NGUỒN NƯỚC: MỐI ĐE DÕA CỦA NHÂN LOẠI, MẦM TAI HỌA CỦA MIỀN NAM VIỆT NAM KHI DÒNG MÉKONG BỊ ĐẬP CHẮN
Trương Quang
Theo thông-tin, tài-liệu tổng-hợp và sở kiến của tác-giả qua chuyến về thăm châu-thổ Cửu-Long giang.
Mùa Xuân năm 2000, trong bài viết “Những con rồng của Tổ-quốc”, tôi đã nêu lên việc Trung-Quốc xây đập chắn dòng sông Mékong sẽ gây thiệt-hại không cứu-vãn được cho châu-thổ Nam Việt của chúng ta. Trung-Quốc đã hoàn-thành 2 đập, nay lại xúc-tiến việc xây đập Xianwan là đập chắn lớn nhất thế-giới và rồi thực-hiện đủ 8 đập theo dự-trù chận nước sông Mékong.
Hiểm-họa cho Việt-Nam ngày càng gần hơn, nên tôi xin báo-động bằng cách xem xét về NGUỒN NƯỚC đang là mối đe-dọa cho nhân-loại vào thế-kỷ 21, đặc-biệt là mầm tai-họa cho đồng-bằng Nam Việt khi dòng chảy Mékong bị ngăn chận.
A. Nhân-loại phải chia-xẻ nguồn nước cho hợp lý.
1- Nước sinh-hoạt vẫn chưa đáp-ứng thỏa-đáng tại Châu Á.
Tháng 3-1998, UNESCO tổ-chức cuộc hội-thảo về “Nước” tại Paris đã tuyên-bố: “Nếu chúng ta không hành-động kịp thời thì 2/3 nhân-loại sẽ chết khát vào năm 2025!”. Nhìn quanh các nước lân-cận với Việt-Nam, chúng ta dễ-dàng nhận biết bài toán về “nước sinh-hoạt” chưa thể giải-đáp được tại các nước Á châu.
Thủ-đô Kuala Lumpur của Malaysia thiếu nước trầm-trọng, nhất là tháng 3-1998 dân phố nối đuôi nhau xếp hàng rồng rắn ngoài đường, chờ hứng nước từ các xe bồn vào thau, xô mang về nhà để uống dè xẻn.
Thủ-đô Manila của Philippines cũng vào giữa năm 1998, nguồn nước sinh-hoạt lấy từ đập Anggat tại Bulacan đã xuống thấp đến 20 m, thành-phố thiếu nước đến 35% nên lịch cắt nước 2 ngày mỗi tuần, luân-chuyển trong thủ-đô.
Thủ-đô Bắc-Kinh của Trung-Quốc muốn dời đi nơi khác cũng chỉ vì thiếu nước mà đảng Cộng-sản Trung-Quốc chưa biết xoay-xở ra sao!
Thành-phố Sài-Gòn có được lợi điểm là nguồn nước lấy ngay từ sông Đồng-Nai chảy ngang qua, nhưng công-suất nhà máy nước công-quản không đáp-ứng xuể nhu-cầu của dân chúng, nên số đông phải dùng nước giếng khoan đóng rất sâu xuống lòng đất (phải trên 25 m mới qua khỏi nước phèn và bùn nhão). Nước bơm lên từ giếng khoan được bán cho dân nghèo, giá mỗi thùng bằng một bát cơm.
Thât ra, nguyên-nhân thiếu nước ở các đô-thị châu Á chủ yếu là do nguồn nước khan-hiếm, do hệ-thống ống nước cũ-kỹ gây rò rỉ, nạn ăn cắp nước và thói quen xài nước phí phạm vì được cung-cấp với giá rẻ.
Hiện nay Singapore đã tăng giá nước (và là giá nước đắt nhất châu Á). Trong suốt thập kỷ vừa qua, dân-số Singapore chỉ tăng 1,9% đồng thời mức tiêu-thụ nước tăng đến 4.6%. Tiểu quốc nầy phải nhập khẩu 415 triệu m3 nước mỗi ngày từ bang Johor ở Nam Malaysia.
Để giải-quyết bài toán hóc-búa về nguồn nước, Singapore đang xây-dựng trạm biến-hóa nước biển thành nước gia dụng, sẽ hoàn-thành vào năm 2003 và hai trạm khác dự-định hoàn-tất vào năm 2011 để cung-cấp 400 ngàn m3 nước mỗi ngày cho quốc nội. Mức tiêu-thụ nước của Singapore là 441 triệu m3 mỗi năm, trong đó 53% cho nhu-cầu sinh-hoạt.
