Diễn đàn của người dân Quảng Ngãi
giới thiệu | liên lạc | lưu niệm

 July 31, 2025
Trang đầu Hình ảnh, sinh hoạt QN:Đất nước/con người Liên trường Quảng Ngãi Biên khảo Hải Quân HQ.VNCH HQ.Thế giới Kiến thức, tài liệu Y học & đời sống Phiếm luận Văn học Tạp văn, tùy bút Cổ văn thơ văn Kim văn thơ văn Giải trí Nhạc Trang Anh ngữ Trang thanh niên Linh tinh Tác giả Nhắn tin, tìm người

  Biên khảo
CHỮ TÌNH TRONG TRƯỜNG THI HÒN VỌNG PHU CỦA VŨ THANH (Nguyên Lương)
BAN ĐIỀU HÀNH


Tháng 7 năm 2011, Vũ Thanh viết xong tập trường thi Hòn Vọng Phu tại Hoa Kỳ. Trường Thi Hòn Vọng Phu có tổng cộng 2466 câu thơ lục bát. Đây coi như tập thứ 2, vì 30 năm trước đó tác giả đã viết tác phẩm này được 1800 câu ở quê nhà nhưng bị thất lạc. Ra hải ngoại Vũ Thanh viết lại từ đầu. Thế mới biết tác gỉa đã dày công, làm một công việc sáng tác văn chương mà ít ai làm được, nhất là ở hải ngoại, nơi mà tài liệu thiếu thốn, thời gian eo hẹp, xa quê hương. Nhưng với tấm lòng luôn hướng về đất tổ cội nguồn, Vũ Thanh đã đem hết tâm huyết, khả năng thi phú của mình viết về một câu chuyện dã sử mà người dân Bình Định ai cũng biết, nhưng biết rất mơ hồ.

Câu chuyện truyền thuyết về một hòn đá trên đỉnh núi Bà, phiá Bắc xã Phước Hưng, có dáng mẹ đứng bồng con, mắt nhìn ra biển Đông. Nhưng nếu chỉ vì một tảng đá lớn trên đỉnh núi nơi quê nhà mà tác giả phải bỏ công sức, miệt mài viết trong bao năm liền, thành một truờng thi tầm cỡ, thì khó cho người đọc tiếp nhận. Nói về tích Hòn Vọng Phu ở Việt Nam thì nhiều nơi có, không riêng gì ở Bình Định. Nhạc sĩ Lê Thương đã làm nên tên tuổi với ba bài hát Hòn Vọng Phu. Nếu chỉ muốn ca tụng đức tính nhẫn nại, lo cho chồng con của người phụ nữ Việt Nam thì cũng đã có nhiều tác phẩm thơ văn từ nhiều thời ca tụng. Ở đây, Núi Bà với tác gỉa không đơn gỉan chỉ là một địa danh nơi quê nhà. Tảng đá trên núi cao đó không chỉ là hình ảnh chờ chinh phu của người chinh phụ. Và câu chuyện loạn luân, anh em lấy nhau không là một đề tài dễ để khai thác, hư cấu thành một trường thi. Theo tôi, chuyện Hòn Vọng Phu chỉ là cái cớ để Vũ Thanh gởi gắm cái tình của mình đối với đất nước, non sông, nơi quê quán tác gỉa sinh ra.

Có đi xa khỏi quê hương, mới thấy cái tình yêu nơi chôn nhau cắt rốn đó nó lớn biết chừng nào. Cũng như nhà văn Nguyễn Mộng Giác đã dấu tâm tình mình trong trường thiên tiểu thuyết Sông Côn Mùa Lũ của đất Tây Sơn, bắt đầu viết ở quê nhà, ra hải ngoại mới hoàn tất và cho xuất bản. Nhà thơ Đinh Hùng (Hoài Điệp Thứ Lang) khi di cư vào Nam, nhớ về đất Bắc ông đã viết về Thăng Long cổ trong truyện dã sử Người Đao Phủ Thành Đại La. Nhưng cả hai là truyện dài, không là trường thi. Vũ Thanh khéo léo lồng câu chuyện hoá đá của người đàn bà ôm con mòn mõi đợi chồng đi chinh chiến trở về trong bối cảnh của thời đại nhiễu nhương phân tranh Trong-Ngoài, mà kết cuộc phe Đàng Trong đã thắng và thống nhất đất nước, sau khởi nghĩa Tây Sơn.

