MỘT THOÁNG HƯƠNG XƯA:
“…Ôi, dòng sông, cánh đồng năm ngàn năm của chúng ta, mênh mông, thanh thản dưới mắt nhân loại kẻ nào mà làm hoen ố nổi?…”
Thuở xưa, hơn bốn mươi năm rồi, trong “Tiền Kiếp” của “Gìn Vàng Giữ Ngọc”, Doãn Quốc Sỹ đã mạnh dạn, tự hào viết như vậy.
”Gìn Vàng Giữ Ngọc”. Sao mà cái tên cuả tác phẩm đẹp đến vô cùng! Không ít người đã quên khuấy đi mất cái nguồn gốc từ truyện Kiều:
Gìn vàng giữ ngọc cho hay.
Cho đành lòng kẻ chân mây cuối trời
mà Kim Trọng đã ân cần dặn dò Thúy Kiều trước khi giã biệt về nhà hộ tang chú. Nhất định cụ Nguyễn Du chẳng những đã không trách họ Doãn mà còn vui mừng khi thấy hậu thế đã biết khéo léo dùng lại ngôn ngữ của mình để khuyên nhủ thế nhân.
Còn nữa, Doãn Quốc Sỹ còn nhiều tác phẩm mà tên gọi vừa đẹp, vừa ý nghĩa như: “Dòng Sông Định Mệnh”, “Ba Sinh Hương Lửa”, “Trái Cây Đau Khổ”...
Cùng với “Lỡ Bước Sang Ngang” của Nguyễn Bính, “Ngàn Năm Một Thuở” của Hồ Hữu Tường, “Vang Bóng Một Thời” của Nguyễn Tuân... đó là những tác phẩm có tên gọi hay nhất, đã trở thành những điển tích mà nhiều người hay mượn tiêu đề để trích dẫn nhiều hơn là nội dung của tác phẩm...
Nhưng khi nói đến Doãn Quốc Sỹ là nhiều người nói đến “Dòng Sông Định Mệnh”, tác phẩm đã gây xúc động trong lòng rất nhiều người từ năm 1959.
Tôi đã yêu Dòng Sông Định Mệnh từ đó, thuở mà tâm hồn còn xanh tươi, bầu nhiệt huyết còn đầy ắp. Mãi đến ngày nay, đôi khi nhắm mắt ôn lại một thoáng hương xưa thân yêu đó, tôi vẫn còn tìm lại được nguyên vẹn cái cảm giác đầy rung động, thích thú khi đọc Dòng Sông Định Mệnh:
Ôi nắng vàng sao mà nhớ nhung
Có ai đàn lẻ để tơ chùng
Có ai tiễn biệt nơi xa ấy
Xui bước chân đây cũng ngại ngùng.
(Huy Cận)
Dòng sông gợi cho chúng ta nhiều cảm giác, lắm suy tư: khi nỉ non tâm sự, lúc ôm ấp hiền hoà, khi giông tố ba đào, lúc trầm tư mặc tưởng. Dòng sông còn gợi cho chúng ta biết bao là kỷ niệm mà bụi thời gian đã phủ mờ theo năm tháng:
Con nước ấy đã bao lần sóng vỗ
Chút tàn phai đọng lại dưới chân cầu
(Hà Nguyên Thạch)
Ta ngồi lại bên cầu thương dĩ vãng
Nghe giữa hồn cây cỏ mọc hoang vu
(Hoài Khanh)
Nhưng có ai chận đứng được thời gian nên phương Đông đã tra vấn nước sông:
Chảy mãi như thế này ư chẳng kể ngày đêm?
Và có ai tìm lại được những ngày xưa thân ái nên phương Tây đã than thở:
Người ta không thể tắm hai lần trên một dòng sông.
Với Doãn Quốc Sỹ thì khác!
Dù thời gian có hững hờ trôi như nước chảy qua cầu, dù cuộc đời có gây nhiều đau thương, tang tóc cho nhân thế, dù cuộc thế có đầy rẫy lọc lừa phản trắc, dù cầu Hiền Lương qua sông Bến Hải thuở đó như là một vết thương còn rướm máu mà Định Mệnh vừa mới tàn nhẫn chia cắt đất nước thân yêu... Doãn Quốc Sỹ vẫn một lòng tự hào tin tưởng: "Cánh đồng và dòng sông năm ngàn năm của chúng ta kẻ nào mà làm hoen ố nỗỉ".
