ sau, trong bộ thường phục trẻ trung, tôi và Tâm rời tầu. Hạm phó Hào vừa tiễn chân hạm trưởng, còn đứng ở hạm kiều. Thấy chúng tôi, ông nói đùa:

- Nè, hai cậu nhớ làm bản tường trình thám sát bãi ủi đấy nhé!

Tôi cười gật đầu. Chúng tôi nhịp bước kiểu nhà binh qua khỏi cổng sở Hàng Hà. Trong khi đứng chờ taxi, Tâm lại rủ tôi đến nhà Tuyết và tôi lại nói dối là phải đến nhà Hiền. Khi taxi đến, Tâm nhường tôi đi trước. Mãi tới khi tài xế lên tiếng hỏi, tôi mới e dè nói số nhà và tên con đường tận ngả tư Bình Hòa. Đây là một căn biệt thự khang trang, biệt lập, “chỗ quen biết” của cựu hạm phó.

Càng có thời gian gần ông, tôi càng khám phá ra con người tài hoa đa năng đa diện của ông. Ngoài cái nét điển trai trời cho, cái tài “hải nghiệp” thiên phú, ông còn có nhiều “biệt nghệ” đáng nể. Ông đàn giỏi, hát hay. Ông khiêu vũ tuyệt vời. Ông ăn nói hấp dẫn. Ông nhắm vào người đẹp nào, kể cả người đẹp xướng ngôn, là người đó hân hoan cặp kè với ông. Và một người đẹp thường được ông đề cập như một giai nhân hiếm và quý vừa trở thành vợ ông vài tháng trước. Cả thủy thủ đoàn được ông mời dự dạ tiệc tổ chức ở nhà hàng Caravelle. Quả là đúng lời ông: phu nhân là cô đầm chính gốc vô cùng xinh đẹp, con một ông Tây có thớ của tòa đại sứ “Phú Lãng Xa”.

Bên cạnh “biệt nghệ”, ông cựu còn có cả một “biệt khu” mà ông dấu kín, chỉ trước khi… giả từ cô đơn một thời gian ngắn ông mới “bàn giao” cho Hào. Theo ông cựu, biệt khu còn là… mật khu, “người thường” không vào được. Muốn vào, khách phải được tiến cử và phải hội đủ hai thứ hào: hào hoa và hào sảng. Nhờ cái tên của mình, Hào đương nhiên được chọn. Nhưng trái với ông cựu có tính e dè thuộc cấp cười chê, ông tân xem việc “lăng nhăng” là chuyện thường tình. Ông bảo rằng đến Tú Xương mà còn thà bỏ rượu bỏ trà chứ nhất định không từ cái lăng nhăng đàn bà! Cho nên khi ông cựu rời tàu, ông tân rỉ tai cho từng sĩ quan cả mật khu lẫn mật khẩu. Từ ngày được bàn giao “chỗ quen biết”, Hào rất muốn thăm dân cho biết sự tình nhưng lòng vẫn phập phòng cho dù ông cựu bảo đảm là bãi ủi trăm phần trăm an toàn. Chính bản thân ông chưa bao giờ bị… bể ống khói! Hào xúi tôi lần về bến này tôi thử… thăm dò thủy đạo xem sao. Anh có ngờ đâu rằng đó là “mật khu” tôi đang cần và còn cần dài dài. Nếu anh biết, anh có đòi hối lộ bia và hột vịt lộn như anh từng chung cho Tâm thì tôi cũng đành thỏa mãn.

 

Ra khỏi taxi, tôi nhìn cái biển số gắn ở cổng rồi đặt ngón tay lên núm chuông. Tôi ấn hai lần, ngưng lại rồi ấn tiếp hai lần. Tôi nghe giọng đàn bà phát ra từ chiếc loa nhỏ dấu kín trên núm chuông:

- Ai đó?

- Lê Vĩnh Tường.

Tôi cười thầm khi chợt nhớ đến ông phủ Vĩnh Tường của bà Hồ Xuân Hương. Ông cựu phó Lê Vĩnh Đắc quả là tay đáo để. Đến việc chọn cái tên giả cũng cắc cớ.

- Tường nào?

Giọng đàn bà mang vẻ ngờ vực. Hạm phó Đắc khoe là “chỗ quen biết”, đâu lẽ chủ nhân lại cần thêm chi tiết. Nhưng đã lỡ, tôi đành nói khẻ vào loa:

- Tường Hải quân.

Dù nói khẽ, tôi vẫn thấy ngượng. Đây đâu phải chỗ thích hợp để dùng tên binh chủng của mình làm… chuyện tào lao. Nhưng chừng như nếu không dùng đến cái từ đó thì khó có đủ mã lực để đẩy khung sắt nặng nề.

- Vào đi anh Tường. Anh tới đúng lúc. Em có quà đặc biệt cho anh!

Tôi vừa lách người vào là cánh cổng khép chặt lại. Trên con đường sỏi đá dẫn vào ngôi biệt thự vắng lặng, tôi rút điếu thuốc gắn lên môi và châm lửa. Cái không gian tĩnh mịch gợi tôi thèm hơi khói hơn là để trấn áp nhịp đập tăng dần của trái tim. Cửa chính đóng kín. Tôi lại nhấn chuông. Nắm tròn của khóa cửa chầm chậm xoay. Khi cửa mở rộng, tôi nhìn sững người đàn bà hấp dẫn tuổi chưa quá bốn mươi. Những đường nét nẩy nở mà thanh tú. Nụ cười vụt tắt thay cho tia mắt ngạc nhiên. Người đàn bà trách nhẹ:

- Sao lại mạo danh anh Tường. Lần sau đừng làm thế!

Tôi cười, tình thật:

- Sợ nói tên lạ, chị không cho vào.

- Cứ nói là bạn anh Tường Hải quân. Hoặc nói tên anh. Anh tên gì?

Bị hỏi bất ngờ tôi vọt miệng nhanh hơn tôi kịp nghĩ ra một tên giả:

- Bằng! Lê Vĩnh Bằng.

- Em của anh Tường?

- Không, trùng họ!

- Anh uống gì? Rượu, nước ngọt, cà phê?

- Chị cho một ly cà phê đen, nóng.

Người đàn bà bước nhịp nhàng đến chiếc bàn đủ loại ly tách. Tôi nhìn theo, nhủ thầm cần gì chọn ai khác. Một khối ngọc ngà kia rồi. Đến khi chị trao ly cà phê, tôi nói nửa đùa nửa thật:

- Chị khoe có quà đặc biệt cho anh Tường. Tôi đang thay mặt ảnh. Vậy chị cứ tự nhiên đưa cái đặc biệt… của chị cho tôi xem!

