NĂM NGỌ, TẢN MẠN CHUYỆN NGƯA TRONG THI VĂN
Trương-Quang
Thời-gian thấm-thoát trôi nhanh như “bóng câu qua cửa sổ. “Xuân trước vừa qua mới độ nào”, hôm nay mùa Xuân năm 2002 theo dương-lịch lại đến. Cũng ngay vào lúc nầy, nơi cố-hương Việt-Nam và các nước phương Đông hân-hoan đón mừng Tết Nguyên-đán là điểm mốc thời-gian để tống tiễn năm cũ Tân-Tỵ và nghênh-đón năm mới Nhâm-Ngọ.
Từ 4.000 năm trước, tiền-nhân đã có nhận-thức về vũ-trụ và nhân-sinh đều vận-hành tuần-hoàn, luân-chuyển không ngừng theo vòng tròn khép kín. Ý-niệm nhất-quán đó cũng được áp-dụng vào cách đo đếm thời-gian theo chu-kỳ 60, bằng hệ-số 12 địa-chi phối-hợp với 10 thiên-can. Như tên năm Nhâm-Ngọ, Nhâm là thiên-can và Ngọ là địa-chi.
Giản-lược hơn, người bình-dân chỉ cần nhớ cứ 12 năm là một giáp, mỗi năm có 12 tháng (tháng 5 là tháng Ngọ), mỗi ngày đêm có 12 giờ (giờ Ngọ là giữa trưa). Để dễ nhớ hơn, tiền-nhân lại gán tên một con thú cho mỗi địa-chi của năm, rồi mặc-nhiên tên con thú trở thành biểu-tượng cho từng năm.
Thử nhìn qua dung-mạo của 12 con giáp: Tý là chuột, Sửu là trâu, Dần là cọp, Mẹo là mèo (Trung-hoa gán cho thỏ), Thìn là rồng, Tỵ là rắn, Ngọ là ngựa, Mùi là dê, Thân là khỉ, Dậu là gà, Tuất là chó, Hợi là heo. Tuấn-tú, linh-hoạt nhất phải là con ngựa. Cái vốn trời cho con ngựa khá tốt mã: tai nghênh phong, bờm dựng thẳng, bốn chân rắn chắc loại “trường túc bất tri lao”, ngực nở bụng thon, theo sau là đuôi dài óng mượt. Lông đuôi ngựa dùng làm dây kéo đàn cò, đàn vĩ cầm, phát ra tiếng réo-rắc. Thế nhưng lại có điều nghịch lý trong câu tục-ngữ: “Tuổi Ngọ khó lấy chồng”, chẳng lẽ con tạo đánh ghen với cái đẹp sao?
Miền thảo-dã Phi châu, từng bầy ngựa vằn (Zebra) vẫn chiến-đấu và sinh-tồn giữa giang-sơn của loài chó sói, cọp beo và sư-tử.
Ngựa nhà tuyền một màu, lông sáng trắng như bạc là ngựa kim, trắng mịn-màng như lụa là ngựa bạch, lông đen láng như quạ là ngựa ô. Hàng thứ cấp trong 12 con giáp phải tránh gọi đi, như là màu đen của mèo thì mèo mun, chó mực; màu trắng là chó cò; có sọc rằn-ri là chó vện... Màu-sắc có làm nên con ngựa không, hay là:
* Bạch Mã Phi Mã.
Công-Tôn-Long, một biện-giả nổi tiếng trong bách gia chi tử tghời Chiến quốc (khoảng 300 năm trước Tây lịch) đã xây-dựng một học thuyết trên 21 tiêu đề còn được lưu-truyền đến nay, nhiều người cho là ngụy-biện.
Nhân đây, xin nhắc lại một luận thuyết tên là “Bạch mã phi mã” (ngựa trắng không phải là ngựa). Thiên Bạch mã, sách Công-Tôn-Long tự có nói: “Ngựa là dùng để chỉ cái hình vậy. Trắng là dùng để chỉ cái sắc vậy. Tìm ngựa thì ngựa vàng ngựa đen đều có thể được. Tìm “ngựa trắng” thì ngựa vàng ngựa đen không thể được Ngựa đã chọn vào màu-sắc thì không còn là ngựa”.
