VĂN CHƯƠNG ĐỐI KHÁNG, TRƯỜNG HỢP NHÂN VĂN - GIAI PHẨM
Trần Gia Phụng
Phần 1:
Nhân Văn – Giai Phẩm là tên của hai đặc san xuất bản vào đầu năm 1956 tại Hà Nội, đã đăng những bài báo bị chế độ Cộng sản kết án là đối kháng và không chấp nhận sự “lãnh đạo văn nghệ” của đảng... Chẳng những hai đặc san nầy bị đóng cửa mà các tác giả bị đấu tố, kết án và có người không chịu khuất phục nên bị trù giập suốt đời. Để hiểu rõ câu chuyện, hãy thử bắt đầu từ tổng quan hoàn cảnh nẩy sinh ra vụ án văn chương đối kháng nầy.
I. TỔNG QUAN
1. CHÍNH SÁCH VĂN HÓA CỦA CỘNG SẢN VIỆT NAM
Chế độ cộng sản Việt Nam là chế độ độc tài toàn trị, theo mẫu mực của chế độ cộng sản Liên Xô và cộng sản Trung Hoa, tức độc tài về mọi mặt, mọi sinh hoạt, như chính trị, kinh tế, tài chánh, văn hóa, giáo dục, tôn giáo, tư tưởng, thông tin, báo chí…
Về giáo dục, chính sách giáo dục của Việt Minh (VM) do Nguyễn Khánh Toàn (1905-1993) đưa về từ Liên Xô. Nguyễn Khánh Toàn là thứ trưởng bộ Giáo dục trong chính phủ VM ngày 3-11-1946. Tuy chỉ là thứ trưởng, nhưng Nguyễn Khánh Toàn nắm thực quyền trong bộ Giáo dục, còn bộ trưởng Nguyễn Văn Huyên chỉ làm bù nhìn mà thôi. Nguyễn Khánh Toàn, có tên Nga là Minin, đã tòng học tại Học viện Thợ thuyền Đông phương (Université des Travailleurs d’Orient) ở Moscow (Liên Xô) từ năm 1928 đến năm 1931.
Giai phẩm Mùa Thu
Nguyễn Khánh Toàn ứng dụng triết lý giáo dục của Liên Xô, gọi là “giáo dục phục vụ nhân dân” hay “giáo dục phục vụ chính trị”. Đó là nền giáo dục nhằm mục đích trên lý thuyết là phục vụ nhân dân, phục vụ công nhân lao động, nhưng trên thực tế là phục vụ chính trị, tức phục vụ chế độ do ĐCS.ĐD lãnh đạo.(1)
Giáo dục học đường nhắm mục đích phục vụ chính trị, phục vụ chế độ, thì chính sách văn hóa cũng không ngoài mục đích nầy. Khi chiến tranh xảy ra vào cuối năm 1946, dựa vào lý do phục vụ công cuộc kháng chiến chống Pháp, VM kiểm soát chặt chẽ tất cả các sinh hoạt văn hóa. Sách báo, thơ nhạc, kịch nghệ ở vùng VM rất hạn chế, chỉ xoay quanh chủ đề kháng Pháp, chiến thắng giặc “Tây”, và chủ đề nông nghiệp. Những nội dung lãng mạn bị hạn chế, bị kiểm điểm và dần dần hầu như bị cấm đoán.
Sau hiệp định Genève (20-7-1954), đất nước bị chia hai ở sông Bến Hải, ngang qua vĩ tuyến 17. Đảng Lao Động (LĐ) và Hồ Chí Minh cai trị phía Bắc (Bắc Việt). Hồ Chí Minh tiếp tục chính sách kiểm soát văn hóa, giới hạn các sinh hoạt văn hóa trong đường lối đảng.
Cần chú ý là cộng sản chỉ xem hiệp định Genève (20-7-1954) là cơ hội tạm thời hưu chiến, nghỉ dưỡng sức, và cài người ở lại miền Nam, “trường kỳ mai phục”, chuẩn bị tiếp tục chiến tranh chống miền Nam. (2) Sau năm 1954, để chuẩn bị gởi quân xâm lăng miền Nam, Cộng Sản Bắc Việt tìm cách ổn định tuyệt đối hậu cứ ở miền Bắc.
Lúc cộng sản mới tiếp thu miền Bắc, về phương diện chính trị, Hồ Chí Minh và đảng LĐ quyết áp đặt trên toàn miền Bắc chế độ độc tài đảng trị theo chủ thuyết Mác-Lê, khác hẳn với truyền thống văn hóa và chính trị của người Việt từ trước đến nay. Đảng LĐ đã đưa ra kế hoạch chiến lược dài hạn: quản lý chặt chẽ dân số toàn quốc, áp đặt nền kinh tế chỉ huy, và quản lý văn hóa tư tưởng theo đường lối cộng sản.