XUÔI DÒNG THỜI GIAN
Là độc giả thường xuyên của Bách Khoa, tờ báo có tuổi thọ cao nhất và thành công nhất ở miền Nam trước 1975, ngoài những bài vở giá trị về nhiều phương diện, có một dạo tôi rất thích thú với những bài phỏng vấn tài tình “Sống Và Viết Với...” của Nguyễn Ngu Í. Bài viết về Doãn Quốc Sỹ là bài xuất sắc nhất - theo tôi - trong loạt những bài phỏng vấn này và sau được Nguyễn Ngu Í cho in thành sách với tên gọi như trên (Ngèi Xanh xuất bản 1966. Ngèi Xanh là chữ của Nguyễn Ngu Ý). Ngoài những chi tiết liên quan đến Sống Và Viết... của Doãn Quốc Sỹ, điều mà cho mãi tới ngày nay vẫn còn ghi đậm trong tôi là bức hình chớp toàn gia đình của ông. Bà Doãn Quốc Sỹ với nét dịu hiền thanh tú của một mệnh phụ Việt Nam (bà là con nhà thơ Tú Mỡ Hồ Trọng Hiếu) cùng ông và rất đông con (đông thật!) mà cô nào cậu nấy đều tươi cười, xinh xắn. Đặc biệt là những đôi mắt: tất cả đều tròn xoe, trong sáng!...
Đọc sách của ông, cảm được tấm lòng đôn hậu và nhân ái của ông, hiểu được tình yêu dân tộc Việt Nam tha thiết của ông, thấy được niềm tin bao la và sâu sắc của ông về chân-thiện-mỹ cho nhân thế, biết được cuộc sống của ông: dạy học (Trung và Đại Học), viết văn, chủ trương nhà xuất bản Sáng Tạo, xem hình cả gia đình ông... đã cho tôi đi đến kết luận:
Đó là mẫu người lý tưởng cho một xã hội Việt Nam lý tưởng!
Trên đây là tất cả những điều tôi biết về Doãn Quốc Sỹ trước năm 1975.
* * *
Trong 9 năm tù ngục có thời gian dài tôi ở nhà giam Kim Sơn và Nước Nhóc (K18) thuộc tỉnh Nghĩa Bình (Quảng Ngãi và Bình Định sát nhập) và cùng làm chung một bộ phận lao động với một nhà nho ẩn danh (anh LVT). Anh làm thơ rất hay, có kiến thức về Hán văn rất rộng và đặc biệt là biết rất nhiều về những nhà văn, nhà thơ ở miền Nam. Theo anh thì nhân loại đã và đang bị lún sâu vào cuộc chiến tranh lạnh tranh chấp giữa hai khối (dạo đó). Nếu những tác phẩm của ông Doãn được dịch ra Anh hoặc Pháp văn để loài người đọc và suy gẫm về cái tâm của ông cho tình yêu (gia đình, bằng hữu, quê hương, nhân loại), về tấm lòng cương quyết và tin tưởng hướng đến chân-thiện-mỹ của ông... thì những điều đó sẽ có ảnh hưởng sâu đậm và Doãn Quốc Sỹ xứng đáng nhận giải thưởng Nobel về văn chương. Chúng tôi cũng bàn đến những tác phẩm và văn tài của Võ Phiến, nhà văn Bình Định chòm xóm gần gũi từ thuở “Mùa Lúa Mới” mà chúng tôi rất quý kính để có cùng chung một kết luân:
Doãn Quốc Sỹ và Võ Phiến là hai nhà văn tiêu biểu ở miền Nam về văn tài, về lập trường Quốc Gia - Dân Tộc và về tư cách và đạo đức.