Rõ-ràng đây là một chủ điểm triết-học trong phạm-trù yếu tính của sự vật, cần phân-biệt giữa bản-thể và thuộc tính. Tổng-thể dung-nạp được đặc-thù nhưng lấy đặt-thù làm tổng-thể là loại-trừ tổng-thể như sơ-đồ trên đây.
Theo phép diễn-dịch, ta có thể phát-biểu trường-hợp làm người ly-hương của chúng ta: sinh vật biết nhớ cội nguồn. Như vậy, con người đứng trong sinh vật và đứng trên mọi sinh vật.
Ngày xưa, tiền nhân ta mang chim trĩ sang nộp cống cho Tàu, nó được nuôi và quý trọng trong vườn ngự-uyển. Con chim gốc Việt ấy chỉ đậu và làm tổ ở cành phương Nam để ngóng về cố-hương. Ngựa “Hồ” là ngựa hay ở Mông-cổ, được đưa về Tàu cho các nhà quyền-quý.
Cứ mỗi khi nghe hơi gió Bắc từ thảo-nguyên thổi đến, ngựa hồ bỗng nghểnh cổ hí vang như tiếng kêu than ray-rứt vì nỗi nhớ quê: “Việt điểu sào Nam chi, hồ mã tê Bắc phong”, huống chi là người.
Tiếng ngựa hí vang dài như tiếng còi xe cứu hỏa, cùng với bộ răng “cuốc bàn” trắng nhỡ, nhe ra để đe-dọa, thật ra bộ răng loài ăn cỏ không có sở-trường cắn xé như răng loài ăn thịt. Cách chiến-đấu tự-vệ của ngựa là ngọn cước độc chiêu mạnh như sấm sét, đá ngược ra sau. Ai cả gan rờ dái ngựa là được lãnh đủ cú đá nghịch lân làm bể mặt bung sườn, nếu trúng vào hạ bộ thì xem như đi đoong cái vưu-vật truyền giống.
Từ 4,000 năm trước, khi con người đã thuần-hóa được ngựa thì từ đó con vật đa năng đa hiệu nầy được dùng kéo cày bừa trong nông-nghiệp, kéo xe độc mã, song mã, tứ mã, ... trong vận-chuyển và là bạn sống chết với người chiến-sĩ trên trận địa. Đã làm thân trâu ngựa con người còn che hai bên mặt ngựa, buộc nó chỉ thấy được một lối đi trước mặt, cho ngựa quen đường cũ, dùng vào kéo xe theo mãi một lộ-trình.
Tùy theo nhu cầu, con người đóng thêm móng sắt vào bàn chân ngựa, đặt yên trên lưng, tròng dây cương vào mõm, đeo lục-lạc đồng quanh cổ. Tiếng vó ngựa gõ dồn-dập trên mặt đường hòa với tiếng lục-lạc rổn-rảng reo vui làm nức lòng người, dễ gây phấn-chấn, tăng thêm nhuệ-khí.
Trải qua nhiều thế-kỷ, quân kỵ mã là vua bộ chiến, thường áp-đảo đối-phương. Vó ngưa quân Nguyên Mông từng làm khiếp-đảm và khuất-phục nhiều dân-tộc trên lục-địa mênh-mông từ Á sang Âu. Đoàn quân bách chiến bách thắng nầy phải chùn bước xâm-lược trước dải đất nhỏ-nhoi bởi hai lần thua đậm dưới sức phản-công vũ-bão của quân dân Nam Việt do Hưng-Đạo Đại-Vương Trần-Quốc-Tuấn thống-lãnh. Tên Người ngời sáng trên tự-điển danh-nhân thế-giới, với chiến công bẻ gãy danh-hiệu vô-địch của quân Nguyên.