Về trị an xã hội, tháng 9-1955, nhà nước cộng sản ra lệnh “quản lý hộ khẩu”, theo bài bản của Liên Xô và Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa (CHNDTH). Tất cả công dân đều phải có sổ hộ khẩu [sổ gia đình] do công an địa phương cấp. Sổ hộ khẩu buộc chặt người dân ở yên một chỗ, rất khó xin chuyển đổi nơi cư trú. Nhà cầm quyền cộng sản dùng sổ hộ khẩu kiểm soát dân chúng, bắt lính dễ dàng. Không một thanh niên nào dám trốn tránh “nghĩa vụ quân sự”, vì nếu không thi hành chính sách của nhà nước, sổ hộ khẩu sẽ bị tịch thu, thì gia đình sẽ không còn cách gì làm ăn sinh sống được nữa.
Về kinh tế, đảng LĐ theo con đường kinh tế chỉ huy của Liên Xô và CHNDTH. Trước hết, CSVN nhắm ngay đến thành phần đông đảo nhất trong xã hội Việt Nam là nông dân. Cộng Sản tiếp tục thi hành Cuộc cải cách ruộng đất (CCRĐ) đợt 5 từ tháng 6-1955 cho đến tháng 7-1956, một cách gay gắt sắt máu hơn các cuộc cải cách trước, tổ chức đấu tố rùng rợn, hủy hoại cấu trúc hạ tầng cơ sở, triệt hạ toàn bộ các hào mục lãnh đạo xã thôn cũ để thay bằng lớp cán bộ cộng sản mới. Cuộc CCRĐ lần nầy giết hại 172,008 người. (3)
Tại thành phố, đối với các ngành sản xuất và thương mại, nhà nước cộng sản cho thi hành kế hoạch công tư hợp doanh. Dưới chế độ cộng sản, công tư hợp doanh có nghĩa là tư nhân đưa tài sản riêng của mình, tức là cơ sở riêng mình đang đầu tư, vào hợp doanh với nhà nước. Tất cả mọi doanh gia đều phải vào công tư hợp doanh. Ngày 24-11-1955, ban bí thư Trung ương đảng LĐ ra lệnh thiết lập hợp tác xã mua bán ở nông thôn và hợp tác xã tiêu thụ ở các thành phố, (4) nắm toàn bộ việc lưu thông và phân phối hàng hóa trong cả nước.
Về phương diện thông tin và văn hóa, ngay khi vừa về Hà Nội ngày 15-10-1954, Hồ Chí Minh và nhà cầm quyền cộng sản đưa ra một số quy định nghiêm cấm báo chí trong tháng 10-1954, đại để là:
-“Không được chống chính phủ và chế độ; không được xúi giục nhân dân và bộ đội làm loạn; không được nói xấu các nước bạn; không được tiết lộ các bí mật quân sự; không được đăng bài vở có phương hại đến thuần phong mỹ tục”.(5)
Đây là bước đầu quản lý văn hóa tư tưởng giới trí thức văn nghệ sĩ thành phố.
2. TÂM TÌNH GIỚI TRÍ THỨC VÀ VĂN NGHỆ SĨ BẮC VIỆT SAU 1954
Giới trí thức và văn nghệ sĩ chân chính là những người nhạy bén trước những hiện tượng xã hội và chính trị, nhất là vấn đề tự do dân chủ. Trong thời gian chiến tranh, giới trí thức và văn nghệ sĩ miền Bắc sống phân tán khắp nơi. Vì tinh thần đoàn kết, vì lý tưởng dân tộc, trong thời gian chiến tranh, các trí thức, văn nghệ sĩ đều nhẫn nhục, chấp nhận đặt mình vào kỷ luật, để cùng nhau đoàn kết chống Pháp. Cần chú ý, trước khi theo Việt Minh (VM), họ là những người đã từng sinh sống ở các thành phố và hấp thụ tinh thần tự do dân chủ của nền văn hóa Pháp.
Sau khi hòa bình được tái lập, giới trí thức và văn nghệ sĩ tập trung về Hà Nội, nên có cơ hội gặp nhau để bàn bạc, trao đổi kinh nghiệm, và so sánh những hứa hẹn của Hồ Chí Minh và đảng LĐ trước kháng chiến với thực tại xã hội mới sau năm 1954. Dưới chế độ mới của CS Hà Nội, người nghệ sĩ chẳng những cảm thấy cay đắng vì bất công xã hội, mà còn bị mất tự do, nhất là tự do tư tưởng và sáng tác. Họ bị bắt buộc phải theo sát giáo điều Mác xít và đường lối chính sách của nhà nước, đến nỗi có người đã phát biểu:
-“Hai năm hòa bình, chúng ta thấy nhiều nhà văn (trước kia) có tài, (ngày nay) bị buộc chặt vào địa vị, bằng những sợi lụa có tẩm độc. Tác phẩm của họ (ngày nay) chỉ là chỉ thị, kế hoạch, công văn, thông cáo…” (6)
Chính lối viết văn như thông cáo, làm thơ theo chỉ thị, đã gây dị ứng nơi những văn nghệ sĩ chân chính, nhất là khi đọc những bài thơ đại loại như:
“…Sta-lin! Sta-lin!
