Mở speakers ON, click vào mũi tên màu trắng để nghe âm-thanh.
Muốn OFF, click vào ô vuông (góc trái dưới cùng, cạnh hình tam giác).
MỘT LOÀI CHIM BIỂN
Sáng tác: Nguyễn Vũ
Ca sĩ: Hoàng Lan
Hải Vận Hạm Tiền Giang - HQ 405
ĐỜI THỦY THỦ
Vũ Thất
Chương 10
Chiếc hải vận hạm (hình trên) ủi bãi ở khoảng giữa khúc quanh của con sông thuộc một xã thôn có tên Thành Tuy Hạ. Theo lời hạm trưởng, Thành Tuy Hạ cũng là tên của kho đạn lớn nhất miền Nam. Từ lòng tàu nhìn xuyên qua cửa đổ bộ là một bãi lài lót đá dẫn lên một con lộ. Hai bên lộ chỉ là những căn nhà gạch đất bình thường. Không một dấu vết gì cho thấy kho đạn nằm ở chốn nào. Vậy mà chỉ một thời gian rất ngắn sau khi cửa đổ bộ mở ra, các xe GMC chở đầy đạn đại bác lần lượt chạy thẳng xuống tàu. Là sĩ quan chuyển vận và đổ bộ, tôi trách nhiệm việc nhận hàng. Nhưng thật ra tôi chẳng làm gì vất vả. Việc bốc dỡ là phần việc chuyên môn của nhân viên kho đạn. Tôi chỉ để mắt xem công việc tiến triển đến đâu!
Cái tin chiến hạm đi công tác Nha Trang mang đến cho tôi một cảm giác khác hẳn những lần công tác trước. Tôi không lo lắng, băn khoăn mà nôn nao, bồi hồi. Nha Trang là nơi tôi sống nhiều năm vào cái tuổi “phá xóm phá làng” chỉ nhường thua ma quỷ. Nhờ có ông anh đi quân đội rày đây mai đó, từ một cậu bé nhà quê, tôi bắt đầu ba năm trung học ở Sài Gòn và bốn năm kế tiếp ở Nha Trang. Bốn năm làm học trò của trường Võ Tánh cũng là một thời để yêu. Yêu bằng mối tình đầu. Và thêm hai năm rèn tập thành một quân nhân Hải quân lại là một thời để nhớ. Nhớ suốt tuần để cuối tuần chỉ dám… nhìn nhau. Rồi xa nhau như tình cuối. Tuyết là tình đầu và Hồng là tình cuối…
Sáu tháng qua tôi không viết một lá thư nào cho Hồng. Tôi có nên gặp lại không? Nếu gặp thì giải thích sao đây? Thực sự, tôi có còn yêu Hồng? Dường như tôi yêu tất cả những người con gái tôi quen khi còn thường xuyên gặp gỡ và lúc … xa mặt thì tự nhiên cách lòng? Tôi sắp gặp lại Hồng nên tình yêu đang trở lại? Chắc chắn tôi sẽ rất bồi hồi khi nhìn lại cảnh cũ nhưng với người xưa, nếu đã quên thì sao nôn nao?
Buổi trưa không ngủ được, tôi lang thang trên sân tàu. Nhiều lần tôi bảo nhân viên canh gác nhường việc nhắm bắn lục bình trôi cho tôi rỉ rả giết thì giờ. Lục bình trôi, có khi từng đám lớn là đối vật khả nghi địch ngụy trang cho quả mìn từ trường. Gặp vỏ sắt của chiến hạm, ngòi nổ sẽ kích hoạt và chiến hạm lãnh đủ! Cũng có thể đặc công thủy Việt cộng ẩn dưới đó đến gắn mìn thời chỉnh. Lại cộng thêm số lượng bom đạn đang nạp chứa, chắc chắn cả tàu lẫn người sẽ tan nát như tương. Cũng có bọn đặc công không cần lục bình, lặn thẳng đến tàu. Vì vậy tôi thỉnh thoảng giành thêm việc “ném chơi” một quả lựu đạn áp suất xuống lòng sông. Nhưng có làm gì thì làm, thời gian cứ chầm chậm trôi trong cái không gian im vắng, lặng lờ đến buồn chán. Tôi có nôn nao cỡ nào thì cũng ít nhất bốn mươi tám tiếng nữa mới hy vọng gặp lại Hồng. Hy vọng thôi chứ chắc gì nàng tiếp đón…
Thành Tuy Hạ cách Sài Gòn không hơn hai mươi cây số nên những lần ủi bãi trước đây, cả hạm phó lẫn hạm trưởng đều… dọt về nhà. Các sĩ quan không trực thì đi gần hơn, qua thăm bạn bè ở Căn cứ Hải quân Cát Lái. Nhưng lần này không ai được rời tàu. Theo hạm trưởng, tình hình Sài Gòn có thể có đảo chánh. Tôi nhớ thời còn ở quân trường, mấy năm trước đã xảy ra đảo chánh hụt…
Sau cơm tối, Hạm trưởng rút vào buồng riêng. Hạm phó và ba sĩ quan Hải Được Tâm chơi bài belotte. Tôi ngồi cạnh Tâm học cách chơi. Nhưng vì đã hứa với sĩ quan trực Hải nên cứ độ mười lăm, hai mươi phút là tôi lại leo lên lòng tàu, đi một vòng coi việc trực gác rồi ra cửa đổ bộ xem xét mực nước thủy triều. Nếu nước lớn, tàu phải được tiến tới để cửa đổ bộ bám dính bờ, khi xe lên xuống cáp treo không bị đứt. Khi nước ròng, tàu phải được lùi ra, sơ suất một con nước, tàu có thể mắc cạn vài ngày. Tùy tuần trăng, không phải lúc nào nước cũng lớn như nhau.
Tôi ra đứng sau lái. Lái tàu chiếm gần đến nửa sông. Trăng chưa lên nên trời tối mịt mùng. Những con đom đóm lập lòe quanh chiến hạm. Bên kia, ban ngày là đồng ruộng thênh thang giờ trở thành vùng tối đen đầy đe dọa. Chỉ có ít ánh sáng từ một tiền đồn lẻ loi nằm chếch bên bờ. Tôi cho rằng tình trạng an ninh ban đêm ở đây có phần ít được chính quyền địa phương quan tâm, ít nhất là đối với con tàu đang nhận đạn. Tàu nằm vài ngày thật khó mà tránh khỏi bị địch điều nghiên phá hoại, tấn công…
- Thưa thiếu úy, hạm trưởng mời thiếu úy xuống phòng sĩ quan.
Tôi nói cám ơn và bước theo anh chiêu đãi. Chắc ông vừa làm xong một bài thơ và muốn nghe lời bình của mình đây. Đã vài lần, thấy tôi còn ngồi đọc sách lúc hai giờ sáng, ông mang thơ ra ngâm tôi nghe và yêu cầu góp ý. Chúng tôi xem ra tương đắc về những sáng tác của ông.
Hạm trưởng đang ngồi sẵn ở ghế dành riêng và chung quanh đông đủ sĩ quan. Tôi ngồi vào ghế của tôi trong nỗi băn khoăn chờ việc quan trọng sắp được thông báo. Nhưng hạm trưởng chỉ cười tươi với mọi người:
- Hôm nay thảnh thơi tôi xem lại hồ sơ của chiến hạm và khám phá ra rằng thứ bảy cuối tuần này là đúng một năm chiến hạm được chuyển giao. Lâu rồi chúng ta không mở tiệc tùng vì tình hình lộn xộn. Đây là một cơ hội danh chính ngôn thuận, lại ở xa “mặt trời”. Địa điểm thích hợp mà thời điểm cũng vừa khớp. Ngày mai thứ tư chúng ta khởi hành đi Nha Trang. Thứ năm tới nơi và đạn sẽ được bốc dỡ trong ngày, trễ lắm là qua sáng thứ sáu. Ngay sau đó ta làm tổng vệ sinh chiến hạm. Thứ bảy ta trang hoàng, thiết trí. Tối ta mở dạ hội, các anh thấy sao?
Các sĩ quan nhìn nhau hớn hở. Hạm phó nói:
- Quá đẹp, thưa hạm trưởng! Cũng cả năm rồi chúng ta chưa trở về mái nhà xưa. Mở một dạ tiệc vui… hội ngộ là nhất rồi!
Hạm trưởng đưa mắt ưu tư nhìn mọi người:
- Vấn đề là thời gian tổ chức có phần gấp rút. Chúng ta chỉ có chưa đầy hai ngày cho bao nhiêu việc phải làm. Tôi đã thử phân công. Các anh lắng nghe. Anh nào thấy trở ngại trong phần vụ của mình, cứ nêu lên, chúng ta cùng tìm giải pháp. Trước hết là phần việc của tôi. Tôi sẽ liên lạc với Tòa đại biểu Trung phần để mời ông bà Đại biểu đến dự.
Ông chỉ cái bảng đồng treo ở vách bên tay trái:
- Các anh biết cả rồi, phu nhân của ông Đại biểu là mẹ đỡ đầu chiến hạm của chúng ta. Sau khi mời ông bà Đại biểu, tôi sẽ đến Bộ chỉ huy Vùng 2 Duyên hải và Trung tâm huấn luyện Hải quân để mời các giới chức ở đây. Luôn tiện mượn luôn ban nhạc, bàn ghế và cả xe nữa.
Còn đây là việc của Hạm phó. Hạm phó được chỉ định làm Trưởng ban tổ chức kiêm hoạt náo viên. Nghĩa là kiểm soát, đôn đốc và làm mọi việc cần thiết để dạ tiệc thành hình và thành công.
Việc của sĩ quan cơ khí, trung úy Hải: Trang hoàng đèn và bảo đảm đèn không tắt. Chỉ dùng hai loại bóng đèn xanh và vàng chạy dọc hai dây an toàn.
Sĩ quan đệ tam, trung úy Được: Trang hoàng cờ chữ, cờ số dọc theo vách lòng tàu và nơi nào anh thấy đẹp. Phụ trách luôn việc chở bàn ghế và sắp xếp. Trừ những ghế mình có sẵn trên tàu, anh cho biết mình cần mượn thêm bao nhiêu. Dự trù tổng số tham dự là chín mươi người.
Thiếu úy Tâm: Chuẩn bị thức uống, ly, khăn giấy và dĩa, muỗng, nĩa, dao nhựa mỗi thứ chừng 200. Tôi sẽ đưa tiền sau.
Thiếu úy Bằng: Chuẩn bị thực phẩm cho 90 người. Anh họp ban ẩm thực để bàn xem gồm các món ăn gì. Ít nhất cũng năm món, không kể tráng miệng. Tiền dự chi không quá ba ngàn.
Các anh nhận rõ phần vụ chưa?
Chúng tôi đồng loạt đáp:
- Thưa, nhận rõ!
- Ngày mai các sĩ quan họp ban của mình để minh định công việc. Tôi muốn bữa dạ tiệc lưu lại một kỷ niệm đẹp cho mọi người. Mọi khó khăn cho tôi biết tối mai, cũng vào giờ này.
- Nhận rõ!
- Hạm phó xem coi tôi có bỏ sót gì không?
Hào gật đầu:
- Cần gì thêm, tôi sẽ trình hạm trưởng.
- Ngày thứ năm ủi bãi Nha Trang, trong khi chờ bốc dỡ số đạn, chúng ta có một ngày thảnh thơi để đi mời thân hữu. Phân đội trực sẽ đi từ buổi sáng đến ba giờ chiều. Phân đội không trực đi từ 3 giờ đến không quá 8 giờ sáng hôm sau. Nhân viên nào vi phạm giờ giấc sẽ bị phạt nặng.
Sáng thứ sáu, Thiếu úy Tâm và Thiếu úy Bằng dẫn nhân viên nhà bếp đi mua thực phẩm, bia, nước ngọt và ly dĩa vân vân. Cho uống bia. Bất kể sĩ quan hay nhân viên nào say sưa là đem nhốt ngay xuống hầm lái tay. Ngày mai cho tôi xem tờ thực đơn đề nghị. Thứ bảy, tiệc sẽ bắt đầu từ 7 giờ tối đến nửa đêm. Từ 7 giờ, Trung úy Hải và Trung úy Được hướng dẫn khách thăm viếng chiến hạm. Tám giờ khai mạc dạ tiệc. Tôi dự trù có khoảng trên 30 khách đến tham dự. Cần nói rõ điểm này. Khách đến tham dự sẽ dùng phương tiện tự túc. Nhưng khi tiệc tan sẽ có xe đưa về tận nhà. Thiếu úy Bằng phụ trách một chiếc, Thiếu úy Tâm một. Nếu có thêm xe, hạm phó lo. Sáng mai điểm danh, hạm phó thông báo cho toàn thể nhân viên biết chương trình này.
- Thưa hạm trưởng, nhận rõ!
* * *
Cuốc bộ từ bến xe lam đến nhà Hồng tôi cứ ngẩn ngơ liệu Hồng có làm mặt lạ với tôi không. Nếu Hồng làm mặt lạ, tôi sẽ phản ứng ra sao? Cứ đứng lỳ trước cổng? Chắc phải vậy thôi để “kêu gọi” sự rủ lòng. Mà Hồng có làm ngơ luôn thì tôi cũng… đáng đời! Nhưng nếu nàng vẫn niềm nỡ, tôi phải giải thích thế nào việc im hơi lặng tiếng suốt sáu tháng? Tôi phải giải thích sao cho có lý có tình?
Hải Vận Hạm Hậu Giang – HQ 406
Mãi gần tới nhà Hồng, tôi mới chợt thấy là mình quá sơ suất. Lời xin lỗi dẫu có lý có tình đến thế nào mà không kèm một bó hoa thì vẫn là một thiếu sót lớn không thể chấp nhận! Tôi quay bước ra chợ Đầm chọn cho bằng được bó hoa hồng đúng màu hồng tươi tắn nhất. Một tay cầm túi xách đựng quà từ Sài Gòn, tay kia ôm bó hoa đi lang thang giữa phố trông rất cải lương nhưng lại khiến tôi vững bước. Tôi đi qua ngôi nhà cũ của Tuyết, thêm hai ngã tư nữa là tới nhà Hồng. Dường như những người rời bỏ xứ Huế về cư trú Nha Trang thích chọn nhà bên đường Hoàng Tử Cảnh. Đó là khu nhà cổ trông đặc thù bản sắc Huế. Và có lẽ nó còn mang thêm cái không gian yên tịnh nên thơ của cố đô chăng? Tuyết và Hồng có cùng đặc điểm gia đình: Cả hai đều là con một. Cha mẹ đều ở mức khá giả và danh giá. Ba Tuyết lúc còn sinh thời là một trưởng ty. Ba Hồng trước khi thành dân biểu thất cử kỳ hai là bác sĩ trưởng một bệnh viện. Ông thích thời sự, chính trị. Cuối tuần tôi mong gặp ông để được ngắm Hồng, còn ông thì mong tôi đến để nghe ông bàn thời cuộc. Ông có lối trình bày hấp dẫn về các đề tài mà trước khi gặp ông tôi không hề quan tâm. Nhưng dù hấp dẫn đến đâu, dáng vẻ đài cát của con gái ông vẫn lôi cuốn tôi hơn.
Tôi đặt cái túi xách xuống đất đưa tay nhấn chuông. Tay kia dấu bó hoa ra sau lưng. Chờ một lúc, không thấy động tịnh,tôi nhấn lần hai. Cánh cửa nhà hé mở. Con chó nhỏ len ra phóng nhanh đến tôi. Nó sủa gâu gâu mừng rỡ, ngoe ngoảy đuôi liên hồi. Tôi cũng nhớ tên nó. Hai chân trước và mỏm của Lucy thò ra khỏi các song sắt cố chạm vào người tôi. Tôi đưa tay vỗ lên đầu nó và nó liếm lấy liếm để. Hồng đứng yên trong khung cửa đã mở rộng như chưa nhận ra tôi. Nàng mặc nguyên bộ đồ trắng trông như hồ ly liêu trai. Chợt nàng hối hả bước, đôi môi tươi cười thành hình chữ O. Nàng kéo chốt cổng, mắt không rời mắt tôi, giọng ngạc nhiên:
- Về khi mô?
- Tàu mới ghé bến!
- Răng mà không viết thư? Hồng trông thư bắt mệt!
Tôi nhấc chiếc túi xách qua cổng. Con chó nhảy lưng tưng, vồ vập tôi. Tôi đưa Hồng bó hoa:
- Anh được đổi xuống tàu. Trăm công ngàn việc. Cho anh ngàn lần xin lỗi!
- Cám ơn anh bó hoa thật đẹp. Anh vô nhà đi.
Hồng ôm bó hoa bước vội. Tôi theo sau. Mọi vật vẫn thân thuộc, ấm cúng. Nàng nâng bó hoa, chi chút hôn lên từng đóa, đôi mắt rưng rưng. Có lẽ nàng xúc động vì gặp lại tôi hơn là vì tôi làm một cử chỉ đẹp. Tôi nhè nhẹ thở ra. Phút khó khăn qua rồi. Tôi cũng mừng gần rơi nước mắt.
Hồng chỉ chiếc ghế sofa, nói dịu dàng:
- Mời anh ngồi.
Tôi ngồi vào nơi chỉ định. Con Lucy thót lên nằm cạnh tôi. Tôi đặt chiếc túi xách lên mặt bàn khảm xà cừ. Hồng ôm bó hoa vào bếp. Tôi vuốt ve con chó. Nó lim dim tỏ vẻ hài lòng. Hồng trở ra, đặt bình bông lên bàn. Những đóa hồng như bừng nở, tươi tắn hơn sau những nụ hôn của nàng. Nàng ngồi sát tôi, đối xứng con chó. Tôi ngại ngùng hỏi:
- Hai bác đâu Hồng? Anh có quà tặng…
Tôi nghiêng người ra trước, nhấc từng gói quà khỏi túi xách:
- Đây là hộp trà tặng bác trai. Khăn quàng tặng bác gái. Còn đây là quà của Hồng.
Đó là bộ thời trang thanh nhã nhập từ Pháp mà cô bán hàng phải mất nhiều thời giờ mới chọn được. Hồng tiếp nhận, ôm vào lòng nhưng không mở. Giọng nàng nghẹn ngào:
- Tự dưng em nhớ bài thơ của Nguyễn Thị Hoàng mà anh học cùng thời chị ấy chắc phải biết. Học trò Võ Tánh ai mà không biết. Em đọc lại anh nghe vài đoạn: “Chi lạ rứa, chiều ni tui muốn khóc. Ngó chi tui đồ cỏ mọn hoa hèn. Nhìn chi tui hình đom đóm trong đêm. Cho tui tủi bên ni bờ cô tịch”… “Chi lạ rứa, răng cứ làm tui tủi? Tàn nhẫn chi với một đứa thương đau! Khối tình câm nên không sắc, không màu. Và vạn thuở chẳng nên câu luyến ái!”… “Tui không buồn răng mắt mờ lệ ứa, Bởi vì răng tui có hiểu chi mô! Vì lòng tui là mặt nước sông hồ. Chi lạ rứa, bên ni bờ tui khóc!”
Tôi nhìn nước mắt Hồng tuôn thành dòng mà hồn rung động. Hiền lau mắt bằng cánh tay áo. Sáu tháng qua tôi đã cư xử quá… ác với Hồng chỉ vì mãi mê trách cứ Hiền cư xử ác với tôi. Tôi kéo Hồng tựa đầu vào tôi, thì thầm:
- Em không là cỏ nội hoa hèn. Em là tôn nữ, là công chúa…
Hồng lắc đầu:
- Đừng nói rứa anh. Đừng làm em tủi thân thêm. Trong tình yêu, không được yêu thì khác chi cỏ mọn hoa hèn.
Tôi phản đối:
- Không yêu em mà suốt hai năm anh lại…chịu khó ngồi hầu chuyện ba em? Không yêu em mà…
Hồng bịt miệng tôi bằng nụ hôn nồng nàn. Khá lâu, khi rời môi tôi, Hồng cười bẽn lẽn, má bừng hồng. Tôi sững sờ. Một người có tánh liều mạng như tôi mà cho tới ngày chia tay, tôi chưa từng một lần dám hôn Hồng. Lúc nào nàng cũng giữ vị trí cách xa tôi hoặc có đi đâu thì nàng cũng kề vai với mẹ. Còn tôi thì luôn luôn cạnh kề ba nàng. Có khi chúng tôi được ngồi riêng hai đứa nhưng luôn luôn bị chia cách bởi một cái bàn. Tôi có thể liều mạng giả bộ đi vòng rồi bất ngờ hôn nàng nhưng vẻ đoan trang đôn hậu làm tôi dính tại chỗ. Vậy mà hôm nay Hồng lại là người liều mạng hơn cả tôi. Tôi chợt nhớ là Hồng chưa trả lời câu hỏi của tôi:
- Hai bác đi mô rồi hả Hồng?