* * *
Sau vài chuyến vượt biển thất bại, bị bắt, vượt ngục, cuối cùng tôi đến được trại tị nạn Galang ở Nam Dương năm 1984. Một hôm tôi đang ngồi tại văn phòng Trung Tâm Thiếu Nhi Không Có Thân Nhân (Unaccompanied Minors Center) thì anh bạn Chủ Tịch Ban Đại Diện Cộng Đồng đưa một thanh niên đến thăm và giới thiệu:
- Đây là trưởng nam của nhà văn Doãn Quốc Sỹ đang dạy level C (trình độ cao nhất của ESL).
- Có phải em đang cho đăng truyện của bố trên tờ Tự Do không? (Tự Do là tờ báo Việt Ngữ của trại).
- Sao anh biết?
- Trước kia ai đã đọc nhiều sách của bố thì, dù bố có ký dưới bút hiệu nào đi nữa, khi đọc truyện người ta sẽ nhận ngay ra văn phong của bố...Tôi cố nhớ lại tấm hình chớp toàn gia đình của Doãn Quốc Sỹ trên Bách Khoa thuở trước để đối chiếu với anh bạn thanh niên trắng trẻo, đẹp trai, ăn nói nhỏ nhẹ, lễ phép này.
Vài tháng sau đó, một buổi sáng, anh ăn mặc chỉnh tề, vai đeo chiếc xách nhỏ vội vàng ghé lại thăm tôi trước khi lên đường sang Úc định cư . Việc này đã thực sự làm tôi cảm động vì ai đã từng ở trại tị nạn đều biết là ngày cuối cùng vô cùng bận rộn và vội vàng: nào phải lo hoàn tất những thủ tục cần thiết bắt buộc của Cao Ủy tị nạn, của cơ quan IOM, nào phải lo soát xét lại hành trang cá nhân, nào kẻ còn ở lại nhờ nhắn tin, gởi thư, nào bằng hữu đưa tiễn... nên nhín một chút thì giờ tạt lại thăm nhau quả thật là đặc biệt qúi giá.
THÊM MỘT PHỤ TRANG
Mãi đến năm 1996 tôi mới có duyên gặp tác giả Dòng Sông Định Mệnh khi cả hai chúng tôi được Cộng Đồng Việt Nam tại Wichita - Kansas mời nói chuyện trong dịp lễ kỷ niệm 30 tháng 4. Anh bạn Lê Hồng Long, Chủ nhiệm kiêm Chủ bút tạp chí Thế Giới Ngày Nay đã dành cho chúng tôi sự tiếp đãi ân cần, chu đáo khó kiếm. Chúng tôi mỗi người ở một phòng riêng với đầy đủ tiện nghi tại nhà anh. (Hoàn toàn trong tình văn nghệ chứ anh không có trách nhiệm gì trong cộng đồng hay trong ban tổ chức ngày lễ). Sau những phút xã giao ngắn ngủi chúng tôi dễ dàng trở nên tương đắc khi tâm sự...
Vâng, tôi đang đối diện với tác giả Dòng Sông Định Mệnh. Dù đã qua tuổi cổ lai hy, với nhiều năm dài trong tù ngục nhưng anh vẫn còn mạnh khoẻ từ thể xác đến tinh thần. Dáng cao, gầy, nước da ngăm đen, khuôn mặt chữ điền. Đôi mắt sáng, vừa hiền hòa vừa cương quyết. Nụ cười cởi mở, bao dung. Nói chuyện với anh tôi có cảm tưởng như mình đang hầu chuyện với một bậc thiền sư vì anh lắng nghe từng chi tiết nhỏ, anh tâm tình chậm rãi, khoan dung trong tinh thần hồn nhiên, phá chấp...