Yêu biết mấy, nghe con tập nói
Tiếng đầu lòng, con gọi Sta-lin!…”
(Tố Hữu, “Đời đời nhớ ông”, viết năm 1953) (HVC, sđd.200)
Hoặc:
“…Mẹ xưa chăm cháo, chăm cơm,
Đảng nay nuôi nấng còn hơn mẹ hiền.
Bệnh từ đời cũ liên miên,
Đảng trong thức ngủ chăm liền sớm hôm…”
(Xuân Diệu, “Trước đây bốn tháng”, viết năm 1953) (7)
Trước tình hình như vậy, thi sĩ Hữu Loan nhận xét:
-“…Một điều đau xót,
Trong chế độ chúng ta
Trong chế độ “Dân chủ Cộng hòa”
Những thằng nịnh hót còn thênh thang đất sống…”
(”Cùng những thằng nịnh hót”) (8)
Trong bài “Phê bình lãnh đạo văn nghệ” đăng trên Giai Phẩm Mùa Thu, tập 1 (Hà Nội, 1956), Phan Khôi chia giới văn nghệ sĩ lúc đó ở Bắc Việt thành hai giai cấp rõ rệt: đó là “lãnh đạo văn nghệ” và “quần chúng văn nghệ” (9). “Lãnh đạo văn nghệ” còn được gọi là những “ông quan văn nghệ” gồm những người viết văn theo lệnh đảng Lao Động, được đảng tin cậy và giao phó nhiệm vụ chỉ huy nền văn nghệ cộng sản.
Đứng đầu những “ông quan văn nghệ” là Tố Hữu, uỷ viên Trung ương đảng, Trưởng ban Tuyên huấn Trung ương. Thứ đến là những người đã giác ngộ sâu sắc sau phong trào chỉnh huấn, ngoan ngoản vâng lệnh đảng LĐ, và được lãnh đạo đảng tin dùng, như Hoàng Xuân Nhị, Hoài Thanh (Nguyễn Đức Nguyên), Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Chương, Hồng Chương, Hà Xuân Trường, Chính Hữu, Như Phong (NMC, sđd. 83). Ngoài ra, phải kể thêm Nguyễn Tuân, Xuân Diệu, Thế Lữ. Nguyễn Tuân đã có lần can đảm tuyên bố một cách chua chát:
-“Tao còn sống đến bây giờ là còn biết sợ! ” (10)
“Quần chúng văn nghệ” là những thành phần còn lại, yêu nước và yêu tự do dân chủ, không muốn bị gò bó trong khuôn khổ giáo điều và sự quản lý chỉ đạo của “lãnh đạo văn nghệ”. Thành phần quần chúng văn nghệ đông đảo hơn và hăng say tranh đấu cho tự do sáng tác. Họ không thể viết thẳng ra, nên chỉ nói bóng gió như Văn Cao trong bài thơ dài “Những người trên cửa biển”, đăng trên Giai Phẩm Mùa Thu tập 2, Hà Nội, tháng 10-1956:
“… Những con bạch tuộc
Bao nhiêu tay chân gìm chết một con người
Đất nước đang lên da lên thịt
Đất nước còn đang nhỏ máu ngày ngày
Ta muốn gói cuộc đời gọn gàng như trái vải
Đã thấy loài sâu nằm trong cuống
Chúng muốn các em nhỏ mới biết đi phải rụng
Mòn mỏi dần sức vỡ đất khai hoang
Làm rỗng những con người, lùi dần niềm hy vọng
Héo dần mầm sáng tạo, mất phẩm giá con người…” (HVC, sđd. 225.)
3. NHỮNG NHÀ VẬN ĐỘNG
Trước khi những văn nghệ sĩ Hà Nội thực sự cùng nhau bắt tay vào việc tranh đấu đòi hỏi tự do văn nghệ năm 1956, đã có nhiều nhà hoạt động văn hóa vận động, yểm trợ và thúc đẩy các văn nghệ sĩ trong việc đưa ra tiếng nói trung thực của mình để phản kháng chế độ Cộng Sản cầm quyền can thiệp thô bạo vào nền tự do tư tưởng. Đó là Nguyễn Hữu Đang, Thụy An Lưu Thị Yến, Trần Thiếu Bảo, Hoàng Cầm và Trần Dần.