Tài-năng con ngựa còn ảnh-hưởng sâu đậm đến thời-đại cơ-khí sau thế-kỷ 19, như gọi tên xe lựa là Iron horse, xe ô-tô là horseless carriage và đến nay vẫn đo công-suất bằng HP (horse power) tức mã-lực. Gần đây, trong đệ nhị thế chiến, Nga-xô đã sử-dụng hơn 1 triệu con ngựa vào mặt trận; cùng lúc ấy Hoa-Kỳ sử-dụng 50 ngàn con ngựa, là số-lượng ngựa khiêm-tốn nhất được dùng đến trong các nước lâm chiến.
Chiến mã gắn-bó vào sinh-mệnh của chiến-binh nên danh tướng Mã-Viện tức Phục-Ba tướng quân đời Đông-Hán đã để đời một câu bất-hủ: “Trương-phu đương mã cách khỏa thi, ninh khả tử nhi nữ, tử chi thủ hồ? (bậc trượng-phu nên lấy da ngựa bọc thây, há lại chịu chết trên tay của đàn-bà sao?). Lễ thôi-nôi cho bé trai, có cúng con ngựa đất và cái cung cây dâu bắn tên cỏ bồng ra 8 hướng (tang-bồng hồ thỉ) là thể-hiện chí-hướng làm trai đó cho đứa bé.
Trong “Chinh-phụ-ngâm khúc” bằng Hán văn của Đặng-Trần-Côn, bản dịch nôm của bà Đoàn-Thị-Điểm có mấy câu thật hào-hùng:
Chí lám trai dặm nghìn da ngựa,
Gieo Thái-sơn nhẹ tựa hồng mao
Giã nhà đeo bức chiến bào
Thét roi cầu Vị ào-ào gió Thu.
Chàng vốn kẻn trai, ngồi trên ngựa càng oai phong tuấn-tú khác nào Triệu-Tử-Long trên trận Trường-Bản. Mô-phỏng phong-cách đó, cụ Nguyễn-Fdình-Chiểu vẽ nên chân-dung Lục-Vân-Tiên:
Vân-Tiên đầu đội kim-khôi,
Tay cầm siêu bạc mình ngồi ngựa ô
Một mình nhắm trận xông vô...
Bất kỳ loại ngựa nào, dù ở Nam hay Bắc bán-cầu, ngựa đều giống nhau về cách chạy, theo quán-tính bẩm-sinh, từ cách đi thong-thả đến phóng như tên; đó là nước tế, nước kiệu và nước phi (the three natural gaits of a horse: the walk, the trot, the galop).
Ở nước ta ngày trước, các nhà quyền-quí và giàu-có thường nuôi ngựa nên các cậu ấm, cô chiêu sính cỡi ngựa tốt; giống như ngày nay thích lượn Dream II, lái Mercedes để khoe mẽ. Đến buổi giao-thời, lớp người nay ngoài lục tuần, có mấy ai đã từng cỡi ngựa? nếu không do sự tình-cờ hay một cơ-duyên được cỡi ngựa, như câu chuyện:
Nó Cỡi Ngựa.
Dịp Hè năm 1958, nó được thằng Quảng là bạn học cùng khoa rủ về chơi nhà ở Phú-Yên, thuận-tiện cho nó lên thăm đập Đồng-Cam mới hoàn-thành. Nó vưa hụt chuyến xe chót lên thăm đập, lại gặp lúc chị Ng. là chị thằng Quảng, vừa thắng yên cương cho con ngựa để đi Đồng-Cam trước mặt trời lặn, vì công-vụ Ty Thông-tin giao cho. Cha mẹ quảng bảo Ng. cho nó đi cùng. Một phút do-dự trước lễ-giáo “nam nữ thọ thọ bất thân”; năm ấy tuổi nó vừa tròn 2 con giáp, Ng. sinh trước nó 2 năm nên nó đã gọi bằng “chị”, hình như cách xưng-hô nầy giúp cả hai bước qua bức tường ngăn chia nam nữ. Rồi thằng Quảng đẩy nó lên yên, ngồi sau lưng chị Ng.