Một cuộc điều-tra cho thấy trung-bình mỗi người Singapore dùng 92 lít nước mỗi ngày cho tắm rửa, 37 lít cho dội cầu, 104 lít cho giặt-giũ (nước dội cầu từ 9 lít/ lần nay còn 3,5 lít/ lần, là một trong những biện-pháp tiết-kiệm nước).
Tưởng cũng nên biết, người Hoa-kỳ xài đến 600 lít nước mỗi ngày, trong khi một số dân Phi châu chỉ có chừng 30 lít nước/ ngày lấy từ ao hồ thiếu vệ-sinh. Theo Tổ-chức Y-tế Thế-giới, hàng năm có 2 triệu người chết vì dùng nước không trong sạch,
Khi bản điều-tra trên được công-bố, Thủ-Tướng Goh Chok Tong đã lên tiếng cảnh-cáo rằng Singapore sẽ cạn kiệt nước sinh-hoạt trong 15- 20 năm tới nếu mọi biện-pháp về nguồn nước không đủ hiệu-quả.
Nguồn nước tại Nhật-Bản khan-hiếm không kém nên người Nhật đã có tập-quán rất tiết-kiệm trong cách dùng nước; tại các vùng thôn quê, có gia-đình chỉ dùng 20 lít nước để tắm: đầu tiên là người cha, sau đó đến phiên các con và cuối cùng là người mẹ. Lắm khi nước tắm còn tiếp-tục dùng để giặt và tưới.
Tại các đô-thị Nhật, việc xử-dụng nước tự-động và vi-tính-hóa, qua đó việc dội cầu vừa đủ khi người ta đứng dậy, bốn tắm tự-động ngắt nước ở mức cần dùng và nhiều bồn tắm được nối với bồn dội cầu để tái sử-dụng nước tắm.
Hồng-kông đã có hơn 70% toilet dùng nước biển lấy từ nguồn vô-tận của đại-dương. Theo thống-kê năm 1995, hàng ngày có đến 434,000 m3 nước biển được bơm vào hệ-thống toilet dội cầu ở hải đảo nầy (tương-đương với nước ngọt sinh-hoạt). Nguồn nước uống còn phải nhập-cảng thêm.
Ở Thái-Lan, tình-trạng thiếu nước tại đô-thị cũng nhẹ-nhàng như tại Sài-Gòn. Cũng là một quốc-gia xuất-cảng nông phẩm mà người nông-dân lại thiếu nước trồng-trọt. Chính-phủ Thái mở chiến-dịch lớn từ thủ-đô Bangkok đến tận hang cùng ngõ hẻm kêu gọi dân-chúng tiết-kiệm nước để phục-vụ nông-nghiệp.
Sự phát-triển nhanh chóng của các nước Á châu đòi-hỏi điện năng và nguồn nước là hai yếu-tố có tầm quí-giá ngang nhau. Con người đã sản-xuất ra điện nuôi sống kỹ-nghệ, nhưng nước do thiên-nhiên dành nuôi-dưỡng con người. Nguồn nước tuy có ít-ỏi ở một số quốc-gia, nó chỉ trở thành mối đe-dọa thực-sự vào thế-kỷ 21 khi tình yêu nhân-loại không còn được quí trọng.
2- Nguồn nước có thể là ngòi lửa chiến-tranh.
Nước không phải là nguồn vô-tận Trời cho, càng không phải là nước có trên địa-cầu đều có thể dùng ngay được. Nước ngọt ở sông suối ao hồ chỉ chiếm 1% trữ-lượng của toàn khối nước trên hành-tinh nầy (chừng 40 ngàn tỉ m3 nước ngọt).
Nước lại không được phân-bổ đồng-đều cho khắp các lục-địa. Có 10 quốc-gia “giàu nước” thủ-đắc đến 60% tổng lượng nước (đứng đầu là Brazil, đến Nga, Trung-Quốc, Hoa-Kỳ...) Còn 26 quốc-gia có 232 triệu dân lại “nghèo nước”. Quan-ngại nhất là vùng Trung Đông nắng hạn khô cằn, đang tranh-chấp nhau chủ-quyền kiểm-soát những dòng sông, những bờ đập để có được nguồn nước.
Các nước dọc 2 bờ sông, các nước ở đầu nguồn và cuối nguồn đã đang và sẽ tranh-giành không khoan-nhượng việc sử-dụng nguồn nước chảy qua lãnh-thổ của mình, dùng làm nước sinh-hoạt và nuôi-dưỡng hoa-màu trên 500 triệu héc-ta đất trồng-trọt.