Nguyễn Hữu Đang quê ở Thái Bình, tham gia những phong trào ái quốc rất sớm. Trước năm 1942, ông hoạt động trong phong trào “Truyền bá Quốc ngữ”. Có thể trong thời gian nầy, ông đã tiếp xúc với VM nên được VM phân công tham gia “Hội Văn hóa Cứu quốc” năm 1942. Khi VM cướp chính quyền năm 1945, tại Hà Nội, ông rất có uy tín trong giới trí thức, văn nghệ sĩ Hà Nội. Ông là trưởng ban tổ chức ngày lễ 2-9-1945 của VM tại Hà Nội, (11) và sau đó đã giữ chức thứ trưởng một bộ trong chính phủ Hồ Chí Minh. (NMC, sđd. 77).
Nguyễn Hữu Đang gia nhập đảng Cộng Sản năm 1947, lúc đó đảng nầy hoạt động trong vòng bí mật, nhưng ông lại ra khỏi đảng năm 1951, và bắt đầu lên tiếng đả kích những sai trái của đảng. (12) Trong thời gian ở Thanh Hóa khoảng 1952-1953, Nguyễn Hữu Đang làm tổng thanh tra Bình dân học vụ. Sau năm 1954, Trung ương đảng LĐ cho xe vào Thanh Hóa mời Nguyễn Hữu Đang ra Hà Nội, muốn nhận chức bộ trưởng nào thì nhận, mời sinh hoạt đảng trở lại, nhưng ông Đang đều khước từ.(13)
Nguyễn Hữu Đang là người đứng ra tập họp anh em, vận động ra báo. Trong vụ Nhân Văn, Nguyễn Hữu Đang lo việc quyên góp tài chánh, chạy mua giấy in, sắp đặt chuyện ấn hành, lại còn viết nhiều bài ký tên khác. Cách gây quỹ của ông rất khéo léo nên được nhiều người ủng hộ. Trong đợt học tập của các trí thức và văn nghệ sĩ từ ngày 1-8 đến 18-8-1956 ở Hà Nội, Nguyễn Hữu Đang đọc một bài tham luận mạnh mẽ, đả kích đường lối lãnh đạo văn nghệ của đảng LĐ.
Trần Thiếu Bảo: Nguyễn Hữu Đang quen thân với Trần Thiếu Bảo từ trước 1945. Trần Thiếu Bảo thuộc một gia đình giàu có ở Thái Bình. Ông mở nhà sách Minh Đức, vì vậy người ta còn gọi là ông Minh Đức. Sau nhà sách biến thành nhà xuất bản. Nhà xuất bản nầy cùng chủ lên chiến khu đến năm 1954 mới trở về Hà Nội.
Trong năm 1956, nhà xuất bản Minh Đức của Trần Thiếu Bảo đã đứng ra ấn hành các giai phẩm gồm có Giai Phẩm 1956 (sau nầy gọi là Giai Phẩm Mùa Xuân) Giai Phẩm Mùa Thu 1, 2 và 3, Giai Phẩm Mùa Đông, báo Nhân Văn từ số 1 đến số 6 (bị đóng cửa khi còn đang in), và giai phẩm Đất Mới (của sinh viên đại học Hà Nội, ra một số thì bị đình bản).
Thụy An Lưu Thị Yến là một nữ văn sĩ kỳ cựu, đã từng cộng tác với báo Phụ Nữ Tân Văn, (14) và là tác giả của tiểu thuyết Một linh hồn, mà theo nhà phê bình Vũ Ngọc Phan trong sách Nhà văn hiện đại:
-“Một linh hồn đáng kể là cuốn tiểu thuyết xuất sắc nhất của phụ nữ Việt Nam từ trước cho đến nay, tác giả đã giàu tưởng tượng, lại xây dựng một cách vững vàng chắc chắn.”(15)
Thụy An thường đến sinh hoạt ở Hội Nhà văn, gặp gỡ nhiều văn nghệ sĩ. Bà là một nữ văn sĩ lớn tuổi kỳ cựu, trải qua nhiều trào lưu chính trị, có nhiều kinh nghiệm sống thực tế, lại rất hào phóng giúp đỡ anh em trong lúc khó khăn, nên bà được nhiều người quý mến. Bà phản đối chế độ cộng sản đã bần cùng hóa nhân dân, và bà khuyến khích giới văn nghệ nói lên tiếng nói lương tâm. Sau vụ Nhân Văn – Giai Phẩm, trong bản tự kiểm, Lê Đạt viết về Thụy An như sau:
-“Mỗi lần ở nhà Thụy An ra là mỗi lần tôi thấy mình tài giỏi thêm và chán nản thêm, lòng tin tưởng của tôi mất dần khi Thụy An nói đến những con người không đất đứng và tôi cũng tự hỏi đất đứng của mình ở đâu?” (Thụy Khuê, bđd.).