Ngựa khởi-hành nước kiệu, nó ghì tay xuống yên để khỏi chao-đảo và giữ một khoảng-cách cần có giữa hai thân mình. Mặt trời đà gác núi, chị Ng. thúc ngựa phi nhanh; nó đã phải vòng 2 tay đan chéo trước bụng chị Ng. để khỏi bật ngược ra phía sau. Đến nơi, chị gò cương dừng lại, bẽn-lẽn quay lại nhìn nó. Nó rút vội 2 tay về, bàn tay nó chẳng hề “ăn gian” mà sao nó thấy vô duyên lạ!
Hôm sau, ngựa còn sẵn đó, nó quyết tập cỡi để vòng về nó ngồi trước mới là hợp cách. Nó thuận tay phải nên toan lên yên từ bên phải của ngựa. Bỗng chị NG. giữ tay nó, cản lại:
-“Chớ ..chớ! ..lạng-quạng là té méo mõ đấy! Thượng mã bao giờ cũng từ phía trái, đưa chân trái trụ lên bàn đạp thì mới quàng chân phải qua mông ngựa được chớ ... Mà khi hạ mã cũng trụ chân lên bàn đạp trái, rồi làm ngược lại. Muốn cho ngựa phi thì siết chặt dây cương kéo cao đầu ngựa lên, cho đi thong-thả thì nới lỏng dây cương ngựa. Nhớ nghen!”
Bài vỡ lòng cỡi ngựa chỉ có thế. Nó ngồi trên lưng ngựa chạy long-nhong ba đồng bảy đỗi. Khi quay về, bên cạnh chị Ng. còn có thêm mấy cô ả đứng chờ sẵn. Nó khoái-trá vươn vai tưởng mình là Phù-Đổng, cũng vừa lúc mấy cô ả trêu nó:
Đồn rằng quan tướng có danh
Cỡi ngựa một mình chẳng phải vịn ai.
Ban khen rằng thế mới tài,
Thưởng cho bím tóc với hai đồng tiền.
Câu sau cùng, các cô ả nói khe-khẻ, cười rúc-rích cùng lúc với cái liếc xéo vào nó rất tinh-nghịch mà hớp hồn người. Ôi! cặp mắt lá răm, lúc nhìn trộm càng dài có đuôi của các cô gái Phú-Yên! Viết câu nầy nó mỉm cười một mình, nó nhìn lại đôi bàn tay thuở nào còn ngờ-nghệch, chưa thuộc bài học thám-hiểm vùng phì-nhiêu như tổ-tông người Mỹ đã làm trên đất nước nầy.
Chàng Kim, họ Sở có ngựa ra sao?
Cách thế phong-lưu, nét đẹp hài-hòa giữa người và ngựa tạo nên tác-phong của Kim-Trọng:
Dùng-dằng nửa ở nửa về
Nhạc vàng đâu đã tiếng nghe gần gần.
Trông chừng thấy một văn nhân,
Lỏng buông tay khấu bước dần dặm băng.
Đề-huề lưng túi gió trăng
Sau lưng theo một vài thằng con con.
Tuyết in sắc ngựa câu dòn
Cỏ pha màu áo nhuộm non da trời.
Nẻo xa mới tỏ mặt người
Khách đà xuống ngựa tới nơi tự tình.
Chàng Kim thấy bạn quen -đứng bên có 2 bà chị đẹp- đã xuống ngựa từ xa, tất nhiên đã có mấy cậu lon-ton giữ ngựa, chàng đến gần chào hỏi. Người thế ấy, ngựa thế ấy, lịch-sự dường ấy, làm sao Thúy Kiều (sau nầy mới biết cả Thúy-Vân nữa) chẳng phải lòng ngay lần gặp mặt đầu tiên.
Đến Sở-Khanh, thi-hào làng Tiên-Điền thuật lời dụ-khị của gã, cù rủ Thúy-Kiều trốn thoát lầu xanh, phong-cách Sơ-Khanh đã bộc-lộ:
“Rằng ta có ngựa truy phong,
Có tên dưới trướng vốn dòng kiện nhi.
Thừa cơ lén bước ra đi
Ba mươi sáu chước, chước gì là hơn?
Dầu khi gió kép mưa đơn
Có ta đây, cũng chẳng cơn cớ gì”.