Hồng gật đầu:
- Ba mạ em ra Huế lo vụ đất đai tranh chấp, thứ hai mới về. Anh có biết trong sáu tháng xa anh, em ao ước chi không? Em ước ba điều: Một là được gặp lại anh. Hai là phải tìm dịp hôn anh một cái hôn thật dài để đền bù. Và ba là…Hồng im bặt, chớp mắt và má ửng hồng.
Tôi cười đùa:
- Anh cũng đã mơ ước được một lần hôn em, nụ hôn dài… bất tận.
Hồng nhắm mắt chờ đợi. Tôi vòng tay xiết chặt nàng. Mãi thật lâu nàng đẩy tôi ra. Tôi cảm thấy hạnh phúc tràn trề. Tôi nói lời tha thiết:
- Cám ơn Hồng đã thương yêu và chờ đợi. Còn điều ước thứ ba là gì, nếu được, anh đền bù luôn…
Nàng đập vào vai tôi:
- Ăn nói chi lạ! Chưa biết em ước chi mà đã đòi đền bù. Thôi em không nói. Nghe dị òm.
- Anh muốn nghe. Hồng nói đi. Không dị mô!
Nghe giọng tôi trêu chọc, nàng đấm tôi túi bụi:
- Ghét anh dễ sợ!
Tôi đăm đăm ngắm Hồng. Mãi đến nay tôi mới để ý đến một nốt ruồi nằm gần giữa môi trên về phía trái. Chỉ là một chấm đen nhỏ nhưng đủ làm cho đôi môi tươi thắm thêm. Rồi thêm một nốt ruồi nhỏ ở cuối mi mắt phải tạo gương mặt thêm phần thanh thoát. Tôi lại bắt chước giọng Huế của nàng:
- Hồng đẹp dễ sợ! Mà cũng đài cát dễ sợ!
Nàng nguýt, bẽn lẽn, mặt bừng đỏ. Tôi lại kéo nàng tựa vào vai tôi. Con chó ngẩng cao đầu nhìn, nghe ngóng rồi lại nằm cuộn tròn. Hồng cất giọng buồn bã:
- Nó là bạn thân thiết nhất của em từ ngày anh không đến nữa. Nếu không có nó, chắc em còn nhớ anh… dễ sợ hơn!
Tôi tìm một câu đùa khác nhưng không nghĩ ra. Hồng lại tiếp:
- Em không hiểu mần răng mà em cứ nhớ anh hoài. Chúng mình mô có chi. Một nụ hôn cũng không! Gần đây, ba mạ cho em một chọn lựa. Hoặc sau trung học thì lấy chồng. Hoặc niên khóa tới vào nội trú đại học Huế. Cả hai em đều… sợ. Cả hai đều cho thấy em xa anh vĩnh viễn. Ít nhất, học đại học ở Sài Gòn em còn hy vọng gần anh.
Tôi ngồi lặng thinh. Hai người con gái Nha Trang từng yêu tôi, khi vào Sài Gòn đều yêu… người khác. Cứ giả sử Hồng lúc nào cũng son sắt, thì lại càng làm tôi thêm kẹt. Mỗi năm mỗi thêm tuổi, tôi đâu lẽ trốn né hoài việc cưới xin. Cho tới nhiều năm nữa, chưa chắc tôi đã có thể… dừng bước giang hồ. Tôi nói:
- Cư xá sinh viên ở Sài Gòn xô bồ lắm. Nên đi Huế. Một lý do khác, anh đi hoài, ít khi ở Sài Gòn. Mà có về bến thì cũng bị cấm trại.
Hồng cúi mặt:
- Thấy anh không viết thư, em cứ tự nhắc mình là đừng yêu anh nữa, đừng nhớ anh nữa và đừng hy vọng chi nữa. Rứa mà cứ nhớ. Tức quá nên em nói với ba mạ là em chọn… lấy chồng.
Hồng dừng lại nhìn tôi ý chừng muốn xem phản ứng. Tôi lặng thinh xem xét lòng mình. Nếu chưa muốn lấy vợ thì để người ta đi lấy chồng. Cứ nhấp nhứ cho người ta hy vọng rồi để tuyệt vọng thì không phải là một… quân tử! Tôi nở nụ cười, ngâm thơ Nguyễn Bính:
- Gái lớn ai không phải lấy chồng! Cớ chi mà khóc nín đi không! Mà người em chọn làm chồng là ai vậy?
- Là ai vậy? Câu hỏi làm em chua xót. Câu em mong đợi ở anh là: “Em xem anh có hy vọng được em chọn làm chồng không”. Cho dù đó là một câu đùa nhưng cũng cho thấy anh hiểu điều em muốn nói! Đằng này anh nêu câu hỏi quá vô tình. Nếu em có ý muốn làm vợ người nào khác, em đã không thèm nhìn mặt anh.
Tôi thấy mình quả đã thốt ra một câu hỏi ngu si. Tôi phải nói gì để Hồng đỡ tổn thương? Nàng lại tiếp:
- Chỉ tội cho ba. Chính ba cho phép anh vào nhà…nên ba không chọn ai khác. Cái lạ là ba lại thích anh ngay từ buổi gặp lần đầu. Ba bảo trông anh… hiền! Mạ cũng tán đồng. Chính em chờ anh vì đồng ý với nhận xét của ba mạ. Nhưng anh trở lại chỉ để cho thấy anh không như ba mạ em nghĩ. Em sẽ nói với ba mạ là anh không… hiền mô! Em sẽ lấy chồng vào mùa hè, bất kỳ là với ai, nhưng nhất định không là anh!
Hải Vận Hạm Hương Giang – HQ 404
Tôi khe khẽ thở dài! Khi đeo đuổi cô nào đó tôi chỉ muốn chiếm tình yêu của họ mà không nghĩ đến việc họ còn có cả một gia đình. Và cũng không nhìn thấy chính người con gái đó sẽ phải chịu lao đao vì yêu nhằm một tên lêu bêu không định hướng. Tôi không lêu bêu, chỉ có điều là chưa thể lập gia đình. Trước sau gì tôi cũng phải có vợ có con. Nếu phải chọn một trong ba người con gái tôi từng yêu để làm vợ, tôi nghiêng hẳn về Hồng. Hồng dành cho tôi một tình yêu trinh nguyên như nhất. Nàng dành cho tôi trọn vẹn tình đầu. Không lý do gì tôi lại không trao nàng luôn cả tình cuối. Tôi thấy cần nói lên một sự thật và tùy Hồng định đoạt:
- Hồng ạ, đây là một thực tế, anh thực lòng bày tỏ. Những lời anh làm em buồn chính là từ sự thật này. Anh thấy rõ ràng là bất cứ kẻ nào có được người vợ như em kẻ đó có cả một diễm phúc. Anh vô cùng khao khát nhận cái diễm phúc đó. Nhưng để được em làm vợ, anh phải bước qua lắm bước nhiêu khê. Ba bước căn bản là: Phải có tiền trang trải cho đám cưới. Lại thêm một số tiền để sắm sửa và chi tiêu cho một tổ ấm và cuối cùng phải làm sao giữ cho cái tổ luôn luôn ấm. Như em thấy đó, anh mới ra trường, những bước nhiêu khê cần thời gian để vượt qua. Thời gian là bao lâu? Anh đã làm thử con toán và thấy rằng sớm nhất cũng phải năm năm. Bắt một người con gái chờ năm năm là điều không nên không phải. Vì vậy, anh có bổn phận gợi ý cho em sớm đi lấy chồng. Nhưng em đã hiểu lầm… Sự thật là thế đấy. Em hãy cân nhắc. Riêng phần anh, dựa vào ý ba em, anh thấy có một quãng thời gian thích hợp cho cả hai. Đó là quãng thời gian em cần để tốt nghiệp đại học. Đó cũng là thời gian anh chuẩn bị tổ ấm. Không chỉ chuẩn bị tiền, mà còn chuẩn bị một chỗ trên bờ. Sau năm năm liên tục đi biển, anh nghĩ rằng anh có đủ thâm niên để về bờ. Cho nên anh chỉ có thể hứa bằng tất cả danh dự: Năm năm nữa anh sẽ cưới em…
Hồng nhìn tôi không chớp mắt. Dường như những gì tôi vừa nói là một bất ngờ đối với nàng. Nàng biểu lộ nét xúc động nhưng không tỏ vẻ hài lòng. Tôi thấy cần thêm một câu đùa cho quãng thời gian được ngắn bớt:
- Trừ phi anh trúng số, anh cưới Hồng ngay. Từ nay mỗi tuần anh sẽ mua vé số!
Hồng cười như mếu:
- Được như rứa thì nói chi! Nhưng thời hạn năm năm nghe lâu chi lạ! Cho dù em có theo đại học thì cũng chỉ bốn năm.
- Em chọn bác sĩ thì năm sáu năm.
Hồng lắc đầu:
- Cái số năm học không phải là vấn đề. Cái vấn đề là anh với em sẽ còn tệ hơn Ngưu lang Chức nữ. Một năm có chắc chi gặp nhau được một lần!
- Một năm chúng ta gặp nhau một hai tuần ở đây, hay ở Sài Gòn, trong mùa hè…
Hồng trầm ngâm:
- Cám ơn anh nói ra một sự thật. Bây giờ chúng ta đi ăn cơm, em đói rồi.
Tôi như đang bị hụt hơi nên tán thành ngay:
- Trước đây hai bác cứ cho anh đi ăn nhà hàng hoài. Mấy lần anh đòi trả nhưng hai bác chê anh là sinh viên nghèo. Giờ thì anh không giàu nhưng cũng không còn nghèo. Thực sự, hôm nay anh đến với ý định mời hai bác và Hồng dùng cơm tối. Hồng đại diện luôn hai bác, hỉ?
Hồng cười, thoăn thoắt chạy vào buồng. Khi trở ra, nàng hoàn toàn là một cô gái khác. Chiếc áo sơ mi màu xanh nước biển và chiếc quần tây màu trắng bó sát mông đùi. Một tý má hồng, một tý môi son. Trông Hồng tươi trẻ, uyển chuyển như một người mẫu. Chúng tôi đi cạnh nhau như đôi bạn học. Đường phố vừa lên đèn. Tôi không biết mình đã qua những con đường nào trước khi đến nhà hàng La Frégate. Đây là nhà hàng tôi từng được ba mẹ nàng đưa đi ăn tối.
Người tiếp viên niềm nở tiếp đón và đưa chúng tôi đến ở một bàn nhỏ với hai ghế đối diện. Một chụp đèn xinh xắn gắn trên vách tỏa vừa đủ sáng. Một cánh hoa hồng cắm vào chiếc lọ nhỏ đặt giữa bàn. Trước mỗi ghế là một đĩa trắng lớn đựng khăn. Hai ly thủy tinh một cao một thấp phía trước và muỗng nĩa dao hai bên. Người tiếp viên mở khăn ăn cho Hồng trải lên đùi trước khi bước qua chỗ tôi. Hồng tự động chọn món chúng tôi cùng thích: món thịt bò Châteaubriand nướng khá chín và khoai tán với sauce. Món này cũng là món tủ của ba Hồng. Và như thường lệ, mỗi đứa một ly rượu chát có vị pinot noir.
Trong khi thưởng thức hương vị tuyệt vời, thưởng thức cảnh trí thơ mộng và sự phục vụ tận tụy, tôi hỏi thăm sức khỏe ba mẹ Hồng, hỏi thăm Hồng gặp trở ngại gì ở lớp đệ nhất ban văn chương. Hồng bảo là các môn học đều suông sẻ trừ những khi… nhớ tôi thì phải tốn thêm thì giờ đọc đi đọc lại. Tôi hỏi Hồng đã đọc hết các sách Tự Lực Văn Đoàn chưa? Đã đọc được mấy cuốn của Francoise Sagan rồi? Tôi hỏi Hồng đã xem những phim gì trong thời gian không gặp tôi?
Hồng hỏi tôi về hải nghiệp. Tôi ba hoa chích chòe toàn chuyện đi biển và dấu biến chuyện đi bờ. Tôi nói với Hồng sáu giờ chiều ngày mốt, thứ bảy, tôi sẽ đến đón Hồng dự dạ tiệc dưới tàu. Hông reo vui: “Em sẽ được biết tàu anh, sướng dễ sợ!”. Chúng tôi kết thúc bữa ăn bằng bánh flank và cà phê đen. Tôi gọi bồi bàn tính tiền. Hồng bảo: “Ba mạ dặn cứ đến chỗ ni ăn ba mạ về trả sau”. Tôi vẫn đưa tiền nhưng người bồi không dám lấy. Tôi để lên bàn phần tiền pourboire hậu hĩ.
Chúng tôi cuốc bộ ngang qua Ty Bưu Điện ra bãi biển, từ đó chúng tôi tay trong tay thả dọc theo ven nước, đôi lúc thì thầm, nhiều khi lặng lẽ. Đến mười giờ, Hồng đề nghị về nhà cho con chó cưng đi vệ sinh.
Mười giờ, chuyến xe chót về Chụt nơi tàu ủi bãi đã rời bến. Tôi dự trù về lúc chín giờ nhưng vì ba mẹ Hồng đi vắng nên cứ dùng dằng. Cùng lắm thì đi bộ nếu không tìm được cyclo. Hồng dắt con Lucy vào nhà, khóa chốt và tắt bớt đèn, chỉ còn ánh sáng từ hai bóng điện dùng như ngọn lửa cho cặp nến trên bàn thờ. Hồng ngồi tựa đầu lên cánh tay tôi trên sofa và con chó nằm bên. Tôi hôn lên tóc Hồng. Mùi thơm da thịt dìu dịu mà quyến rũ. Tiếng Hồng nhẹ trôi trong không gian huyền ảo:
- Ước mơ thứ ba của em là được nằm suốt đêm trong vòng tay anh…
Tôi nghe khắp người rúng động. Tôi ngắm nét thanh tú kiêu sa trên gương mặt nàng. Tôi nhích người ra và xoay ngang để có thể hôn lên đôi mắt còn nhắm kín sau câu nói. Và tôi hôn đôi môi. Hồng đáp ứng cuồng nhiệt. Tôi vụt đứng lên và quyết định ra về. Tôi nói trong hơi thở mạnh:
- Anh phải về. Tiếc rằng ước mơ cuối cùng của Hồng anh không đủ… nghị lực để hoàn thành.
- Đừng anh! Cho em sống trọn ước mơ của em.
Tôi lắc đầu:
- Thật nguy hiểm Hồng ạ!
Hồng cười:
- Anh đừng hiểu lầm! Chuyện nớ không nằm trong ước mơ của em. Em chỉ ước mơ được nằm bên anh, được hôn anh và được anh hôn! Chỉ rứa!
Với tôi, khó mà chỉ rứa! Tôi không thể giải thích với Hồng. Hồng chưa biết mùi đàn ông và mang nặng danh giá gia đình, có thể chống đỡ hết mình. Còn tôi, kẻ từng biết mùi đàn bà và bất kham khi ham muốn. Hồng có chống đỡ hết mình thì cũng không ngăn được chuyện phải xảy ra. Bây giờ tôi còn sáng suốt nhìn thấy một chuỗi hậu quả mà Hồng và gia đình phải nhận lấy. Và cũng chính là lúc phải ra về. Tôi đứng bật dậy và bước về phía cửa. Tôi mở chốt khi Hồng cúi mặt buồn bã ngồi yên. Tôi nói:
- Nhớ sẵn sàng sáu giờ ngày mốt anh đến đón. Đừng giận và hãy ngủ ngon.
Chỉ có con chó tiễn tôi ra cổng.
HQ 402 Hải Vận Hạm Lam Giang
Theo dự trù, dạ tiệc bắt đầu đúng 8 giờ. Ban nhạc bắt đầu chơi các nhạc bản êm dịu. Hồng đứng cạnh tôi gần ban nhạc, nhìn quanh. Nàng khen nghệ thuật trang hoàng trông đơn giản mà vẫn huy hoàng. Chạy dọc hai vách của lòng tàu và phần lộ thiên là các dãy đèn vàng xanh, các hàng cờ chữ và số đầy sắc màu lạ mắt. Nó còn góp phần làm nổi bật cho trên năm mươi bộ tiểu lễ màu trắng đang lăn xăn di động. Từ cửa đổ bộ đi vào là những dãy ghế đặt hàng ngang tổng cộng tám mươi chiếc. Tiếp đến, đặt sát mỗi bên vách là một dãy bàn dài bày biện nhiều món ăn hấp dẫn. Cuối mỗi dãy là hai bàn tròn lớn, một dành cho ban nhạc giải lao và một dành cho các loại thức uống. Một sàn nhảy khá rộng ngay trước ban nhạc phối trí gần sân lái.
Vào lúc 8 giờ 15, trong khi mọi người ngồi vào chỗ, Hạm trưởng và các sĩ quan tiến ra cửa đổ bộ đón chào hai vị khách quan trọng nhất của đêm dạ hội: Hải quân Trung tá Chỉ huy trưởng Vùng Duyên hải và phu nhân. Đúng ra vinh dự này là dành cho ông bà Đại biểu Trung phần nhưng cả hai đều bận công vụ quan trọng hơn. Hạm phó mời Hạm trưởng tuyên bố khai mạc Dạ hội kỷ niệm đệ nhất chu niên ngày nhận lãnh chiến hạm. Ông ngỏ lời chào mừng và cám ơn quan khách. Ông cũng cám ơn quân trường Hải quân đã cung cấp phương tiện tổ chức gồm ban nhạc và ca sĩ. Ông tổng kết vắn tắt thành tích chiến hạm sau một năm tích cực hoạt động và nhiệt liệt ngợi khen toàn thể thủy thủ đoàn. Cuối cùng Hạm trưởng chúc mọi người hưởng trọn đêm vui.
Hạm phó Hào lại cầm máy giới thiệu tôi lên đọc thực đơn. Tôi mỉm cười với Hồng để tự trấn tĩnh. Hồng bóp tay tôi khích lệ. Khi đối diện mọi người, tôi đưa tay chào đúng quân cách và nhìn vào hàng ghế thượng khách:
- Kính thưa Hải quân Trung Tá chủ tọa và phu nhân. Kính thưa Hạm trưởng và quý vị thực khách. Hôm nay là thứ bảy, ngày 26 tháng 10 năm 1963, nhằm ngày mồng 10 tháng 9 Âm lịch là ngày lành tháng tốt của năm Quý Mão. Bây giờ là đúng tám giờ tối, theo đồng hồ của vị chủ tọa. Tôi, Hải quân thiếu úy Võ Bằng, xin đọc thực đơn đêm dạ tiệc. Thực đơn hôm nay gồm có:
Thứ nhất: Súp măng cua vi cá. Thứ hai: Chả giò bào ngư. Thứ ba: Kim kê nhất bửu. Thứ tư: Hải sâm dồn thịt. Thứ năm: Tôm nướng Trường Sa. Thứ sáu: Cơm chiên Tây Sa. Thứ bảy: ice cream tráng miệng. Thức uống: Nước ngọt đủ loại và cà phê.
Kính chúc Trung tá chủ tọa và phu nhân, kính chúc Hạm trưởng và tất cả quý vị một bữa ăn ngon miệng.
Tiếng vỗ tay rộ lên cùng với tiếng xì xào, cười nói. Hạm trưởng đứng lên hướng dẫn khách lấy thức ăn dãy bàn bên mặt. Hạm phó hướng dẫn bên trái. Tôi gài micro, về ghế ngồi bên Hồng. Nàng quay qua tôi:
- Thực đơn hấp dẫn quá. Chắc tốn kém lắm.
Tôi cười:
- Nghe rứa mà không phải rứa! Cốt để nghe cho kêu rứa mà! Thí dụ chỉ là gà rô ti của nhà bếp nhưng gọi kim kê nhất bửu cho nó sang!
Hồng bấu tôi:
- Anh bỏ cái giọng nhại Huế đi. Nghe chướng dễ sợ! Còn khai mạc gần chín giờ mà bảo đúng tám giờ!
Tôi xoa chỗ đau:
- Cũng truyền thống Hải quân đấy. Ông chủ tọa đến trễ ra sao cũng mặc, sĩ quan ẩm thực phải nói đúng theo giờ đã định.
- Tại răng?
Tôi lắc đầu:
- Không rõ! Có lẽ, hoặc là tỏ ra tôn trọng ông chủ tọa bằng cách cho biết đã khai mạc đúng giờ hoặc là để chọc quê ông chủ tọa đã đến trễ!