Hoàng Cầm: Người đầu tiên vận động đòi hỏi tự do văn nghệ ngay từ lúc còn ở trong chiến khu có lẽ là Hoàng Cầm. Năm 1950, trong một hội nghị văn công tổ chức ở Việt Bắc, Hoàng Cầm, lúc đó phụ trách đoàn Văn công quân đội khu Việt Bắc, đã phát biểu:
-“Đảng không nên nhúng tay vào chuyên môn của nghệ thuật”. Về Hà Nội sau khi hòa bình tái lập năm 1954, tuy được cử làm đoàn trưởng Đoàn kịch Tổng cục chính trị trong quân đội, Hoàng Cầm vẫn tiếp tục đòi hỏi tự do cho giới văn nghệ. Ông cùng với Trần Dần quyết tranh đấu cho việc cởi trói văn nghệ, nhưng thất bại nên ông xin ra khỏi quân đội và từ nhiệm.(16)
Trần Dần (1926-1997): Trần Dần sinh năm 1924 tại Nam Định, theo kháng chiến chống Pháp, vào bộ đội rồi vào đảng Lao Động. Ông phụ trách tuyên truyền, điều khiển đoàn văn công. Năm 1951, ông đổi qua viết báo Cứu Quốc và giảng dạy về văn nghệ nhân dân và chính sách lãnh đạo văn nghệ của đảng trong các lớp đào tạo văn công.
Ông bị cấp trên phê bình giảng sai đường lối. Ông lại ra tiền tuyến, tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954. Cảm xúc trước sự hy sinh lớn lao của những đồng đội trong trận Điện Biên Phủ, Trần Dần sáng tác quyển ký sự Người người lớp lớp. Nhờ sách nầy, sau khi hòa bình được tái lập năm 1954, Trần Dần được cử sang CHNDTH để viết lời dẫn truyện bằng tiếng Việt cho phim “Chiến thắng Điện Biên Phủ”, do cộng sản Việt Nam diễn lại, cán bộ CHNDTH thu hình, và mang về CHNDTH thu âm. (HVC, sđd. 98-99).
Trong chuyến công tác nầy, một viên cán bộ chính trị được đảng LĐ gởi theo kèm Trần Dần. Đáng lẽ chỉ làm công việc cố vấn cho đúng đường lối đảng, y chỉnh lại bài viết của Trần Dần từng lời, từng chữ, đôi khi còn đọc cho Trần Dần viết. Trần Dần đưa vấn đề lên cấp trên xin giải quyết, nhưng lãnh đạo trả lời rằng cán bộ chính trị có quyền quyết định mọi việc. Điều nầy khiến Trần Dần rất bất mãn, và xin ngưng viết thuyết minh cho phim.
Trước khi trở về Việt Nam, Trần Dần đọc được lá thư của nhà văn Trung Quốc là Hồ Phong gởi Uỷ ban Trung ương đảng Cộng Sản Trung Quốc (CSTQ) vào tháng 7-1954.(17) Hồ Phong phản đối “năm nhát dao” mà đảng găm vào não trạng những nhà văn cách mạng. Đó là:
-“Ý hệ cộng sản cưỡng bách, cảm hứng chỉ rút ra từ đời sống công nhân và nông dân, giáo dục lại và cải tạo ý hệ, hình thức do đảng áp đặt, và đề tài do đảng quy định.”(18)
Từ đó, Trần Dần luôn luôn bị ám ảnh bởi vấn đề tương quan giữa nghệ thuật và chính trị, nên khi trở về Việt Nam, Trần Dần tích cực vận động đòi hỏi nền tự do văn nghệ ở đất Bắc thời bấy giờ.
Chính do những vận động và hỗ trợ của các nhân vật trên đây, từ Nguyễn Hữu Đang, Trần Thiếu Bảo, đến Thụy An Lưu Thị Yến, và nhất là Trần Dần trong giới văn nghệ sĩ, đã đưa đến sự bùng nổ của vụ án Nhân Văn – Giai Phẩm.
CHÚ THÍCH
1. Phỏng vấn các giáo sư lớn tuổi đã tham gia công việc giáo dục thời Việt Minh vào năm 1945. Bản thân người viết đã nói chuyện với các cán bộ giáo dục cộng sản sau năm 1975 tại Đà Nẵng, và được nghe kể rằng chủ thuyết giáo dục nầy do bộ trưởng Liên Xô là Kalenikov (?) đưa ra.