Rõ nổ như pháo! có ngựa đuổi kịp gió sao để ngựa Tú Bà rượt kịp? Có ta đây, sao Sở-Khanh đã rẽ dây cương lối nào bỏ rơi nàng Kiều một thân một ngựa để bị bắt trở về lầu xanh?
Cả hai cách bắt bồ rất khác nhau.
Nói nôm-na là nghệ-thuật “chim gái”, tục-ngữ có câu chí-lý: nhứt thanh tân, nhì xần lân. Chàng Kim theo thượng sách thanh tân nên có nhiều lãi, đã được cô em còn thêm cô chị đều là sắc nước hương trời. Có hơi quá lố đấy! Còn sần lân là gần-gũi, rà-rê, tẩn-mẩn như họ Sở chầu-chực bên Kiều; còn bố láo mồi chài được cũng là hạng Marie Fontaine nghiêng thùng đổ nước.
“Thuở trời đất nổi cơn gió bụi” thì hình-ảnh nam-nhi và chiến mã mới là thiên bi-hùng-ca. Bữa tiệc tiễn chân chưa vơi ly rượu, bài Tống biệt hành chưa dứt tiếng đàn, chàng đã tót lên ngựa xông ra trận-mạc: Dục ẩm tỳ-ba mã thượng thôi. Ở nhà người chinh-phụ mãi ngóng trông, người ngựa có song toàn trở về? Xin đọc bài Mỏi mòn, theo lối vấn đáp, của Thanh-Tịnh:
Em ơi nhẹ cuốn bức rèm tơ
Tìm thử chân mây khói tỏa mờ
Có bóng tình quân muôn dặm ruổi
Ngựa hồng tung bụi cõi xa mơ?
- Xa nhìn bên cõi trời mây
Chị ơi em thấy một cây liễu buồn.
Bên rừng em hãy lặng nhìn theo
Có phải chăng em ngựa xuống đèo?
Chị ngỡ như chàng lên tiếng gọi
Trên mình ngựa hí lạc vang reo.
- Bên rừng ngọn gió rung cây
Chị ơi! con nhạn lạc bầy kêu sương.
Tên chị ai gieo giữa gió chiều
Phải chăng em hỡi tiếng chàng kêu?
Trên dòng sông lặng em nhìn thử
Có phải chăng người của chị yêu?
- Sông chiều đưa chiếc thuyền lan
Chị ơi con sáo gọi ngàn bên sông
Ô kìa! bên cõi trời Đông
Ngựa ai còn ruổi dặm hồng xa xa ...
Này lặng em ơi lặng lặng nhìn
Phải chăng mình ngựa sắc hồng in?
Nhẹ nhàng em khẻ buông rèm xuống
Chị sợ trong sương bóng ngựa chìm.
-Ngựa hồng đã đến bên hiên,
Chị ơi! trên ngựa chiếc yên... vắng người.
Thiên Lý Mã.
Hàn-Dũ (768-824) xuất-thân Tiến-sĩ, ở Nam-Dương. Bởi ông cương-trực nên làm quan đời nhà Đường bị truất biếm 2 lần, nghèo vẫn cứ nghèo. Đến đời Tống được truy tặng là Xương-Lê Bá (Xương-Lê là tổ quán của ông) Hàn-Dũ được khen là “tản văn thánh thủ”. Xin đơn cử đoạn tạp thuyết về Thiên lý mã sau đây: (xin tạm dịch)
Đời có Bá-Lạc (1) rồi mới có ngựa thiên-lý. Ngựa thiên-lý thường có mà Bá-Lạc không thường có. Cho nên có ngựa hay cũng chỉ chịu nhục trong tay kẻ nô-lệ, rồi cùng chết ở trong chuồng, bên máng, không được khen là ngựa thiên-lý. Ngựa vào hạng thiên-lý mỗi lần ăn có thể hết 1 thạch (2) lúa. Người nuôi ngựa không biết đấy là ngựa thiên-lý mà nuôi thường, thành thử ngựa tuy có tài thiên-lý mà ăn không được no, sức không đủ sung, tài không hiện ra ngoài, dù muốn bằng sức ngựa thường cũng không được thay, còn mong gì đi được ngàn dặm? Cầm cương nó không phải phép, nuôi nó không cho ăn đủ, nó hí mà không hiểu ý nó; rồi lại giơ roi chỉ nó mà bảo rằng: “Trong thiên-hạ không có ngựa hay!”. Than ôi! Có thực là không có ngựa hay chăng? Chính là không biết ngựa đấy.