Hồng bụm miệng cười. Tôi nâng Hồng đứng lên sắp hàng lấy thức ăn. Bây giờ thì ít còn ai ngồi. Đa số vừa đứng ăn vừa tán chuyện. Các cậu lính thủy thì đưa đào lên boong ngồi trên các trụ quấn dây. Một số đứng kề nhau tựa dây an toàn.
Lấy thức ăn xong tôi đưa Hồng tìm Tâm giới thiệu. Bạn gái Tâm thật duyên dáng. Hạm phó và các sĩ quan khác đều có đôi. Chỉ mình Hạm trưởng là đơn lẽ nhưng ông lại tỏ ra vui tươi nhất. Ông hết nói chuyện với đoàn viên này lại hỏi han đoàn viên kia. Ông tiếp xúc chào mừng từng quan khách. Ban nhạc chơi những bản quen thuộc, nhuyễn nhừ, âm lượng vừa đủ.
Tôi đưa Hồng lên tận đài chỉ huy. Trung úy Hải và cô bạn đang chiếm một phía nhìn về thành phố. Tôi và Hồng sang phía đứng nhìn về Cầu Đá. Biệt Điện Bảo Đại vươn cao trên nền trời đen thẳm đầy sao. Cuối độ nghiêng của sườn đồi hình dạng của hai chiếc thương thuyền đang cặp kè ở cầu tàu. Hòn Tre lừng lững một khối đen.
- Trời mát và biển về đêm đẹp dễ sợ.
Tôi muốn nói “đâu bằng em” nhưng thấy khuôn sáo vô duyên. Ánh đèn từ dưới hắt lên tạo khuôn mặt Hồng thêm vẻ kiêu sa đài cát. Hai lọn tóc đen thả ngang bộ ngực vung đầy được cái thành bệ nâng lên. Màu trắng chiếc áo pullover như trong suốt. Tôi nghĩ là nếu tôi và Hồng không đang bận nhai thì chắc chắn chúng tôi đã hôn nhau. Ngẫm nghĩ tôi thấy mình thật may mắn. Và cũng thấy mình thật lạ lùng khi suốt sáu tháng chỉ đôi lần thấp thoáng nhớ nàng. Suốt sáu tháng đầu óc ngu muội vì những nụ hôn Hiền dành cho Thanh. Từ nay, phải đền bù cho cả tôi lẫn Hồng. Tôi nói:
- Thật đáng buồn là chúng ta chỉ còn gần nhau vài tiếng nữa. Sau dạ tiệc, anh đưa Hồng vào nhà là phải trở lui ngay để nhổ neo về Sài Gòn.
Hồng lặng thinh nhìn ra biển khơi. Một lúc lâu mới vang lên giọng buồn như muốn khóc:
- Rồi anh lại không viết thư cho Hồng?
Tôi nắm cánh tay nàng:
- Lần này anh sẽ viết bù.
- Khi trước, dù chưa có kỷ niệm, Hồng cũng đã nhớ anh. Lần ni, chắc nhớ… điên luôn! Rồi cứ như ri thêm năm năm nữa. Anh ác dễ sợ.
Tiếng hạm phó Hào vang lên từ các loa:
- Mời tất cả trở lại ghế ngồi để bắt đầu chương trình văn nghệ. Bây giờ là chín giờ. Chương trình văn nghệ bốn mươi lăm phút. Sau đó là khiêu vũ. Xin mời quý bà, quý cô, quý ông, quý bạn và toàn thể thủy thủ đoàn nhiệt tình tham gia. Mời tất cả mọi người trở lại chỗ ngồi. Mời ca sĩ ban nhạc trình bày trước.
Tôi và Hồng theo sau Trung úy Hải và cô bạn gái lần xuống lòng tàu. Tôi lấy hộp bia và một ly xá xị. Giọng nữ nũng nịu cất lên bài Hoa Biển. Rồi đến giọng nam rộn ràng với bài Thủy Thủ và Biển Cả. Một cô khách trẻ tiếp nối bài Tình Ca Người Đi Biển nói là để tặng tất cả các anh thủy thủ thương yêu. “Chiều nay ra khơi. Thoáng thấy mắt em nhuốm buồn. Đời anh là gió sương. Anh đi khắp muôn phương!”
Hồng kề miệng sát tai tôi:
- Đi, đi hoài! Nhuốm buồn là còn giỏi. Em muốn khóc đây.
Tôi cười:
- Hồng lên hát một bản vui vui sẽ hết muốn khóc…
- Em không biết hát.
- Em đờn piano hay thế mà không biết hát?
- Em chỉ chơi nhạc classic. Thôi anh hát tặng em đi.
Hát là đam mê của tôi nhưng bản gì đây? Bản gì hợp với tâm hồn cổ điển của Hồng? Phạn Duy có đặt lời cho nhiều bản cổ điển ngoại quốc. Trở Về Mái Nhà Xưa. Chủ Nhật Buồn, Chiều Tà. Dạ Khúc. Dạ Khúc có vẻ hợp với không khí tối nay nhất. Nhưng dường như tôi không thuộc hết lời. Tôi hỏi Hồng:
- Em thuộc lời bản Dạ Khúc?
Hồng chầm chậm nghiêng mặt, đôi mắt u buồn nhìn tôi, khe khẽ lắc đầu. Cái dáng vẻ của Hồng gợi tôi một bản nhạc. Một bữa trong tuần tôi đi phép, Dũng bảo bản nhạc này mới xuất bản và tập tôi hát. Càng hát tôi càng thấy bản nhạc hay lạ lùng. Phải chăng từ trong tiềm thức tôi bóng dáng Hồng luôn luôn ngự trị.
Khi hạm phó Hào kêu gọi người tình nguyện kế tiếp, tôi bước lên. Tôi nhìn khán giả rồi hướng vào Hồng, nói một cách thiết tha:
- Bài này tôi mới tập nhưng tôi vẫn muốn hát để riêng tặng một người: Tôn nữ Thụy Hồng, bản Dung Nhan Mùa Hạ của Y Vân.
Nàng đắm đuối nhìn tôi. Tôi quay nói nhỏ với ban nhạc cung bậc và nhịp điệu slow rock. Tôi lắng nghe nhạc dạo và cất lời từ trái tim:
Để nghe bài Dung nhan mùa Hạ, click vào đây
Khi em tắm nắng cho tôi xin hai thước mặt trời. Vẻ kiêu sa thần vệ nữ ngàn đời. Ôi đôi môi ấy và đôi mắt u hoài. Tôi từ bâng khuâng đến mê say.
Xin cho ngây ngất bên dung nhan đan trắng hạ này. Và cho xanh giấc ba mươi.
Vòm mây, bờ cát trắng. Trời cao, biển xanh thắm. Vàng nắng và gió êm. Nhạc đâu đó gợi buồn.
Khi em tắm nắng không bao nhiêu hai thước mặt trời. Để dung nhan thắm trong tôi.
Bản nhạc quá ngắn, tôi định hát thêm cho đã nhưng ban nhạc báo dứt ở cuối lần hai theo thông lệ và tiếng vỗ tay đã bừng rộ. Tôi cúi đầu chào, chờ hạm phó đến trao chiếc vi âm.
Tiếng hô "bis", "bis" từ nhiều người. Có tiếng la lớn: “Yêu cầu hát bản Nha Trang!” Nhiều người la hét: “Đúng rồi, Nha Trang. Yêu cầu hát Nha Trang của Minh Kỳ”. Tôi nhận ra giọng la lớn là của trung sĩ Quân. Hai đêm trước, anh xuống khu sĩ quan tìm tôi để dạy tôi khiêu vũ như anh hứa, đúng lúc tôi đang nằm trên giường hát trọn bản này. Anh chỉ báo sự hiện diện của anh bằng lời khen giọng tôi thiệt ngọt. Tôi nói với anh có lẽ tại vì tôi đang nhớ một người bạn học, nhớ những ngày cùng nhau quậy phá Nha Trang. Dũng là người dạy tôi cầm đàn và dạy tôi hát. Dũng là học trò của nhạc sĩ Minh Kỳ, được chính tác giả tập dợt bài này trước khi xuất bản. Tôi là học trò của Dũng…
Hạm phó nháy mắt:
- Hát Nha Trang đi, mắc cỡ gì nữa!
Biết không đừng được, tôi nâng chiếc vi âm:
- Bản này xin tặng Nha Trang và… người Nha Trang.
Nghe bài “Nha Trang” của Minh Kỳ & Hồ Đình Phương,click vào đây.
Lyrics:
Nha Trang là miền quê hương cát trắng. Có những đêm nghe vọng lại. Ầm ầm tiếng sóng xa đưa.
Nha Trang cảnh đồng bao la bát ngát. Hương quê dâng lên ngào ngạt. Hòa cùng sức sống yên vui.
Nha Trang cảnh đẹp nên thơ khiến nhớ. Bao năm du khách hằng chờ. Một ngày ghé đến Nha Trang.
Ai ơi người về cho ta nhắn với. Nha Trang quê hương dịu hiền. Ngàn đời lòng tôi mến yêu.
Còn đâu những chiều vui xưa. Còn đâu những chiều say sưa.
Ngồi nơi biển buồn trông ra khơi mênh mông.
Còn đâu Tháp Bà êm mơ. Còn đâu đá Chồng bơ vơ. Còn đâu bến Cầu Đá nên thơ.
Nha Trang cảnh đẹp trăng thanh gió mát. Ai qua không quên để lại. Một vài luyến tiếc xa xôi.
Ai ơi người về cho ta nhắn với. Nha Trang quê hương dịu hiền. Ngàn đời lòng tôi mến yêu.
Tiếng vỗ tay lại rộ lên. Tôi cúi chào rồi xuống ngồi bên Hồng. Tôi như muốn hụt hơi. Đây là lần đầu tôi hát trước đông người. Hồng ôm xiết cánh tay tôi, nói nhỏ một cách hãnh diện:
- Anh hát hay dễ sợ. Thương anh dễ sợ! Ngàn đời lòng tôi mến yêu!
Các thủy thủ và quan khách thay nhau tiếp nối lời ca. Trong bầu không khí còn đang sôi động, Hạm phó trịnh trọng giới thiệu một màn trình diễn đặc biệt của một nghệ sĩ đặc biệt. Mọi người im phăng phắt chờ đợi Hào giới thiệu rõ hơn. Anh nói chầm chậm, nửa trịnh trọng, nửa cợt đùa:
- Để thay đổi không khí, đây là phần ngâm thơ. Tác giả đặc biệt đóng góp đêm vui bằng một bài thơ do chính ông sáng tác. Xin mời nhà thơ kiêm… hạm trưởng!
Tiếng vỗ tay tưởng chừng phá vỡ con tàu. Tiếng la hét ủng hộ gà nhà. Hạm trưởng ngượng ngịu đứng lên, đến bên Hào tiếp nhận máy vi âm:
- Ông hạm phó chơi tôi sát ván! Cho máy tiến không xong mà lùi cũng không được. Thì thôi đành ngâm một bài mới sáng tác đêm qua. Đêm qua, nghĩ đến ngày mai phải rời xa Nha Trang tôi cứ trằn trọc mãi. Bài thơ có tựa Rời Bến.
Mọi người đều bất ngờ. Giọng ngâm của ông có thua gì Tô Kiều Ngân:
“Buồn sao tàu nhổ neo rồi.
Trông ra chỉ thấy ngậm ngùi chấm con.
Bờ lui, lui mãi… chỉ còn.
Bâng khuâng nét núi, đồi thôn mập mờ.
Đàn khơi dạo khúc vu vơ.
Hồn trong ly cách thẩn thờ tìm nhau.
Buồn sao giây phút lên neo.
Tàu đi bỏ lại ngoằn ngoèo luống khơi.
Tim như chìm mất cung vui.
Càng xa khoảng biển càng ngùi nhớ thương.
Rồi như tàu: nét chấm mòn.
Nhạn bơ vơ giữa trùng dương mịt mùng.
“Chót dây buông hẵn con tàu.
Mũi dần tách bến dạ cầu bơ vơ.
Cố đô chiều xuống lên mưa.
Triều dâng lẵng lặng, hồn ngơ ngác hồn.
“Hôm nao trông cánh thư màu.
Cánh thư không lại, con tàu nhổ neo.
Sóng lên trắng biển, gió vèo.
Nỗi buồn hun hút đuổi theo chân trời…”
(thơ Hữu Phương)
Xin cám ơn mọi người đã lắng nghe…
Tiếng vỗ tay hòa tiếng la hét, tiếng hô “bis” vang đội. Hạm trưởng dơ cả hai tay lên thay cho lời cảm ơn rồi trở về chỗ ngồi. Đợi tiếng ồn lắng bớt, Hạm phó nói đùa:
- Thưa quý vị. Thật ra Hạm trưởng có thể ngâm tới sáng cũng chưa hết thơ của ông nhưng đã tới giờ khiêu vũ. Huấn thị điều hành căn bản có nói rằng giờ nào việc nấy! Vì vậy xin mời ông bà chủ tọa khai mạc phần dạ vũ!
Diệu nhạc Pasodoble nhộn nhịp vui tươi. Sàn nhảy đông dần và càng lúc càng sôi động. Tôi tự dưng thấy mình còn quá quê mùa trước những bước nhảy điêu luyện, quấn quít của các giai nhân và các chàng lính thủy không còn làn ranh quan lính. Tất cả tận hưởng đêm vui. Trung sĩ Quân và người đẹp xem chừng vô cùng ăn ý. Hai người đi fantasy như đang thi đua tranh giải khiêu vũ đẹp thế giới. Tôi nhất định phải nhờ anh dạy tôi những điệu bebob, tango…
Ban nhạc và ca sĩ liên tục chơi nhạc tua. Đợi đến điệu slow, tôi rủ Hồng ra sàn. Nàng lắc đầu ngoày ngoạy. Tôi cũng chỉ mới được thầy Quân dạy cấp tốc điệu sơ đẳng này mà đã làm tàng:
- Đừng sợ! Dễ lắm. Điệu slow này, em chỉ ôm anh, đứng tại chỗ, hơi đong đưa theo nhịp, thế là ăn tiền.
Hồng vẫn lắc đầu nhưng tôi cứ nằn nì. Vào điệu slow của tua thứ ba, Hồng chiều tôi miễn cưỡng bước ra. Chúng tôi đứng ôm nhau trong tiếng nhạc dặt dìu. Không bao lâu nàng ôm chặt tôi, tựa mặt vào vai tôi, vào cổ tôi. Nàng hầu như không hay biết hai bàn chân đã bắt đầu di động tới lui qua lại. Từ đó Hồng không bỏ điệu slow nào….
* * *
Chúng tôi chạy từ đường này sang đường khác, thả từng người khách tận cửa nhà. Hồng là người sau cùng. Tôi dặn anh tài xế đậu chờ. Hồng mở cổng. Tôi đưa Hồng đến cửa. Hồng vặn khóa, kéo tôi vào trong và bấu cứng lấy tôi:
- Anh! Đừng về tàu. Ở lại với em. Thứ hai, trước giờ đi học, em sẽ đưa anh ra bến xe về Sài Gòn. Hãy giúp cho ba ước mơ của em được tròn vẹn. Hãy ở bên em ngày chót em còn được tự do…
Lời mời sao quá thiết tha hấp dẫn. Theo hải quy, một ngày vắng mặt đổi hai ngày tù. Bốn ngày quân kỷ nằm ôn những phút giây diễm tuyệt vẫn là quá ngắn.
Quá rẻ Bằng ơi! Còn gì không chịu đổi? Tôi ôm chầm lấy Hồng hôn say đắm, thật lâu, như bất tận. Nhưng tôi kịp hốt hoảng buông nàng ra, dứt khoát chia tay bằng một câu nói đùa:
- Năm năm nữa, anh sẽ ở lại suốt đời…
Câu nói đùa vô duyên đến độ khiến cả con Lucy cũng không tiễn tôi ra cổng!
Bệnh Viện Hạm Hàn Giang – HQ 401
Chương 11
Tin đồn đảo chánh được đăng đầy trên các báo từ những ngày đầu tháng mười. Đến sáng thứ hai của tuần cuối tháng, tàu vừa cặp bến là lãnh trọn cái lệnh cấm trại trăm phần trăm. Người dân thủ đô thì bị giới nghiêm sau chín giờ tối đến bốn giờ sáng. Tuy nhiên, như thường lệ, mỗi lần tàu công tác mới về, ông hạm trưởng “du di” cho một nửa nhân viên đi bờ luân phiên trong hai ngày. Riêng tôi thì bị đóng đinh vào chiến hạm suốt liền ba ngày. Cuối tháng là những ngày tôi bận rộn nhất. Tôi phải đôn đốc và kiểm soát việc thiết lập bảng lương cho thủy thủ đoàn và đồng thời kết toán chi tiêu và mượn nợ của các sĩ quan. Mãi đến trưa thứ năm ngày chót của tháng 10 tôi mới có thể trình hạm trưởng phần việc của tôi hoàn tất. Ông vui vẻ ký cho cái Lệnh công tác đặc biệt 24 giờ với lý do là liên lạc Phòng tài chánh Bộ tư lệnh Hải quân. Thực tế chỉ là tạt qua mất chừng năm phút để nộp bảng lương, sẵn sàng cho ngày mai Hạm trưởng ghé nhận tiền!
Nếu không bị ràng buộc lời hứa cưới Hồng thì chắc chắn tôi sẽ dành hai mươi bốn tiếng công tác đặc biệt này cho… Lưu Ngọc Anh, hoặc cho bà chủ, hoặc cho ai đó ở “chỗ quen biết”. Thật lòng thì tôi nhớ Hồng quay quắt trên đường từ Nha Trang về bến và hình ảnh Hồng lúc nào cũng tràn ngập trong trí não tôi, nhưng rồi hình ảnh dập dìu giai nhân của Sài Gòn gợi tôi nhớ cái thân thể của Lưu Ngọc Anh ngồn ngộn những núi cùng đồi. Một phần khác tôi cũng rất muốn biết nàng có còn “làm” ở đó không. Thế nhưng nhớ nàng thì cứ nhớ, còn thì tôi vẫn không quên tự nhắc mình phải tiến hành thực thi chính sách năm năm… thắt lưng buộc bụng. Đã hết cái thời tôi tỏ ra quan tâm một người con gái… bá vơ bằng một sự phí phạm. Tôi chỉ có thể thầm cầu mong Lưu Ngọc Anh không còn phải đến cái chốn xem ra không thuộc về nàng…
Theo dự trù, sau khi ghé Bộ Tư Lệnh, tôi sẽ cuốc bộ qua công trường Mê Linh, đi dọc theo đường Tự Do, rẽ sang Nguyễn Văn Thinh vào Tôn Thất Thiệp. Ở đó, tôi sẽ ăn một tô hủ tiếu Thanh Xuân rồi ra Mai Hương nhâm nhi một ly cà phê. Rồi sau khi ngắm người chán chê, tôi sẽ tạt qua rạp Vĩnh Lợi để xem một phim, nếu là phim chưa xem. Coi xong, theo đường cũ, đến Pasteur ăn vài cuốn bò bía, thêm một dĩa bánh ướt rồi về tàu viết thư cho Hồng! Tôi có thể viết một thư thật dài, có thể viết suốt đêm vì ngày hôm sau tôi còn phép để ngủ bù. Một chuyến đi lành mạnh như vậy giúp tôi tiếp kiệm ít nhất tám trăm và giúp Hồng hạnh phúc với lá tình thư nồng thắm.
Tôi bắt đầu đi ngang nhà hàng Majestic. Lề đường Tự Do được lót bằng nền xi măng kẻ khối vuông nho nhỏ, bám chút rong rêu, nườm nượp bước chân. Xe hơi đậu không còn chố trống dọc theo lối tôi đi. Lòng đường rực nắng in bóng các tàng cây xuôi ngược đủ loại xe. Dù là ban ngày, tên các thương hiệu vẫn tỏa ánh màu. Hotel Saigon Palace, nhà hàng Maxim, Eden Roc restaurant. Cùng lối chơi đèn màu xanh đỏ của vũ trường Tự Do, một tấm biển nhấp nháy ngay trước mặt tôi với kiểu chữ huỳnh quang bắt mắt: “Hollywood Snackbar”.