Đã có 6 trường-hợp bùng-nổ chiến-tranh do tranh-chấp nguồn nước tại Trung Đông.
Đơn cử trường-hợp sông Euphrate: Thổ Nhĩ Kỳ (Turkey) xây những hồ chứa nước, đập nước khổng-lồ Atatiirk ở đầu nguồn sông Euphrate để sản-xuất điện-lực và dẫn thủy nhập điền mở rộng canh-tác. Syria và Iraq nằm ở hạ-lưu rất lo sợ nước bị cạn kiệt nên đã thành-lập Hội-đồng Các chuyên-gia chăm lo phân-phối từng mét khối nước còn lại của sông nầy. Nền hòa-bình ở Trung Đông tùy-thuộc một phần ở việc chia-xẻ các nguồn nước.
Chúng ta còn nhớ vào đầu năm 1965, thủ-lãnh Arafat của Palestine cương-quyết chống trả việc Israel (Do-Thái) phá-hoại thủy-đạo dẫn nước từ hồ Tiberias đến sa-mạc Neguev. Đó là nỗi kinh-hoàng của toàn dân Palestine mà 70% lượng nước sinh-hoạt phải trông cậy vào các nguồn nước nằm ngoài biên-giới.
Ai-Cập (Egypt, một nước ở Bắc Phi châu, phía Nam vùng Trung Đông đỏ lửa) cũng rất lo-ngại vì lưu-lượng vùng sông Nile ngày một yếu dần, nên gây ra hiện-tượng biển xâm-thực đất. Thượng nguồn của sông Nile là các nước Ethopia, Uganda đến nước Sudan mênh-mông khô-cằn rất cần nước để phát-triển công kỹ nghệ và mở rộng nông-nghiệp.
Nguyên Tổng-thống Ai-Cập là Sadate đã từng công-khai tuyên-bố: “Nguồn nước là nguyên-nhân duy-nhất có thể đưa Ai-Cập vào con đường chiến-tranh”.
Đau thương nhất là nước Li-băng (Lebanon) nằm giữa sự tranh-chấp của nhiều thế-lực bên ngoài, hứng chịu đủ loại bom đạn trút xuống phá tan-hoang các ống dẩn nước. Muốn sinh-tồn, người dân Li-băng gắng sức đào từng giếng nước nhỏ giữa vùng sỏi đá, dùng bơm hút nước lên mà dùng.
Năm 1996, không-quân Israel đánh phá một hồ chứa nước, nguồn cung-cấp nước cho hơn 20 làng ở Nam Li-băng, nơi căn-cứ của quân du-kích Herzbollad. Năm 1982, một cứ-điểm quân Palestine ở Tây Beirut (thủ-đô Li-băng) bị vây hãm, quân Israel đe-dọa sẽ đầu-độc tất cả các nguồn nước sinh-hoạt để buộc đối-phương phải đầu hàng.
Thuở xa xưa, các đoàn quân thập-tự-chinh thường dùng chiến-thuật triệt nguồn nước như quăng xác súc-vật chết xuống giếng và ao hồ nhằm đánh tan sự kháng-cự của phía kia; ngày nay chiến-thuật nầy được hiện-đại-hóa tại Trung Đông.
Năm 1991, vua Hussan nước Jordan đã có lời dự báo: “Nước là một yếu-tố quyết-định. Từ nay đến năm 2000, nếu các nước ở Trung Đông không đạt được thỏa-thuận thì cuộc xung-đột chắc chắn phải xảy ra”.
Như ta đều biết, trong dòng nước đã và đang chảy ở vùng Trung Đông có pha lẫn dòng máu và chưa biết đến ngày nào mới có hòa-bình.
Phần trên đây là để “thấy người mà gẫm đến ta” trước sự việc Trung Quốc xây đập triệt dòng Mékong sẽ đưa châu-thổ Nam Việt đi về đâu?
B- TRUNG QUỐC XÂY ĐẬP CHẶN SÔNG MÉKONG, GÂY TAI-HỌA CHO ĐỒNG BẰNG NAM VIỆT.
1. Triệt dòng Mékong, châu thổ Nam Việt lâm-nguy.
Miền đồng-bằng phì-nhiêu bát-ngát rộng đến 50 ngàn km2 của miền Nam nước Việt là do phù-sa sông Mékong tạo thành qua hàng vạn năm.