Tiểu luận về thiên-lý mã lời gọn mà ý sâu, hay nhất là câu đầu và câu chót. Hàn Xương-Lê lấy ngựa làm ẩn dụ, thương cho mình không được dùng đúng với khả-năng, thương cho những bậc tài-ba mà không gặp tri-kỷ.
Thật vậy, người có đảm-lược mới dùng được ngựa hay. Tào-Tháo có con ngựa Xích-thố lông đỏ màu huyết-dụ, Tháo giao cho các tướng thuần-phục nó, đều bị nó nhảy lồng lên, tung cả 4 vó làm đổ nhào cả người cỡi gây ra tử thương; ai cũng cho là ngựa chứng bất trị. Tào-Tháo bèn cho Quan-Vân-Trường, ngầm hiểm ý mượn ngựa để hại ông.
Nào ngờ Quan-Công khuất-phục được ngựa Xích-thố. Có thừa dũng-lược mới cỡi được ngựa Xích-thố mới khoa nổi Thanh-long đao lập nên công-nghiệp, lại có nghĩa-khí trung-liệt mới được thế-nhân thờ-phụng với danh-hiệu Đức Quan-Thánh.
Xin được dài-dòng thêm về bậc cái-thế anh-hùng và con ngựa lừng danh trong sử sách là:
Hạng-Võ và Ngựa Ô-Truy.
Dười thời Tần Thỉ-Hoàng đế, cạnh núi Đồ-Sơn có con rồng đen hóa thành ngựa ô, hàng ngày nó đến thôn Nam-Phụ gầm thét phá hại mùa-màng, ai đến gần đều bị nó cắn và đá chết. Hạng-Võ sau khi cử đảnh nặng ngàn cân tại núi Vũ-Vương trước mặt hai thủ-lãnh Hoàn-Sở và Vũ-Anh, ông tìm đến Đồ-Sơn, thần mã xông ra tấn-công ông rất hung-dữ.
Hạng-Võ túm được bờm ngựa ghì xuống, ngựa không vùng-vẫy nổi, ông phóng lên lưng cỡi, nó chạy nhanh như gió được 10 vòng, ngựa mướt mồ-hôi, chịu tuân-phục, ông đặt tên là Ô-truy. Dân làng Nam-phụ bày tiệc khoản-đãi Hạng-Võ và Ngu công đem gả người con gái nhan-sắc tuyệt-trần tên Ngu-Cơ cho ông.
Hạng-Võ và Lưu-Bang đều khởi binh mỗi người một phương, cùng mục-đích diệt nhà Tần bạo-ngược để cứu dân giúp nước. Lưu-Bang tiến chiếm kinh-đô Hàm-Dương trước Hạng-Võ tuy đến sau nhưng thế-lực mạnh hơn gấp bội.
Lưu-Bang xin Hạng-Võ cho về trấn-thủ Quan-Trung, ông chiêu hiền đãi sĩ, sau tự xưng là Hán-Vương. Hạng-Võ đốt Hàm-Dương, giết vua Tần tam thế-tử là Tử-Anh, ông thiên đô về Bành-Thành xưng là Sở Bá-Vương. Từ đó Hán, Sở tranh hùng có dư trăm trận để dành thiên-hạ. Hán Vương tuy trói gà không chặt nhưng nhờ mưu-lược của Trương-Lương, Hàn-Tín, dần-dà chuyển từ yếu sang mạnh.