Tôi biết snackbar là gì nhờ bốn tuần thực tập hải nghiệp trên đệ thất hạm đội. Chiếc USS Procyon ghé hải cảng Sasebo của Nhật ba ngày. Một sĩ quan Mỹ rủ tôi và người bạn cùng khóa vào một snackbar. Đó là một quán rượu với nhiều chiêu đãi viên trẻ trung, xinh đẹp. Mục đích của họ là bằng mọi cách phải chài khách hàng uống càng nhiều rượu càng tốt và chính họ được khách hàng cho uống “Japanese tea” càng nhiều càng hay. Hoa hồng được chia trên số lượng rượu khách uống và tea được coi là tiền thưởng do… cọ quẹt. Dù với tiếng Anh chưa rành, tôi cũng hiểu thêm rằng những cô chiêu đãi viên này chỉ có nhiệm vụ tiếp khách chớ không… đi khách. Đi khách là thỏa thuận riêng của họ với khách hàng và đi sau giờ bar đóng cửa. Rất ít chiêu đãi viên Nhật chịu đi khách. Nếu có thì chỉ vì cảm tình. Tiền bạc tùy hảo tâm.
Tôi đứng dưới bóng mát của một thân cây cao to, sần sùi, ngắm tấm biển nhấp nháy gọi mời. Tôi nhìn đồng hồ. Mới ba giờ chiều. Bụng tôi còn lưng lửng cơm trưa trên chiến hạm. Thời điểm cho một tô hủ tiếu còn quá xa, dư sức cho việc nhâm nhi vài chai bia đủ để thỏa mãn nhu cầu tìm xem “Sài Gòn tea” có gì lạ hơn “Japanese tea”! Lại biết chừng đâu có một cô chiêu đãi dễ thương nào đó nổi hứng thương… đời thủy thủ mà tặng cho một đêm không ngủ… Nếu có phải tốn vài trăm so với “chỗ quen biết’ tám trăm thì rõ ràng còn nhiều …tiết kiệm! Vả chăng, số tiền tôi mang theo là phần tồn đọng của lương tháng trước, nằm ngoài kế hoạch năm năm.
Tôi mạnh dạn đẩy cánh cửa bước vào quán. Thoạt tiên tôi có cảm tưởng như bước vào một căn hầm lờ mờ sáng và rười rượi mát. Mùi thuốc lá thơm ngào ngạt. Điệu nhạc rock mơ hồ như phát ra từ những chấm xanh đỏ rải đều trên trần. Chỉ dăm ba khách ngồi ở quầy được tỏa sáng hơn đang tán tỉnh cô pha rượu. Còn mọi ghế ở các dãy bàn mờ ảo dọc theo tường đều đã có chủ. Bầu không khí thì không khác các snackbar Nhật. Cũng đầy các cô chiêu đãi xinh đẹp trẻ trung má tựa vai kề, ngả ngớn cười cợt với khách hàng. Cũng những tiếng cười dòn của các cô lớn hơn tiếng đàn ông. Càng uống, men rượu càng đẩy khách… lạng quạng và các cô càng được châm nhiều tea. Tôi xề vào một chiếc ghế cao. Cô pha rượu mơn mởn nở nụ cười duyên kèm một câu chào mà tôi tưởng cô nói với người nào khác:
- Hello, my dear! What can I do for you?
Tôi bật cười:
- Do I look like an American?
Cô nhìn tôi, tỉnh bơ:
- You do!
Tôi nhăn mặt khó chịu. Cô muốn đuổi khéo mình chăng? Có thật cô hàm ý quán chỉ tiếp khách Mỹ, miễn người bản xứ yếu địa. Tôi cố nghĩ ra một lời thâm độc tặng cô nàng trước khi rời quán. Cô pha rượu lại nhoẻn miệng cười tươi:
- Không có ý gì đâu nghen. Tại em thấy anh giống tên nhái Mỹ thường vào đây tán tỉnh em.
Tôi ngắm đôi môi sơn đỏ hình trái tim trên khuôn mặt phấn son khéo léo. Có khéo léo gì thì cũng lộ ra cái số tuổi của cô lớn hơn cái tuổi hăm ba của tôi. Nhưng nghe xưng em thì cũng thấy mát lòng. Cô đứng yên cho tôi ngắm từ đầu xuống chân. Chiếc áo đầm một mảnh hở cổ màu tròng đỏ hột gà chạy tới nửa đùi. Tôi khen thầm thật đáng đồng tiền bát gạo!
Giọng nhỏ nhẹ của cô hàng rượu:
- Ông anh uống chi?
Tôi chỉ có bia là sở trường và rượu chát là sở đoản. Nhưng liệu quán này có chịu bán loại rượu giá bình dân không. Tôi ậm ừ hoãn binh:
- Bỏ tiếng ông thì mới uống!
Vừa nói tôi vừa đưa mắt lên kệ rượu. Lối trình bày cũng không khác ở Nhật. Đó là một giàn kệ bằng kính chia thành các ô hình chữ nhật đứng, nằm. Mỗi ô dành cho một loại rượu, mỗi loại có nhiều nhãn hiệu và kiểu chai khác nhau. Ô chứa bia ở cuối hàng thấp nhất. Chai “33” ưa thích nằm ngoài cùng. Bia là thứ rượu tôi quen biết từ thời trung học. Tôi chợt nhớ là sau dạ tiệc chiến hạm còn thừa nhiều “33” và quyết định sẽ cùng Tâm đối ẩm khi về tàu. Còn đã đến đây thì chơi bia Mỹ cho nó điệu nghệ. Cô hàng rượu hạ giọng, tuy có phần châm chọc nhưng cũng biểu lộ thói quen nhẫn nại chiều khách:
- Thưa anh, anh muốn uống gì?
Tôi thấy cần trả đũa và cần dằn mặt là nếu tôi có uống bia thì không hẵn tôi thuộc hạng bình dân:
- A Bud, please!
Cô hàng rượu kêu lên:
- Em mê tiếng please của anh quá. Nó được phát bằng âm điệu lịch sự, ngọt ngào mà em chưa từng được nghe từ khách Mỹ. Còn tiếng Bud, anh là “mít đặt” mà gọi Bud thì có cho vàng bảo gọi bằng anh, em cũng không dám! Cho em gọi… đại ca!
Tôi thầm khen cô nàng đấu láo không thua gái bán bar ở Nhật. Ở đó họ gọi Bud thay cho Budweiser. Có lẽ tiếng này còn mới mẻ với các snackbar Sài Gòn. Tôi ngây ngất ngắm cô hàng rượu. Em gọi anh là gì cũng… OK, nhưng đã trót gọi… đại ca thì phải tuyệt đối tuân lệnh đại ca. Tối nay đại ca ra lệnh tiểu muội cùng ngao du qua đêm với đại ca. Cãi lời là đại ca xin… tý huyết! Tôi chỉ đùa thầm với mình. Thực tế thì chắc tôi còn phải mở máy tán… mệt nghỉ. Tôi bắt đầu bài bản:
- Trên chốn giang hồ, chưa từng có ai được tôn làm đại ca mà lại không biết tên… nghĩa muội!
Tôi thấy cô cúi xuống lấy chai bia để dưới quày, môi bậm lại như cố nín cười. Khui nắp xong, cô đẩy chai bia đến trước tôi, giọng trịnh trọng:
- Vô danh đại ca! Tiểu muội được lưu linh giang hồ đặt cho mỹ danh là… Linda sờ nách.
Cô hàng rượu nói xong cười ngất. Tôi cố nín cười, tiếp:
- Đại ca cũng từng ngao du khắp chốn giang hồ, từng lắm phen kết nghĩa đệ huynh nhưng chưa từng được kết nghĩa với một mỹ nữ có… Mỹ danh! Vạn hạnh, vạn hạnh!
Tôi đang hòa tiếng cười sảng khoái cùng Linda thì đôi mắt đang đắm đuối ngắm nghĩa muội bỗng bị hai bàn tay mềm mại bịt kín. Một giọng nói nhẹ như… truyền âm nhập mật rót vào tai bên trái:
- Biết ai hôn?
Tiếng trong trẻo nhưng không thuần miền Tây. Nó có chút gì pha trộn nhưng tôi không thể nhận ra là của ai. Tôi câu giờ:
- Nói lại lần nữa…
- Ông anh biết ai không?
Vẫn giọng rất trong nhưng không thuần âm sắc Sài Gòn. Ai nhỉ? Tôi chưa từng vào và chưa từng quen cô nào làm trong snackbar. Tôi nghĩ đến vài cô bạn của những năm trung học Sài Gòn. Giọng quen quen lại vang lên, vẫn pha chút châm chọc:
- Ông anh nhận ra ai chưa? Thân thiết lắm nghe!
Đúng là giọng của Tuyết. Nhưng đâu lẽ. Quán này đâu phải là chốn thích hợp cho một người con gái sinh trưởng từ đất thần kinh nặng phần danh giá. Tôi lắc đầu:
- Chịu thua!
Lại vẫn giọng châm chọc, đùa dai:
- Quân vương tệ thật! Chả nhớ gì đến… tỳ nữ!
Hai bàn tay rời khỏi mắt tôi. Tôi quay nhanh về phía trái và giật thót người kêu lên:
- Tuyết!
Tuyết nở nụ cười tươi:
- Chính tiểu muội đây. “White Snow” của anh đây! Anh thất vọng lắm hỉ?
Tôi xoay ghế và vòng tay ôm Tuyết sát vào người. Tôi muốn biểu lộ nỗi vui mừng lẫn thương yêu đang dâng tràn. Tôi muốn hôn vào môi Tuyết nhưng ngại những cặp mắt đang đổ dồn vào chúng tôi. Một lúc, Tuyết nhích người ra và tôi mở đôi tay. Tuyết nghênh mặt, giọng hờn dỗi:
- Hôm nọ, em nhắn anh Tâm nói anh đến nhà, sao anh không đến?
- Bữa đó anh bận chút việc gấp…
- Em đã rất mong anh đến để xin trả lời một câu hỏi. Nhưng đến nay, lúc em đinh ninh rằng anh đã dứt khoát xa lánh thì bất ngờ gặp lại. Vậy nhân tiện, xin anh cho một lời minh bạch. Câu hỏi của em là… Mà thôi, chuyện dài dòng. Anh ngồi đợi một chút, em sắp xếp rồi đi chơi với anh, có thì giờ bàn bạc cặn kẽ hơn.
Nàng quay sang cô hàng rượu:
- Em đi có chút việc riêng. Chị coi như hôm nay em không đến làm.
Cô hàng xua tay, vui vẻ:
- Không sao! Chúc nhiều hạnh phúc.
Tuyết đi về chiếc bàn trong cùng ngồi lên chiếc ghế trống, xây lưng về phía tôi. Một tên Mỹ nghiêng qua nói vào tai nàng, xong cười hô hố. Nàng đập tay vào vai hắn, thân mật. Tôi quay sang cô chủ. Cô đang nhìn tôi bằng ánh mắt tò mò nhưng ngại hỏi. Tôi cầm ly bia lạnh, cười đùa:
- Old flames! Hôm nay bất ngờ gặp lại.
Cô chủ gật đầu:
- Rõ ràng là vậy. Để chúc mừng, “Hollywood” rất hân hoan mở happy hours cho old flames. Thích uống gì cứ uống, bao nhiêu cũng… free!
Tôi ra vẻ xông xáo, nốc cạn ly rồi rót cạn chai. Tôi dơ ngón tay trỏ. Cô chủ vui vẻ cúi xuống lấy chai Budweiser khác. Tôi nhìn đôi vú căng tròn qua chiếc áo rộng cổ mà thèm thuồng. Tôi biết đó là cái bẫy để câu khách hàng. Phải chi Tuyết đừng làm ở đây thì thế nào tôi cũng nhiều lần sập bẫy. Quán này vừa có cô chủ hấp dẫn, vừa gần bến tàu đỡ tốn tắc xi, vừa khỏi phung phí bạc tiền. Đã chịu free rượu thì free tình chỉ cách vài chục… chai bia! Khi chủ nhân Linda sắp khui chai mới, tôi dơ tay ra dấu bảo đừng.
Cô cười nhạo:
- Sợ say không làm ăn gì được à?
Tôi buộc phải đáp lễ với cùng lối trây trúa:
- Càng say càng dẻo càng dai, chỉ sợ hao bia Linda Sờ nách!
Linda không cười, tia mắt chiếu về phía sau tôi. Tôi quay lui. Tuyết đứng chờ từ bao giờ. Tôi lại lướt nhìn từ đầu đến chân. Nàng gọn gàng, tươi trẻ với chiếc áo dài mà dù mắt đã điều chỉnh độ sáng tôi không chắc nó có màu xanh hay đen. Nhưng chiếc quần thì chắc chắn là màu trắng mà phần lai chạm hờ hững trên các ngón chân thon ngà ngọc. Trông Tuyết như một thiếu nữ Việt Nam mẫu mực. Hèn gì bọn G.I. không mê mệt sao được. Tuyết nói với cô chủ:
- Mai gặp lại chị.
Tôi không biết Linda nói đùa hay thật:
- Giữ cho kỹ kẻo… mất đấy. “He” thuộc hàng lady killer.
Cả hai cười vang. Tôi nhảy khỏi ghế, móc bóp chọn tờ hai mươi đồng. Chưa kịp rút tiền ra, Linda lên tiếng:
- Em nói free là free. Đừng lộn xộn.
Tôi đặt tờ bạc lên quày, nhấc chiếc ly dằn lên:
- Anh đâu có trả tiền bia. Chỉ là tip.
- Tip cũng không! Người nhà cả mà.
Tôi tỉnh bơ trước lời cự nự của cô chủ, bước ra cửa. Cô chủ la to:
- Good night! Enjoy!
Dương Vận Hạm Cam-Ranh - HQ 500
Tôi nhìn đồng hồ tay. Mới gần ba giờ rưỡi. Chúng tôi lặng lẽ cuốc bộ về phía tòa nhà Quốc Hội. Được một lúc Tuyết lên tiếng:
- Anh khinh em lắm hả?
- Không!
- Nhất định là anh khinh em!
- Không! Anh yêu em!
- Dốc tổ! Ai mà thương những người làm nghề này!
Tôi không rõ là tôi có khinh Tuyết hay không nhưng có điều chắc chắn là tôi đang tự hỏi lòng mình là tôi có còn yêu Tuyết? Giọng Tuyết đều đều:
- Anh nghĩ về em thế nào cũng được vì em đã chấp nhận số phận. Em hiểu nghề của em bị chê là không đàng hoàng, nếu không muốn nói thẳng là nó hèn hạ, bẩn thỉu…
Tôi nắm chặt cánh tay Tuyết, ngắt lời:
- Tuyết! Cho anh xin. Ông bà ta có câu: “Không có nghề xấu mà chỉ có người xấu”! Nếu em tư cách đàng hoàng, mặc xác thiên hạ. Riêng anh, anh không thấy em làm điều gì xấu. Và anh đang rất hãnh diện được đi lang thang giữa phố đông người với em.
Tuyết nắm chặt cánh tay tôi như tỏ lòng biết ơn. Tôi đưa Tuyết lên lầu quán kem Brodard. Chúng tôi ngồi đối diện nhau qua chiếc bàn dành cho hai người kê sát khung kính trong suốt. Tuyết gọi ly kem ba màu. Tôi chọn cà phê phin đen nóng. Gương mặt Tuyết đẹp rực rỡ mà buồn thảm. Nàng lặng lẽ nhìn về hướng nhà hàng Continental. Tôi cũng lặng thinh ngắm tấm bảng hiệu “Hollywood Snackbar” nhấp nháy xa bên dưới. Một cô gái trâm anh, học giỏi như Tuyết vẫn có thể đi vào chốn xô bồ thế này sao? Giọng Tuyết trầm buồn:
- Em không tự phụ nhưng chắc anh cũng công nhận rằng em có thừa sắc đẹp để câu một ông chồng giàu có dễ dàng? Em có dịp gặp nhiều người. Họ chỉ có thể tỏ cho em thấy sự mê si của họ nhưng không cho em thấy họ… xứng đáng là chồng em! Sống với ông chồng em không kính không yêu thì thà sống một mình! Lại có vài ông sẵn sàng tặng em xe hơi nhà lầu nhưng em không muốn bị tạt á xít! Cám ơn anh nghĩ tốt về nghề của em. Thật ra em chỉ làm tạm bợ một thời gian, cho đến khi em kiếm đủ tiền tiếp tục bậc đại học. Em tính rồi, chỉ cần một vài năm…
Tôi ngắt lời, chua xót hỏi:
- Đừng giận anh. Anh không thể không thắc mắc. Vì sao em phải đi bán bar?
Tuyết không trả lời ngay. Nàng nhìn tôi đăm đăm như đo lường sự thật thà trong ý biểu lộ cảm thông. Tôi giương mắt tiếp nhận, không tránh né. Một lúc sau, Tuyết cúi mặt, nâng muỗng múc kem. Nàng ăn có vẻ ngon lành, khuôn mặt trỏ nên thanh thản. Còn chừng nửa ly, Tuyết buông muỗng, hai tay chống cằm, lại nhìn tôi đăm đăm:
- Vì sao em phải đi bán bar? Thì anh đã biết, bỗng dưng em bị mồ côi. Em chạy trốn Nha Trang. Dù không tin tức gì về anh, em cũng cứ vào Sài Gòn với niềm hy vọng. Và trong lúc tuyệt vọng, em được một người tận tình giúp đỡ. Căn nhà anh đến chơi là do anh ấy giúp em mua, giúp em thiết trí và trang bị mọi thứ. Em sống hạnh phúc được hai tháng thì một hôm, khi em và anh ấy đang ngồi ăn tối thì có một bà gõ cửa rồi xồng xộc xông vào nhà, theo sau một đám lâu la. Anh hẳn đoán được sự việc diễn ra. Em nói với bà là em không biết anh ấy có vợ và hứa là sẽ không bao giờ gặp lại anh ấy. Từ đó, em sống một mình trong sợ hãi cho tới ngày em gặp anh Tâm. Phải em khôn một chút, đừng nôn nóng hỏi han về anh thì không chừng anh Tâm đã hỏi cưới em. Nhưng dù em tỏ ra còn thương nhớ anh, anh Tâm vẫn đến chơi, săn sóc, đùa giỡn giúp em đỡ cô đơn. Có lúc em đã quyết định tự nguyện làm vợ anh ấy, cố tạo điều kiện cho anh ấy tiến xa hơn mà không bị anh ấy coi thường, nhưng đúng lúc đó anh lại xuất hiện. Chính vì không muốn làm một người vợ gian dối, mới đây em đã từ chối thẳng thừng lời cầu hôn của anh ấy. Em biết em chưa thể quên anh.
Tuyết nói một thôi dài, gần như muốn hụt hơi mới chịu ngưng. Nàng cúi mặt, vươn bàn tay trái lạnh ngắt nắm bàn tay phải tôi để xuôi trên mặt vải màu chàm. Tiếng êm ái của Tuyết lại cất lên, đều đều, rành rọt:
- Tất nhiên em cũng có cái đầu biết suy nghĩ! Việc anh không muốn gặp lại em đã là một câu trả lời vô cùng minh bạch và em cũng đã chấp nhận. Nhưng hôm nay ông Trời dung rủi cho em gặp lại anh, em không thể không đặt ra câu em từng muốn hỏi. Em muốn nghe chính lời anh nói. Anh Bằng, có phải thực lòng anh không còn yêu em?
Thốt xong câu hỏi, Tuyết ngẩng mặt, chiếu tia mắt cực sáng vào thẳng hai con ngươi của tôi.
Đến lượt tôi cúi mặt. Phải chi Tuyết hỏi tôi có muốn cưới Tuyết làm vợ không thì tôi trả lời rất dễ dàng bởi vì tôi có sẵn các lý do vững chắc. Nhưng tôi không thể nói là tôi không yêu nàng. Tình yêu của tôi nếu gọi là chia đều cho cả ba Hiền, Hồng, Tuyết thì hoàn toàn sai, cũng không thể nói là mỗi người chiếm một phần ít nhiều trong đó. Nói cho đúng thì mỗi người khi gần tôi cũng đều được tôi dành cho trọn vẹn yêu thương. Như giờ đây tôi cảm thấy hết lòng yêu Tuyết. Tôi không mảy may nhớ Hồng, nhớ Hiền. Như tuần trước tôi hết lòng yêu Hồng và bảy tháng trước, tôi hết lòng yêu Hiền.
Tuyết lại lên tiếng:
- Sự im lặng của anh cũng là một lối trả lời minh bạch nhưng em vẫn muốn nghe anh nói. Em muốn tiếng nói của anh đánh động tâm thức của em để lúc nào cũng sẵn sàng xóa tan mọi hy vọng còn rơi rớt. Hãy nói đi anh Bằng, nói là anh không yêu em!
Tôi ngước lên, chấp nhận tia mắt nồng nàn của Tuyết. Tôi thở dài:
- Tuyết à, nếu em hỏi anh có ý định cưới em không thì anh trả lời ngay là không. Nhưng vì em hỏi anh có yêu em không, anh phải xét lại lòng mình. Anh thành thật nhận rằng anh có yêu em, yêu em bằng tình yêu đầu đời và bây giò vẫn tha thiết.