Sông Mékong phát-nguyên từ Tây-Tạng, chảy qua 7 nước với chiều dài 4.200 km (đứng hàng thứ 7 của châu Á, hàng thứ 12 trên toàn thế-giới). Bắt-nguồn từ những dòng suối nơi dãy Hi-Mã-Lạp sơn chọc trời, rồi tụ thành con sông mà người Tây-Tạng gọi là Dza-Chung. Sông chảy vào Vân-Nam giáp Miến-Điện thì người Trung-Hoa gọi là sông Lan-Cang (còn đọc là Lan-Thương, hay sông Cuồng) khi thì gọi là Thạch-Hà.
Sông nầy là biên-giới thiên-nhiên theo chiều Bắc Nam của hai nước Thái-Lan và Lào. Phía Lào (có thủ-đô Vạn-Tượng bên tả ngạn) gọi là sông Mẹ-Khong, Thái-Lan phát âm là Me Com (nghĩa là mẹ của các con suối), vì thế trên bản-đồ thế-giới ghi thống-nhất tên sông Mékong suốt từ nguồn đến biển.
Sông Mékong vào địa-phận Việt-Nam được tổ-tiên ta gọi là Cửu-Long Giang, một tên rất đẹp mà cũng rất hiện-thực để diễn-tả 9 chi-lưu như 9 con rồng ôm choàng miền Nam Việt trước khi hòa dòng vào biển Nam-Hải.
Sông Mékong có lưu-lượng khổng-lồ (1.000 m3/ giây), dòng chảy điều-hòa, không chênh-lệch giữa mùa mưa nắng. Hàng năm sông Mékong đổ ra biển 475 tỷ m3 nước, chuyên-chở hàm-lượng phù-sa khoảng 470 triệu tấn xuống hạ nguồn. Khoảng 30% lượng phù-sa nầy lắng ở châu-thổ Cửu-Long (và một ít ở Cam-Bốt); 70% phù-sa còn lại lắng đọng ở cửa biển và được hải-lưu ven biển chuyên-chở xuống phía Nam bồi-đắp vào bờ biển Nam Việt, do đó mỗi năm mũi Cà-Mau được nới rộng ra biển đến 100 m.
Trong hai thập niên vừa qua, Ủy-ban sông Mékong (Mekong River Commission) đã ít nhiều tài-trợ những quốc-gia nghèo trong lưu-vực sông nầy thực-hiện các đập thủy điện để phát-triển kinh-tế:
* Lào đã hoàn-thành 5 đập thủy-điện và còn hoạch-định xây thêm 20 đập khác nữa trên các nhánh sông đổ vào sông Mékong. Khi Lào hoàn-tất kế-hoạch, 25 con đập ấy có khả-năng chứa 67% nước chảy từ lưu-vực sông của Lào (chiếm 26 đến 35% tổng lưu-lượng nước sông Mékong) và chận giữ 60 triệu tấn phù-sa hàng năm trên các hồ chứa.
* Thái-Lan đã hoàn-thành đập Pak-Mun và có dự-án chuyển 8 triệu m3 nước từ Mékong mỗi năm, đến tưới ngoài lưu-vực.
* Việt-Nam đã xây xong đập Yali tại Kontum trên sông Sesan là phụ-lưu của sông Mékong và dự định xây thêm 3 đập nữa cũng trên nhánh sông nầy. [Đập Yali bé nhỏ (cao 65m ngang 1460 m) mà cũng gây tai-họa lớn: 65 km2 rừng già bị ngập, gây lũ lụt cho bên dưới là tỉnh Ratanakini của Cam-Bốt, 20 ngàn dân phải tản-cư, hàng ngàn ghe tàu bị nước cuốn mất, 30 người chết đuối và 952 người tử vong vì nhiễm chất độc].
* Trung-Quốc đã hoàn-thành 2 đập thủy-điện quy-mô Manwan và Dashaoshan tại tỉnh Vân-Nam và còn dự-trù xây thêm 5 đập nữa ngay trên dòng chính sông Mékông. Mới đây (giữa năm 2001), Trung-Quốc loan-báo việc tiến-hành xây đập nước Xianwan lớn nhất thế-giới chặn ngang dòng Lang-Cang (tức sông Mékong, dòng chính) với chi-phí khoảng 32 tỷ nhân-dân-tệ (tương-đương 3,8 tỷ Mỹ-kim). Đập Xianwan có hình uốn cong cánh cung (hyberbol), cao 292 m (cao bằng 100 tầng lầu). Theo thống-kê, khi đập nầy hoàn-thành, chỉ còn 16% lượng nước của sông Mékong phát nguồn từ đấy chảy xuống hạ-lưu.