Người đàn bà nguýt dài:

- Ấm ớ vừa thôi nghe! Giỡn mặt là đến sao về vậy đó!

Nghe giọng kém vui, tôi hiểu là tôi đã đùa quá trớn cho lần đầu. Nhưng cần gì giữ phải kẽ ở chốn… lầu xanh, tôi nói chầm chậm:

- Hãy coi tôi như anh Tường, tôi được cái đặc biệt của chị thì chị cũng được… tiền đặc biệt.

Chị ngắm nghía tôi một lúc rồi nhoẻn miệng cười:

- Đúng là Hải quân, lỳ lợm như nhau. Thôi được, ngồi chờ một chút!

Tôi ngồi lên bộ sa lông êm ái, móc túi quần lôi ra gói thuốc lá. Tôi dụi tắt điếu đang hút và châm lửa điếu thứ hai. Nhân đặt gói thuốc lên bàn, tôi cầm tờ nhật báo lướt nhanh các tựa. Toàn tin tức bố ráp chùa chiền, bắt bớ chư tăng, biểu tình rầm rộ. Đàn áp thẳng tay. Những tin tức đáng buồn đó không thích hợp tâm trạng háo hức của tôi lúc này. Tôi vừa đọc lơ mơ vừa trách mình sao không nói thẳng là chọn… bà chủ để khỏi phải đợi chờ lâu lắc. Tôi ngước lên, hy vọng thấy người đàn bà hấp dẫn ngay trước mặt nhưng thay vào đó là một cô gái trẻ trung, tươi tắn đến không ngờ. Cô mặc nguyên bộ quần áo dài trắng mang dáng dấp nữ sinh. Cô nói, e ấp:

- Chào anh! Hân hạnh được biết anh.

Tôi đáp, có phần do dự:

- Chào cô. Vui được gặp cô.

Nói vậy mà không phải vậy. Tôi không vui. Các nơi bình dân khác cũng hay chơi cái trò “nữ sinh” này. Thì đàng nào cũng may mặc, tại sao không may mặc theo kiểu nữ sinh cho thêm phần… tâm lý! Đang ngỡ ngàng, tôi bị thêm một cú bồi bằng giọng của một tay chơi sành sỏi:

- Phải anh là lính, mời anh lên lầu!

Tôi nhìn gói Pall Mall nằm trên bàn. Cô vừa nói đùa mà cũng nói thiệt. Tuy vậy tôi vẫn ngồi yên ngắm nàng đang bước về phía thang lầu. Sao kỳ vậy? Ngay chính ở những ổ chuyên nghiệp, người ta cũng chưa hối thúc khách hàng như vậy. Gọi là biệt khu mà tôi chưa kịp nhấp một ngụm cà phê, chưa kịp rít vài ba hơi thuốc.

Thấy tôi vẫn ngồi yên, người đàn bà quyến rũ lên tiếng:

- Nhiều người tới đây sợ gặp người quen nên thường rút ngay vào buồng riêng. Như anh Tường chẳng hạn. Lỗi tại tôi dặn cô ấy chớ không phải do ý cô ấy. Chú em cứ mang theo cà phê, thuốc lá. Vào buồng, cứ nhởn nhơ. Giờ giấc thoải mái nhưng phải… lương thiện. Một nói một, hai nói hai. Không hài lòng cô này, tôi đổi ngay cô khác.

Tôi rùn vai, cầm ly cà phê, nhặt gói thuốc lá. Tôi đến đây là để thỏa mãn một nhu cầu. Ai chẳng được. Có điều xem ra không như… quảng cáo. Nhưng thôi lỡ rồi, đang nóng sốt, chẳng lẽ bỏ về. Tôi dứt khoát bước theo cô gái. Tiếng bà chủ lại cất cao từ phía sau:

- Khoan đã! Chú em tới lần đầu, cần nói rõ ràng về giá cả.

Tôi dừng ở bực thang lầu, quay lại. Bà chủ lên giọng đàn chị:

- Mỗi lần “đi” là một ngàn. Cứ thế mà tùy sức. Cả sức người lẫn sức của! Tôi không cần cái gọi là tiền đặc biệt chú em muốn dành cho tôi. Ngược lại, tôi giảm giá đặc biệt cho chú em như giá đặc biệt cho anh Tường. Giá bình thường là một ngàn. Giảm cho chú em hai trăm!

Tôi mỉm cười, bắt đầu thực sự thích thú vị chủ nhà. Bà ăn nói cũng… tiếu lâm đấy chứ! Tôi định đùa: “Với cô gái, giá tám trăm vẫn còn mắc. Nhưng với chị, chị khỏi bớt tôi cũng đi” nhưng tôi kềm lại được. Tôi ỡm ờ:

- Tôi cũng xin hỏi trước cho rõ ràng: Chị bớt như vậy là cho một lần “đi” hay lần nào cũng được bớt?

Bà chủ cười, nói như thách đố:

- Càng “đi” càng bớt!

Tôi bắt trớn bồi thêm:

- Nói thì nhớ nghe! Lần tới sẽ…“đi” chị.

Chị xụ mặt xuống, đe dọa:

- Tôi kêu chồng tôi là anh hết “đi” đó!

Tôi vọt theo cô gái lên lầu. Căn phòng rộng rãi, sạch sẽ, giường đôi, drap và bao gối trắng tinh. Có phòng tắm riêng cửa đang mở rộng phô bày bồn rửa mặt và búp sen kiểu hiện đại. Tôi khen thầm tiền nào của nấy. Nhưng quan trọng hơn hết, cái của trước mặt là đắt tiền nhất lại chưa rõ có thật đáng tiền. Biểu hiệu đầu tiên xem ra có phần khích lệ. Không như các cô khác làm nghề này, vào buồng là cởi quần cởi áo, vừa kích thích vừa thúc hối để được thêm giờ thêm khách, cô gái ngồi lên mép giường, cúi mặt lặng thinh. Tôi bước đến nâng nàng đứng lên, nhìn sâu vào mắt nàng. Nàng nhắm mắt tránh né. Kích thích từ đôi mắt đẹp, đôi môi tươi, thân thể thon nhã mà nở nang, tôi bắt đầu hôn lên môi lên cổ… Nàng đứng yên và từ tốn hưởng ứng. Rồi tôi từ từ lột nàng quần ngoài quần trong, rồi áo ngoài áo trong. Nàng yêu cầu tôi tắt đèn. Tôi hăm hở nhưng nàng dịu dàng. Tôi nôn nả mà nàng từ tốn.