Nói tới đất võ Bình Định, không ai quên nhắc đến người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ, người đã đánh Nam, dẹp Bắc đem giang sơn về một mối. Câu chuyện chàng Lía, một dũng sĩ đã chiêu tập anh em dựng nghĩa ở Truông Mây, lấy của người giàu chia cho người nghèo, trước thời Tây Sơn khởi nghĩa, cũng được dùng để tạo nên nhân vật chính Trần Lâm, một người anh, người chồng, người cha, một dũng sĩ cho câu chuyện thêm bi tráng, gần gũi với lịch sử hơn. Có thể nói nếu được phổ biến và tiếp nhận rộng rãi, trường thi Hòn Vọng Phu của Vũ Thanh sẽ là một bộ sử thì hùng tráng cho người Việt, giống như những bộ sử thi truyền khẩu của dân tộc miền núi Bana, Ê Đê đã truyền từ đời này sang đời khác. Câu chuyện nửa hư, nửa thực, nửa dã sử, nửa chính sử. Trong huyền thoại cổ tích mơ hồ có gói ghém những mảnh đời thường. Chiến thắng hiển hách của khởi nghĩa Tây Sơn cũng được khơi nguồn từ những hy sinh của đám dân nghèo vùng lên đòi quyền làm chủ đồng ruộng của mình.

Trong kho tàng văn chương Việt Nam, đã có những đại tác phẩm văn vần, dùng khổ thơ lục bác để chuyển tải câu chuyện cho dễ đến tai người nghe và dễ truyền tụng trong dân gìan. Nếu Nguyễn Du viết Truyện Kiều trong thời suy vong của nhà hậu Lê và qua câu chuyện của nàng Kiều, ông muốn nhấn mạnh đến chữ TÂM, tấm lòng:

“Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ Tài”.

Đến thời Pháp thuộc, nhà nho Nguyễn Đình Chiểu viết Lục Vân Tiên, mục đích của ông không ngoài việc nhắc nhở thanh niên thời đó một chữ TRUNG trinh, tiết nghĩa:

“Trai thời Trung-Hiếu làm đầu”

Hai tác phẩm tiêu biểu trên thấm nhuần triết lý Khổng Mạnh, Nho gia, đã được hư cấu, và dùng điển tích xưa để nói chuyện ở nước ngoài. Hòn Vọng Phu, với tôi, Vũ Thanh đã viết về một sử tích Việt, trên dất nước Việt, trong tinh thần Việt. Ở đây tác gỉa muốn gởi gắm một chữ TÌNH: Tình đồng bào đùm bọc nhau giữa những người dân thời tao loạn. Tình thương của gia đình, cha con, anh em gắn bó. Tình yêu của trai gái, chồng vợ keo sơn . Và nhất là cái Tình với non sông đất nước trong thời đại nhiễu nhương.

Bài viết này tôi muốn cùng bạn đọc lần dở lại từng trang, phân tích chữ TÌNH trong trường thi Hòn Vọng Phu của Vũ Thanh.

Tình Đùm Bọc Đồng Bào

Hơn 300 năm Trịnh-Nguyễn phân tranh, cung Vua, phủ Chúa, Trong-Ngoài “bôi mặt đá nhau” người dân Việt hai miền sống trong cảnh lầm than cực khổ của chiến tranh tương tàn, bị bóc lột dã man của bọn quan lại cầm quyền:

Bao năm cốt nhục đoạn tình
Đồng bào trăm họ điêu linh thảm sầu (tr.18)

Đoàn Phong, một võ tướng đời nhà Lê, góa vợ, từ quan, bỏ quê hương Đàng Ngoài, đem hai con vào Đàng Trong, ngụ tại cữa biển Thuận An, chờ thời. Vì uất hận trước cảnh:

Nước nhà đang cảnh thanh bình
Mà đây đó tiếng dân lành oán than (tr. 62)

Ông đã dốc tâm rèn dạy con trai Đoàn Phi kiếm cung để mai kia hữu sự. Thời loạn lạc người dân không chịu nổi cảnh trâu ngựa nên khắp nơi nhiều dũng sĩ đã đứng lên dựng nghĩa, chống lại triều đình, trong đó tại đất Qui Nhơn có Chàng Lía, cát cứ ở Truông Mây. Hình ảnh một Chàng Lía con nhà nghèo mà biết phận làm trai, oai dũng đứng lên:

Cả đời ghét đắng ghét cay
Những phường độc ác những tay lắm điều (tr. 68)

Nên tâm nguyện:

Ta cùng khổ từ sơ sanh
Nên thương xót đám dân lành lầm than
Mới đi cướp của tham quan
Cường hào ác bá phát sang người nghèo (tr. 71)

Trần Lâm (tên mới của Đoàn Phí) cảm kích tính hào hiệp của Chàng Liá và thuận theo đám nghĩa quân để trừ gian diệt bạo:

Nguyện thề đồng tử đồng sinh
Dưới trăng chén nghĩa chén tình lâng lâng (tr. 67)

Cả hai cùng hợp lực, chiêu binh mãi mã:

Khắp nơi loạn lạc nhiễu nhương
Lòng người than oán còn đương đợi chờ (tr. 71)

thế nên:

Bọn ta hành đạo thay trời
Lấy tiền ác bá giúp đời cùng đinh (tr. 57)

Trong thời loạn, vua quan không lo cho dân thì người dân đùm bọc, lo cho nhau. Vũ Thanh đã khéo dùng những hình ảnh tương phản của hai chàng trai: một là thất học dân dã, một là gốc con nhà quan, thời loạn lạc cả hai cùng có chung chí hướng, cùng nhau dấn thân trừ bọn ác. Hai người thanh niên, vì tình thương đồng bào mà quên thân mình dựng cờ đại nghĩa. Câu chuyện Chàng Lía, như một khởi đầu để gìới thiệu một phong trào kháng chiến nông dân, áo vải cờ đào, của anh em nhà Tây Sơn khởi nghĩa thống nhất đất nước về sau. Những câu thơ nói về giai đoạn lịch sử này, tác gỉa đã phát hoạ một hình ảnh điêu tàn, thảm khốc, khổ sở mà người dân lành nhận chịu. Họ không còn gì để mất ngoài sự vùng lên đấu tranh để tiêu diệt một triều đình mục rữa, quan liêu. Những câu thơ đau từng khúc ruột này có thể dùng để diễn tả hoàn cảnh người dân nghèo ở bất kỳ thời đại nào, không chỉ thời Trịnh-Nguyễn. Những biến cố xảy ra trên đất nước thời Vũ Thanh lớn lên có lẽ đã ảnh hưởng không ít cảm nhận xác thật nên tác gỉa đã gởi gắm những trừng trải của mình qua hai nhân vật nam chính trong câu chuyện. Can qua những biến loạn, sinh ra khi đất nước đã chia đôi, lớn lên trong bom đạn, những người thanh niên thời của Vũ Thanh đau đớn nhìn đời, đè nén hoài bão trong tâm thức, uất hận trước những bất công có khác gì thời của Trần Lâm, Chàng Lía. Nhờ biết, sống và cảm thông nỗi đau của người dân quê cùng khổ, nhờ có một thời lội ruộng, chăn trâu, Vũ Thanh đã gởi hết nỗi lòng mình trong những câu thơ nói lên hoàn cảnh và thân phận người dân nghèo, luôn là nạn nhân của mọi thời đại. Qua Trần Lâm, hoài bão của Vũ Thanh là:

Thay cha diệt lũ ác gian
Giúp dân giữ nước bình an cõi bờ (tr. 43)

Tình Yêu Thương Gia Đình

Ông quan nhà Lê, Đoàn Phong vì thương hai con mà bỏ quê vào Nam lánh nạn. Ông không đi tìm sự bình yên, mà tìm tương lai cho người con trai Đoàn Phi nối nghiệp mình, làm rạng danh giòng họ:

Ước mong con nối chí hùng
Nếp nhà nghiêm dạy truyền dòng binh thư (tr. 22)

Ông cũng thương lo cho con gái Quỳnh Như:

Ẩn tàng ngọc cốt, tâm hoa
Được ông trân qúi hơn là ngọc châu (tr. 22)

Đoàn Phi cũng thương lo cho em Quỳnh Như hết mực, nhất là khi lỡ tay làm cho em gái bị thương, tưởng em đã chết rồi, vì sợ phản ứng của Cha khi biết sự thật nên bỏ nhà trốn đi biệt. Người Cha buồn rầu vì mất đứa con trai. Ông phẫn uất qua đời:

Hờn tuyệt tự, hờn giang sơn
Vô phương phát tiết, khí hờn công tâm (tr.24)

Quỳnh Như từ đó sống đời côi cút:

Thương thân bé bỏng Quỳnh Như
Từ nay côi cút sống như không nhà (tr. 26)

Để nói lên sự tương phản giữa cảnh gia đình êm ấm và lúc tan nát chia ly, Vũ Thanh đã đưa vào câu chuyện Quỳnh Như bị gia đình người Mẹ nuôi nhẫn tâm hành hạ:

Một ngày mấy bận rầy la
Khi thì đay nghiến khi là đòn roi (tr. 26)

rồi thêm:

Mùa Đông gió Bấc gió Tây
Rét căm căm rét không may áo hàn (tr. 27)

Những câu thơ thật ai oán, đau lòng trong đoạn tả cảnh Quỳnh Như ở đợ nhờ nhà hàng xóm, bị bóc lột, bị đem bán cho quan gia làm ta liên tưởng đến cảnh Thúy Kiều bị Hoạn Thư hành hạ làm nhục trong Truyện Kiều. Ai đã thương cảm cho nàng Kiều bao nhiêu thì khi đọc đến những câu thơ này mới thấy cái tài của Vũ Thanh cũng đã làm cho ta rơi lệ bấy nhiêu. Nhưng nỗi đau càng làm ta đau hơn vì Quỳnh Như còn bé dại mà phải cam chịu đọa đày:

Nhớ cha nhớ mẹ nhớ anh
Co ro em khóc phận mình trong chăn
Bé thơ lòng đã gía băng
Biết thân tầm gửi hé răng bằng thừa (tr. 27)

Khi nghĩ tới người anh bỏ nhà đi biệt, Quỳnh Như đau đớn nhớ người:

Tủi lòng bất tuyệt nhớ nhung
Thương anh biết có tao phùng được chăng (tr.27)

May mắn cho Quỳnh Như, cô được đem bán vào một gia đình nhà quan. Ông Quan giòng Tôn Thất không có con, nhận Như làm nghĩa nữ. Ông quan ở ẩn, dạy cho Như ngón đàn độc huyền, loại đàn được chính ông, một người Việt, sáng tạo ra, không phải vay mượn của Tàu. Khi xưa, Nguyễn Du tả cảnh Thúy Kiều bị buộc đánh đàn mua vui cho Thúc Sinh nên mới có câu: “Sáu dây nhỏ máu trên đầu ngón tay”. Ở đây, Vũ Thanh đã tả cảnh và tâm trạng của Quỳnh Như khi chơi đàn Nam Cầm cho chính mình, thật tuyệt vời. Lời thơ trọng đoạn này đau đớn, ngậm ngùi, ai oán. Dùng tiếng đàn để nói lên nỗi lòng mình, Vũ Thanh đã cho Quỳnh Như tâm sự nỗi cô đơn với chính mình. Người con gái 14 tuổi đơn độc bên cây đàn một dây, trong đêm thanh vắng:

Một dây rơi tiếng ngậm ngùi
Cõi lòng trút xuống sụt sùi một dây
Một dây ai oán sầu vây
Bao nhiêu tủi hận bấy nay chảy tràn
Lệ tuôn ướt đẫm cung đàn
Lời ca vô khúc, ngút ngàn thê lương (tr. 32)

Trần Lâm, sau thời gian bỏ nhà đi biệt, một hôm thấy nhớ gia đình quay về chốn cũ:

Bùi ngùi tấc dạ qui hương
Mảnh trăng cố quận, hồi chuông đêm sầu (tr. 74)

mới nghe người hàng xóm báo tin buồn là cha đã qua đời và người em gái có thể cũng đã quyên sinh:

Hận đời, tủi kiếp má hồng
Nghe đâu cô đã đáy sông tự trầm (tr. 74)

Trần Lâm ra thăm mộ Cha:

Lỗi lầm vò xé lương tâm
Lắng nghe sóng bể trầm luân dậy lòng

Rồi ra bờ sông khóc em:

Em tôi đã chết ngậm ngùi
Thuyền hoa xin chở hồn người tuyết trinh (tr. 75)

Oái ăm thay, sau này hai anh em ruột gặp nhau mà không biết, phải lòng, lấy nhau vì thương cảm cho cùng hoàn cảnh:

Hai cuộc đời, một phong ba
Cũng là mất mẹ, mất cha lâu rồi (tr. 98)

Rồi một lần chải tóc cho vợ, tình cờ Trần Lâm biết được sư thật:

Vợ hiền còn ấm vòng tay
Đã thành em gái thơ ngây thuở nào (tr. 118)

Và anh đã đập đầu tạ lỗi với mẹ cha:

Cha mẹ ơi! nếu hiển linh
Xin tha con tội tày đình đã mang
Hai lần hại đứa em ngoan
Lại thêm trọng tội loạn luân với đời (tr. 118)

Đau khổ vì ngang trái, phần thương em gái chịu nghịch cảnh, phần thương thân mình đã lầm lỡ oan khiên, Trần Lâm đau khổ chịu hy sinh, tìm con đường ra đi để thoát khỏi cảnh loạn luân, oái oăm:

Xuân hồng em hãy còn son
Làm sao cho khỏi héo hon đời nàng
Làm sao cho khỏi bẽ bàng
Làm sao quên hết muôn vàng đắng cay (tr. 120)

Trước khi vĩnh biệt ra đi, Trần Lâm đã không quên nhờ người bạn Phan Sinh trông nom giùm vợ con mình:

Lỡ ra gặp chuyện không may
Đành nhờ huynh ở lại đây chu toàn
Thay đệ chăm sóc vợ con
Thì ân tình ấy suối vàng khắc ghi (tr. 125)

Ra đi tìm cái chết để đền tội với gia đình, Trần Lâm đức từng khúc ruột từ giã vợ con:

Đếm từng những bước bước xa
Để nghe vạn kiếp rời xa gia đình
….
Tội cha dứt núm ruột mình
Để cho trẻ dại trở thành mồ côi (tr. 131)

Trong khi đó Quỳnh Như hoàn toàn không biết chuyện loạn luân đã xảy ra giữa mình và người anh máu mủ, cô cứ nghĩ chồng mình ra đi vì nghĩa vụ nên cố nén đau thương để chàng ra đi không bịn rịn:

Tiễn chồng gánh nợ non sông
Nửa lòng kỳ vọng, nửa lòng tái tê
Ra đi làm cuộc trở về
Tử sinh chàng chịu lời thề thiếp mang (tr. 129)

Bị dằn xé giữa một bên là tình yêu vợ chồng, một bên là tình thương máu mủ, Vũ Thanh đã khéo léo diễn tả từng cử chỉ, cảm nhận nội tâm của hai người trong cuộc, làm người đọc cảm thấy thương cảm, không trách móc, không lên án. Tác gỉa đã cho nhân vật Trần Lâm sống với những nội tâm dày xéo, đau đớn khi biết sự thật. Cùng lúc cũng cho ta thấy Quỳnh Như thơ ngây bé bỏng, sống hạnh phúc với người chồng mà cô ngưỡng mộ, hết mực yêu thương và đứa con thơ trong mái gia đình êm ấm. Trần Lâm mạnh mẽ, dứt khoác bấy nhiêu thì Quỳnh Như yếu đuối, lưu luyến bấy nhiêu. Như bao người con gái khác, đời sống tuổi thơ với gia đình tan tác, lớn lên gầy dựng được mái ấm gia đình của riêng mình, Quỳnh Như trân qúi nâng niu coi đó như một chỗ dựa cuối cùng đời mình. Cô tin tưởng tuyệt đối là chồng cô ra đi nhưng không lâu sẽ ca khúc khải hoàn trở về trong niềm vui chiến thắng:

Người đi cố bước đi mau
Người về trắng những canh thâu nhớ người (tr. 62)

Tình yêu trai gái, vợ chồng

Ngòi bút của Vũ Thanh bay bướm, thăng hoa hẳn lên khi viết về những cảnh tình yêu lãng mạn lứa đôi. Và đây là sở trường của tác gỉa thi nhạc sĩ. Đọc toàn bộ tập thơ gần 2500 câu, tôi thích nhất là những câu tác gỉa diễn tả về tình yêu. Bên cạnh những câu thơ buồn bã nói về chiến tranh, đói khổ. Những câu thơ đau đớn nói về tủi nhục thân phận. Những câu thơ oai phong tả về những cuộc đối đầu, tranh hùng giữa các cao thủ võ lâm. Tác gỉa đã dành rất nhiều đoạn, nhiều thi từ đẹp nhất để nói về cái tình, hạnh phúc và yêu đương lứa đôi của con người mà thời nào cũng có, cũng cần. Khởi đầu là câu chuyện lúc Trần Lâm về làm việc bảo vệ cho Cao Đường, một tên cự phú nhờ tập ấm, gian thương và thế lực mà giàu có. Con gái Cao Đường là Tiểu Hồng:

Tiểu Hồng ngôn hạnh công dung
Thanh cao như đóa sen hồng xinh tươi
Câu thơ nét họa toát vời.. (tr. 48)

mới gặp dũng sĩ đã đem lòng yêu mến:

Bây lâu kép kín phòng đơn
Đắp xây một giấc mộng son đợi chờ
….
Gặp đây là sự tình cờ
Hay trăm năm mối duyên tơ sẵn bày (tr. 53)

Dù biết Tiểu Hồng đem lòng yêu mình nhưng Trần Lâm vẫn dửng dưng vì lòng chàng đang trĩu nặng mối tình đồng loại:

Đàn ai than oán mái tây
Người đào bể ái ta xây thành sầu
Biết rằng duyên chẳng tròn câu
Càng đầy mê lụy càng sâu tủi hờn (tr. 56)

Sau khi nghĩa quân Truông Mây bị quan quân đánh bại, Trần Lâm được Quỳnh Như và Đức Ông săn sóc, đôi trai tài gái sắc trong gần gũi cận kề, đã phải lòng nhau:

Một người tưởng nhớ một người
Một người đang cố tìm lời trao duyên

Nhan sắc ấy, ân tình này
Thì dù ngàn kiếp đọa đày cũng xin (tr. 87)

Khi đã thành đôi, trai gái giờ là vợ chồng, lời thơ Vũ Thanh trở nên thăm thiết, du dương, đưa nấc thang tình yêu lên cao tột đỉnh:

Trăng từ độ ây ngát hương
Ngàn hoa ủ nhụy yêu đương thêm nồng
Trùng dương sóng vỗ mênh mông
Âm ba hòa nhịp sóng lòng lứa đôi
Khối tình khắn khít không rời
Bể ân ái chứa vạn lời yêu thương (tr. 98)