Điều đáng trách là trong cuộc họp thượng-đỉnh sau đó tại Honolulu (Hoa-Kỳ) của Ngân-Hàng Phát-triển Q châu, có ít người phản-đối kế-hoạch xây đập Xianwan của Trung-Quốc mà chỉ chăm-chú vào các dự-án đã được Ngân-hàng nầy tài-trợ cho lưu-vực Mékong nằm ngoài lãnh-thổ Trung-Quốc. Nhưng sau đó có một bản tường-trình mới của Ngân-hàng Phát-triển châu Á (ADB) cảnh báo là đập nước chận dòng Mékong sẽ ảnh-hưởng trầm-trọng hệ môi-sinh đa-dạng trong vùng, nơi có nhiều triệu nông-dân của Lào, Thái-Lan, Cam-Bốt và Việt-Nam đang sinh sống nhờ vào sông nầy. Tờ báo South China Morning Post có đăng-tải bài báo cho biết thác nước Xianwan làm gia-tăng các vụ ngập lụt, giãm-thiểu trữ-lượng cá, điều đáng lo ngại là lượng nước còn rất ít chảy xuống lưu-vực sông Mékong do hậu-quả của dòng nước bị phân ra nhiều nhánh và bốc hơi ngay trên đất Trung-Quốc. Cả ADB và báo đều tránh-né, không đề-cập đến những hệ-lụy về thổ-nhưỡng rất trầm-trọng mà chúng ta sẽ nói đến.
Khi Trung-Quốc xây xong chuỗi đập trên sông Mékong nó sẽ chận giữ 120 triệu tấn phù-sa hằng năm trên các hồ chứa có dung-tích là 53% nước chảy từ lưu-vực sông của Trung-Quốc (chiếm 18 - 20% tổng lượng nước Mékong). Kỹ-nghệ ở Vân-Nam phát-triển do thủy điện mang lại lợi-tức cho Trung-Quốc, đồng-thời sông Mékong nhận hàng trăm ngàn tấn chất thải kỹ-nghệ từ đấy chuyển xuống hạ-lưu, đưa vào những ao tù đồng bằng thiếu nước và thoái-hóa.
Khi tất cả hệ-thồng đập của Trung-Quốc, Lào và Việt-Nam đã hoàn-thành sẽ có công-suất 23 Gigawatts góp phần phát-triển kỹ-nghệ và trải màn lưới điện đến thôn quê, tạo điều-kiện đầu-tư hàng nhiều tỷ Mỹ-kim. Lợi-ích là thế, nhưng đồng-thời nó biến đổi hẵn phương-tiện thủy vận trên sông Mékong, hủy-hoại hệ sinh-thái rất phong-phú và đa dạng trong lưu-vực, đe-dọa kế sinh-nhai của 60 triệu dân-cư bởi không thể nào có được 700 ngàn tấn ngư sản và 5 triệu tấn gạo mà họ đã làm ra hàng năm như trước.
Cái lợi thì quốc-gia đầu sông hưởng trọn, cái hại thì quốc-gia cuối sông lãnh đủ. Không thể nào chấp-nhận “kẻ ăn bánh, người đội lá” kiểu như vậy.
2- Bài học về đập thủy-điện ở thế-kỷ 20.
Trong thế-kỷ 20 vừa qua, nhiều quốc-gia trên thế-giới đã xây đập thủy-điện trên các dòng sông lớn, sản-xuất được nhiều điện-năng nhưng cũng dẫn đến nhiều tai-hại trầm-trọng vô phương cứu chữa. Chính những quốc-gia ấy đã nhìn thấy “lợi bất cập hại” nên lần-lượt phá bỏ đập triệt sông, để phục-hồi hệ sinh-thái tự-nhiên mà tạo-hóa đã gầy dựng qua hàng triệu năm để có được sự cân-bằng và tồn-tại hỗ-tương như ngày nay.
* Tại miền Tây Hoa-Kỳ, các đập Hoover và Glen Canyon đã góp phần phát-triển cho California và Arizona nhưng làm cho dòng sông Colorado không đủ sức trườn ra tới biển, thường chỉ tới biên-giới Hoa Kỳ - Mexico. Nước sông Colorado chứa chất độc diệt sâu rầy của nông-nghiệp và nước thải của công-nghiệp, nay tích-tụ vào các vũng hồ. Dân Cucapa được gọi là People of the River sống bằng ngư-nghiệp, nay đã giãm 95% với 50 gia-đình vỏn-vẹn còn lại.