Bằng vào những cử động xoay trở, bằng vào những vẻ e thẹn cố che dấu, tôi tin là nàng vào nghề chưa bao lâu. Nàng gần như không có một chút kinh nghiệm đàn ông. Nàng chỉ biết thụ động, bảo sao làm vậy hoặc xin khéo léo chối từ. Nhưng rõ ràng nàng như cục nam châm có cực âm cực mạnh đến độ biến tôi thành cực dương ngay phút đầu. Tôi nồng nàn ôm ấp nhưng nhẹ nhàng nâng niu. Nàng nhiệt cuồng bám víu mà ngượng ngùng hưởng ứng. Rồi đến một lúc chính nàng vô cùng hăm hở. Chính lúc đó tôi nghe giọng nàng thảng thốt: “Chắc em có mang với anh quá!” Tôi trấn an nàng trong cơn thúc hối: “Đừng nói khùng!” …

Nàng chạy ngay vào buồng tắm khi tôi lật ngang, nằm ngửa thở dốc. Tôi vói tay rút một điếu thuốc, bật lửa. Khói bay lên cây quạt trần bất động giao phần việc cho cái máy lạnh tỏa hơi vừa đủ mát. Rồi tôi bỗng thoáng nhớ rằng tôi đã nói câu trên một lần, đâu đó…Đúng rồi, tôi đã có nói từ thuở học trò. Đêm vĩnh viễn rời xa ngôi trường vì hết lớp, tôi rủ Tuyết lang thang xuống bãi biển. Bãi biển vắng, chúng tôi mắc sức hôn hít nâng niu. Chợt Tuyết xô tôi ra hốt hoảng: “Anh! Em sợ có mang”. Tôi cười ngất: “Đừng nói khùng. Chỉ ôm ấp … sơ sơ thì có mang có miết gì được!”. “Nhưng mạ nói trai gái gần nhau là có mang”. Tuyết của tôi ngày xưa dại khờ, ngu ngơ thế đó. Còn Tuyết bây giờ, xem ra chững chạc, khôn ngoan… Và hiện giờ, Tuyết và Tâm có đang làm những gì tôi đã làm với cô gái này?

Tôi nghe tiếng nước xối xả trong nhà tắm và nghe cảm giác buồn buồn. Bỗng dưng tôi buông tiếng thở dài. Cô gái này, biết đâu đã gặp một vấn nạn còn đau thương hơn cả trường hợp của Tuyết? Một tai nạn xảy ra và Tuyết mất tất cả, khiến cuộc đời trâm anh phải lận đận lao đao. Cái kiểu cách của cô gái này xem ra cũng từ một gia đình nề nếp. Tôi thoáng thấy dáng nàng bước khỏi buồng tắm đi về phía cửa. Căn phòng bật sáng choang. Cô gái vẩy tay chào, hiện trở lại bộ cánh nữ sinh e ấp. Tôi hối hả nói:

- Khoan đã! Anh muốn gần em thêm vài phút…

Cô cười buồn:

- Để làm gì? Anh mất thêm tám trăm?

Tôi bật cười:

- Anh sẵn sàng mất… sạch túi!

Nàng bước đến ngồi lên giường, cúi hôn vào môi tôi thật lâu. Rồi nàng đứng lên, nói bằng giọng luyến tiếc mà dứt khoát:

- Em rất tiếc là không thể. Nếu anh có thực ý, xin trở lại ngày mai cũng giờ này…

Tôi thở dài thườn thượt:

- Ngày mai anh bị trực.

- Thì ngày mốt!

- Ngày mốt anh bị cấm trại.

Cô gái vạch cổ tay nhìn đồng hồ:

- Anh có mười lăm phút.

- Anh muốn suốt đêm…

Nàng nhìn sững:

- Đừng đùa anh. Đây là ngày đầu của em mà ở đây cũng không chưa khách qua đêm!

- Thì đi nơi khác.

- Bố ráp khắp nơi. Đi đâu!

- Chỉ bố ráp ở chùa. Phòng ngủ… miễn.

Nàng lại cúi xuống hôn tôi thắm thiết, thì thào:

- Có lẽ em bắt đầu yêu anh. Em ra về trước. Anh đừng nói gì với bà chủ. Bây giờ, là ba giờ. Gặp em ở rạp Rex lúc 7 giờ.

Tôi ôm chặt nàng, nói khẽ:

- Lâu quá!

- Tội nghiệp em mà! Đúng 7 giờ…

- Em tên gì?

- Gặp lại, em sẽ nói tên thực.

Chúng tôi hôn thêm nụ hôn tạm biệt đắm say. Trong lúc hôn, tôi đưa tay vói lấy cái bóp trong túi quần vứt ở góc giường. Tôi kéo ra tờ hai trăm. Khi nàng nhả tôi ra, tôi nói:

- Lúc nãy bà chủ có giảm giá do quen biết. Anh tặng lại em…

Cô gái cúi nhìn hai trăm rồi trừng mắt:

- Em không lấy! Và cả đêm nay cũng không…

Nàng đi thẳng ra cửa, không ngoái lại. Đợi cửa đóng hẳn, tôi phóng vào nhà tắm, tẩy rửa thật sạch. Dù có lời… bảo đảm, tôi vẫn cẩn tắc vô ưu, thà phòng bệnh hơn trị bệnh. Lau mình khô, tôi quấn chiếc khăn tắm màu trắng mềm mại quanh người bước ra ngồi lên chiếc ghế nệm nhỏ cạnh chiếc tủ đầu giường. Bây giờ tôi mới có dịp nhìn quanh căn phòng. Tường và trần đều sơn màu trắng tinh khiết. Và một khung tranh khá lớn trên vách đối diện vách kê giường đôi. Bức tranh trông quen quá. Không phải tranh, chỉ là hình chụp bức tranh. Bức Starry Night của Vincent Van Gogh. À há, bà chủ còn là một tay… bí ẩn đáng tìm hiểu đây! Tôi uống cạn ly cà phê mà tôi biết đêm nay tôi cần nó.

Tôi mặc lại áo quần, nhặt cái bóp lăn lóc trên giường cầm luôn trong tay đi xuống thang lầu. Tôi đếm đủ tám trăm đưa bà chủ. Chị không được vui:

- Sao về nhanh vậy? Nếu không hài lòng, tôi kêu cô khác?

- Cám ơn chị, quá hài lòng! Nhưng chắc hài lòng hơn nếu… là chị!

- Nham nhở! Về đi! Bữa khác tới nghe!

- Nếu chị hứa dắt tôi vào… buồng giải thích cái đẹp của bức tranh…

Chị xua tay như đuổi tà ma:

- Cút đi cha nội non! Dai như đỉa đói!