Hạng-Võ cậy vũ-dũng, sức địch muôn người nên làm mất lòng người, thế-lực ngày một suy-vi. Sở Bá-Vương mất Bành-Thành, rút về Cai-Hạ, bị quân Hán vây khốn tại Cửu-lý sơn. Bị lâm vào hiểm địa giữa trùng vây chim sẻ bay không lọt, Hạng-Võ vẫn suốt ngày cự chiến đẩy lui 60 viên tướng Hán. Tiếng sáo áo-não của Trương-Lương từ núi Kê-Minh vọng đến khiến quân Sở thêm buồn hàng đêm bỏ trốn, tám ngàn đệ-tử chỉ còn lại vài trăm.
Sở Bá-Vương quyết chọc thủng vòng vây để về Giang-Đông dựng lại cơ-đồ. Ông giã-biệt Ngu-Cơ, khuyên nàng bảo-trọng, với tấm nhan-sắc nàng ở lại đây tất được yêu-vì. Khúc nhạc phủ theo điệu Sở-từ thật bi-tráng được Sở Bá-Vương ứng khẩu trước giờ ly-biệt với Ngu-Cơ:
Lực bạt sơn hề, khí cái thế,
Thời bất lợi hề, truy bất thệ!
Truy bất thệ hề, khả nại hà?
Ngu hề Ngu hề! khả nại hà?
Dịch nghĩa:
“Chí-khí ta trùm trời, sức mạnh ta chuyển núi
Tiếc không được thời, ngựa truy hết lối.
Ngựa hết lối biết làm sao?
Ngu-Cơ, Ngu-Cơ! Biết làm sao!”.
Ngu-Cơ tay nâng ly rượu biệt ly, hát khúc đáp lời:
“Quân Hán đóng khắp mặt
Tiếng Sở bốn phương reo
Đại vương chí-khí tận
Còn mất thiếp xin theo”.
Dứt lời, náng tuốt gươm báu đâm vào cổ tự vận, nàng đã ở lại cho tình quân sớm ra đi. Trên lưng ngựa ô-truy màu đen đã hóa đỏ vì máu, Hạng-Võ tiến đến đâu quân Hán vây đến đó, đều bị lưỡi gươm ông đốn ngã như rạ.
Hôm sau thoát khỏi vòng vây, quân sĩ không còn, chỉ con 2 tướng tâm-phúc là Chu-Lan và Hoàn-Sở chạy theo, rồi cả hai đều kiệt sức, đều tự-vẫn để khỏi rơi vào tay địch. Chạy đến bến Ô-Giang, Hạng-Võ được đình trưởng mời xuống thuyền vượt qua sông, bên kia là đất Giang-Đông, ông lại hưng binh mấy chốc? Hạng-Võ từ-chối, vì ông biết trả lời sao về 8.000 đệ-tử đất nầy đã theo ông, ông bèn gởi ngựa ô-truy qua sông thay cho ông chào dân chúng. Ngựa giậm chân không chịu xuống thuyền.
Hạng Võ ngoái nhìn đoàn quân Hán đã đuổi kịp mà không dám tiến tới, thấy dưới cờ có tướng Lã Mã-Phụng. Ông gọi tên tướng nầy: “Ngày trước ngươi từng theo giúp ta, ta chưa có gì đền đáp, rồi ngươi theo phò Hán. Nay còn gặp lại, ta tặng ngươi cái đầu của ta để mang về lãnh tước Vạn-hộ Hầu của Lưu-Bang”. Dứt lời, Sở Bá Vương Hạng Võ tự dứt đầu mình cắm lên thanh gươm đưa tới.
Ngựa ô truy nhìn thân mình chủ tướng còn đứng sững, bỗng nó hí vang trời rồi phóng thẳng xuống dòng trường giang sâu thẳm nước chảy cuồn-cuộn, mất tăm dạng. Ở tuổi 41, Hạng-Võ đã chết rất kiêu-hùng, cả Ngu-Cơ và thần mã cũng không kém. Sự-nghiệp sớm tiêu-ma vì ông đã coi thường cái trí mà chỉ dùng cái dũng, thành bại còn do một chữ thời.