Khi các đập ở Vân-Nam hoàn-thành thì dòng Mékong rơi vào cảnh-ngộ tương-tự, rất có thể dòng sông sẽ ngưng tại Kampong-Chàm, biển hồ Tonlé-Sap sẽ thành vũng cạn, vùng Đồng-Tháp-Mười và khu tứ-giác Long-Xuyên sẽ thành nơi tù đọng chứa đầy nước thải sinh-hoạt kỹ-nghệ và nông-nghiệp.
Nước mặn sẽ xâm-nhập sâu vào nội-địa, toàn vùng châu-thổ Cửu-Long sẽ thiếu nước trồng lúa, là cơ-hội cho lớp phèn nằm dưới đất chừng 6 - 7 tấc nổi lên phá hại hoa-màu. Từ xưa nay, dân-chúng khắp miền Tiền-Giang, Hậu-Giang cho đến Cà-Mau đều lấy nước sông để uống và dùng trong mọi sinh-hoạt là nhờ dòng nước luôn luôn chảy, nhẩy và ròng theo thủy-triều nên không bẩn, không độc. Nước đã cạn kiệt thì sự chuyển-vận trên sông rạch, là phương-tiện chính của Nam-Việt, bị hạn-chế tối-đa. Không thể đào giếng lấy nước vì mạch phèn và lớp bùn trầm-tích, còn khoan giếng bơm thì đóng thật sâu, quá tốn kém mới đến mạch nước tốt.
- Tại miền Đông Hoa-Kỳ, đập chắn trên sông Missouri (là phụ-lưu chính tạo thành sông Mississippi) khiến cho lưu-lượng nước chảy ra vịnh Mexico bé nhỏ đi, cho nên duyên-hải Louisiana bị biển nuốt mất lối 1,000 hecta mỗi năm.
- Tại Ai-Cập, dưới thời TT Nasser được Nga-sô trợ giúp xây đập Aswan trên sông Nile, do đó châu-thổ sông nầy (cũng có nhiều chi-lưu tạo thành như châu-thổ Cửu-Long của VN) không còn nhận được 120 triệu tấn phù-sa hàng năm nữa. Từ đó đến nay bờ biển Địa-Trung-Hải lấn vào đất Ai-Cập từ 20 m cho đến 240 m (vào năm 1991) mỗi năm. Châu-thổ nầy bị biển nuốt dần và ngọn hải-đăng trên bờ sông Nile đã rơi vào lòng biển.
- Tại đai-học Saitama Nhật-Bản, Tiến-sĩ Vũ-Thành-Ca nghiên-cứu về phù-sa sông Mékong bằng mô hình toán, đã đưa đến kết-luận rằng sự thất-thoát phù-sa của sông Mékong là điều vô cùng nguy hại cho đồng-bằng Cửu-Long-giang. Thật vậy, sự thiếu hụt phù-sa bồi thêm cho châu-thổ không thể nào bù đắp lại quá-trình sụt lún đất, khiến cho các vùng đã trũng lại càng trũng xuống hơn nữa. Mũi Cà-Mau là do phù-sa mới bồi đắp nên, nền đất chưa ổn cố, chắc chắn bị biển gặm nhắm khi phù-sa không còn đến.
Bờ biển dọc duyên-hải Nam Việt không còn tiếp-nhận phù-sa sẽ bị xói lở, biển lấn vào đất và những vùng rừng ngập mặn là cái nôi của hải sản ven bờ cũng sẽ biến mất. Rừng cây bần, đước, tràm giữ vai-trò lắng đọng phù-sa, ngăn chận sóng gió không thể nào tồn-tại nếu thiếu phù-sa bồi dưỡng nó.
Như vậy, châu-thổ Nam Việt sẽ không còn là vựa lúa an-toàn cho tổ-quốc, còn nói gì đến xuất-khẩu gạo như từ trước nữa. Ngư-nghiệp trong sông và duyên-hải cũng bị đe-dọa không kém.
- Tại Trung-Quốc, trong quá-trình xây 80 ngàn đập thủy điện và hồ chứa vào hậu bán thế-kỷ 20, trung-bình đã có 110 đập vỡ mỗi năm (riêng năm 1973 có 554 vụ vỡ đập). Vụ Bandai và Shimantan đã dìm chết 230 ngàn người Trung-Quốc. Nếu đập Xianwan vĩ-đại nhất thế-giới khi vỡ vì mưa lụt tại Vân-Nam, dòng cuồng lưu ấy đổ xuống đầu dân Lào, Thái, Cam-Bốt và Nam Việt sẽ nặng nhất vì ở vào vị-thế thấp nhất của hạ nguồn.