Tôi cười bước nhanh ra cổng. Dừng lại đốt điếu thuốc, tôi quyết định: “Chỗ quen biết” của Vĩnh Tường nhứt định phải thành “chỗ quen biết” của… Vĩnh Bằng. Khi đứng đón taxi, tôi phân vân không biết về đâu. Tôi còn đến ba tiếng thênh thang mới tới giờ hẹn. Tôi bỗng nhớ Hiền da diết. Cái cớ rất hấp dẫn để tôi đến gặp nàng mà không thẹn với lòng là lâu rồi tôi chưa gặp… anh nàng. Nhưng khi lên taxi, tôi lại bảo đưa đến nhà Tuyết. Đến nhà Tuyết, tôi không cần lý do. Tôi chưa có lời vĩnh biệt Tuyết. Tôi chỉ muốn biết khi tôi nhấn chuông, thời gian sẽ mất bao lâu cho cửa nhà Tuyết rộng mở. Ơ hay! Mày đang ghen hả Bằng?

Và bất ngờ trong một phút giây sáng suốt nhất tôi nhận ra rằng tôi còn có một người đẹp chờ tôi ở Rex. Xem phim là đam mê của tôi. Rex là rạp tôi ưa thích. Và cũng lâu rồi chưa trở lại nơi này. Sao tôi lại dại dột không chui vào chốn ưa thích để thỏa mãn nỗi đam mê mà khi trở ra đã thấy nàng đang đứng đợi? Và là của riêng tôi suốt đêm.

Tôi nói với ông tài xế bằng giọng lịch sự nhất:

- Xin lỗi bác tài. Nhờ bác đổi hướng về rạp Rex.
 


Chương 9

Không có gì bịn rịn nhưng cũng mãi đến hơn 7 giờ sáng tôi mới rời được cô gái. Rất may, khi về đến tàu, tôi vẫn còn vài phút để thay vào bộ quân phục trước giờ điểm danh. Tôi cùng trung úy Hải lên lòng tàu đứng đối diện hàng quân. Ông quản nội trưởng báo cáo quân số hiện diện, số người vắng mặt có lý do. Trung úy Hải chìa tay ra thay cho lời bàn giao phiên trực. Tôi chào trước khi nắm bắt như một biểu lộ tiếp nhận trách nhiệm.

Phần vụ của sĩ quan trực là giải quyết các sự việc xảy ra bất thường trong ngày và khẩn thiết trong đêm, vì vậy khó mà biết trước ngày đó sĩ quan trực khỏe hay mệt. Nhưng hôm nay tôi biết trước là tôi sẽ có một ngay rất mệt. Suốt tối qua tôi đã nổ lực vượt bực, chỉ còn hy vọng đủ sức cho công việc bình thường. Phải làm thêm việc bất thường với khẩn thiết thì khó mà kham nổi cho đến giờ… leo lên giường.

Tôi cố giữ bước đi tự nhiên vào nhà bếp xem qua việc dọn dẹp chùi rửa. Trở ra lòng tàu, tôi “làm một vòng” từ lái ra mũi, quan sát việc làm từng nhân viên. Công việc thì vẫn như lệ thường khi tàu về bến: Tu bổ súng, gõ sét, sơn lót, làm vệ sinh… Gần chín giờ tôi leo lên hạm kiều chờ đón hạm trưởng về tàu. Chào đón xong, tôi theo ông xuống phòng làm việc để tề tựu cùng các sĩ quan khác báo cáo nhật vụ và nhận chỉ thị mới. Thật là may, không có việc đặc biệt cho tôi. Càng may mắn hơn là đêm qua ông không làm thơ, hay có mà ông quên đọc. Nghe ông bàn công việc tôi đã cứ phải chống mi mắt lên. Ông mà đọc thêm thơ nữa thì chắc chắn tôi không thể tránh khỏi… thất lễ với ông.

Thông thường, có hai nơi cần sự hiện diện của sĩ quan trực. Đó là hạm kiều và phòng làm việc. Nhưng hôm nay tôi muốn lánh xa phòng làm việc. Ông hạm trưởng vừa bước vào buồng riêng là tôi đứng lên ngay. Tôi mà tiếp tục ngồi thì đố khỏi tiếng ngáy sẽ phát ra trước khi tròn một phút. Tôi lên đứng cạnh hạm kiều. Đây là nơi thích hợp nhất cho sĩ quan trực, vừa có thể kiểm soát bao quát việc làm, vừa có người trò chuyện, lại vừa có thể tiễn hạm trưởng rời tàu bất kỳ giờ phút nào. Chào tiễn hạm trưởng cũng là phần nhiệm của sĩ quan trực có ghi trong huấn thị điều hành. Vì vậy sơ sót có thể lãnh củ. Việc đón hạm trưởng “về tàu” tương đối dễ hơn là việc tiễn ông “rời tàu”. Khi ông đến, vừa lúc ông quẹo chiếc Vespa vào cầu tàu, người hạ sĩ quan hoặc nhân viên trực hạm kiều nhấc ngay ống liên hợp thông báo qua hệ thống phóng thanh: “Hạm trưởng sắp về tàu”. Sĩ quan trực, dù đang ở nơi nào, cũng nghe được và có đủ thì giờ có mặt chào ông. Nhưng khi ông rời tàu, sĩ quan trực có nghe lời thông báo thì cũng đành… chào thua! Ông lên hạm kiều, không thấy sĩ quan trực, ông vẫn rời tàu. Hạ sĩ quan trực thay mặt chào tiễn ông. Khi ông hạ sĩ quan trực cầm được máy để thông báo thì có nghĩa Hạm trưởng đã rời tàu, khuất dạng. Thành thử để chắc ăn, sĩ quan trực thường lảng vảng ở hạm kiều khi cờ hạm trưởng còn bay phất phới. Với Hạm trưởng dễ tánh, sĩ quan trực chỉ bị cảnh cáo. Với vị thích nguyên tắc, quân kỷ được áp dụng.

Tôi đang đứng nói ba điều bốn chuyện với nhân viên trực thì hạm trưởng xuất hiện. Tôi chào tiễn chân ông và ghi vào sổ hạm kiều: “1100H: Hạm trưởng rời tàu, liên lạc Hải quân công xưởng”. Ghi xong, tôi lại vào nhà bếp coi qua việc nấu nướng rồi đến phòng ăn đoàn viên kiểm soát mức độ sạch sẽ. Sau đó lại trở ra lòng tàu làm nhiệm vụ sĩ quan trực. Đúng ngọ, anh chiêu đãi viên mời tôi xuống dùng cơm. Tôi quá rã rời, chỉ muốn nằm ngủ nhưng thấy hạm phó và Tâm có vẻ đang chờ nên tôi miễn cưỡng vào ngồi. Hào nói ngay:

- Từ sáng đến giờ hạm phó cứ mong đến giờ ăn để được nghe báo cáo kết quả… ủi bãi!

Tâm cũng hí hửng ra mặt:

- Tôi cũng thế! Ông Bằng ơi, bãi thế nào?