Tuồng đời là một thiên bi kịch, nên “trai trẻ bao lăm mà đầu bạc!”. Đúng hơn, phải nói đời là bi hài kịch. Như câu chuyện mua vui dưới đây là vở bi hài kịch, nghe qua rồi bỏ ngoài tai cho gió bay đi (riêng những kẻ quen bốc thơm thì nên giữ lấy).
Thơ Vịnh Con Ngựa.
Phú ông đã có 3 chàng rể chữ nghĩa bề-bề, làm thơ võ-vẽ. Còn cô gái út đã gả cho cho một đám nhà giàu-có nhưng chàng ta ít học, thấy sao nói vậy. Nhân ngày Tết năm Ngọ, chàng rể mới đem biếu cha vợ một con ngựa hay lắm. Trong bữa tiệc mừng Xuân, phú ông nhìn vào con ngựa, tay ra bộ giật giật dây cương và miệng nói: “trường đồ tri mã lực”.
Hiểu ý cha vợ ra đề làm thơ vịnh con ngựa hay, chàng rể cả làm như vầy:
Trên không lá đào rơi
Cha tôi cỡi ngựa chay xa vời
Chạy đi rồi chạy lại
Lá đào vẫn còn rơi.
Chị cả đương ngồi đan áo len bên hòn non-bộ, nghe chồng ngâm thơ mà ngơ-ngẩn để buông rơi cây kim xuống hồ nước non-bộ. Chàng rể thứ hai bắt ngay ý đó làm tiếp vần:
Mặt nước rơi cây kim,
Cha tôi cỡi ngựa chạy như chim
Chạy đi rồi chạy lại
Chiếc kim vẫn chưa chìm.
Phú-ông khoái-chí, gật-gù nhả khói thuốc lào, lơ-đễnh để tàn lựa bay vào áo hồ-cừu ông đang mặc. Chộp được ý, cậu rể thứ ba lên giọng ngâm-nga:
Than lửa đớp cái lông
Cha tôi cỡi ngựa chạy như giông
Chạy đi rồi chạy lại
Cái lông vẫn chưa hồng.
Còn cậu rể út? Bà phú-hộ lo-lắng, nhấp-nhỏm đứng dậy, lỡ trôn đánh cái “chịt”. Cậu rể út đương tìm hiểu sự-cố:
Trông theo nào thấy đâu nào,
Hương thừa nhường hãy ra vào đâu đây? (Tập Kiều)
Khi đã hiểu, cậu mừng quá, thưa rằng con đã có thơ:
Mẹ tôi xán cái địt
Cha tôi cỡi ngựa chạy xa tít
Chạy đi rồi chạy lại
Đít mẹ vẫn chưa khít.
Bà phú-hộ mới nghe nửa bài thơ đã bỏ đi một nước. Thế là tốc-độ của ngưa ngang phản-lực-cơ siêu-thanh, đến cậu út đã phá kỷ-lục của hỏa-tiễn. Bốc thơm như thế là tuyệt chiêu.
Nói tản-mạn là nói chuyện bao-đồng thiên-hạ-sự. “Lời quê chắp nhặt dông dài, Mua vui cũng được một vài trống canh” (Nguyễn Du).
Năm Tỵ đi qua, mang theo chuyện xui-xẻo do khủng-bố ở New York ngày “nine/ one one”, năm Ngọ sẽ mang vận hên đến theo luật bù trừ liên-tục của câu chuyện Tái ông thất mã. Nhân dịp đầu Xuân, kẻ viết bài nầy không quên cầu chúc các bạn trẻ đạt thành đại-đăng-khoa và tiểu-đăng-khoa, vui hát bài Lý ngựa ô cho ngựa anh đi trước võng nàng theo sau. Kính gởi đến quí đồng-hương lời chúc mừng mã đáo thành công trong hánh-trình lập thân và lập nghiệp.
Hartford, ngày Đông-chí năm 2001
Trương Quang
(1) Bá-Lạc họ Tôn tên Dương, người đời Tần Mục-Công. Tôn-Dương là ngôi sao sáng rất giỏi coi tướng ngựa, nên được gọi là Bá-Lạc.
(2) Thạch bằng 100 thăng, khoảng 104 lít.