* Một điều quan-trọng khác: Lưu-vục Mékong là kho-tàng sinh-thái đa dạng của nhân-loại cần được bảo-vệ như UNESCO đã khẩn thiết kêu gọi. Nơi đây là cội nguồn sinh học phong-phú bậc nhì của địa-cầu:
- Nước Lào được thiên-nhiên ban cho 10 ngàn loại động-vật, chim cá trong đó có 25 giống quí hiếm như tê-giác Konprey, Javan, cá-sấu Siamese, chim hạc Sarus và 319 động-vật có giá-trị cao của thế-giới.
- Thái-Lan có 15 vùng sinh học đặc-biệt, 13 ngàn thảo-mộc, 86 ngàn sinh vật; trong đó là 100 loài cây, 29 giống cá, 39 loài chim, 39 loài thú có nguy-cơ diệt chủng.
- Cam-Bốt được hóa-công ban cho đến 45 loại môi-trường sống (habitat) phong-phú nhất thế-giới. Biển hồ Tonlé-Sap được UNESCO thừa-nhận là một trong 58 sinh-khí-quyển cho nhân-loại cần được bảo-vệ ngang hàng với Yellow Stone và Everglade của Hoa-Kỳ.
- Việt-Nam có lãnh-thổ chỉ 1% địa-cầu nhưng có được 10% loài cầm thú. Trong 7 giống vật to lớn mới tìm thấy thì 4 con tìm thấy tại Việt-Nam. Đặc-biệt quí hiếm là giống chim hạc, chim cò ở Tam-Nông chưa từng được thấy ở bất cứ nơi nào từ trước tới nay.
Sông dài rừng thẵm đã cưu-mang kho-tàng sinh-thái đa dạng, đang bị hũy-hoại vì nạn đốn gỗ và khai-thác tài-nguyên của con người. Bản tường-trình của cơ-quan ESCAP Liên-Hiệp-Quốc cho biết rừng che phủ 70% châu Á (vào năm 1945) nay còn lại 20%, đó là nguyên do gây lũ-lụt nặng-nề năm qua.
Những năm sắp tới, khi các đập thủy điện to lớn ngăn chận dòng Mékong thì hệ sinh-thái đa dạng và sinh-vật phong-phú trong lưu-vực đi về đâu?
* Nhân loại đã có tầm nhìn xa và rộng về mối nguy-hại ngấm ngầm và lâu dài do các đập triệt sông, các hồ nhân-tạo, nên đã có quyết-định:
- Tại Hoa-Kỳ, thế-kỷ 21 trở thành kỷ-nguyên tháo nước các hồ chứa, phá bỏ đập để phục-hồi sinh-thái tự-nhiên cho các dòng sông. Tiêu-biểu nhất là đề-án tháo 4 hồ nước tại Columbia và Lake Powell trên sông Colorado ở Glen Canyon Dam (Lake Powell là hồ nhân-tạo lớn bậc nhì của cả Tây bán cầu).
Dân chúng Úc từ năm 1967 đã bắt đầu chống-đối mạnh-mẽ các dự án thủy điện không cần thiết lại gây tai-hại tại Tasmania. Họ đã đình-chỉ được dự-án Gordon-under-Franklin. Họ đã bàn-thảo với kỳ-vọng phục-hồi Lake Pedder ở đó trở về nguyên-thủy vào những năm đầu thiên-niên-kỷ 2000.
* Tuyên-ngôn về sông Mékong năm 1999 đã cảnh-giác các nước trong lưu-vực sông nầy về nguy-cơ sẽ đến do việc phát-triển đập thủy điện. Trong những năm qua, việc phát-triển đã không ngừng, nhưng việc phát-triển phải thật sự bền vững không gây ra hậu-quả tai-hại mới được phép thực-hiện để dân-cư Cam-Bốt và Việt-Nam còn giữ được đồng ruộng, bát cơm, nồi cá của họ về lâu về dài, đó là điều chúng ta đòi-hỏi cơ-quan World Commission on Environment and Development của Liên-Hiệp-Quốc trong hiệp-đồng 1995 đã cho rằng:
-“Phát-triển bền-vững thỏa-mãn nhu-cầu hiện tại mà không gây phương-hại đến khả-năng đạt được nhu-cầu của thế-hệ mai sau” (Sustainable development meets the needs of the present without compromising the ability of future generations to meet their own needs).