Hỏi gì mà cắt cớ! Ba cái vụ này làm sao mà tả! Phải tự ủi bãi mà khám phá chứ! Nhưng chợt hai câu thơ hiện cùng một lúc. Tôi tuôn ra luôn không chọn lựa:

- Cỏ non xanh rợn chân trời. Và cỏ gà lún phún leo quanh mép!

Tâm cười ngất:

- Hấp dẫn thật!

Hào trố mắt, phản đối:

- Hấp dẫn cái con khỉ! Khó hiểu thì có. Không thể “xanh rợn” mà lại “lún phún”!

Tôi cười, cơn buồn ngủ tiêu tan:

- Hạm phó thay chữ “xanh rợn” bằng chữ “cỏ non” xem sao!

- Cỏ non, lún phún! A, hấp dẫn thiệt chứ! Còn việc… an toàn?

- Phải đợi vài bữa không… uống cà phê đen đái ra cà phê sữa, mới biết!

Giọng Hào nôn nóng:

- Tối nay tôi có ý định đến đó. Nhờ cụ mô tả … nội vụ rõ hơn!

Hào dùng từ “cụ” của ông phó Đắc thay vì dùng “anh” với tôi như trước đây. Tôi cảm nhận cái thân tình Hào dành cho nhưng tôi nghĩ không nên nói hết “nội vụ” diễn ra suốt hôm qua. Dù “đối tác” không dặn dò gì nhưng tôi vẫn nghĩ đó là những thố lộ riêng tư cần giữ kín.

- Sao? Bắt đầu đi chứ!

Tôi chầm chậm kể lại mọi chuyện từ lúc tôi “đột nhập” ngôi biệt thự cho đến khi về, trừ phần hẹn nhau buổi tối. Tâm có lúc vổ bàn khoái chí, có lúc cười rộ, có lúc mặt nghệch ra. Hào thỉnh thoảng chỉ mỉm cười. Tôi vừa kể dứt là hạm phó phán ngay:

- Có thể là “em mới”. Mới từ quê lên chứ nữ sinh cái quái gì! Mánh lới của bà chủ để lấy cao giá thôi.

Tôi định phản đối nhưng biết là mình khó thuyết phục. Phần có thể thuyết phục được lại nằm ở phần qua đêm. Đêm qua nàng thổ lộ đó là lần đầu nàng đến ngôi biệt thự và gặp tôi là người đầu tiên. Bà chủ đã “dặn dò” các tình huống xấu mà nàng có thể gặp phải ở mỗi người khách và dạy luôn cách ứng xử. Trong mọi trường hợp nàng có quyền… chạy làng! Nàng gặp tôi trong bao nỗi lo âu. Nhưng buổi đầu của nàng đã diễn ra ngoài mong ước. Theo dạy dỗ, nàng phải cưỡng lại mê đắm nhưng nàng không thể không buông xuôi… Cũng vì vậy nàng muốn tặng không cho tôi một đêm để cám ơn. Và giữa những yêu đương cuồng nhiệt, nàng thố lộ về gia cảnh của mình. Nàng kể một cách tự nhiên như tôi đã là người thân thương nhất đời nàng.

Vài tháng trước nàng gặp hai cái rủi gần như đồng thời. Đầu tiên, nàng bị người tình sinh viên bỏ rơi. Kế đến ba nàng bị bắt trong đêm chính quyền bố ráp chùa Xá Lợi và đến nay vẫn chưa thấy về. Mẹ thì không việc làm và ba đứa em thì còn đi học. Nàng thì không còn trinh trắng nhưng tương lai thì thênh thang. Cho nên nàng không thấy con đường nào thuận lợi hơn con đường nàng chọn. Nó giúp nàng vừa có tiền vừa có thì giờ tiếp tục y khoa. Nàng hy vọng cha được thả sớm để nàng quay về cuộc sống bình thường. Tôi im lặng nghe, sự im lặng chìm lắng đến độ nàng ngờ là tôi không tin. Thế là nàng cho tôi xem thẻ sinh viên. Tấm thẻ cho thấy nàng thực sự đang theo học y khoa năm thứ nhất. Tôi nổi máu anh hùng móc bóp chia hai số tiền tôi đang có nhưng nàng quyết liệt từ chối. Nàng bảo lấy làm gì cho tôi phải túng thiếu mà nàng cũng không sao thoát khỏi con đường định mệnh. Nàng nói thời trung học nàng rất mê truyện Kiều và tin rằng vì nàng không đẹp nên kiếp đoạn trường sẽ chẳng bao lâu. Tôi bảo tôi tin cơn hoạn nạn của nàng sẽ chóng qua nhưng lại chỉ dám nghĩ thầm là nàng còn “sắc sảo” hơn cả Kiều.

Giọng Hào nóng nảy:

- Nếu tối nay tôi đến, muốn gặp cô đó, hỏi tên gì?

Tôi moi óc. Bà chủ không giới thiệu. Nàng cũng chẳng bao giờ xưng tên. Tôi còn nhớ tên trong thẻ sinh viên là Lưu Ngọc Anh nhưng chắc chắn nàng không dùng tên thật để “hành nghề”. Tôi nói:

- Tôi quên hỏi. Hạm phó cứ bảo bà chủ cho gặp cô hôm qua giới thiệu cho Vĩnh Bằng. Bà có hỏi thêm Vĩnh Bằng là ai thì bảo là bạn của Vĩnh Tường Hải quân.

- Còn nhiều cô khác?

- Có thể lắm. Riêng trên lầu đã thấy bốn cửa buồng. Chỗ này vắng vẻ, yên tịnh và chơi đẹp. Hạm phó không thích cô này bà chủ thay cô khác. Riêng cá nhân tôi, khi đến, ngay phút đầu tôi đã chọn bà chủ nhưng bà cứ nhất định… bán cái!

- Bà chủ ngon lắm hả!

- Hơn cả ngon, rất tuyệt! Nhưng có vẻ như chỉ “dành riêng” cho cựu hạm phó!

Hào cười hỉ hả:

- Cựu hạm phó lấy vợ thì có tân hạm phó độc thân. Hạm phó nào cũng ngon như nhau thôi!

Chúng tôi cùng cười vang. Tôi cầm đũa gắp miếng rau muống xào. Hương vị nhạt phèo gợi tôi thèm hương vị tô phở ban sáng trước khi chia tay. Và đồng thời gợi nhớ thân thể thơm tho của nàng.