Đề tài anh nói chuyện với Cộng Đồng là: “Đời Sống Văn Nghệ Sĩ Trong Lao Tù Cộng Sản”. Anh nói nhỏ nhẹ như đang chia xẻ với bằng hữu thâm giaọ Anh kể một vài mẫu chuyện thoạt nghe tưởng như chẳng có gì đáng nói nhưng gẫm lại thì rất chí lý. Bởi vì anh nói bằng cả con tim của anh. Do đó phải nghe anh bằng cả tâm hồn mình mới tâm đắc được hết tâm sự anh muốn giải bàỵ Nhà văn Võ Đình đã rất chí lý khi viết về Doãn Quốc Sỹ trong ngục tù:
Ngày nay, dẫu có đắng cay khổ nhục mấy đi nữa, ông vẫn còn nhìn với đôi mắt thương hại những công tố viên đang xỉa xói ông, những cán bộ chấp pháp đang truy vấn ông, những cai tù đang kềm giữ ông. Và như vậy ông mới có "Tự Do", cái tự do ông trả với tất cả đau đớn ê chề cả thể xác lẫn tinh thần. Trái tim ông vẫn không suy suyễn. Bạo lực có thể uy hiếp ông. Nhưng bạo lực không cách gì đập nát trái tim ông và đặt vào đó lò lửa căm thù. Ông chỉ căm thù bạo lực, ông không thể căm thù con người, dù đó là con người dùng bạo lực để hành hạ ông...
Vâng, chìa khóa của kiếp nhân sinh là cái "Tâm". Các vấn nạn trên thế giới nói chung và của Việt Nam nói riêng chỉ có thể giải quyết bằng cái "Tâm"...
Ba ngày tại Wichita - với lòng hiếu khách đặc biệt của anh Lê Hồng Long và gia đình - chúng tôi đã tạo được sự cảm thông quý giá và tôi thật sự vinh hạnh được anh xem như bạn hiền. Từ đó, mỗi lần biên thư cho tôi anh thường nhắc đến nhà báo họ Lê và mong có ngày gặp lại nhau ở thành phố Wichita nhỏ bé xa xôi nhưng thắm tình đồng hương của tiểu bang Kansas.
Tháng 4 năm 1999 anh Doãn Quốc Sỹ và tôi lại có dịp gặp nhau tại thành phố Dallas, Texas khi chúng tôi cùng được mời sung vào ban Giám Khảo cuộc thi truyện ngắn năm 1998 do hai tờ tuần báo Viet nam Weekly News và Người Việt Dallas tổ chức. Một chi tiết nhỏ chứng tỏ tấm lòng luôn luôn vì văn hóa dân tộc của anh. Thoạt đầu quý anh Trần Lộc, Chủ nhiệm kiêm Chủ bút tuần báo Vietnam Weekly News và anh Thái Hóa Lộc, Chủ nhiệm kiêm Chủ bút tuần báo Người Việt Dallas mời hai người điạ phương là Tiến Sĩ Đàm Trung Pháp, Giáo sư ngôn ngữ học tại Đại học ở Dallas và tôi sung vào ban Giám khảo. Tự biết mình chỉ viết lách một cách tài tử, nhưng, để khích lệ việc làm ý nghĩa này và tạo dễ dàng cho ban tổ chức, chúng tôi đã vui vẻ nhận lời. Khi thấy số người gởi bài tham dự cuộc thi khá đông (hon 100 người từ nhiều tiểu bang tại Hoa Kỳ và từ một vài nước khác), để tăng giá trị cho cuộc thi và vinh dự cho những người trúng giải, vào giờ chót, hai anh đã nhờ tôi mời anh Doãn Quốc Sỹ vào ban Giám khảo. Dù biết mời khá muộn là chuyện không phải nhưng tôi vẫn viết thư trình bày chi tiết gởi đến anh kèm theo bản sao của 31 truyện dự thi đã được ban tổ chức chọn vào chung khảo. Anh đã chấm từng truyện cẩn thận, cho điểm, ghi chú và gởi trả lại ban tổ chức trước cả anh Đàm Trung Pháp và tôi. Và anh đã về Dallas tham dự lễ phát giải thưởng.
Anh Đàm Trung Pháp, dù rất bận rộn với Lễ Giỗ Tổ Hùng Vương của Cộng Đồng, vẫn đưa chị Pháp đến thăm thầy (Giáo sư Pháp vốn là học sinh cũ của anh Doãn Quốc Sỹ). Hành động ấy, mấy lời thăm hỏi nhẹ nhàng, ngắn ngủi ấy đã nói lên cái "tình thầy trò" đậm đà cao quý cuả nền văn hóa Việt Nam đầy nhân nghĩa, thủy chung khó tìm được ở xứ này! Dạo đó tôi vừa nhận cuốn hồi ký “Việt Nam, Một Thế Kỷ Qua” do tác giả, Bác sĩ Nguyễn Tường Bách, gởi tặng. Trong sách có đoạn nói đến nhà thơ Tú Mỡ Hồ Trọng Hiếu... chất phát, hiền hậu, khiêm tốn, ít nói về mình và đặc biệt là luôn luôn đi xe đạp một cách chậm chạp, từ tốn như đi dạo mát...