Tuyết nắm chặt bàn tay tôi, mỉm cười rạng rỡ. Nàng hăm hở nói:
- Mình ngồi cũng lâu rồi, đi đi anh!
Tôi ra dấu anh bồi bàn tính tiền. Chúng tôi lang thang chen vào dòng người trên phố Tự Do. Chúng tôi vào xem từng bức tranh trong phòng triển lãm. Rồi tha thẩn bên lề Lê Lợi. Tôi liếc nhanh các tên sách bày bán trên các sạp. Quyển “Ý thức mới trong Văn nghệ và Triết học” của Phạm Công Thiện với cái bìa màu đỏ nổi bật trên dãy sách mới phát hành. Tôi đã quá ngán với các bài vở chuyên nghề, các sách kỹ thuật, các tài liệu, hồ sơ khô khốc suốt trên hai năm qua. Xin từ giả Hải hành cận duyên và thiên văn. Xin chia tay Khí tượng, Cơ điện khí. Xin vĩnh biệt Vi phân tích phân, Sức bền vật liệu… Đã đến lúc tôi tự nuông chiều sở thích. Tôi ghì tay Tuyết dừng lại, nhấc quyển sách đưa cô bán hàng. Tuyết reo khẽ:
- Cuốn này coi bộ hấp dẫn và chắc em cần trong tương lai. Như em nói, vài năm nữa em sẽ vào Văn khoa.
Tôi xăng xái:
- Để anh tặng em một quyển.
- Đừng! Hai năm nữa em sẽ chôm quyển này của anh.
Chúng tôi đến rạp Vĩnh Lợi và không biết tiếp tục về hướng nào. Tuyết gợi ý:
- Mình tìm chỗ nào kín đáo nói chuyện cho đã. Mỗi đêm em vẫn thì thầm nói chuyện với chiếc gối ôm mà em tưởng tượng là anh.
Tuyết nói, ánh mắt nhìn tôi đắm đuối. Tôi hiểu vì sao Tuyết thầm thì như vậy. Trên đường từ Nha Trang về Sài Gòn, tôi cũng đã ôm gối, vừa hôn vừa thì thầm những lời thương nhớ Hồng. Tôi đề nghị:
- Hay là về nhà Tuyết?
Nàng lắc đầu:
- Không! Về nhà em để rồi khi vắng anh, em nhớ anh chịu sao thấu!
Tôi nghĩ đến cái phòng ngủ của khách sạn Lê Lai gần ga xe lửa từng qua đêm với Lưu Ngọc Anh. Không, không thể! Đưa Tuyết vào đó, tôi khó tránh cái mặc cảm đặt Tuyết ngang hàng…
- Hay là mình mướn một phòng ngủ? Em cần cả một đêm để nói hết với anh một lần tất cả những gì em từng muốn nói.
Tôi buông tiếng thở dài. Chọn lựa nào cũng bế tắt. Tôi từ chối sẽ làm tổn thương Tuyết. Tôi vừa xác nhận còn yêu Tuyết thì sao hành động ngược lại? Nếu tôi đồng ý, sẽ tự mình hổ thẹn với Hồng. Tôi đang ở thời điểm thúc bách giải tỏa mà Tuyết chơi cái trò mang mỡ dâng miệng mèo thì trời gầm không nhả chứ mười Tuyết cũng không tránh né được tôi. Mà chắc chắn là Tuyết không tránh né. Nàng đã chẳng ám chỉ qua câu “Về nhà em để rồi khi vắng anh, em nhớ anh chịu sao thấu”. Vấn đề là chính từ tôi. Mong rằng tôi đủ nghị lực chống đỡ cái bẫy sập này nếu thực Tuyết cố ý gài tôi vào chuyện đã rồi với một đứa con.
- Nếu anh không muốn thì thôi, chúng ta cứ lê la quán này sang quán khác cho tới giới nghiêm thì chia tay.
Đồng hồ của rạp Vĩnh Lợi chỉ gần sáu giờ. Còn ba tiếng nữa. Tôi nói:
- Mình kiếm cái gì dằn bụng rồi… tính!
Tôi nhìn quanh tìm một nhà hàng. Xéo bên kia là Thanh Thế, cạnh đó là Kim Sơn. Thanh Thế thì không mấy sang. Kim Sơn thì chưa vô lần nào. Tuyết lại lên tiếng:
- Trở lại chỗ em làm. Có một nhà hàng tây gần đó rất ngon và ấm cúng.
Dương Vận Hạm Thị Nại – HQ 502
Tôi bước cạnh Tuyết như một người máy. Mặt tiền nhà hàng Catina khiêm tốn mà khang trang. Người tiếp viên đưa chúng tôi đến chiếc bàn hai chỗ ngồi đặt sát khung kính nhìn ra đường. Hollywood Snack Bar nhắp nháy bên lề đối diện. Từ trang bìa tờ thực đơn tôi đọc tên nhà hàng Catina Hotel. Vẻ sang trọng, cách bày trí và cách phục vụ như rập khuôn nhà hàng La Frégate. Các món ăn cũng không khác là bao.
Tự dưng tôi nhớ Hồng tha thiết và cúi mặt xấu hổ cho lòng dạ bạc tình của mình…
- Anh răng rứa?
Lâu lắm tôi mới nghe giọng Huế của Tuyết. Tôi ráng một câu nhại đùa:
- Có chi mô!
- Anh ăn chi?
Tôi ngước nhìn anh bồi, nói như máy:
- Chateaubiand, hơi chín với khoai tán. Một ly rượu chát pinot noir.
- Tôi giống như vậy.
Tuyết có vẻ hạnh phúc với việc chọn cùng món ăn thức uống. Còn tôi thì… nát cả ruột gan. Tôi nhẫn tâm với Tuyết quá. Tôi đang sống lại những phút giây lãng mạn tuyệt vời bên Hồng. Rượu chát tôi biết uống nhờ quen Hồng và chỉ uống với Hồng.
- Anh có tin rằng em đã … có chồng không?
Tôi tỉnh táo tức thời:
- Hả? Em có chồng?
Tuyết cười mỉm:
- Bộ anh tưởng em không lấy được ông chồng nào sao?
Tôi xoa tay phản đối thì nàng tiếp:
- Sau khi vớ nhầm ông có vợ, em ở hẳn trong nhà. Phần thì sợ, phần xấu hổ. Chừng dăm ba tháng em nguôi ngoai. Một hôm ra ban công, em gặp một bà đang ngồi ở ban công nhà kế. Em chào hỏi, gợi chuyện. Mỗi ngày tâm sự một ít. Khi nghe em than đang thất nghiệp thì bà cho biết chỗ con gái bà làm đang cần người. Em gặp con gái bà. Thế là chúng em đi làm chung.
- Ở Hollywood Snackbar?
- Dạ. Chính ở đó em gặp một thằng Mỹ rất tử tế. Sau vài tháng quen biết nó ngỏ ý muốn cưới em mang về Mỹ. Em OK liền! Anh biết vì răng không?
Tôi cười tủm. Tuyết nâng chiếc dao giá giá:
- Nghĩ bậy, em giết anh. Vì những lý do này. Thứ nhất là em vẫn nhớ anh. Thứ hai, em vẫn sợ bị tạt á xít. Thứ ba, em muốn rời xa cái đất nước mang cho em toàn chuyện đau đớn!
Tôi không dám lên tiếng đùa cợt. Việc Tuyết còn ngồi ở đây và cái lối kể chuyện dường như sẽ đưa đến một kết cuộc không vui. Tôi buông dao nĩa, nghiêng người tới gần nàng, chờ đợi, lắng nghe. Giọng Tuyết cười cợt mà như có âm rền rĩ:
- Phải mất gần một năm thủ tục mới hoàn tất. Rồi khi chỉ còn một tuần nữa là lên đường thì nó… chết!
Có lẽ mắt tôi mở to lắm nên lại làm Tuyết hiểu lầm. Nàng lại giá giá con dao:
- Lại nghĩ bậy! Nó chết vì rớt trực thăng!
Tôi vói nắm tay Tuyết:
- Anh thành thật chia buồn.
Tuyết cười:
- Em hết buồn rồi, chỉ sợ. Những người thân yêu của em đều chết vì máy bay.
Tôi xoa tay:
- Thật may! Anh chỉ đi tàu thủy.
- Anh dị òm!
Chúng tôi lặng lẽ ăn. Rượu làm gương mặt Tuyết ửng hồng tuyệt sắc. Tôi nghĩ đến Thúy Kiều. Tuyết cũng là nạn nhân của “Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen”. Tôi hỏi Tuyết có muốn thêm rượu. Nàng lắc đầu. Tôi gọi thêm một ly cho tôi. Tuyết nói:
- Gần đây, có một thằng Mỹ khác, bạn thân của chồng em, bảo rằng nó cũng thương em từ lâu, nay muốn cưới em và đưa em về Mỹ. Em sợ quá, đành từ chối. Nó vẫn còn đang “dụ dỗ” em…
- Thì cùng lắm là thằng đó chết chứ đâu phải em! Bằng êm xuôi, em qua được xứ Mỹ, hết buồn.
Tuyết nhăn mặt, tỏ vẻ không ưa cách ăn nói của tôi. Bất chợt nàng xoay chiều đột ngột bằng giọng nôn nả:
- Đời em khi xa anh là rứa. Còn anh thì răng?
Câu hỏi bất ngờ làm tôi sựng người. Tôi tìm kế hoãn binh:
- Lần gặp lại em, em nói toàn giọng Sài Gòn. Tối nay em pha nửa Huế nửa Sài Gòn nghe hay dễ sợ! Tiếp tục…
- Đoạn cuối anh đã biết, là sau đó em gặp lại anh Tâm, rồi gặp lại anh. Mà không hiểu sao chuyện em có chồng Mỹ, em dấu không kể với anh Tâm mà bữa ni lại kể với anh. Có thể tại vì em yêu anh Tâm chưa đến cái mức em tuôn hết mọi chuyện…
Người bồi lịch sự nhắc chúng tôi là nhà hàng đóng cửa lúc tám giờ. Chúng tôi còn mười lăm phút để chấm dứt bữa ăn. Tôi nâng ly rượu chát, quét mắt nhìn quanh, chầm chậm đi một hơi cạn ly. Chỉ còn hai chúng tôi là thực khách. Ngoài đường cũng vắng bóng người, chỉ thỉnh thoảng có ánh đèn xe lướt qua. Cũng không thấy chiếc xích lô đạp nào mà mới một tiếng trước đó còn đậu vài chiếc. Trong lúc chờ tính tiền, tôi đề nghị:
- Để anh đưa Tuyết về nhà.
- Quá muộn rồi anh ạ! Em để ý, chả còn thấy chiếc xe tắc xi nào.
Nàng nghiêng mặt về quày tiếp tân:
- Nhờ anh đến mướn cho em một phòng. Rồi anh về tàu. Tàu anh đậu gần đây mà, anh đi bộ về được.
Tôi tự mắng mình thiếu… cảnh giác. Tôi đã quá thơ ngây để bị Tuyết dẫn dắt ngay từ đầu. Tuyết thừa biết tôi không thể bỏ Tuyết một mình trong phòng ngủ. Tôi nói thầm với Hồng: “Anh sẽ cố hết sức để giữ thủy chung với em, Hồng thương yêu!”
Nhận phòng xong, Tuyết khóa cửa và đứng tại chỗ ôm tôi, tặng tôi chiếc hôn nồng cháy. Tôi không phản ứng và cố không hưởng ứng. Tuyết buông tôi ra, mỉm cười:
- Em đi tắm trước.
Nàng nhún nhảy về phía buồng tắm, mở toan cửa và không đóng lại. Căn phòng nhỏ, bịt bùng nhưng sạch sẽ, bày biện đẹp mắt và mát rượi. Làn hơi lạnh từ máy điều hòa gắn trên vách sát trần nhà thổi ngang qua chiếc giường đôi cỡ nhỏ trải drap trắng tinh. Hai chiếc đèn chụp ở hai bên đầu giường đang tỏa ánh sáng được tăng cường từ chiếc gương lớn gắn trên vách. Đối diện là một bức tranh hoa huệ màu vàng tươi trông như thật. Có tên tác giả ký ở góc nhưng tôi đứng xa không đọc được. Hẳn cũng phải là một họa sĩ nổi danh nên tranh mới được chụp lại bán ra thị trường. Tôi chợt nhớ tới bức Starry Night của Vincent Van Gogh treo ở căn phòng của “chỗ quen biết”. Tôi lắc đầu cố xua đuổi những động tác của Lưu Ngọc Anh hiện về mồn một…
Tiếng nước xối xả trong nhà tắm vọng ra át cả tiếng máy đều hòa. Tự dưng tôi nảy ra cái ý so sánh đáng phiền trách. Lưu Ngọc Anh và Tuyết có điểm giống nhau. Cả hai đều để cửa mở toang khi tắm. Nhưng lại có điểm trái ngược. Lưu Ngọc Anh xong việc mới tắm, còn Tuyết thì tắm rồi mới…Tôi lại lắc đầu xua đuổi các động tác tưởng tượng đầy quyến rũ của Tuyết… Có thể tôi đang thèm muốn và quá chủ quan. Không khéo tôi bị tát tai như Tâm…
Tuyết hiện ra, tóc xỏa man dại rơi trên chiếc khăn tắm choàng quanh bộ ngực nở nang. Nàng cười bảo:
- Anh đi tắm đi.
Độ mát của căn phòng khiến tôi lười tắm. Tôi đứng lặng ngắm Tuyết. Mắt tôi như nhìn thấu qua lớp khăn choàng dày. Tuyết hờn dỗi:
- Đi tắm đi. Em không chịu nổi mùi mồ hôi…
Tôi cởi đôi giày rồi ngoan ngoãn lê bước. Tôi trút bỏ quần áo. Hy vọng độ lạnh của nước giúp tôi hạ nhiệt. Tôi đứng thật lâu mặc cho nước xối xả lên mình. Tôi cảm thấy nhớ thương Hồng vô hạn. Tôi ngạc nhiên với chính mình. Đây là lần đầu, tôi gần một người và nhớ một người…
Lau mình xong tôi ngó quanh tìm cái gì đó che thân. Chỉ có bộ đồ vừa cỡi ra, không lẽ lại mặc vào. Và chắc chắn sẽ bị phản đối mùi mồ hôi. Tôi mở tủ, kéo chiếc khăn khô choàng quanh như Tuyết. Ngọn đèn đầu giường bên Tuyết đã tắt. Căn phòng như thêm mát mẻ. Tuyết đang trùm tấm chăn lên tận cổ. Chiếc khăn tắm nằm vắt góc chân giường. Tuyết ra lệnh:
- Bỏ cái khăn đi và chui vào cạnh em.
Tôi thở dài, tuân theo lệnh của nàng. “Hồng ơi, anh sẽ cố gắng chống đỡ. Nếu anh đại bại, hãy… thông cảm cho anh một lần, lần này thôi”. Tôi nằm không chạm vào thân thể trần truồng của Tuyết. Cực dương cố hóa giải sức hút của cực âm. Những cơn bão tố tôi còn vượt qua nổi, sá chi thân thể một người đàn bà. Nhưng trời ơi! Sao lại có câu xem chừng rút từ tình trường dạn dày kinh nghiệm: “Sắc bất ba đào dị nịch nhân”! Tuyết nghiêng người qua tôi, cười mỉm:
- Em còn trẻ quá, phải không anh, mới hơn hai mươi mốt tuổi. Anh cũng còn quá trẻ, mới hơn hăm hai. Em sẵn sàng chờ anh… vài năm nữa.
Tôi lặng thinh. Có ngu lắm thì tôi cũng hiểu Tuyết đang muốn gì! Trời ơi! Phải chi ngày xưa tôi đừng … ôm đại Tuyết! Ôm làm gì để bây giờ người ta đòi ôm lại không dám ôm. Giọng Tuyết nồng nàn:
- Nhưng có cần chi phải chờ đợi anh Bằng? Hãy làm chồng em, ngay từ hôm nay! Em hứa là em sẽ mang hạnh phúc cho anh. Hãy sống với em vô điều kiện. Anh không cần cưới hỏi. Nhà đã có sẵn. Em có thể tự nuôi thân với một chỗ làm khác đàng hoàng hơn. Em chỉ cần có anh. Thậm chí giả sử một ngày nào đó anh muốn ra đi, em hứa sẽ không buồn phiền. Hiện tại không có anh, đã là quá sức buồn phiền. Thà có anh một thời gian ngắn vẫn hơn!
Dương Vận Hạm Vũng Tàu – HQ 503
Tôi vẫn lặng thinh. Nếu không vì lời trót hứa với Hồng, chắc chắn là tôi đã ôm ghì thân thể Tuyết và chúng tôi trở thành là một. Tôi phải nói gì cho Tuyết cảm thông? Tuyết đã rất chân tình thì sao tôi lại dối trá. Tôi phải nói sự thật. Giọng Tuyết vẫn hăm hở, nhiệt thành:
- Cho dù anh có đang yêu ai khác cũng không làm em buồn phiền hơn. Điều em cần là sự hiện diện thực sự của anh trong đời em và cho dù là sự hiện diện không thường trực.
Tôi xoay người nằm nghiêng, nhìn sâu vào đôi mắt mở to của Tuyết. Khi yêu, người ta có thể… khùng đến thế sao? Bằng lòng làm vợ… vô điều kiện! Nhưng với tôi, tôi không thể làm chồng kiểu này. Tôi không muốn thiếu thủy chung với Hồng. Tôi muốn sống cuộc đời chồng vợ trong sáng minh bạch và tận tình cho nhau.
- Hay là anh đã có vợ?
Tôi đã ngờ rằng Tuyết sẽ hỏi câu đó. Điều kiện làm chồng quá dễ dãi mà tôi cứ ngậm miệng ăn tiền thì không thể có kết luận khác hơn. Tôi nằm ngửa trở lại, mắt nhìn trần nhà vàng ố. Có cái gì động đậy ở cuối trần, góc bên phía Tuyết. Con thằn lằn. Phòng ngủ của Tây, lại ở ngay thủ đô mà vẫn có thằn lằn…
- Anh Bằng, anh có vợ rồi hả?
Phải nói một lần cho xong. Phải sống thật thà với chính mình. Phải tạo một bức tường giữa hai thân xác đang quá gần gụi. Tôi lựa từng chữ:
- Nói cho đúng thì chưa nhưng rồi sẽ có…
Tuyết buông một tràng cười ròn rã. Mãi một lúc Tuyết mới nói được:
- Anh đùa có duyên ghê! Sống với anh, chắc không bao giờ biết buồn…
- Sự việc không giản dị như em… cười! Hiện tại anh chưa có vợ nhưng mà như đã có…
Tuyết ngưng ngay nụ cười:
- Nghĩa là cô nào đó đang mang trong bụng đứa con của anh?
- Không! Hoàn toàn không. Mà là do một lời hứa.
Tôi thư thả kể hết cho Tuyết nghe sự việc diễn ra giữa tôi và Hồng, trường hợp nào tôi quen nàng và chuyện hứa hẹn trong chuyến công tác Nha Trang vừa rồi. Tuyết chăm chú nghe một cách say sưa. Tôi dứt lời, đúng lúc nước mắt nàng cũng bắt đầu tuôn ra. Rồi nàng khóc nức nở, mặt vùi trong gối, đôi vai rung động. Tôi lại xoay nghiêng, chồm lên hôn nhẹ lên tóc nàng, thì thầm:
- Đừng khóc! Em khóc làm anh muốn khóc theo. Anh tin mọi sự đều do định mệnh. Nếu hôm trước anh đừng tránh né em, được nghe em tỏ ý sớm hơn thì chắc anh đã không tìm gặp lại Hồng. Có thể nói, cho tới mới đây trở lại Nha Trang gặp lại Hồng, anh gần như hoàn toàn quên Hồng. Anh hứa cưới Hồng vì lúc đó anh nghĩ em đã là của Tâm, và vì cái tình của Hồng dành cho anh quá thủy chung. Anh đã hứa bằng tất cả tấm lòng…
Tuyết vẫn tức tưởi. Tôi cố tìm lời lẽ để xoa dịu nỗi đau của nàng. Tôi úp mặt tôi vào má nàng. Nhữn ngọn tóc bay vào mũi nhồn nhột. Mùi da thịt thơm lừng. Tay tôi choàng ngang lưng nàng xoa nhè nhẹ bờ vai. Sự tiếp xúc giữa hai làn da trần trụi xóa sạch mọi lời an ủi vừa hình thành trong trí. Tuyết sửa thế nằm nghiêng, mặt nàng gần chạm mặt tôi, cất giọng rầu rĩ, tủi thân:
- Cám ơn anh đã thố lộ chân tình. Đúng cái số em là số… ăn mày. Em cam phận. Chỉ xin một đặc ân cuối cùng. Nếu số mệnh đẩy đưa anh gặp lại Hồng thì số mệnh cũng đây đưa em kề cạnh anh đến mức thế này. Hồng được may mắn suốt đời có anh. Hãy cho em tận hưởng giây phút còn được bên anh như một may mắn cuối cùng.