Sinh viên Sĩ quan Hải Quân thực tập Hải pháo

 

Sau cơm tối, từ 8 giờ, tôi ngủ vùi cho tới giờ cơm trưa kế tiếp. Bàn ăn hiện diện đủ năm sĩ quan là Hào, Hải, Được, Tâm và tôi. Hào kể chuyện hôm qua đến “chỗ quen biết”. Cả bốn bàn qua tán lại, nói cười vang rân. Khi biết Hào gặp một cô gái khác, tôi không còn quan tâm lắng nghe. Người còn nhiều mỏi mệt, tôi lặng thinh nhai và nuốt. Nhưng đầu thì tính toán hướng xuất hành. Hạm trưởng tiếp tục thông cảm cho chia phân đội đi bờ. Tôi lại được tự do nửa ngày với trọn một đêm. Tôi sẽ làm gì cho hết quãng thời gian quý báu từ giờ phút này? Trở lại “chỗ quen biết” và gặp lại Lưu Ngọc Anh? Hay đòi cho được… bà chủ? Không, tôi không còn thấy hứng thú. Trở lại không chỉ phí phạm thêm sức người mà còn phí phạm thêm cả sức của! Bà chủ vẫn còn đó, dăm ba bữa tính tới! Hay đi ăn kem, uống cà phê? Rồi về tàu ngủ tiếp? Không tệ!

Tâm đột ngột quay sang tôi:

- Tuyết nói mày đến chơi. Tối nay!

- Tối nay? Tối nay là thứ năm, đâu phải thứ ba!

Tâm hất mặt:

- Dành riêng cho mày!

Tôi nhìn Tâm không chớp mắt. Gương mặt Tâm tươi vui, không nét biểu lộ trêu chọc hay đùa cợt. Anh cười hồn nhiên:

- Ê, tao vô tội! Tuyết không thấy mày, yêu cầu tao nhắn mày. Và tao làm theo. Chấm hết!

- Mày không nói là tao không muốn gặp lại nàng?

- Hoàn toàn không!

Tôi khoát tay, ậm ừ:

- Mà có nói hay không, cũng vậy thôi. Tao đã nói không đến là không đến!

Tâm nhìn đĩa thức ăn:

- Tại sao mày không đích thân nói với Tuyết, tối nay?

Tâm nói đúng. Tại sao tôi không nói thẳng lời chia tay với Tuyết như đã nói với Hiền? Tâm đã thổ lộ ý muốn cưới Tuyết. Tuyết không che dấu tình yêu của nàng dành cho tôi. Tại sao tôi không có lời dứt khoát để Tuyết khỏi phải ray rứt làm người phụ bạc? Tại sao không minh bạch một lần với sự hiện diện của cả ba? Tôi nói:

- Tao đến với điều kiện là mày cùng đi.

- Tao nghĩ là mày nên đến một mình.

- Tuyết có nói rõ ràng là chỉ muốn gặp riêng tao?

- Không! Tuyết chỉ nói nếu mày có thể đi được, tối nay. Tuyết sẽ chờ.

- Vậy thì mày phải đi với tao. Tao muốn nói lời dứt khoát với Tuyết trước mặt mày.

- Để làm gì? Cũng chả giúp ích được gì! Hôm kia tao có gợi ý muốn cưới Tuyết thì nàng bảo… rất cám ơn. Nàng hết còn ao ước được làm vợ hoặc tao hoặc mày. Người đẹp chỉ còn muốn được… làm bạn cả hai.

Tôi không ngăn được tiếng cười. Thói thường, khi không còn yêu một người nào đó, người ta chuyển thành bạn. Đàng này Tuyết yêu cùng lúc cả hai và cùng lúc chuyển cả hai thành bạn. Một điều bất bình thường. Tâm bịa chuyện để đùa cho vui chăng? Nhưng Tâm không có cái tài này. Và nếu thật vậy thì có gì phải gấp gáp. Tình bạn chớ có phải tình yêu đâu mà cần liền tối nay. Hơn nữa, nếu quả thật Tuyết muốn coi tôi như bạn thì tôi lại càng không nên đến. Tôi biết chắc rằng khi gần Tuyết, gần mùi hương da thịt từng đã dính vào tế bào của tôi, tôi không tài nào đáp ứng bằng tình bạn.

Tình bạn! Tình bạn! Cái từ gợi tôi một tình bạn chân thành. Một tình bạn mà lâu nay tôi bỏ quên. Tệ hại hơn, tôi cũng… bỏ quên cả ba mẹ người bạn đó mà lúc nào cũng dành cho tôi đầy thương yêu chăm sóc. Phải rồi, thay vì đến Tuyết, thay vì ra quán cà phê, tôi nên dành một buổi để trở về mái nhà xưa. Ngẫm nghĩ, tôi ngạc nhiên biết bao khi thấy cái ý muốn về lại nhà Dũng không mảy may bị thúc đẩy bởi lòng nhớ thương Hiền. Tôi vui mừng đã không nghĩ tới Hiền trong mấy ngày qua. Nhưng khi nói với Tâm, tôi mượn Hiền như một cái cớ chính đáng:

- Tao nhất định không đến nhà Tuyết tối nay chỉ vì tình bạn. Mày có đồng ý với tao là thăm bạn không quan trọng bằng thăm người yêu? Vậy tao lấy làm tiếc mà nói rằng, trọn buổi chiều và tối nay tao sẽ dành cho Hiền. Tối nay mày hãy đến với Tuyết và nói dùm rằng tao sẽ gặp người bạn mới vào một ngày khác.

Tôi nhấn chuông nhà Hiền. Nhà Hiền trước đây từng cũng là nhà tôi, nơi tôi trọ học. Vậy mà giờ đây trở về căn nhà xưa tôi lại băn khoăn hồi hộp. Tôi mong người mở cửa không phải là Hiền. Nếu là Hiền, có thể tôi không ngăn được ước muốn ôm lấy nàng. Người ra mở cửa là mẹ Hiền. Vừa thấy tôi bà mừng rỡ mà trách móc:

- Sao lâu quá con không về? Cứ vài ngày là Dũng hỏi thăm con có về không. Còn Hiền thì giận con từ ngày nó nấu cơm rồi chờ con mãi. Tôi nói lấp liếm:

- Con cũng muốn về nhưng bữa đó tàu đi công tác bất thường. Rồi lại bị cấm trại liên miên. Con cũng nhớ hai bác lắm.

Bà thở dài:

- Thời cuộc lộn xộn quá. Vào chùa nghe sư giảng thì thấy chính quyền không thỏa mãn yêu sách của Phật giáo. Về nhà nghe radio thì ông Diệm bảo là ông đã thỏa mãn cho Phật giáo treo cờ. Nhưng các Thầy là người tu hành, bác tin ở các Thầy.

Tôi không nắm vững tình hình nên chi biết lặng thinh. Bà cụ tiếp:

- Thằng Dũng đang đi biểu tình. Hiền thì chở ba nó đi bác sĩ.