Anh Doãn Quốc Sỹ rất cảm động khi đọc đoạn này cùng một số nhận xét đặc biệt nữa về nhạc phụ mình và anh đã chép ngay tại chỗ tặng tôi bài thơ cuả cụ Hồ Trọng Hiếu:
"Tú Mỡ đi xe bình bịch"
Tú rững mỡ cưỡi xe bình bịch
Máy nỗ vang sình sịch chạy như bay
Bóp còi toe như quát tháo giương vây
Khách đường cái vội rãn ngay tăm tắp
Tú nhớ thuở còn đi xe đạp
Một thứ xe chậm chạp hiền lành
Trên đường dù chuông bấm liên thanh
Khách đủng đỉnh làm thinh không chịu tránh
...Ồ ngán nhỉ ở trên cõi tục.
Con người ta bất độc bất anh hùng
Phần phát biểu trong buổi lễ phát giải anh nói về đề tài như một nhắn gởi tha thiết, nhẹ nhàng đến tất cả mọi người hãy cố gắng duy trì tiếng Việt ở miền đất mới. Anh đọc lại bài thơ Ông Đồ Già nổi tiếng của Vũ Đình Liên (thầy cũ của anh ở Hà Nội thuở xa xưa) và một nỗi buồn thấm thía gợn lên trong lòng mọi người về một viễn ảnh suy thoái, tàn lụi của tiếng Việt trong cộng đồng Việt Nam ở hải ngoại:
Nhưng mỗi năm mỗi vắng
Người thuê viết nay đâủ
Giấy đỏ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiên sầu
Ông Đồ vẫn ngồi đấy
Qua đường không ai hay
Lá vàng rơi trên giấy
Ngoài trời mưa bụi bay
Anh cũng đọc thơ của hai người bạn thân trong nhóm "Sáng Tạo". Một đã ra đi là nhà văn Mai Thảo:
Thế giới có triệu điều không hiểu
Càng hiểu không ra lúc cuối đời
Chẳng sao khi đã nằm trong đất
Đọc ở sao Trời sẽ hiểu thôi
Bốn câu thơ này Mai Thảo làm như là một linh tính báo trước ngày ra đi của mình và đã được khắc trên bia mộ của Mai Thảo ở Nam Cali . Một còn sống là nhà văn Nguyễn Sỹ Tế:
Đỉnh Trời gió quét mây tan tát
Trăng lưởi liềm ngơ ngác lạnh căm
Trăng sao giọt lệ u trầm
Trăng sao quá đổi âm thầm hỡi trăng?
Bốn câu thơ này anh dịch từ một bài thơ trong tập thơ bằng tiếng Pháp của Nguyễn Sỹ Tế kể lại thời gian hai người cùng ở trại giam Gia Trung. (Hai anh Chủ Nhiệm kiêm Chủ Bút Trần Lộc và Thái Hóa Lộc cùng nhà thơ Nguyễn Xuân Thiệp rất đáng được tuyên dương vì đã tổ chức rất chu đáo và thành công cuộc thi truyện ngắn 1998!)
Hòa trong nỗi đau khổ chung của cả dân tộc sau biến cố kinh hoàng 30-4-1975, anh Doãn Quốc Sỹ đã phải vào tù hai lần trước sau hơn 12 năm. Khổ đau từ thể xác đến tinh thần của các tù nhân do bạo quyền gây nên chữ nghĩa trần gian đâu đủ viết cho hết, tả cho tròn! Nhưng khổ đau không thay đổi được anh vì anh đã viết, từ 1965, trong Người Việt đáng yêu:
"...Không có sự trưởng thành đáng kính nào bằng sự trưởng thành trong đau khổ... khổ đau là một sự thiêng liêng ở trên thế gian này... Dân tộc Việt Nam phải là một sự thiêng liêng đối với nhân loại..."