“Bể ân ái”, chưa ai dùng từ “bể” để chứa khối tình như ở đây. Chỉ cần đọc 6 câu thơ trên ta có thể hình dung cái độ lớn của tình yêu mà tác gỉa muốn cho ta thấy. Những chữ tượng hình như trùng dương, tượng thanh như âm ba, tượng mùi như ngát hương là những chữ với ấn tượng mênh mông, bao la, chứa trong bể ái ân. Trong khi Quỳnh Như có người đầu ấp tay gối thì chàng công tử họ Phan si tình thầm yêu trộm nhớ cô nương trong tương tư, sầu muộn:

Ngàn câu khen chỉ một lời
Một lời thôi đủ thấy đời chênh vênh (tr. 82)

Và ngàn đời ôm mối hận tình:

Người đi biết có bâng khuâng
Có hay ta chết theo từng bước đi
Người về khoát áo vu quy
Có thương đến kẻ tình si không người
...
Đò tình ta đắm giữa khơi
Bể tình ta gặp một trời phong ba
Chén tình say giọt lệ pha
Hận tình ngâm khúc cuồng ca bạc tình (tr. 101)

Vũ Thanh đã khéo dựng chuyện cho Trần Lâm từ chối tình yêu của Tiểu Hồng, Đoan Trang (tên mới của Quỳnh Như) hờ hững với Phan Sinh để hai kẻ cô đơn, lạc lõng tìm đến nhau, yêu nhau mãnh liệt. Khi viết câu chuyện này không biết tác gỉa có biết đến những khám phá của khoa học đã minh chứng tại sao anh em ruột thịt bị chia lìa, không biết nhau, nếu được gặp nhau họ rất dễ đến với nhau. Một thí nghiệm ở Anh Quốc gần đây đã cho những người con gái đang tuổi biết yêu ngửi mùi mồ hôi trên áo của những người đàn ông dấu mặt. Khi hỏi mùi mồ hôi nào mấy cô thấy dễ chịu, và thích nhất.

Lạ lùng thay, kết qủa gần như tuyệt đối, mùì mồ hôi mà mấy cô thấy dễ gần và quyến rũ nhất là mùi đến từ anh trai hay cha ruột của mình. Thí nghiệm này cho ta thấy một điều là có một sự hấp dẫn và quen thuộc giữa những người khác phái nếu người đó có gì giống và gần gũi với mình. Nên ta không ngạc nhiên, ở đây Trần Lâm và Đoan Trang, sau một thời gian thất lạc, gặp lại nhau họ cuốn hút vào nhau không rời. Yếu tố di truyền và sinh lý là mấu chốt của những mối tình chung huyết thống. Ở đây, hai người trong cuộc không hề biết nhau là có chung máu mủ nên họ đến với nhau thật tự nhiên, họ không biết nên vô tội.

Trần Lâm khi biết sự thật anh tự cấu xé nội tâm mình, không cho em gái biết, anh chỉ lặng lẽ bỏ đi. Hai lần ra đi, một lần đi tìm sự sống, một lần đi vào cái chết. Một lần đi tìm tương lai, một lần đi để quên qúa khứ:

Vợ hiền còn ấm vòng tay
Đã thành em gái thơ ngây thuở nào

Con thơ giờ bế trên tay
Tay rày là cậu tay rày là cha

Bây giờ gọi vợ hay em
Bóng hình nào ở trong tim bây giờ (tr. 120)

Khi Trần Lâm bỏ ra đi để tự đày đọa mình, Phan Sinh được ủy thác lo cho vợ bạn, anh vẫn âm thầm yêu người vợ bạn mình:

Trời bắt ta phải yêu nàng
Phải yêu dù có bẽ bàng đến đâu
Đôi khi muốn dứt khối sầu
Càng cố quên, lại càng sâu bóng hình.

Phận gái một con cô đơn, chồng đi chinh chiến phương xa, không biết ngày trở lại. Bên cạnh lại có một văn nhân yêu mình hết mực, Đoan Trang với một niềm tin mãnh liệt nên vẫn một lòng trung trinh với chồng đợi ngày chàng về:

Cho dù bão tố muôn trùng
Thì chàng cũng vượt cuồng phong sống còn
Để về với vợ với con
Cho nên thiếp nguyện sắc son đợi chồng

Tạ lòng quân tử đoái hoài
Trăm năm đành để thiệt thòi cho ai
Đã không thể vẹn trúc mai
Nặng lời chỉ để cả hai thẹn lời (tr. 156)

Và kết qủa của sự chờ đợi mõi mòn trong đau khổ và tuyệt vọng đó, người thiếu phụ bồng con đã hóa đá:

Mặc ai lỗi ước bội thề
Riêng nàng trọn đạo phu thê đời đời (tr. 160)

Tình Yêu Quê Hương Đất Nước

Kiếp sau trở lại làm người
Thì anh xin được làm người Quang Trung (tr.148)

Lúc còn nhỏ tôi rất mê đọc truyện của nhà văn Duyên Anh, một người quê ở Hải Dương, di cư vào Nam năm 54. Truyện tuổi thơ mà tôi thích nhất là “Mơ Thành Người Quang Trung”. Thời đó không biết nhiều về nhân vật lịch sử này nhưng yêu thích vì biết người anh hùng có cùng quê với mình. Nay đọc hai câu thơ trên thấy gói ghém hết tất cả tấm lòng, ước mơ và kỳ vọng của tác gỉa dành cho quê hương nơi mình sinh ra. Ai cũng có một nơi để gới gắm lòng mình khi đi xa. Với Vũ Thanh, nơi đó là Bình Định, đất dựng nghiệp của anh hùng áo vải Quang Trung. Anh rất hãnh diện được làm con dân vùng đất có truyền thống bất khuất này. Nói tới miền đất Võ là nói tới phong trào Tây Sơn hiển hách trong lịch sử dân tộc. Vì hận thù nên sử gia thời Nguyễn đã chỉ nhắc rất ít tới triều Tây Sơn, coi bọn họ như là một phường thảo khấu, nhân thời đất nước nhiễu nhương mà làm loạn, nắm quyền. Họ không nói nhiều đến thời Trương Phúc Loan làm loạn, lấn ép Chúa Nguyễn đến suy vong. Chúa Trịnh đã nhân cơ hội, nhiều lần tấn công vào Phú Xuân phá nát kinh thành.

Nếu phong trào Tây Sơn không nổi lên kip thời thì Chúa Trịnh Đàng Ngoài đã làm chủ được đàng Trong. Nếu Quang Trung không đánh tan quân Xiêm La cầu viện ở miền Nam, diệt quân Thanh xâm lược ở miền Bắc và thống nhất đất nước trước khi ông bị bạo bệnh qua đời khi tuổi cón rất trẻ, thì chắc chắn Nguyễn Ánh đã chết gìa ở ngoại quốc chứ làm gì có việc khai sáng triều đình nhà Nguyễn. Mọi người dân Việt, ai cũng coi hình ảnh của Tây Sơn là mơ ước, kỳ vọng hào hùng trong buổi đất nước nhiễu nhương. Việc đó, Chàng Lía và anh em nghĩa binh của Trần Lâm đã làm trong phạm vi nhỏ của đất Truông Mây, Anh Em Tây Sơn sau đó đã dấy lên một phong trào khởi nghĩa lớn mạnh, quyét sạch bọn tham ô, chấm dức cảnh phân tranh, và thống nhất đất nước. Qua trường thi Hòn Vọng Phu, tác gỉa cũng mơ làm người Quang Trung, được nói lên nỗi phẫn uất của mình trước tình thế và dâng trọn trái tim mình cho đất nước quê hương. Những câu thơ tác gỉa viết về hình ảnh đẹp của sơn hà gấm vóc, của công lao mở nước từ tiền nhân, sẽ được truyền tụng mãi về sau:

Ngậm ngùi tiếc thuở vàng son
Kiếm loang bóng nguyệt mối hờn khôn phai (tr. 21)

Qua tậm sự của những nhân vật thời đại, Vũ Thanh chuyên chở tình yêu của mình đối với non sông đất nước bằng những câu thơ đẹp đến nao lòng:

Chiều chiều vượn hú trên ngàn
Hồng chung Ông Núi sáo làng Phương Phi (tr.86)

Trong xanh thăm thẳm trời cao
Bao la biển lớn sóng trào mênh mông
Mờ mờ rặng núi xa trông
Cánh buồm lộng gió giữa lòng đại dương (tr. 40)

Qua những hình ảnh như một bức tranh thật nên thơ:

Đêm tàn trăng rụng đầu tây
Vầng đông hé mở rạng ngày tinh sương (tr. 42)

và toàn hảo:

Đẹp sao cẩm tú sơn hà
Trùng dương bát ngát bao la núi rừng (tr. 133)

Không chỉ viết về quê hương Bình Định nơi tác gỉa sinh ra, mà còn theo bước chân của Bạch Long tướng quân trên đường Nam chinh, mọi nẻo đường quê hương miền Trung, miền Nam quân Tây Sơn đi qua cũng được nhà thơ nhắc đến với tất cả tình yêu non sông gấm vóc, như khi đến Phú Yên, ông viết:

Phú Yên xanh ngọt bóng dừa
Anh xin uống cạn cho vừa tình em (tr. 135)

tới Khánh Hòa:

Khánh Hòa biển đẹp nên thơ
Nước xanh cát trắng bên bờ thùy dương (tr. 135)

Phan Rang:

Phan Rang có lắm tháp chàm
Mênh mông đồi cát gió ngàn thổi lên (tr. 136)

Mũi Né:

Thuyền về Mũi Né sóng êm
Gặp cơn bão tố thì tìm đến đây (tr. 136)

vào đến Đồng Nai:

Sông bồi lớp lớp phù sa
Đồng Nai cuồn cuộn đổ ra Cần Giờ

và Gò Công:

Biển xanh đã hóa đục lờ
Triều cường xa tắp bờ Gò Công Đông
Anh về nhớ gái Gò Công
Nhớ đàn nhạn trắng nhớ đồng lúa thơm
Nhớ câu hò những chiều hôm
Tóc thề cô lái gió nồm nhẹ bay (tr. 137)

Nhờ có sở học và kiến thức vững vàng về địa lý đất nước nên tác gỉa thuộc nhằm lòng từng địa danh, từng vùng miền trên giải đất hình cong chữ S. Với những người chưa bao giờ rời khỏi đất nước, những gì tác gỉa viết về quê hương có thể không làm cho họ xúc động bằng những người đi xa. Mỗi một chữ viết về non sông là gói ghém tất cả tấm lòng yêu quê hương đất nước nên người có cùng tâm trạng đọc lên sẽ thấy xúc động mãnh liệt. Nhà thơ Chế Lan Viên đã viết: “Khi ta ở đất chỉ là đất. Khi ta đi đất bỗng hóa linh hồn”. Với người còn sống trên quê hương, chỉ rời xa nơi chôn nhau cắt rốn đã cảm được như thế thì với những người đi xa khỏi quê hương nửa vòng trái đất thì nỗi nhớ đó nhân lên gấp vạn lần.

Đọc qua gần 2500 câu thơ trong trường thi Hòn Vọng Phu, ta thấy rất rõ nỗi lòng và tâm huyết của Vũ Thanh đối với quê hương. Qua hình ảnh cô Kiều, Nguyễn Du đã cho ta thấy tấm lòng sắc son, chung thủy của ông với Nhà Lê, dù cho cuộc đời làm quan có ba chìm bảy nổi, nay phò vua này, mai thờ vua khác. Qua câu chuyện Lục Vân Tiên, nhà nho Nguyễn Đình Chiểu cũng muốn chứng tỏ tinh thần ái quốc, trừ gian diệt bạo, và nỗi uất hận làm người dân mất nước. Với Hòn Vọng Phu, Vũ Thanh gửi trọn một lời thề với quê hương, tuy xa nhưng không biệt. Quê hương mãi còn đó với hình ảnh người thiếu phụ hóa đá chờ chồng về, cũng như quê mẹ mãi trông mong ngày những đứa con tha hương quay về chốn cũ:

Tòng phu quyết một đợi chồng
Dù cho hóa đá thì lòng cũng cam (tr. 121)

Sắc son với quê hương như người đàn bà chung thủy hóa đá chờ chồng. Tình yêu đất nước, tình yêu đồng bào, tình yêu gia đình, trong trường thi Hòn Vọng Phu và có lẽ dấu kín trong lòng của Vũ Thanh, tất cả là một. Đem hết tâm sức ra hoàn thành một tác phẩm lớn, Vũ Thanh đã chứng tỏ với người đọc những tâm tình của anh, dù có đi xa. vẫn còn nguyên vẹn đó với quê hương. Đọc nhiều lần tác phẩm này, tôi mới thấy hết cái Tình của anh dành cho quê hương nó thiêng liêng làm sao. Cảm ơn tác gỉa đã tặng cho kho tàng văn chương Việt một tác phẩm tầm cỡ. Và đã tặng cho tôi những giây phút lắng đọng, khi đọc tập thơ, gấp sách lại để hồi tưởng, nhắm mắt, nhớ về nơi chôn nhau cắt rốn của mình.

Nguyên Lương
Những ngày Tết năm Qúi Tị

* * *

Xem bài trên trang Biên khảo: click vào đây
Trở về trang chính: www.nuiansongtra.com  


Nếu độc giả, đồng hương, thân hữu muốn: 

* Liên-lạc với Ban Điều Hành hay webmaster 
* Gởi các sáng tác, tài liệu, hình-ảnh... để đăng 
* Cần bản copy tài liệu, hình, bài...trên trang web:

Xin gởi email về: quangngai@nuiansongtra.net 
hay: nuiansongtra1941@gmail.com

*  *  *

Copyright by authors & Website Nui An Song Tra - 2006


Created by Hiep Nguyen
log in | ghi danh