2. Trước khi hiệp định Gènève được ký kết ngày 20-7-1954, Châu Ân Lai đã mời (gọi) Hồ Chí Minh qua Liễu Châu họp từ ngày 3 đến ngày 5-7-1954, để truyền đạt quyết định của CHNDTH. Ngoài việc yêu cầu Việt Minh (VM) nên giải quyết riêng biệt chuyện Việt, Lào và Cambodia, chấp nhận chia hai nước Việt Nam, Châu Ân Lai còn bàn thêm rằng, sau khi chia hai Việt Nam, VM rút quân về phía bắc, nhưng không có nghĩa là VM rút hết võ khí mà võ khí nào cất giấu được thì phân tán mà cất, để tránh bị phát hiện. Về phía phái đoàn VM, Võ Nguyên Giáp, cho biết, nếu phải rút đi, thì chỉ rút những người làm công tác chính trị bị lộ diện, phần còn lại thì ở lại chờ thời cơ, có thể từ 5,000 đến 10,000 người. (Tiền Giang, Chu Ân Lai dữ Nhật-Nội-Ngõa hội nghị [Chu Ân Lai và hội nghị Genève] Bắc Kinh: Trung Cộng đảng sử xuất bản xã, 2005, bản dịch của Dương Danh Dy, tựa đề là Vai trò của Chu Ân Lai tại Genève năm 1954, chương 27 “Hội nghị Liễu Châu then chốt”, và chương 28 “Lãnh tụ đã quyết thì vũ trụ cũng chẳng là cái gì”. Nguồn: diendan@diendan.org. (trích 1-2-2009).
3. Đặng Phong, Lịch sử kinh tế VN 1945-2000, tập 2, Hà Nội: Nxb. Khoa Học Xã Hội, 2005, tr. 85.
4. Chính Đạo, Việt Nam niên biểu 1939-1975, tập I-C: 1955-1963, Houston: Nxb. Văn Hóa, 2000, tr. 79. (Viết tắt: CĐ, I-C, sđd. tr.)
5. Hoàng Văn Chí, Trăm hoa đua nở trên đất Bắc, Sài Gòn: Mặt trận Bảo vệ Tự do Văn hóa, 1959, tr. 31. (Viết tắt: HVC, sđd. tr.)
6. Phát biểu của thi sĩ Hoàng Huế gởi Đại hội Văn nghệ Toàn quốc, đăng trên Giai Phẩm Mùa Xuân, Hà Nội, 1956. (HVC, sđd. tt. 11, 12.)
7. Nghiêm Kế Tổ, VN máu lửa, California: Xuân Thu, tái bản 1989, tr. 430. (Viết tắt: NKT, sđd. tr.)
8. Giai Phẩm Mùa Thu tập 2, Hà Nội 1956. (HVC, sđd. tr. 245.)
9. Phan Khôi, “Phê bình lãnh đạo văn nghệ”. (HVC đăng lại, sđd. tt. 59-72.)
10. Tuyển tập Trăm hoa vẫn nở trên quê hương, California: Nxb. Lê Trần, 1990, tr. 20, bài của Thân Trọng Mẫn: “Từ phong trào Nhân Văn Giai Phẩm đến Cao trào văn nghệ phản kháng 1986-1989″.
11. Nguyễn Minh Cần, Công lý đòi hỏi, California: Nxb. Văn Nghệ, 1997, tr.57. (Viết tắt: NMC, sđd. tr.)
12. Thụy Khuê, “Hồ sơ Nhân Văn Giai Phẩm”, http://members.aol.com/vnbook6/lib54.htm
13. Nguyễn Văn Trấn, Viết cho Mẹ và Quốc Hội, California Nxb. Văn Nghệ, 1995, tr. 278. (Viết tắt: NVT, sđd. tr.)
14. Phụ Nữ Tân Văn: Thành lập tại Sài Gòn năm 1929, Phan Khôi là chủ bút. Năm 1932, báo tạm đình bản vì lý do tài chánh. Năm 1935 báo tục bản cho đến 1939.
15. Vũ Ngọc Phan, Nhà văn hiện đại [gồm 5 tập, đánh số trang từng tập], Nxb. Tân Dân, Hà Nội, 1942, quyển 4, tập hạ, Nxb. Khoa học Xã hội, HN, 1987, in lại thành 2 tập, đánh số trang liên tục, tr. 1119.
16. Nguyễn Hưng Quốc, Văn học Việt Nam dưới chế độ cộng sản, California: Nxb. Văn Nghệ, 1991, tr. 148. (Viết tắt: NHQ, sđd. tr.)