Nói dứt, không cần tôi ừ hữ, Tuyết tung chăn, áp nguyên thân nàng lên thân tôi. Nàng hôn tôi tới tấp. Tôi trân người chịu trận. Nhưng tôi không phải là một ông thánh sống. Có là thánh sống thì cũng đầu hàng. Tôi cố nghĩ đến Hồng như một thành trì cuối cùng. Mắt tôi mở to như muốn thấy nàng hiển hiện trước mặt. Nhưng tôi chỉ thấy con thằn lằn lúc này đang rình con thiêu thân. Nó nhích tới thật chậm, nhẹ nhàng.
Tôi cảm thấy hai tay tôi đã vòng ôm lưng Tuyết. Chắc rồi tôi sẽ chẳng còn hơi sức mà chống trả cuộc tấn công đang đến hồi quyết liệt. Thôi thì hãy để cho rũi may định đoạt. Nếu con thiêu thân thoát khỏi con thằn lằn, tôi sẽ tung mình chạy khỏi Tuyết.
Con thằn lằn lại nhích tới, nhích tới. Con thiêu thân vẫn nằm yên như tôi đang nằm. Rồi con thằn lằn cũng nằm yên. Nhưng thế nằm của nó cho thấy nó sắp sửa tung đòn quyết định. Thân hình nó cong lại, cái đầu ngóc cao rình rập, thèm khát. Chợt vụt như tia chớp, con thằn lằn phóng tới. Con thiêu thân biến mất trên nền vôi ngà, chỉ còn cái đuôi ngoe ngoảy đôi lần trước khi mất dạng ở chóp mỏm con vật tấn công…
Tôi lật Tuyết nằm ngửa và đứng thẳng người nhìn chầm chập vào thân thể trần truồng. Tuyết mỉm cười, mời mọc. Người tôi hừng hực nóng. Rồi tôi như con thằn lằn phóng tới con mồi….Tuyết thật cuồng nhiệt, tuyệt dịu, tận tình buông thả. Tôi đã có lúc nghĩ rằng có được một người vợ như Tuyết thì không còn gì… ngon lành hơn!
Khi cả hai chúng tôi nằm thở dốc, tôi sực nhớ cái bẫy Tuyết giăng ra. Tôi đùa cợt thăm dò:
- Nhớ ngày xưa mới ôm ấp sơ sơ, em đã hớt ha hớt hãi lo sợ có mang. Bây giờ em dữ hơn sư tử, bất kể trời đất…
Tuyết cười, tràn trề hạnh phúc:
- Xưa khác, chừ khác. Chừ có mang em càng mừng…
Tôi trợn mắt nhìn Tuyết, kêu khổ thầm. Giờ đây chính tôi lại là người lo sợ. Nhỡ ra…
- Đừng sợ mất vui, anh Bằng! Có mang, em cũng dấu cả anh lẫn Hồng. Em thừa sức nuôi con em.
Thật tình, đến thời điểm này có sợ cũng đã quá trễ tràng. Đã trót thì trét. Chúng tôi quần nhau, quấn quít nhau đến gần sáng thì cùng thiếp đi.
Khi tỉnh dậy, tay tôi quờ quạng tìm Tuyết nhưng chỗ nằm của Tuyết trống không. Tôi nhảy khỏi giường lục lạo mọi chỗ. Quả là Tuyết đã biến mất. Trên tấm gương ở bồn rửa mặt hai chữ “Vĩnh biệt” đỏ chói viết bằng thẻ son môi. Tôi nghe đắng ở miệng. Sao lại vĩnh biệt? Tuyết đã chẳng cho tôi những điều kiện dễ dãi để làm chồng nàng. Chẳng lẽ tôi chỉ được làm chồng nàng vỏn vẹn một đêm? Tôi thèm một điếu thuốc lá. Một mảnh giấy đặt đưới gói thuốc. Tôi hối hả mở đọc:
“Anh sẽ chẳng bao giờ gặp lại em và đừng tìm em vô ích. Cám ơn anh đã yêu em hết mình và đã cho em những giờ phút thần tiên. Em đành lòng trả anh về với Hồng vì quả Hồng xứng đáng được như thế. Em từ bỏ ý định tham lam chiếm giữ một phần đời của anh. Em sẽ rất hạnh phúc nhưng anh không hoàn toàn hạnh phúc. Mà nếu anh có phần nào đau khổ thì lại là điều em không muốn thấy. Em có biết Hồng và gia đình Hồng. Đó là một gia đình thế tộc, đạo đức. Bản thân Hồng cũng không có một lời ra tiếng vào từ lũ con trai trời ơi đất hỡi của trường chúng mình. Hồng xứng đáng… hưởng anh trọn vẹn! Và em ước mong anh cưới Hồng càng sớm càng hay. Em từng chờ đợi nên rất hiểu cái khổ đợi chờ… Một đêm với anh là đủ cho em hạnh phúc suốt đời. Một đêm với anh cũng là mở đường cho tương lai của em. Vĩnh biệt!”
Tuyết không còn khùng mà đã hóa điên. Khi yêu người ta có thể điên đến thế sao? Yêu như điên rồi hoan hỉ nhường trọn người mình yêu cho kẻ khác? Tôi đọc mảnh giấy lần nữa và… thở dài. Dù còn ham hố nuối tiếc, tôi cũng đành thầm cám ơn Tuyết đã cư xử quá đẹp. Có lẽ trong đời tôi, tôi cũng không bao giờ quên được Tuyết. Tôi mặc lại quần áo rồi xuống trả phòng, vừa kịp hạn chót 10 giờ. Tôi cuốc bộ đến rã rời về đến tàu nửa giờ sau. Vì còn giờ phép, tôi chui thẳng vào giường và mê man ngủ.
Tiếng còi điện rền vang giật ngược khiến tôi thức giấc. Tôi nhìn đồng hồ trên vách: 13:30. Nhận ra còi nhiệm sở tác chiến nhịp đôi “tích tích, tích tích”, tôi tỉnh hẳn người. Rồi tiếng chân chạy rầm rập. Tôi bật khỏi giường, cùng với Hạm phó, Hải, Tâm mặc vội bộ quân phục. Chúng tôi chạy nhanh vào nhiệm sở. Nhiệm sở của tôi là hai khẩu đại bác 20 ly hữu hạm sân lái. Tôi đeo điện thoại nội bộ. Lệnh từ đài chỉ huy chỉ thị tác xạ hai chiếc phi cơ đang quần trên không trung. Tôi ra lệnh hai khẩu súng khai hỏa. Cùng lúc toàn bộ các khẩu khác của các tàu đang hiện diện nổ đồng loạt. Tiếng nổ ầm ầm dòn tan hòa cùng tiếng nổ lớn hơn nhưng thưa hơn của khẩu 40 ly đôi trước mũi. Vô số đám khói bùng vỡ quanh hai chiếc phóng pháo cơ do các đầu đạn tự hủy khi không trúng mục tiêu. Hai phi cơ càng lúc càng lên cao nhưng không rời khu vực. Các nhân viên còn lại hăng hái chuyển đạn từ hầm đạn lên các ụ súng. Sau chừng mười lăm phút tôi được lệnh ngưng tác xạ. Tất cả các chiến hạm khác cùng đồng loạt tuân hành. Từ phía thành Cộng hòa và đâu đó không xa, tiếng đại liên và súng nhỏ vọng về từng loạt. Nửa giờ sau, dù súng trên bờ vẫn nổ, hạm trưởng cho lệnh giải tán, các khẩu súng được bao bọc lại cẩn thận.
Trong bữa cơm chiều ngày 1 tháng 11 năm 1963, hạm trưởng thông báo diễn tiến đảo chánh của Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng. Hải quân thoạt tiên chống đối nhưng sau ủng hộ. Các lực lượng đảo chánh vẫn đang chạm súng với lực lượng phòng vệ phủ Tổng thống. Khoảng chín giờ tối hạm trưởng rời phòng họp sĩ quan vào buồng riêng. Tôi vội vã thót ngay lên giường tiếp tục giấc ngủ bỏ dỡ.
Khi tôi thức đậy, có tin vị Tư lệnh Hải quân đã bị hạ sát vì lòng trung thành với Tổng Thống. Sau đó tôi được thêm tin là chính Tổng Thống cũng bị giết sau khi đầu hàng…
Sau hơn sáu tháng làm người lính biển, tôi ngẩn ngơ trước sự mất mát quá bất ngờ, quá to lớn và quá lạ lùng. Tôi viết thư cho Hồng, nói lên cảm nghĩ của tôi và tôi báo cho nàng là sau lá thư này cho tới chưa biết đến bao giờ tôi không còn lòng dạ nào viết được những lời yêu thương …
Tuần Duyên Hạm Hoa Lư - HQ 608
Chương 12
Từ trên con đường tráng nhựa dẫn xuống cầu bắc, chiếc thiết vận xa đầu tiên quay phải một phần tư vòng, hùng hổ lăn xích ngang qua một thửa ruộng vừa gặt xong, rồi quay trái chín mươi độ tiến về chiếc hải vận hạm đang ủi bãi. Nó chúc mũi xuống bờ sông, xông xáo chui vào đám lau sậy dày đặc để rồi nằm lỳ trong đó. Nó nhìn cái cửa đổ bộ đang mở rộng chỉ còn cách mươi thước mà tức mình vùng vẫy nhưng càng cố gắng càng bị lún sâu.
Hạm trưởng châm điếu thuốc, rít liền mấy hơi rồi khoanh tay nhìn dọc theo bờ sông, những nơi mà suốt một tiếng qua ông đã lần lượt cho chiến hạm ủi vào để thám sát. Cả một đoạn sông khoảng khoát tưởng chắc ăn nhưng nền đất lại quá mềm không chịu nổi sức nặng của chiến xa. Cái nơi trông lý tưởng nhất giờ đây cũng không dùng được. Ông cũng đã ngắm nghía các bãi xa hơn nhưng bên trên lại là vườn xoài vườn mận hoặc đầy những luống rau màu mỡ xanh tươi.
Hạm trưởng nhìn sang chiếc ponton của cầu bắc gần đó, rồi dõi mắt theo dòng nước, rồi ngắm lá cờ đang bay phần phật. Rõ ràng là ông đang ngại ngần. Ngay từ trưa, khi gặp nhau, vị chi đoàn trưởng đã đề nghị ông ủi vào ponton đầu cầu bắc. Ông bảo bắt dân chúng đợi chờ lâu lắt là thất nhân tâm. Hai nữa, không phải dễ gì mà ủi vào đó. Tôi từng được ông hạm trưởng tiền nhiệm nhiều lần huấn luyện cặp cầu với dòng nước ngược và từng được tập dượt ủi bãi với nhiều hướng gió nhưng chưa từng được hướng dẫn ủi vào một ponton nằm lơi khơi ngoài lòng sông. Tuy vậy, khi nhìn những chiếc bắc dềnh dàng đều đều vào ra thong thả, tôi cho rằng với một chiến hạm có cỡ nhỏ hơn ắt hẳn… dễ ăn hơn.
Đột nhiên, hạm trưởng quay lại nói mấy chữ ngắn ngủi nhưng đủ gây cho tôi một ngạc nhiên lớn:
- Đành liều vậy!
“Đành liều vậy”, tôi thầm nhắc lại mà không hiểu sự tình. Tôi cũng không hiểu liệu ông hạm tiền nhiệm có thốt ra câu đó không! Tôi nhìn hạm phó Được. Anh nhún vai, như là một cách đồng ý với hạm trưởng. Tôi thấy nóng mặt nhưng tự khuyên bình tâm, rồi ra sự việc tự nó sẽ phô bày. Tôi thì thấy dễ nhưng hai xếp đều cho là liều. Tôi đang học để chuẩn bị làm hạm phó mà cũng để một ngày trở thành hạm trưởng. Tôi phải kiên nhẫn học hỏi từ cả hai vị này dù không ưa thích cả hai và dù không mấy đặt lòng tin.
Đương kim hạm trưởng về thay ông thi sĩ hạm trưởng đúng hai tuần sau ngày vị Quốc trưởng đăng quang 24 tháng 10 năm 1964. Tân Quốc trưởng là một trong những chính khách được chính chiến hạm này rước về từ Côn Sơn ngay sau đảo chánh thành công. Đảo chánh biến quan nhanh chóng thành tướng và biến người tù thành người lãnh đạo.
Tôi thích ông hạm trưởng thi sĩ qua cách ông cư xử tế nhị, thân tình và qua cách ông tận tâm vui vẻ hướng dẫn hải nghiệp. Còn ông hạm mới về thì khá lè phè kể cả lè nhè. Khác với ông tiền nhiệm thích giữ nề nếp mẫu mực, ông hạm tân đáo cho phép nhân viên mặc áo thun, mang dép bất kỳ lúc nào sau khi tàu rời bến. Mọi người đều thích sự thay đổi dễ chịu này nhưng cái giọng lè nhè ê a của ông đã xóa đi phần nào niềm kính nể dành cho ngôi vị của ông.
Theo dư luận thì ông được xếp vào hàng hạm trưởng giỏi. Ông tốt nghiệp khóa 5, trước tôi sáu khóa. Lên lon thì trung bình nhưng chức vụ thì tiến nhanh. Ông hẳn phải thực sự tài ba mới được Bộ Tư Lệnh tin tưởng giao quyền chỉ huy liên tiếp hai chiến hạm. Làm hạm trưởng chiếc này có cấp số thiếu tá, thì chẳng mấy hồi cầu vai áo ông rực vàng ba gạch.
Tôi cũng chẳng ưa gì hạm phó Được dù làm việc chung với anh từ khi mới đổi xuống tàu. Anh ít nói, tính tình khắc khe mà tác phong thì lúc nào cũng nghiêm túc. Dùng theo đặc ngữ hải quân thì gọi là “hắc ám”. Như việc tính tiền ăn và nợ cuối tháng. Tất cả chi tiêu và nợ nần đều được ghi chi tiết trong sổ sách. Với hạm trưởng hay các sĩ quan khác, tôi chỉ trình tổng số chi tiêu và tổng số nợ mượn. Nhưng với hạm phó hắc ám thì phải chép lại đầy đủ vào mảnh giấy có ghi rõ ăn cơm ngày nào? mượn nợ ngày nào?…
Trên tàu có hai vị chỉ huy thì tôi không ưa cả hai. Thêm một việc đáng buồn khác là các sĩ quan đàn anh mà tôi quý mến đều đã ra đi: Ông hạm phó Hào, ông cơ khí trưởng Hải, ông bạn thân Tâm. Còn tiếc nuối gì mà ở lại? Tôi cũng đã phục vụ hơn 18 tháng trên chiến hạm này rồi, mọi thứ coi như thành thạo. Đi nơi khác để còn học thêm nữa chứ.
- Thiếu úy Bằng nghĩ sao?
Tôi giật mình khi nghe cái giọng lè nhè bất ngờ nhắm vào tôi. Tôi lúng túng hỏi lại:
- Nghĩ về việc gì, thưa hạm trưởng?
- Thì việc… ủi vào đầu cầu bắc.
Tôi nói lên sự thật chính mắt tôi quan sát nhiều lần:
- Thưa hạm trưởng, tôi thấy chiếc bắc ủi vào chiếc poton lần nào cũng đẹp!
Giọng ông có phần gắt gỏng:
- Dĩ nhiên là phải đẹp. Sở trường của họ mà! Anh chịu khó có chút nghĩ suy! Chiến hạm không phải là chiếc bắc và cái cầu đó không làm ra cho chiến hạm ủi vào.
Thấy tôi còn ngơ ngẩn, ông chép nửa miệng:
- Tôi sẽ tuần tự giải thích…
Ông ra lệnh đóng cửa đổ bộ, cho lệnh kéo neo và lùi tàu. Đến giữa sông, ông cho tàu ngưng máy và chậm rãi hỏi tôi:
- Anh thấy nước thế nào?
-Thưa nước ròng.
- Nước ròng thì ai cũng thấy được. Tôi muốn hỏi về cường độ.
Tôi nhìn một đám lục bình trôi lướt qua một thân cây trên bờ:
- Thưa nước ròng mạnh.
- Đúng! Nước đang ròng mạnh. Còn gió thì thế nào?
- Thưa gió rất mạnh.
- Gió rất mạnh, đúng lắm! Và ai cũng thấy được. Nhưng đó không phải là điều tôi muốn hỏi. Hải quân, khi nói tới gió là phải kèm theo hướng. Cái tôi muốn hỏi là gió hướng nào nếu ta ủi vào đầu cầu?
Tôi ngước nhìn chiều bay của lá cờ lúc chiến hạm đang xuôi dòng. Tôi đáp:
- Khi ủi vào ponton, gió sẽ thổi ngang tả hạm.
Ông gật đầu:
- Nước đẩy mạn tả, gió cũng đẩy mạn tả, tàu sẽ “bay” như chiếc lá.
Ông còn lèm bèm câu gì đó khi nhìn chiếc cầu Bắc và ra lệnh cho máy tiến xuôi dòng. Lúc gần ngang cầu, ông nhìn tôi, ra vẻ thú vị:
- Nào, bây giờ hãy nhìn vào chiếc ponton, anh thấy sao?
Tôi kinh ngạc về sự biến dạng của chiếc ponton. Ở cách xa khoảng ba trăm thước, nó trở nên nhỏ bé đến nỗi nếu không có nhịp cầu sơn đen có thể tôi đã tìm ở một hướng khác. Tôi nghe câu hỏi lặp lại một cách nóng nảy của hạm trưởng:
- Anh thấy sao?
- Thưa với mục tiêu nằm lơi khơi nhỏ bé như vậy, với gió ngang hông thổi mạnh, hợp với sức đẩy của dòng nước, quả thật khó mà điều khiển chiến hạm tiến đúng vào ponton.
- Cứ cho là chiến hạm vào đúng ngay ponton, thì còn gì khác phải quan tâm?
Tôi cố moi óc, cuối cùng lắc đầu:
- Thưa sau đó thì… nhận thiết vận xa!
Hạm trưởng lắc đầu, cười mỉa:
- Được thế thì còn gì bằng!
Hạm trưởng quay sang hạm phó Được:
- Nè ông hạm trưởng tương lai, nếu ông đang là hạm trưởng, ông sợ điều gì nhất?
Được nảy giờ vẫn giữ im lặng, lên tiếng:
- Thưa, chiến hạm có thể ủi sập cầu!
Hạm trưởng reo lên:
- Đúng như vậy! Chỉ một sơ sảy là sập cầu. Nên nhớ chiếc bắc rộng hơn chiến hạm gấp mấy lần nhưng ngắn hơn, ít bị tác động của sức gió và dòng nước. Thuyền trưởng thì hành nghề mỗi ngày chỉ với mỗi công việc ủi vào ponton. Máy của nó đơn giản hơn máy chiến hạm nên điều khiển tăng giảm nhanh chóng, dễ dàng. Tấm sắt đổ bộ của nó rộng hơn, dài hơn, bám vào cầu chắc hơn. Thử tưởng tượng, với gió và nước mạnh thế này, con tàu đang hùng hục phóng vào mà lệnh cho máy ngưng hoặc lùi không được thi hành kịp thời hoăc sai lầm… Hoặc neo không ăn, cửa đổ bộ không bám, con tàu trôi tấp vào các chiếc bắc khác…
Thì ra đây là lý do khiến ông thốt lên “Đành liều vậy!”.
Bây giờ tôi thấy sự việc rõ hơn và đồng ý là có… liều!
Mũi Kê Gà
Tuy nhiên mọi sự diễn ra không bi quan như ông tưởng dù ông phải ủi đi ủi lại đến bốn lần. Lần đầu ông ước lượng sai tác dụng của dòng nước và sức gió. Lần thứ hai, cửa đổ bộ hạ xuống chậm trễ không giữ được mũi tàu bị trượt khỏi ponton. Lần thứ ba, neo sau không cắn đất nên không giữ được lái tàu bị đẩy trôi. Phải mất bốn lần và hai tiếng đồng hồ để vào đúng vị trí nhưng vẫn đủ để hạm trưởng hài lòng. Tôi cũng gặt hái được nhiều kinh nghiệm vận chuyển thật quý báu. Chỉ tội cho dân phải đợi chờ qua bắc suốt hai tiếng.