- Thưa bác trai đau gì thế, thưa bác?

- Ông ấy kêu đau ở ngực, khó thở, ho nhiều. Con ở lại ăn tối nghe.

Tôi liếm môi ra vẻ thèm thuồng:

- Con rất nhớ các món bác nấu.

Bà bảo:

- Con lên lầu nghỉ đi. Trông con gầy và đen nhiều.

Tôi lột giày đi thẳng đến thang lầu được nối kết góc vuông bằng các đoạn nghiêng tựa sát bốn vách của một hình khối thẳng đứng. Đỉnh của khối nằm trên sân thượng được che mưa bằng một mái mica trong suốt. Khối vuông chia mỗi tầng tòa nhà thành hai phần. Phần trước rộng gấp đôi phần sau và mỗi phần nối nhau bằng một hành lang. Tầng trệt, phía trước là phòng khách và phòng ăn, phía sau là nhà bếp.

Màu xanh nhạt bóng láng của các miếng gạch xôn xao khi tôi bước như chạy lên sân thượng. Từng hai dành cho ba mẹ Hiền. Phần trước là nơi ông bà thù tiếp bạn bè. Phần sau là buồng ngủ. Tầng ba, Hiền chiếm phần sau. Một cửa sổ khá lớn được mở ra nhận ánh sáng ban ngày từ khối vuông hình trụ. Nhưng dù ngày hay đêm – nhờ ánh đèn - từ sân thượng nhìn xuống tôi có thể bắt gặp nàng đang học bài hay đang âu yếm với Thanh. Phần trước dành cho Dũng nhưng Dũng thường lên sân thượng học bài với tôi và có khi ngủ lại. Toàn bộ sân thượng là giang sơn riêng của tôi. Ngay giữa là căn nhà tiền chế đủ rộng cho một bộ phản đôi và một bàn học cho bốn người.
 


Tôi bước vào thế giới học trò của tôi ngày nào. Chiếc chiếu vàng úa nhưng sạch sẽ. Hai chiếc gối có bao trắng kẻ ô nâu chữ nhật. Bàn viết của tôi vẫn y nguyên sách vở cũ trừ quyển tiểu thuyết Z 28 đang mở đôi để úp là mới lạ.

Tôi ngồi lên bộ phản. Mãi đến bây giờ tôi mới để ý đến độ cứng của nó sau khi quen với chiếc giường nệm êm ái dưới tàu. Như có một lực nào đó kéo tôi nằm xuống. Lưng tôi lấn cấn khó chịu. Mình chọn Hải quân xem ra rất hợp lý hợp tình và đúng lúc. Nếu tiếp tục ở đây học, cho tới hôm nay tôi vẫn ngủ trên bộ phản gỗ cứng như sắt này và tôi vẫn chưa nghề chưa nghiệp. Bây giờ tôi đã là một thiếu úy Hải quân, không chỉ là một người chịu đựng được sóng gió mà còn có khả năng đưa con tàu vượt qua sóng gió. Tôi cũng đã một lần vào sinh ra tử mà cái chết đúng là nhẹ tựa lông hồng. Tôi hãnh diện thấy tôi lớn hơn, dày dạn hơn hẳn Dũng và Thanh. Tôi mỉm cười và chìm vào giấc ngủ.

- Hê Bằng, đi đâu biệt tích?

Tiếng Dũng vang lên, mừng rỡ. Tôi ngồi bật dậy. Chúng tôi ôm choàng lấy nhau. Dũng buông tôi ra, lắc đầu nói:

- Mày xuống tàu như mang theo cái êm ả của Sài Gòn. Ngày nào cũng rầm rộ biểu tình, ngày nào cũng dùi cui vung xích chó. Tao mới về từ chùa Xá Lợi. Cảnh sát dã chiến vẫn vây kín chùa. Nhưng họ sẽ không bao giờ ngăn được các cuộc biểu tình, không bao giờ chận được các Thầy tự thiêu. Tổng số các Thầy tự thiêu đã lên cả chục rồi mày biết không?

Tôi biết có những vụ tự thiêu nhưng không ngờ là nhiều như vậy. Tôi lặng thinh và Dũng lại tiếp:

- Các trường đại học và trung học đều bãi khóa. Các giáo sư từ chức. Vậy mà ông Diệm vẫn dửng dưng, tiếp tục cho đàn áp, bắt bớ, giết hại. Mấy lần tao suýt bị bắt. Mà mày đi tàu thì biết cái gì! Suốt ngày chỉ biết trời trăng mây nước…

Tôi phản đối:

- Dù không theo sát nhưng có biết vụ lộn xộn này.

Dũng cao giọng:

- Ai bảo đây là vụ lộn xộn? Mày nhìn sự việc thế nào mà ăn nói lơ mơ vậy?

Trước đây thỉnh thoảng tôi và Dũng vẫn tranh luận về bất cứ vấn đề gì không cùng một ý. Tranh luận có khi dữ dội cho đến khi vấn đề được sáng tỏ hoặc sau khi nhiều góc cạnh được xét tới mà chưa hề đi đến giận nhau. Tôi nói:

- Tao dùng cái từ lộn xộn là ý thế này. Tuần đầu tháng năm, Huế biểu tình đòi ông Diệm hủy bỏ lịnh cấm treo cờ Phật giáo. Một biến cố xảy ra làm nhiều người chết. Phật giáo bảo chính quyền bắn vào đám đông. Chính quyền bảo Việt cộng ném lựu đạn gây chia rẽ. Thế rồi tháng sáu biểu tình lan đến Sài Gòn và càng lan rộng sau vụ tự thiêu của hòa thượng Thích Quảng Đức. Chính quyền bảo đã cho treo cờ. Phật giáo bảo nói vậy mà không phải vậy. Tháng bảy dùi cui giải tán biểu tình. Tháng tám, tháng chín thêm nhiều nhà sư tự thiêu. Chùa chiền bị lục soát, sư sãi bị bắt giam. Học sinh, sinh viên bãi khóa. Hàng loạt giáo sư từ chức. Tháng mười, cảnh sát bắn chết một nữ sinh dự biểu tình ở chợ Bến Thành. Và thêm một nhà sư tự thiệu cũng tại nơi này. Thời cuộc tùm lum như vậy không gọi lộn xộn thì gọi là gì?

Tiếng Dũng bực bội:

- Phải dùng từ nghiêm túc cho một chuyện nghiêm trọng. Đây là cuộc đấu tranh chống kỳ thị tôn giáo, chống bắt bớ, bắn giết sư sãi của chính quyền. Một việc làm chính đáng chớ không phải một vụ lộn xộn.

Tôi thành thật:

- Tao nghe nói Phật giáo bị Cộng sản giật dây.