17. Hồ Phong (Hu Feng, 1903-1985), người Trung Hoa, là nhà phê bình văn học, nhà thơ, nhà luận văn, dường như không gia nhập đảng Cộng Sản. Ông là một người Mác xít độc lập và có nhiều ảnh hưởng, thường dự vào những cuộc tranh luận tư tưởng lớn với giới cộng sản chính thống trong suốt hai thập niên 30 và 40. Ông tin rằng giá trị văn học đứng trên ý hệ và chính trị, những nhân vật văn học có tính cách phổ quát, không khuôn sáo, và văn chương có thể mô tả mọi người chứ không nhất thiết một giai cấp nào đó. Năm 1949, khi cộng sản nắm quyền ở Trung Hoa, dầu ông giữ nhiều chức vụ trong ngành văn hóa, ông không bao giờ chịu uốn theo đường lối chính thống. Ông bị tố cáo phản cách mạnh và bị cầm tù từ 1955 đến 1981 mới được thả ra và được phục hồi danh dự.
18. Georges Boudarel, Cent fleurs écloses dans la nuit du Viet Nam, communisme et dissidence 1954-1956 [Trăm hoa đua nở trong đêm Việt Nam, cộng sản và ly khai 1954-1956], Éditions Jacques Bertoin, Paris, 1991, tr. 58. Nguyên văn: “Hu Feng y critique les “cinq poignards” plongés dans le cerveau des écrivains révolutionaires: “Idéologie communiste obligatoire, inspiration uniquement tirée de la vie des ouvriers et des paysans, rééducation et réforme idéologique, formes imposées par le parti, sujets fixés par le parti.” (Viết tắt: GB sđd. tr.)
II. CUỘC ĐỐI KHÁNG
1. NHỮNG BIẾN CỐ DẪN ĐƯỜNG
Trần Dần không bao giờ quên những gì ông đọc được trong lá thư của Hồ Phong. Lúc đầu, ông cùng một số văn hữu trong quân đội như Hoàng Cầm,...Tử Phác, Đỗ Nhuận, Trúc Lâm, Hoàng Tích Linh, sau đó vào cuối năm 1954, nhiều nhà văn khác cùng tham gia, soạn thảo một “bản đề nghị chính sách văn hóa”. Bản đề nghị nầy được đưa lên các cấp lãnh đạo vào đầu năm 1955.
Bản đề nghị xoay quanh ba điểm:
- Thứ nhất, trả văn học nghệ thuật cho văn nghệ sĩ.
- Thứ hai, thành lập một tổ chức văn học nghệ thuật trong quân đội; tổ chức nầy liên hệ trực tiếp với Hội Văn Nghệ trung ương, không cần phải thông qua bộ phận thông tin tuyên truyền của Tổng cục chính trị.
- Thứ ba, loại bỏ những quy định quân sự hiện hành trong tổ chức văn học nghệ thuật quân đội. (GB, sđd.32, 88).
Những ý kiến đề nghị của các văn nghệ sĩ trên đây cho thấy, lúc đó họ vẫn chấp nhận sự lãnh đạo của đảng LĐ, nhưng lại yêu cầu đảng LĐ thay đổi cách quản lý văn nghệ trong quân đội, đừng can thiệp vào công cuộc sáng tác của nhà văn. Những ý kiến nầy được nhiều viên chức cao cấp trong đảng và quân đội chia sẻ, đặc biệt có đại tá Lê Liêm, chính uỷ mặt trận Điện Biên Phủ, cùng các tướng Trần Độ, Lê Quang Đạo. Tuy nhiên, một nhân vật quan trọng trong quân đội lúc đó, tướng Nguyễn Chí Thanh, uỷ viên bộ chính trị đảng Lao Động từ 1951, chủ nhiệm Tổng cục chính trị, phản đối kịch liệt và loại bỏ ngay bản đề nghị nầy (GB, sđd.254-255).
Bản đề nghị sửa đổi cách lãnh đạo văn nghệ còn đang được dư luận bàn tán, thì xảy ra việc thơ Tố Hữu bị đả kích. Tố Hữu (1920-2002), người Thừa Thiên, tên thật là Nguyễn Kim Thành, gia nhập đảng Cộng Sản Đông Dương năm 1938. Ông là một trong những người cầm đầu cuộc cướp chính quyền tại Huế năm 1945, và được bầu làm uỷ viên Trung ương đảng năm 1951. Từ lúc đó, ông làm trưởng ban Tuyên giáo [tuyên truyền và giáo dục] trung ương, nắm trong tay vận mạng nền văn hóa, văn nghệ của Bắc Việt. Thơ ông nặng tính truyên truyền, hết mình ca ngợi các nước cộng sản và các lãnh tụ cộng sản như Lenin, Stalin, Mao Trạch Đông, Hồ Chí Minh.