Sau bữa ăn vội vàng, chúng tôi rời Cao Lãnh lúc nhá nhem tối. Trong năm qua, chiến hạm có dịp trở lại Năm Căn đến ba lần, có hôm đi ngày, có bữa đi đêm. Tôi đã khá quen với các địa thế thủy đạo của từng đoạn sông Cửa Lớn, Bồ Đề và tin rằng mình có thể tự lái ra vào mà không cần sự hiện diện của hạm trưởng. Nhưng lần này, cả một giang trình hoàn toàn mới lạ và rất dài. Nó đi qua bốn con sông nuôi sống miền Tây: Cửa Tiểu, Tiền Giang, Vàm Nao và Hậu Giang.
Không như sông Cửa Lớn, Bồ Đề, thủy trình từ Cao Lãnh đi Long Xuyên gần như hoàn toàn an ninh. Đây là vùng ảnh hưởng Phật giáo Hòa Hảo và Cộng sản ít dám héo lánh đến trà trộn hoạt động. Ai mà đội chung trời với kẻ đã hạ sát giáo chủ của mình. Dù biết vậy, hạm trưởng vẫn ra lệnh giang hành kín và sẵn sàng hỏa lực… Ông cho máy tiến ba, một bậc thấp hơn so với tốc độ đường trường. Nếu ước tính với dòng nước ngược, chỉ độ 14 cây số một giờ. Thiếu úy Tiến lãnh phiên đầu từ 8 giờ tối đến nửa đêm. Tôi từ nửa đêm đến 4 giờ sáng và thiếu úy Danh tiếp sau.
Nếu là ở biển, khi chiến hạm vào hải trình an toàn vạch sẵn, hạm trưởng hạm phó có thể rời đài chỉ huy và… phè cánh nhạn. Nhưng ở trong sông, hai vị là những người vất vả nhất. Riêng với ông hạm trưởng mới nhậm chức này thì càng vất vả hơn. Làm sao ông có thể an tâm khi chưa nắm được khả năng hải hành của các các sĩ quan dưới quyền mình. Vì vậy, dù hạm phó đang ở đài chỉ huy, ông hạm trưởng vẫn chiếm vị trí tốt nhất để sẵn sàng điều chỉnh mệnh lệnh do hạm phó ban ra. Hạm phó, cũng như tôi, nhân đó mà nghiền ngẫm, học hỏi.
Trời đã tối hẳn. Dòng sông trước mặt chỉ là khoảng không gian đen ngòm. Con tàu tiến tới như người mù. Chiếc radar bị hỏng bóng phát hình còn chờ hàng thay thế. Tất cả rủi may giang hành chỉ dựa vào mắt thường. Thiếu úy Tiến có lẽ là người lo lắng nhất. Dù hạm trưởng là sĩ quan thâm niên hiện diện anh vẫn trách nhiệm phát giác mọi vật cản trên đường di chuyển. Mắt anh không lúc nào rời khỏi chiếc ống dòm. Trợ giúp anh là hai quan sát viên, một trung sĩ, một hạ sĩ. Tôi không trách nhiệm gì, nhưng không muốn bỏ lỡ cơ hội để học hỏi. Những bóng đen lù lù của hai hàng cây bên bờ lùi nhanh về phía lái tàu. Lẫn vào đó là những điểm sáng vàng úa của các ngọn đèn dầu. Đếm những điểm sáng là suy ra mật độ dân cư.
Chợt tiếng la to của thiếu úy Tiến:
- Báo cáo có đèn phía trước mũi.
Hạm trưởng hạm phó cùng lúc vội nâng ống dòm. Hạm phó ra vẻ sành sỏi:
- Làm gì có hàng đáy ở đoạn này, sáng tác mới chăng?
Tiếng lèn èn của hạm trưởng:
- Hai máy tiến hai.
Chiến hạm sựng lại rồi giảm dần tốc độ. Giọng thách đố của hạm trưởng vang lên:
- Nào! Ông chuẩn hạm trưởng sẽ tránh thế nào đây?
Tôi nâng chiếc ống dòm mượn của quan sát viên. Trong vùng lờ mờ phản ánh từ các vì sao, một hàng đáy chắn ngang mũi tàu. Thật khó mà quyết định cho chiến hạm lách qua phải hay trái. Càng mù tịt bên nào cạn bên nào sâu. Bên nào cũng đủ khoảng trống cho chiến hạm băng qua nhưng mũi thì đang hướng vào nửa phần bên trái.
Hạm phó ra lệnh cho tàu hướng qua phải. Chiếc ghe cột ở trụ thứ ba vừa lên đèn, cho thấy đang lắc lư dữ dội. Hạm phó cho lệnh ép sát cột cuối cùng. Những chòm cây có hình thù quái dị như vươn tay bám lấy con tàu. Sóng vỗ sạt sào khi ập lên bờ. Tôi run giọng:
- Hạm phó lái ghê quá!
Giọng Được kiêu căng:
- Vậy mới lên hạm trưởng được chứ!
Giọng càm ràm của hạm trưởng:
- Sao không đợi tàu đụng chìm rồi hãy thắp đèn! Mấy ông làm nghề hạ bạc ông nào cũng như ông nào, thích giỡn với tử thần!
Tôi dọ hỏi:
- Theo lời dặn của hạm trưởng Hảo trước đây, nếu thấy không thể tránh kịp hàng đáy cá thì cho tắt máy để tàu lướt qua. Sao ta không thể làm như vậy lúc này?
Trời quá tối, tôi không nhìn thấy nét mặt lúc ông giải thích:
- Đó không phải là giải pháp hay nếu ta xét còn đủ thì giờ để tránh cho dù tàu có phải ủi vào bờ. Đâm vào đáy cá, không chỉ dân thiệt hại mà chân vịt tàu cũng dễ quấn lưới. Để chân vịt quấn lưới là biểu hiệu của một hạm trưởng bất tài. Mắc cạn, tàu rút ra được nhưng làm mất lòng dân là khó lấy lại. Tôi thích các sĩ quan đặt câu hỏi. Thiếu úy Tiến có thắc mắc gì không?
- Thưa, tôi đã hiểu rõ, cám ơn hạm trưởng.
- Anh chưa rõ đâu. Ông hạm phó, hãy giải thích cho các sĩ quan hiểu vì sao anh chọn lách qua phải trong khi bên trái gần hơn?
Giọng nghiêm túc của Được vang lên:
- Tôi nhìn kỹ thì thấy bờ bên phải được chừa khoảng rộng hơn. Chừa như vậy hẳn là dành cho thương thuyền.
Hạm trưởng reo vui:
- Tôi cũng chọn bên phải, dù bên trái không có gì chứng tỏ mình không qua được. Nếu cạn, ghe câu đã cột bên trái để la hét hoặc quơ đèn báo động.
Tôi mỉm cười ngắm vầng sáng ở chân trời báo hiệu trăng sắp lên. Hạm trưởng nói vậy thì nghe vậy chớ chưa chắc mấy ông hạ bạc có hưỡn mà la hét báo động. Thậm chí đến việc đốt đèn trên ghe để bảo vệ sinh mạng chính họ mà họ còn không làm. Vài ngôi sao nhấp nháy xa thẳm bên trên nền đen của rặng cây. Tôi nghe hạm phó cho lệnh tăng máy. Anh vẫn giữ ống dòm dán chặt vào mắt. Khi đương phiên, tôi cũng phải làm như vậy. Không có gì khổ hơn là nhìn chằm chằm qua ống dòm trong bóng đêm mù mịt để tìm cái gì không biết được. Nhìn qua ống dòm, nhất là qua mưa đêm là cả một cực hình. Chỉ trong một thời gian ngắn mắt sẽ mõi đừ, đầu nhức như búa bổ. Tuy nhiên không ai dám rời ống dòm. Để chiến hạm lâm nạn đồng nghĩa với để hải nghiệp lâm… đại nạn! Nhưng tôi chưa lên phiên thì tội gì phải hành xác. Trăng sắp trải ánh vàng lên chiếc tàu thong dong như chiếc du thuyền. Không đi Hải quân thì làm sao tôi được hưởng những phút êm ả mộng mơ đến thế này.
Hạm phó cho giảm máy, ép sát chiến hạm vào bờ, nhường hải trình an toàn cho đoàn tàu kéo nhiều xà lan dài thường thược. Tiền Giang là thủy trình chính đưa lúa gạo tiếp tế thủ đô Sài Gòn và cũng là con sông huyết mạch đưa từng đoàn thương thuyền lên tận thủ đô Nam Vang. Đây còn là con sông bận rộn đêm ngày với những chiếc ghe chài chở khẳm đến gần chìm…
Mặt trăng tròn vạnh đã nhô lên khỏi chân trời, đang loang loáng chạy giữa các vòm cây. Đó là một hình ảnh lạ mắt so với khi trăng nhô lên khỏi mặt biển. Nhìn bao quát, quang cảnh đêm trăng ở đất liền đẹp hơn. Ở biển, ánh trăng chỉ tạo một đường sáng lung linh mờ ảo chạy dài tới chiến hạm, còn chung quanh chỉ là không gian mông lung đen tối. Trăng ở biển xa xăm và cô đơn. Trăng ở đất liền gần gụi và chia sẻ. Nó thắp sáng dòng sông. Nó xóa tan những hình thù quái dị. Nó che mờ các vì sao cho mây trắng hơn. Nó đưa vẻ man mác lên vùng trời bao la cho thêm nét êm ả, thanh bình.
“Thanh bình”, tôi thầm nhắc lại hai tiếng đó mà lòng chua xót. Mấy năm thanh bình của miền Nam đang dần tàn lụi trước quyết tâm nhuộm đỏ bằng máu đổ thịt rơi từ miền Bắc. Chỉ vì một một thế giới đại đồng không tưởng mà họ đan tâm gây cuộc huynh đệ tương tàn. Chỗ này, chỗ nọ đang thành mật khu, nơi dấu súng đạn. Họ công đồn đả viện, họ chơi chiến thuật biển người. Họ pháo kích trường học. Họ giật mìn xe đò. Họ đặt chất nổ lung tung. Đến bao giờ họ mới thấy lầm đường? Chừng đó biết tôi còn sống sót để lại được hưởng thanh bình?
Đột nhiên người tôi bị hất mạnh về phía trước, ngực va vào một góc cạnh nào đó đau điếng. Tôi ôm lấy chỗ đau, nhìn quanh quẩn. Tiếng hạm trưởng hét to:
- Hai máy ngưng.
Giọng đầy lo lắng của hạm phó:
- Bỏ mẹ, mắc cạn rồi!
Hạm trưởng cho lệnh máy lùi hết tốc lực. Chiến hạm khua động, run rẩy như con vậy khổng lồ bị mắc bẩy. Tiếng nước do hai chân vịt quay cuồng phát ra ào ào như thác đổ. Có hơn năm phút trôi qua mà đáy tàu vẫn bám đất không một chút lùi.
Hạm trưởng cho chuyển đổi máy tiến máy lùi, sai biệt vòng quay. Cách nào con tàu vẫn bướng bỉnh. Ông cho tắt máy, trách nhẹ hạm phó:
- Anh quẹo hơi sớm. Lẽ ra anh phải chạy thêm một đoạn nữa rồi mới cho quẹo. Ngoài ra, nếu anh để ý, anh sẽ nghe triệu chứng sắp mắc cạn mà bớt máy kịp thời.
Hạm phó ngượng nghịu bào chữa:
- Thưa hạm trưởng, quả là tôi không nghe một triệu chứng bất thường nào. Vả lại, mấy năm trước, tôi từng qua chỗ này, cũng cho quẹo như thế.
- Chúng ta ở mùa nước đổ, ngã ba này là chỗ đất bồi, mỗi năm một bồi thêm. Lại đi ban đêm cũng khó mà ước tính giữa dòng hay lệch dòng. Hơn nữa anh quên mất tàu đang chở đầy thiết vận xa. Đây là bài học cho các anh nhớ. Khi chở nặng và gặp nước ròng, chỗ nào nghi ngờ thì phải giảm tốc độ.
Ông nghiêng người nhìn xuống dòng sông và chợt reo lên:
- Không phải nước ròng. Tính ra, chúng ta đang trong mùa nước nổi, hay nói cách khác là mùa nước đổ. Nước đổ, lại gặp trăng rằm thì không lâu, nhiều lắm nửa tiếng là ta có thể lại lên đường.
Tôi không biết ông dựa vào đâu mà nói chắc như đinh đóng cột. Mùa nước nổi thì đang ở cuối mùa. Trăng rằm thì cũng chỉ là một yếu tố của thủy triều. Đúng ra ông phải lật sách Almanac. Hay là ông thừa kinh nghiệm về thủy triều vùng đồng bằng Cửu Long? Hạm phó yên lặng nhìn ánh trăng đã lên chênh chếch. Tôi đoán là anh đang bất mãn với lời khiển trách. Anh đâu phải là sĩ quan đương phiên. Xét theo hải quy về quyền thâm niên hiện diện, hạm trưởng là người lãnh đủ. Ông đang hiện diện trên đài chỉ huy cùng hạm phó, cùng không ghi nhận triệu chứng sắp mắc cạn, vậy mà lại quy lỗi cho hạm phó. Một người thì cầu toàn, trọng nguyên tắc. Một người thì lèn èn, đổ vấy đổ vá, thì e tương lai khó thuận buồm!
Lại giọng lè nhè của hạm trưởng:
- Thôi đừng buồn ông hạm phó ơi! Tôi báo cho anh tin vui. Không có sĩ quan hải quân nào trước khi thành hạm trưởng mà không “cho” tàu mắc cạn vài lần. Chấp nhận giang hành là chấp nhận mắc cạn. Chính tôi cũng một lần mắc cạn ngay ngã ba quái quỷ này. Ai lái ca 12 đến 4?
Tôi lên tiếng:
- Tôi, thưa hạm trưởng.
Giọng ông trở nên thân mật mà tôi nghĩ là quá muộn:
- Anh và hạm phó nên xuống nghỉ ngơi. Tôi sẽ lái qua khỏi sông Vàm Nao rồi giao cho hạm phó lái đến Trà Nóc. Sông Vàm Nao khó chơi lắm. Một là nước chảy xiết và xoáy, rất khó lái. Hai là đáy cá chăng chằng chịt, dễ bá vào.
Tôi bật đèn tìm vị trí chiến hạm trên giang đồ. Cục gôm tượng trưng cho con tàu đang nằm trên bãi bồi ở ngã ba sông Vàm Nao. Tôi tắt đèn, nhìn về hướng làng Hòa Hảo. Đất thánh địa đang im lìm bên dưới vùng ánh sáng tỏa rộng. Thời còn tiểu học, tôi được được ba tôi đưa đến viếng một lần. Tôi chỉ còn nhớ lối đi nhỏ trồng đủ loại cây kiểng dẫn đến Tổ Đình là một ngôi nhà gỗ khá rộng khang trang. Phía đối diện bên kia Vàm Nao là quận lỵ Chợ Mới cũng đang im lìm bên dưới vòm trời ửng vàng.
Tôi nhìn đồng hồ. Hai cây kim chỉ số 22:54. Gần mười một giờ khuya. Còn một tiếng nửa mới nhận ca. Có lẽ cũng nên xuống kiếm cái gì dằn bụng và làm một ly cà phê cho tỉnh ngủ. Hạm trưởng đã ngửa người trên chiếc ghế tựa êm ái của ông. Sĩ quan đương phiên và các nhân viên vẫn đặt ống dòm quan sát. Tôi và hạm phó lặng lẽ rời đài chỉ huy. Qua phòng ăn sĩ quan, tôi bước vào và anh đi thẳng về phòng riêng.
Tôi mở tủ tìm gói mì trước khi bắt ấm nước và pha bình cà phê mới. Tôi ngồi bụm mặt định thần cho đến khi còi ấm nước báo sôi. Tôi vừa ăn mì vừa liếc qua xấp công điện. Không có tin tức gì đặc biệt cho chiến hạm, nhất là cho tôi. Vẫn mịt mờ tin thuyên chuyển.
Tôi hút chưa hết điếu thuốc, nhâm nhi vừa được nửa tách cà phê thì nghe tiếng máy khởi động. Tôi thấy hạm phó lướt qua cửa chắc là đang lên đài chỉ huy. Đúng ra anh không cần phải làm thế. Hạm trưởng đã cho phép anh nghỉ ngơi. Nhưng tôi cũng sẽ làm như anh. Có ai “để” tàu mắc cạn rồi tỉnh bơ ngủ khi tàu đang cố gắng ra khỏi chỗ cạn. Vả lại, trong mọi trường hợp, hạm phó phải luôn luôn sát cánh với hạm trưởng để học hỏi và để thay ông khi cần. Một lý do khác, quan trọng hơn là có đến 80% cơ hội được lên hạm trưởng là do lời phê tốt của đương kim hạm trưởng! Tương tự, tôi có lên hạm phó hay không cũng tùy lời đề nghị của… hạm phó. Tôi uống ngụm cà phê chót, rít vài hơi thuốc cuối cùng. Vừa chạy trên các bậc thang, tôi vừa thầm phục kinh nghiệm của hạm trưởng. Ông tính toán đúng. Nước chảy xuôi ra biển nhưng nước vẫn dâng cao nhờ trăng rằm.
Tôi lên đến đài chỉ huy vào lúc con tàu bắt đầu quay mũi để xuôi dòng Vàm Nao. Mùa nước nổi, nước sông Tiền đổ dồn vào Vàm Nao tuôn ra sông Hậu. Chiến hạm đi xuôi dòng, tay lái mất đi nhiều hiệu tác, càng khó lái. Hạm trưởng đứng cánh mặt, hạm phó cánh trái của đài chỉ huy. Tôi đứng giữa, cạnh thiếu úy Tiến. Hai mươi phút nữa tôi thay Tiến.
Con tàu đã nằm xuôi theo dòng. Hạm trưởng giữ máy tiến hai. Chẳng bao lâu nó như lạc vào một rừng đèn, rừng cọc chừng như không có lối ra. Các hàng đáy được chăng ngang theo thế… cài răng lược. Vì vậy chiến hạm phải tốn thêm thì giờ chạy theo đường zigzag.
Sông Vàm Nao ngắn, chưa đầy tám cây số nhưng rộng và sâu. Rộng có đến gần cây số và sâu trung bình 17 thước. Tám cây số thì mất chừng nửa tiếng nhưng với cái trận đồ rắc rối này, không chừng phải cần cả giờ. Tiếng hạm trưởng vang lên trong không gian căng thẳng, lặng lờ:
- Hạm trưởng giao quyền chỉ huy cho hạm phó.
Tiếng Được khô khan:
- Đáp nhận.
Hạm trưởng trở về ghế ngồi nhưng thỉnh thoảng đặt ống dòm và nhắc nhở. Tôi hồi hộp theo dõi lệnh hạm phó đưa ra và phản ứng của con tàu.
- Quê thiếu úy Bằng ở đâu?
Câu hỏi bất ngờ của hạm trưởng làm tôi giật mình:
- Dạ, Châu Đốc.
- À, vậy là láng giềng gần! Có câu ca dao này rất … tình: ”Ngó lên Châu Đốc. Ngó xuống Vàm Nao. Sóng bổ lao xao. Anh thương em ruột thắt, gan bào. Biết em có thương lại chút nào hay không?”. Và câu này còn tình hơn nữa: “Ở trên Châu Đốc, ngó xuống Vàm Nao. Thấy con cá đao nó nhảy nhào vô lưới. Anh ngồi chắc lưỡi. Không biết chừng nào mới cưới đặng em.” Thiếu úy Bằng có thương ai ở Vàm Nao chăng?
- Dạ không!
Tôi muốn thêm “ thương toàn là dân miền Trung” nhưng thấy không thích hợp.
Hạm trưởng lại tiếp:
- Với tôi, câu ca dao phải đổi Châu Đốc thành Chợ Mới. “Ngó qua Chợ Mới. Ngó lại Vàm Nao…” Bà xã tôi là dân Vàm Nao. Cũng nhờ vậy tôi biết một ít chuyện Vàm Nao. Tôi kể, nhưng không được phân tâm lái tàu.
Chúng tôi nhìn về phía trước, tai lắng nghe nhưng ông chưa kể. Dường như ông đang sắp xếp chuyện trước chuyện sau. Một lúc, lối nói ề à vang lên:
- Đầu tiên, tôi cần báo động rằng, những gì tôi sắp nói, tôi nghe từ thời còn học trò, thời còn qua lại Vàm Nao chơi cò cò với… bà xã! Tam sao thất bổn, kể lại không có gì bảo đảm như đã nghe. Các anh nghe qua rồi… coi lại sách vở!