- Thì luận điệu của chính quyền. Họ chỉ muốn viện cớ tiêu diệt Phật giáo.

- Tiêu diệt Phật giáo? Để làm gì?

Dũng tỏ ra thêm bực bội, to tiếng:

- Mày chả biết gì hết! Ông Diệm theo đạo Thiên Chúa và muốn đạo này trở thành quốc giáo. Vì vậy phải tiêu diệt Phật giáo.

 



Hòa thượng Thích Quảng Đức tự thiêu tại Sài Gòn

 

Tôi mới nghe lần đầu. Tôi hỏi Dũng tin này xuất phát từ đâu. Dũng bảo ai cũng biết… trừ tôi. Tôi bảo khó tin và cũng khó hiểu. Dũng bảo tôi binh chính quyền. Tôi khẳng định:

- Dân mình có đến chín mươi phần trăm không theo Phật giáo thì cũng theo Hòa Hảo, Cao Đài và đạo thờ cúng tổ tiên. Ông Diệm có gan trời cũng không dám đưa đạo Thiên Chúa lên quốc giáo.

Bị cấm bàn chính trị dưới tàu, tôi nhân dịp này khích tướng cho Dũng huỵch tẹt để hiểu thêm tình hình. Chúng tôi còn lời qua tiếng lại thì Hiền xuất hiện. Tôi nói với Dũng quả tình là tôi không theo sát thời cuộc vì công tác liên miên. Nhưng bất kể ai đúng ai sai tôi cũng mong… vụ lộn xộn này sớm chấm dứt. Dũng đưa nắm tay lên trước mặt tôi rồi cười khì xuống lầu.

Hiền đứng yên ở đầu cầu thang, khoanh tay nghinh tôi. Cặp mắt mí đôi mở to trên khuôn mặt sáng rỡ dỗi hờn. Hiền có vẻ gầy hơn trong chiếc pullover tay ngắn và chiếc quần jean bó sát. Tôi nói khẻ:

- Chào Hiền.

Hiền thong thả tiến đến tôi, hôn nhẹ vào má tôi và cất giọng êm đềm:

- Mừng anh trở về. Hiền luôn luôn tin là anh sẽ trở về.

Tôi không muốn vướng sâu vào những lời kế tiếp có thể là đầy tình cảm. Tôi hỏi:

- Nghe Hiền đưa bác đi bác sĩ, kết quả ra sao?

- Cảm thường thôi anh ạ. Hú vía!

- Để anh xuống chào bác.

- Hiền thấy mẹ đang nấu các món anh thích. Anh ở lại qua đêm nghe? Khuya khuya Hiền sẽ hát nhạc Trịnh Công Sơn tặng anh. Không có anh, nhớ mấy bài anh thường hát, Hiền hát tới hát lui mỗi đêm. Anh Dũng khen Hiền hát bản Tình Nhớ hay hơn cả…

- Thanh là người đàn?

Hiền giẫy nẩy:

- Thanh! Lúc nào cũng Thanh! Phải chi anh hiểu cho rằng Hiền đã học được bài học đắng cay về cái cách trả thù ngu dại của mình. Và Hiền đã chấm dứt việc lợi dụng anh Thanh. Anh Dũng đàn cho Hiền hát.

Tôi không ngăn được lời xỉa xói:

- Chấm dứt bằng cách nào? Đang nồng nàn mà cúp ngang xương dễ dàng vậy được sao?

- Hiền nói là Hiền bận học thi, Hiền nói là Hiền bận nhớ anh…

Tôi kêu lên:

- Đừng làm thế, Hiền. Coi chừng lại phải học thêm bài học đắng cay. Cái kiểu chọc anh cho tức để anh gần Hiền và rồi chọc cho Thanh giận để Thanh xa Hiền đều đưa đến kết quả trái ngược. Thanh lại càng muốn gần Hiền cũng như anh càng muốn xa Hiền! Hãy thật lòng với nhau…

- Hiền lập lại lời đã nói. Rất thật lòng: Hiền yêu anh!

Tôi xua tay:

- Gần nửa năm xa Hiền, thoạt đầu anh nhớ da diết nhưng rồi cũng quên dần. Hôm nay anh trở về như là một người thân trong gia đình. Hãy coi anh là… anh!

- Hiền hứa sẽ chuộc sai lầm của mình. Hiền sẽ không còn làm anh khổ! Hiền sẽ mang hạnh phúc đến cho anh.

Tôi nhìn ánh mặt trời tỏa sáng sau một tòa nhà vươn cao:

- Như đã có lần anh nói, anh không thể vui khi thấy Thanh buồn khổ. Anh từng trải qua buồn khổ…

Hiền nhăn mặt:

- Còn Hiền buồn khổ thì anh thấy vui?

- Hiện tại lòng anh thấy rất bình yên và anh muốn được mãi như vậy!

- Hay là anh đang yêu ai khác? Sáu tháng qua anh ghé bao nhiêu bến bao nhiêu bờ! Dễ gì Hiền được cái hân hạnh anh dùng toàn thời gian đó để nhớ Hiền như Hiền nhớ anh!

Tôi cười buồn:

- Đúng ra anh đã dùng toàn thời gian đó để tập… quên Hiền. Và anh đã thành công.

Hiền vồ lấy tôi, hôn vào môi tôi. Tôi đẩy Hiền ra nhưng nhỏ nhẹ nói:

- Hiền ẩu quá! Dũng có thể thấy.

- Anh Dũng biết Hiền yêu anh. Ba mẹ biết Hiền yêu anh. Tất cả hài lòng khi thấy em chọn anh…

Tôi lững thững bước lại cầu thang rồi ngoái lại nói:

- Anh xuống chào hỏi bác…

VŨ THẤT
(Xem tiếp chương 10)

* * *

Chương 1, 2 & 3                              

Chương 4, 5 & 6                    
Chương 10, 11 & 12                       

Chương 13, 14, 15 & Chương kết
 

Bài nầy đăng lần đầu vào lúc 02:18:50 PM, Mar 08, 2012

*  *  *
 

Xem bài khác cùng tác giả: click vào đây
Xem trang Hải Quân VNCH: click vào đây
Trở về trang chính: www.nuiansongtra.net

 


Nếu độc giả, đồng hương, thân hữu muốn: 

* Liên-lạc với Ban Điều Hành hay webmaster 
* Gởi các sáng tác, tài liệu, hình-ảnh... để đăng 
* Cần bản copy tài liệu, hình, bài...trên trang web:

Xin gởi email về: quangngai@nuiansongtra.net 
hay: nuiansongtra1941@gmail.com

*  *  *

Copyright by authors & Website Nui An Song Tra - 2006


Created by Hiep Nguyen
log in | ghi danh