Thuở xưa anh đã ân cần khuyên nhủ mọi người:
"Hãy quay trở về với chính mình, vun xới tâm hồn mình là chuốc lọc danh dự cho dân tộc, là gieo hương hạnh phúc cho nhân loại". (Tiền kiếp)
Và anh tha thiết ước ao:
"Niềm ao ước vĩnh cửu của tâm hồn nhân loại, và cũng là sự thực vĩnh cửu cuả vũ trụ là: bao giờ cuối cùng "thiện cũng thắng ác".
Khổ đau, bạo lực chẳng những không làm anh căm thù mà - như một sự thiêng liêng - đã làm tâm hồn anh dịu lại. Trong truyện ngắn “Người vái tứ phương”, một mặt anh diễn tả thật đầy đủ xã hội miền Nam sau bảy năm bị đọa đày bằng những từ ngữ nhẹ nhàng nhưng sâu sắc, mặt khác anh vẫn tiếp tục ân cần khuyên nhủ mọi người:
"Cuộc sống đầy rẫy những khác biệt và đụng chạm. Hãy cảm thông và bao dung những vui buồn phải trái cuả nhau... Cuộc đời tự nó đã quá nhiều phức tạp, sầu khổ, còn gây thêm sầu khổ cho nhau mà làm gì!”
Noi gương người xưa đem đại nghĩa để thắng hung tàn. Lấy chí nhân mà thay cường bạo nên Giáo sư Hoàn, dù tốt nghiệp tiến sĩ sinh vật học tại Hoa Kỳ đã không được tiếp tục dạy lại tại Đại học Khoa học, vẫn đầy lòng từ tâm thánh thiện đã bình thản, không có một lời nói hay cử chỉ thất thố nào khi đối diện với viên trung tá công an hạ trác đòi mình đến trình diện:
"Tôi rất mực điềm đạm thùy mị trả lời... Tôi trả lời như thể tự ngàn xưa vốn dĩ tôi như thế và cho tới ngàn sau tôi không thể khác hơn..."
Và giáo sư Hoàn đã chinh phục, cảm hóa được viên trung tá này. Một ghi nhận nhỏ là thuở xưa có rất ít người xấu, việc xấu trong các tác phẩm của anh nên nhà văn Võ Phiến đã viết:
"Hầu hết các nhân vật tiểu thuyết cuả Doãn Quốc Sỹ đều tốt ... Hoạ hoằn lắm mới có một nhân vật xấu..." (Văn Học Miền Nam - Truyện Tập I)
và Võ Phiến đã dí dỏm một cách khéo léo: "Đọc sách ông thơm tho cả tâm hồn". (Văn Học Miền Nam Tổng Quan).
Nhưng trong “Người vái tứ phương”, (Sau 1975) anh đã viết:
Trong cõi tương đối này chúng ta há chẳng thấy thường khi cái đúng và cái sai chỉ là đường tơ kẻ tóc, hoặc giả chính vì cái sai này mà cái đúng kia hiển hiện. Thực ra trên dòng biến dịch không ngừng nghỉ của vạn hữu, cái sai cũng mầu nhiệm như cái đúng...
Kiếp nhân sinh là như vậy đó: Cái tốt nương tựa cái xấu, nỗi buồn gắn bó với niềm vui, khổ đau quyện theo hạnh phúc.
Rồi anh tiếp tục ân cần khuyên nhủ mọi người:
"...Thế giới này là nơi cộng đồng trách nhiệm. Khi cái đẹp, cái thiện đã được khơi nguồn, thắp sáng, người ta dễ bề mở rộng cái tôi cá biệt đi vào cái ta hoà đồng...
… Bất kỳ hành động thiện, hành động đẹp nào của bất kỳ ai đều có khả năng mầu nhiệm bảo vệ giá trị sản nghiệp tinh thần của cả nhân loại...
... Khi nhân tính vươn vai thức giấc, mọi chủ nghĩa, đảng phái không thành vấn đề...."