Định-nghĩa nầy quá khái-quát, chỉ nói đến nhu-cầu không thích-hợp với Mékong vì sự tương-liên về lãnh-thổ, về dân-tộc do sông nầy chi-phối. Phải bổ-túc vào định-nghĩa ấy như sau mới áp-dụng đúng với lưu-vực Mékong:
-“Phát-triển bền vững là tiến-trình sử-dụng và khai-thác tài-nguyên thiên-nhiên để mang lợi-ích cho một số người nhưng vẫn bảo-vệ quyền-lợi của tất cả dân cư đang cùng chia-xẻ kho tài-nguyên ấy không kể biên-giới quốc-gia”.
Có nghĩa là phát-triển bền vững phải không gây cạn kiệt tài-nguyên, phòng chống mọi tai-họa, bảo-vệ môi-sinh không thoái-hóa thì mới đáp-ứng được nhu-cầu các dân-tộc Mékong hôm nay và con cháu về sau của họ.
3- Cửu-Long cạn dòng, biển Đông dậy sóng.
Năm 1974, Cộng-sản Trung-Quốc (được Cộng-sản Bắc Việt đồng thuận) đã đánh chiếm quần-đảo Hoàng-Sa của Việt-Nam Cộng-hòa rồi vòi bạch-tuộc Trung Cộng lại chòm đến quần-đảo Trường-Sa tranh cướp chủ quyền của các nước gần quần-đảo: biển Đông dậy sóng, điều nầy không ai tiên liệu được. Đầu thế-kỷ 21, Trung-Quốc xây đập triệt dòng thượng nguồn sông Cửu-Long: Cửu-Long cạn nước, hậu-quả khôn lường!
Những sự việc ngạo-mạn, kẻ cả ấy của CS Trung-Quốc biểu-hiện chính-sách bành-trướng bá quyền, cậy lớn mạnh để chơi ác, chơi xấu với láng-giềng.
Tổ-tiên của Hán tộc, từ thời Đông Châu liệt quốc đến thời Tam Quốc thường dùng chiến-thuật đắp đập chặn nước trên nguồn cho địch quân trong thành chết khát, rồi lại phá vỡ đập cho thác nước dâng lên ngập thành để dìm chết đối-phương. Vốn là nghề của chàng, với bổn cũ soạn lại, dai-dẳng mà tai-hại hơn.
Nước trên sông Mékong là tài-nguyên chung của 7 nước trong lưu-vực, không quốc-gia nào được độc-quyền. Lào đã xây nhiều đập trên sông nhánh là phụ-lưu chảy vào Mékong, sử-dụng nguồn nước phát-xuất trong đất Lào là quyền của họ. Nhưng Trung-Quốc chặn ngang dòng sông mẹ là dòng chính thì không thể chấp-nhận. Sự phát-triển cục-bộ của nước nầy lại phá-hoại sự cân bằng môi-sinh vốn có của các nước khác là trái với công-ước quốc-tế.
Tưởng cũng nên nhắc lại dưới thời TT Ngô-Đình-Diệm đã có dự-án xây cầu qua sông Cửu-Long gặp phải sự phản-đối của Quốc-Vương Cam-Bốt là Sihanouk, lấy cớ cầu cản-trở lưu-thông của tàu thuyền lớn trên thủy-lộ quốc-tế. Phải thay-đổi kế-hoạch bằng cầu treo (như cầu Mỹ-Thuận trên Tiền Giang hiện nay) thì phải tạm hoãn vì chiến-tranh phá-hoại của Việt Cộng phát-khởi từ năm 1960.
Nước ta đã tôn-trọng công-ước quốc-tế. Dân-số thế-giới không ngừng gia-tăng cùng với bàn-tay vạn năng của khoa-học kỹ-thuật ngày một vươn dài làm cho quả đất như ngày càng nhỏ lại. Hiện-trạng nầy dẫn đến những tranh-chấp về quyền-lợi sinh-tồn tất phải xảy ra. Mọi tranh-chấp đều có thể thương-thảo qua Liên-Hiệp-Quốc trên nguyên-tắc bình-đẳng.
Vấn-đề Trung-Quốc triệt dòng Mékong là một thử-thách về khả-năng ứng xử của chính-phủ CHXHCN Việt-Nam, bắt buộc đảng Cộng-sản Việt-Nam phải lựa chọn giữa quyền-lợi của Tổ-quốc và Dân-tộc với tình đồng-chí của hai đảng Cộng sản Hoa-Việt.
Connecticut, tháng 6-2001
Trương Quang