Ông lại ngưng, chậm rãi châm điếu thuốc, rít vài hơi. Cái lối rề rà của ông làm tôi nổi cơn… thèm thuốc lá.
Tôi cũng châm một điếu, vừa lúc tiếng còi đổi phiên vang lên. Tôi nhận phiên nhưng thiếu úy Tiến vẫn đứng chỗ cũ. Có lẽ anh cũng muốn nghe ông hạm kể chuyện Vàm Nao.
- Rất xa xưa, con sông này chỉ là con lạch nhưng do nhiều đàn voi di chuyển dẫm lên làm con lạch lớn dần. Rồi nước sông Tiền mùa lũ đổ tuôn qua sông Hậu làm bờ sạt lở rộng thêm. Ở đầu Vàm, phía sông Tiền, tức là gần nơi mình mắc cạn, nước xoáy mạnh nên nhiều cá lớn dữ dằn tập trung về đấy. Nhưng vì là thủy trình ngắn nhất nối sông Tiền sông Hậu nên ghe thuyền tấp nập đi qua. Nhiều ghe không may bị nước cuốn chìm và khi ghe chìm thì ít ai được sống sót. Khi nghe kể lại, không ai không nao lòng. Thuận tình, người ta đặt luôn là Vàm Nao.
Ông lại ngưng khi hạm phó ban lệnh vận chuyển tránh một đợt nhiều ghe chài đi ngược chiều. Trên mui ghe, đèn hải hành tỏ rõ, một bên là ngọn đỏ, một bên là ngọn xanh trông như một đoàn tàu. Không như trên sông Bồ Đề – Cửa Lớn, đa phần là ghe đánh cá, sông Vàm Nao dầy đặc đủ loại ghe tàu. Đôi khi có thêm những chiếc thương thuyền bề thế.
- Về nước xoáy, từng có ca dao cảnh giác: “Thuyền xuôi Châu Đốc, thả xuống Vàm Nao. Thẳng tới Ba Sao, coi chừng con nước đẩy”. Đến ông Bùi Hữu Nghĩa cũng phải ghi thành thơ: “Núi Sập sấm rền vang tiếng muỗi. Vàm Nao nước chảy đứt đuôi xà”. Còn về cá, cũng đã có câu: “Chiều chiều quạ nói với diều. Cù lao Ông Chưởng có nhiều cá tôm”. Đầu cù lao Ông Chưởng chính là Sông Vàm Nao. Huyền thoại về cá thì có nhiều. Như ngày xưa người ta nói Vàm Nao có lắm cá mập, cá sấu mà bây giờ không còn thấy. Lại còn có cá Nược biết nghe tiếng người, thường nổi lên lội đua với lũ trẻ tắm sông, khi đám trẻ ngổ ngáo lên tiếng thách đố. Ngày nay vẫn còn một số cá khổng lồ. Như cá Vồ, cá Tra dầu, có con nặng tới ba trăm ký. Một loại khác nhỏ hơn, có con nặng hai trăm ký, được mệnh danh là vua của những loại cá và được dân nhà nghề và gan dạ ưa thích lùng bắt. Chỉ cần bắt được một con trên trăm ký là vài tháng sống phây phả. Nó được đặt tên cá Hô có lẽ do cái miệng hô quá cỡ. Thịt nó rất ngon, chuyên trị lẫu “tả pín lù” và món cá xào với khóm. Đặc biệt nhất là cái bong bóng của nó, dân nhậu khó bỏ qua. Nổi danh không thua cá Hô là loại cá không có đối thủ dành cho món canh chua, ngon đến đổi người ta đua nhau đánh bắt đến gần tuyệt chủng. Loại cá này lớn nhất chừng mười lăm ký, có đặc điểm là khi còn sống chẳng những không tanh mà lại tỏa mùi thơm. Vảy có màu trắng bạc long lanh giống màu cỏ bông lau nên được đặt tên là cá Bông Lau. Một điểm khác khá lạ lùng là người ta chưa bao giờ đánh bắt được một con cá bông lau nào có chửa, hoặc tìm thấy trứng của chúng…
Ít nhiều cảm tình bắt đầu hình thành trong tôi. Cái vẻ bề ngoài lè phè xem ra chẳng đại diện chút nào cho cái bộ óc tưởng chừng chứa cả một kho tàng kiến thức miệt vườn. Tôi cũng sinh trưởng gần Vàm Nao như ông mà giỏi nhất cũng chỉ biết tên con sông và vài loại cá. Thậm chí còn không biết các giống cá này là sản phẩm của Vàm Nao. Lại càng không biết xuất xứ tên của chúng. Nói chi chuyện ca dao với huyền thoại… Tôi thấy mừng là rồi đây sẽ được ông cho biết thêm những chuyện dân gian của vùng sông nước Cửu Long.
Hạm trưởng ngưng kể, nhìn chăm chăm về phía trước. Vành trăng vằng vặt giữa vài đám mây đen chiếu xuống mặt sông tạo thành một đoạn rực vàng như xuyên qua lớp nước phù sa, như khuếch tán đủ soi hai bức tường đen chạy dọc hai bên bờ. Các hàng đáy đã thưa thớt. Hạm phó cho lệnh tăng máy. Anh bảo tôi:
- Đoạn nguy hiểm nhất đã qua, từ đây Thiếu úy Bằng lái được rồi.
- Đáp nhận.
Tôi lên tiếng mà lòng cảm thấy bất an. Các hàng đáy có thưa bớt nhưng nhất định là không có nghĩa nguy hiểm đã qua. Tôi ít có kinh nghiệm giang hành trên những dòng sông chộn rộn. Các hàng đáy thưa bớt cũng có nghĩa ghe tàu tăng tốc nhanh hơn và khó tránh hơn. Tôi nhìn hạm trưởng hạm phó mỗi người một cánh đài chỉ huy và mỉm cười trấn an. Hai bên tôi đang được cả hai xếp tả phù hữu bậc, thì lo chi cho mệt!
Mũi tàu đang hướng vào phần cuối của hàng đáy chạy dài sát bờ bên mặt nhô quá nửa sông. Tôi cho lệnh hướng qua trái, dùng độ nghiêng bánh lái nhiều hơn bù trừ xuôi dòng. Con tàu từ từ vượt sát cột ngoài cùng, bỏ trọn hàng đáy về bên tay mặt. Giữ thẳng con tàu giữa dòng được một lúc thì một hàng đáy khác hiện ra, đa phần nằm hướng bờ bên trái. Tôi lại ra lệnh cho tay lái nhiều về bên mặt để vượt qua. Trong cái lấp lánh bàng bạc của mặt nước, cây cột ngoài cùng của hàng đáy vươn lên khá rõ khiến tôi dần dần tự tin hơn và bắt đầu thấy thích thú. Giang hành ban đêm có khổ cực nhưng đó lại là một trắc nghiệm sinh động về khả năng hải nghiệp.
- Mình đang ở đâu, thiếu úy Bằng?
Tôi giật mình trước câu hỏi bất ngờ. Trong sông và ban đêm, làm sao biết chắc mình đang ở đâu! Chỗ nào cũng hình thù quái dị, chỗ nào cũng lem nhem như chỗ nào! Không có núi đồi, không có hải đăng thì lấy gì đo hướng. Vậy thì chỉ còn cách phỏng định. Căn cứ theo thời gian từ lúc ra chỗ cạn đến giờ là gần một tiếng, thì chắc cũng sắp đến cuối sông. Tôi nhìn phía mũi. Mặt sông còn mênh mang, tít mờ. Tôi chợt để ý vùng trời ửng sáng ở phía xa chếch sau tả hạm. Chắc chắn là đèn của quận lỵ Chợ Mới. Tôi bước vội đến chiếc la bàn, quay do hướng vùng sáng rồi kẻ lên giang đồ. Tôi nói:
- Thưa hạm trưởng, một hải lý nửa sẽ gặp sông Hậu giang.
- Cám ơn anh.
Thật hú vía, suýt nữa là bị chê trách. Hơn thế nữa, trường hợp này, câu “cám ơn anh” còn ngầm ý là lời khen. Thì cứ cho là thế, cho sướng!
Tôi cho lệnh quẹo trái để vào sông Hậu. Chiều rộng của khúc sông này cũng cỡ Vàm Nao, cũng nhiều hàng đáy cá nhưng không “loạn”. Tất cả gần như nằm một bên, y như trên sông Bồ Đề và Cửa Lớn. Một thủy trình được dành sẵn khá thênh thang. Những sợi thần kinh căng thẳng chợt chùng hẳn đi. Tôi bật đèn, lấy compa đo khoảng cách, phỏng định tốc độ. Con tàu sẽ đúng hẹn, không tệ! Máy cũng chỉ mới tiến ba, nếu cần thì tiến bốn. Nhưng chắc khó tiến bốn. Sông đổi khúc thì tiết trời cũng đổi thay. Mây đen bắt đâu kéo về nhiều hơn, rủ nhau từng lúc che mờ ánh trăng. Giọng rề rà của hạm trưởng:
- Đừng có mưa nghe ông. Ông mà mưa là hại nhau đấy!
Tôi ráng hiểu ngụ ý của câu nói. Radar không có mà gặp mưa to thì chỉ còn nước neo nghỉ! Neo nghỉ thì sẽ trễ nãi. Tôi dọ dẫm:
- Thưa hạm trưởng, gặp mưa, chắc là đến không kịp giờ.
Ông gật đầu, hờ hững đáp:
- Thì chắc cũng phải “lết” đến đâu hay đến đó. Neo tàu tránh mưa, mấy tay thiết giáp cười cho thúi đầu… Mà tàu mình đang đến đâu rồi thiếu úy Bằng?
- Thưa vừa vào sông Hậu.
- Tốt, mình sẽ đúng hẹn và phải đúng hẹn! À này, như ở đoạn sông này, anh làm sao định vị trí chiến hạm?
Tôi nhìn hai bên bờ. Trăng đã biến vào đám mây tạo mỗi bên bờ một dãy tường đen kịch. Tôi lại dọ ý:
- Thưa hạm trưởng, căn cứ vào thời điểm tàu vào sông Hậu rồi phỏng định theo tốc độ xuôi dòng…
- Đó là cách… ẩu nhất! Trên giang đồ có ghi các điểm mốc đặc biệt để định vị trí. Chuyến về tôi sẽ chỉ cho, nếu anh muốn học.
Cái lối nói nghe thật sóc hông nhưng tôi cũng đành lả dả:
- Muốn quá. Cám ơn hạm trưởng.
Cảm giác hân hoan sắp học được điều mới lạ gây tôi thèm nhớ mùi thuốc lá. Tôi mò túi tìm kiếm.
- Anh cho tôi một điếu. Tôi hết thuốc mà làm biếng xuống phòng.
Tôi kéo nhô ra một điếu, đưa gói thuốc qua mời. Ông rút một điếu đưa lên môi. Tôi quẹt que diêm. Que diêm chưa cháy thì nghe tiếng ông la:
- Thuốc hiệu gì mà hôi dữ! Trả lại anh.
- Dạ, Bastos xanh quân tiếp vụ, thưa hạm trưởng.
- Hèn gì. Xem ra anh ghiền nặng.
- Thưa không. Chẳng qua muốn tiết kiệm.
- Anh còn trẻ mà biết tiết kiệm là tốt. Anh tính chừng nào lập gia đình?
Tôi ngần ngừ. Nếu câu hỏi là của ông hạm tiền nhiệm, tôi sẽ tâm sự ngay về kế hoạch năm năm nhưng tôi không muốn nói với ông này. Từ ngày đầu không mấy thiện cảm khó gây trong tôi sự hứng thú kể lể. Tôi đáp qua loa:
- Thưa chưa có ý gì về việc đó.
- Tại anh chưa gặp người vừa ý. Nếu gặp, nhất định là muốn cưới ngay, như tôi. Nhưng cưới vợ sớm nhiều khi cũng… kẹt. Ở đời mà, sau khi mình gặp một người vừa ý, thì mình thường thấy có người khác… vừa ý hơn! Năm ngoái, tàu công tác Châu Đốc, tôi gặp một cô thật vừa ý. Cô cũng dành cho nhiều cảm tình. Thế rồi, sau khi rời Châu Đốc, tôi không dám trở lại. Biết chắc rằng, nếu trở lại là sẽ… bỏ vợ. “Thương em Bảy Núi cũng trèo. Ghét em núi Két vượt đèo cũng không!”
Ông cười sảng khoái. Tiếng cười dòn tan, đôn hậu. Tôi mím môi chúm chím cảm thông. Ông chỉ mới gặp hai “vừa ý”, còn tôi, có đến ba và xem ra cô nào tôi cũng… vừa ý hơn hai cô còn lại. Và cũng không muốn bỏ cô nào!
Suốt gần một năm qua, mỗi tuần, tôi vẫn viết đều đều cho Hồng một lá thư cho dù hơn nửa năm qua Hồng không trả lời lá thư nào. Trong lá thư cuối cùng Hồng có gợi ý rằng chắc không duyên nợ nên Hồng xin ngưng mọi liên lạc. Ban đầu tôi cứ ngỡ Hồng nói đùa, chắc Hồng muốn trừng phạt tôi về cái tội ngày xưa sáu tháng không viết thư. Nhưng sau ba tháng không thư, tôi bắt đầu sốt ruột. Tôi mong tàu có dịp ghé Nha Trang nhưng tàu còn mãi mê đi các vùng khác.
Trong cùng thời gian đó, qua những giây phút… yếu lòng, tôi đã hai lần viện cớ đến chơi với Dũng để xem dung nhan đó bây giờ ra sao! Hiền đã dành cho tôi ánh mắt nồng nàn và cả hai lần tôi đều thấy vắng bóng Thanh. Thế là tôi vô cùng hạnh phúc và cố đè nén khát khao muốn trở lại…
Tôi cũng đã hai lần đi tìm Tuyết, ở Hollywood Snackbar và cả ở nhà nàng nhưng cả hai nơi đều không gặp. Nhưng tôi chưa tin là Tuyết muốn vĩnh biệt thật. Tôi vẫn tin là sẽ gặp lại nàng. Cái khổ nhất của tôi là mối lần cầm đọc quyển “Ý thức mới…”, tôi vẫn không sao tránh khỏi nhớ đến cái đêm cuối cùng gặp Tuyết. Dĩ nhiên cũng khó mà tránh không mường tượng cái vóc dáng tuyệt mỹ trần trưồng và những động tác hiến dâng cuồng dại…
- Báo cáo có một ghe ngay trước mũi tàu.
Tôi giật nẩy người nghe tiếng hét của quan sát viên. Hạm trưởng phóng khỏi ghế. Hạm phó chồm người quan sát rồi la to:
- Tay lái hết bên phải. Hai máy tiến hai… Hai máy tiến một…
Chiến hạm quay nhanh mũi vừa kịp bỏ chiếc ghe bên tả hạm. Chiếc ghe chồng chành dữ dội, lùi dọc theo hông tàu. Tiếng hạm trưởng hối hả:
- Bên trái hết! Hai máy ngưng!
Tôi đặt ống dòm, tim đập thình thịch. Chiếc ghe quá nhỏ, ánh trăng quá mờ. Dường như có hai hoặc ba người trên ghe. Họ thoát chết hai lần trong đường tơ kẻ tóc. Tàu tránh kịp thời nên không cắt ngang chiếc ghe. Chân vịt ngừng đúng lúc nên chiếc ghe thoát khỏi sóng quậy chìm. Hạm trưởng đích thân nắm cần đèn pha, chớp chớp kêu ghe cặp vào tàu. Ông bảo tôi thủ khẩu đại liên. Khi chiếc ghe kè sát bên dưới đài chỉ huy, hạm trưởng nói như quát:
- Bộ không muốn sống sao mà sấn ngay mũi tàu?
Ánh đèn pha cho thấy trước mũi là một cụ già gầy gò, sau lái là một gã trung niên. Một người đấp mền nằm giữa ghe. Cụ già đứng khoanh tay trong dáng diệu khúm núm, ngước nhìn lên, miệng lắp bắp:
- Quan lớn thương tình, quan lớn thương tình, chúng tôi không thấy…
Hạm trưởng bực bội hỏi tới:
- Giờ này mà ghe đi đâu? Làm giao liên hả?
Cụ già còng lưng, chấp tay xá:
- Quan lớn thương tình, con gái tôi nó đạp trúng lựu đạn, tôi mãi lo chạy hết ga đi nhà thương nên không nghe tiếng tàu…
Ông cụ nói xong bảo gã trung niên giở phần mền ở chân người đang nằm. Chiếc quần dài đen rách lỗ chỗ dính đầy máu. Ông hạm trưởng bảo một nhân viên chạy xuống kêu sĩ quan cơ khí cho mở cửa đổ bộ và bảo quan sát viên còn lại kêu y tá sẵn sàng băng bó thuốc men. Ông bảo gã trung niên chờ, khi có lệnh cho ghe chạy đến mũi tàu. Ông nhờ hạm phó xuống trông coi việc cứu giúp và báo cáo tình trạng thương tích. Hạm phó rời đài chỉ huy. Hạm trưởng quay qua tôi:
- Cố gắng giữ tàu tại chỗ…
Ông dõi mắt xuống cửa đổ bộ. Tôi nhìn quanh, xác định vị trí. Con tàu đang xuôi giữa dòng và sớm muộn sẽ trôi vào hàng đáy xa xa trước mũi. Tôi nhẩm một đặc tính của con tàu: “Khi lùi, lái tàu lên hướng gió”. Gió hiện tại thật nhẹ đến không đủ mát. Tôi nhìn lên lá cờ đang cuốn tròn. Vậy cho hai máy lùi, tay lái số không là coi như lùi thẳng, tàu vẫn giữa dòng. Đợi một lúc, thấy hàng đáy đã khá gần, tôi ban lệnh. Có tiếng máy khởi động. Thân tàu hơi run rẩy. Chiến hạm vừa bắt đầu lùi, tôi cho ngưng máy. Vậy mà cái trớn cũng đủ qua khỏi chiếc ghe một đoạn ngắn. Hạm trưởng khen:
- Được lắm, được lắm! Cứ tiếp tục như vậy.
- Nhận rõ!
Cửa đổ bộ vừa hạ, hạm trưởng chớp đèn vào ghe và vào mũi chiến hạm. Chiếc ghe nhanh chóng, êm xuôi cặp vào. Anh y tá tiếp tay gã trung niên nâng người đàn bà bị thương vào phòng cấp cứu. Các binh sĩ thiết vận xa tò mò nhốn nháo, cố nhìn vào. Một lúc sau, hạm phó trở lại trình hạm trưởng sự việc. Một bàn chân bị nát, hai ống chân bị nhiều vết thương. Y tá đã tạm băng bó không còn ra máu. Người bị thương còn tỉnh. Y tá cũng chích mũi thuốc giảm đau.
Hạm trưởng trầm ngâm rồi ra lệnh đưa gã trung niên lên đài chỉ huy. Gã là chồng của nạn nhân. Ông đề nghị chiến hạm giúp đưa đi nhà thương nhanh hơn. Người chồng cùng đi theo tàu. Khi đến Long Xuyên một giang đỉnh và xe hậu cứ sẽ chờ đưa nạn nhân lên bệnh viện. Người chồng vui mừng chấp tay xá. Hạm trưởng khoát tay, bảo gã đi xuống báo sự việc cho cụ già.
Vài phút sau ông cho lệnh đóng cửa đổ bộ và cho tiến máy. Trước khi rời xa chiếc ghe, hạm trưởng nói vói một lời, nửa cà rỡn nửa nghiêm túc với cụ già đang ngẩn nhìn theo tàu:
- Cụ ơi! Cụ ở lại mạnh khỏe và làm ơn từ nay bỏ dùm cái kiểu “bẩm cụ lớn, bẩm quan lớn”. Xưa quá rồi! Tây nó về nước hết rồi!
Dứt lời ông vẩy tay từ giả, cất tiếng cười dòn. Tôi không chắc cụ già có nghe có thấy được gì không! Nhưng riêng tôi, tôi nghe nhiều cảm kích dâng tràn dù rằng tôi chẳng nhận gì từ tấm lòng nhân ái của ông…
VŨ THẤT
(Xem tiếp chương 13)
Bài nầy đăng lần đầu vào lúc 02:19:48 PM, Mar 08, 2012
* * *
Chương 1, 2 & 3
Chương 13, 14, 15 & Chương kết
* * *
Xem bài khác cùng tác giả: click vào đây
Xem trang Hải Quân VNCH: click vào đây
Trở về trang chính: www.nuiansongtra.net