Cuối thu năm ngoái, ở tuổi 75, trong một lá thư gởi cho tôi anh đã viết:
"...Nhà tôi ở hiện giờ còn giữ nguyên màu xanh ngút ngàn của thiên nhiên: đó là những rừng oak và thông đẹp tuyệt vời. Sáng sáng tôi cùng bà xã đi bộ độ nửa giờ, sau đó tôi đạp thêm 1 giờ bằng chiếc xe đạp được một anh học trò cũ tă.ng. Vì vậy sức khoẻ giữ đều không ốm đau vặt như thường thấy khi tới tuổi cổ lai hi của tôi...".
Trong tất cả những tác phẩm cuả anh - từ tập trường thiên qui mô và quan trọng nhất là “Khóm Rừng Lau” đến những truyện cổ, truyện ngắn, truyện vừa, truyện dài hoặc khảo luận, tuỳ bút - tình thương bàng bạc khắp cùng: Anh đã gánh trọn cái trách nhiệm luân lý nặng nề. Ngày nay, ở tuổi hoàng hôn của cuộc đời, ước mong từ miền Houston sầm uất đó, anh hưởng được đầy đủ cái hương nhân loại lâng lâng tỏa ra từ bốn phương tám hướng mà anh đã ước mơ vào một chiều bên hồ Lạc Thiện vùng Ban Mê Thuộc thuở xa xưa trong Gìn Vàng Giữ Ngọc.
Đã có rất nhiều người viết về Doãn Quốc Sỹ. Từ những vị có đầy đủ uy tín và tuổi tác trong văn giới đến những độc giả đã từng mến mộ anh và văn chương anh đã ảnh hưởng nhiều đến đời sống tinh thần của ho... Những bài viết, nhận xét thật đầy đủ, thật chi tiết. Do đó xin được gọi những dòng tâm tình này là "Một Phụ Trang" để bày tỏ lòng quý kính của tôi đối với một nhà văn hàng đầu tôi được biết qua nhiều tác phẩm và, do một duyên lành, được quen thân qua những dịp tâm tình tương đắc. Đã gọi là phụ trang - mà là một phụ trang tâm tình - thì không thể viết dài (Mà nếu muốn viết nữa thì cũng vẫn không thể nói hết những điều mình muốn viết).
Để chấm dứt bài viết tôi xin chép lại đây cảm tưởng cuả nhà văn Đổ Thiên Như về lần đầu tiên cô được gặp gỡ tác giả mà cô đã ngưỡng mộ và xem như là thần tượng từ vài thập niên qua và còn giữ mãi cho tới ngày nay tại thành phố Seattle tháng 6 năm 1995:
"Doãn Quốc Sỹ ngồi đó, và ông đúng như hình ảnh tôi tưởng tượng buổi thiếu thời. Dáng người dong dỏng, gầy, khuôn mặt nhân hậu và trí thức. Hình như bao năm cơ cực tù đày cũng không xóa mất nụ cười khoan hòa và nhân ái, cái nhân ái bàng bạc trong văn chương ông. Những dòng văn chương diễn tả được cái đẹp vô cùng nhân bản và tình người... Ông hỏi tôi có học với ông không? Tôi thưa là tôi học ở Huế, không được học với thầy nhưng văn chương của thầy đã dạy con biết mơ mộng và tư duy từ thuở hoa niên cho mãi đến bây giờ... Chỉ trong mấy giây với Doãn Quốc Sỹ mà tôi tưởng như được trở về với ngày xưa có sắc hương thầm kín lụa là... Tôi sống thật đầy, thật đẹp với vầng trăng của Doãn Quốc Sỹ. Đã qua rồi những mùa trăng trầm thống nhưng hồn tôi vẫn giữ mãi vầng trăng mười sáu nguyên vẹn của ông... Hình như thời gian đang ngừng lại, tôi đang đi trên lối xưa đầy diễm ảo và tôi đã được gặp một nhà văn biểu tượng cho tình yêu, sĩ khí và bất khuất của nhiều thế hệ. Hạnh phúc thay!”.
Dallas, Tháng 9-1999
Nguyễn Văn Quảng Ngãi
* * *
Xem bài khác cùng tác giả: click vào đây
Xem trang Tạp văn, tùy bút: click vào đây
Trở về trang chính: www.nuiansongtra.net