Ngày 4-3-1955, tại Hà Nội diễn ra cuộc họp các văn nghệ sĩ để phê bình tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu, ấn hành vào cuối năm 1954 với số lượng lớn lao là 20,000 bản.(19) Trong khi các văn thi sĩ nhà nước đua nhau ca tụng Tố Hữu thì Trần Dần, Hoàng Cầm, Hoàng Yến, Lê Đạt (tên thật là Đào Công Đạt) lại đưa ra những điểm yếu kém của thơ Tố Hữu. Trần Dần nhận xét rằng thơ Tố Hữu “nhỏ bé nhạt nhẽo trước cuộc sống vĩ đại, và mắc một sai lầm nghiêm trọng là sùng bái cá nhân, thần thánh hóa lãnh tụ”.(20) Lời bình phẩm nầy chẳng những chê bai Tố Hữu mà còn đụng chạm đến những lãnh tụ cộng sản trên thế giới mà Tố Hữu đã tình nguyện thương yêu gấp mười lần so với tổng cộng các thành viên trong gia đình ông ta.
(”Thương cha, thương mẹ, thương chồng,
Thương mình thương một, thương ông thương mười”,
(Thơ Tố Hữu, “Đời đời nhớ ông”).
Theo Hoàng Cầm viết trên báo Văn Nghệ, Hà Nội, số 67, thơ Tố Hữu “giống như một vại nước to, đầy tràn, pha loãng một màu sữa. Loãng quá, tôi thèm một cốc dù nhỏ thôi nhưng chan chứa những chất nuôi sống một tâm hồn.”(NHQ, sđd.146). Còn Lê Đạt, trên báo Văn Nghệ số 68 thì cho rằng:
-“Thơ Tố Hữu đứng về một phương diện nào mà nói là thơ có ích. Tố Hữu có nhiều cố gắng phục vụ công tác chính trị… Thơ Tố Hữu là những bài học chính sách tốt. Nhưng những bài học chính sách tốt chưa phải là đã hiện thực, đã công nông. Vấn đề nội dung, tôi nhắc lại, căn bản là cái điệu tâm hồn của tác giả.” (NHQ, sđd.146)
Điều nầy chẳng những làm cho Tố Hữu, mà cả các cán bộ lãnh đạo văn nghệ giận dữ, đến nỗi có người đã thốt ra:
-“Địch nó không mong gì hơn chúng ta chê thơ Tố Hữu”.(21)
Trong lúc đó, Trần Dần lại đang lấn cấn vụ cưới vợ. Trần Dần yêu và muốn kết hôn với cô K., một người theo Ky-Tô giáo, con của một gia đình giàu có ở Hà Nội đã di cư vào Nam. Cô K. sống nhờ vào tiền cho thuê nhà do cha mẹ để lại, nên bị xếp vào thành phần bóc lột. Đảng LĐ không chấp thuận cuộc hôn nhân nầy. Trần Dần khuyên người yêu giao nhà cửa của cha mẹ cho “Ban quản lý tài sản của những người vắng mặt”, chịu sống cực khổ để có thể cùng nhau lập gia đình. Dầu vậy, đảng LĐ cũng không cho phép. Trần Dần cứ mặc nhiên đến phố Sinh Từ, nơi có nhà cô K., sống chung với người yêu. Cộng sản liền thuyên chuyển ông lên Việt Bắc. Viện cớ đau yếu, Trần Dần xin nghỉ việc, bỏ về Hà Nội và nạp đơn xin ra khỏi đảng LĐ cũng như ra khỏi quân đội vào giữa tháng 5-1955 (GB, sđd.126).
Đảng LĐ quyết định khai trừ Trần Dần, nhưng quân đội giữ ông lại, vì sợ rằng khi trở về đời sống dân sự, ông sẽ gây nhiều tai tiếng nguy hại hơn. Trần Dần bị bắt giam trong ba tháng (lần thứ nhất), từ tháng 7 đến tháng 9-1955 thì được thả ra với bản án kỳ lạ “cấm sáng tác” (NMC, sđd. tr.18). Trong thời gian bị giam (lần thứ nhất), ông sáng tác bài thơ dài trên 300 câu nhan đề “Nhất định thắng”, và ông đã giao bài thơ nầy cho Lê Đạt khi ra khỏi tù. (Bài thơ nầy là đề tài để cộng sản tố khổ Trần Dần).
Để chỉnh đốn tư tưởng Trần Dần, người ta gởi ông về nông thôn quan sát cuộc CCRĐ. Trần Dần lợi dụng cơ hội nầy, về thăm người yêu và liên lạc với các văn thi hữu như Lê Đạt, Hoàng Cầm, sửa soạn và hối thúc ra mắt Giai Phẩm 1956 (GB, sđd.128, 132).
Một sự kiện gây xôn xao dư luận văn nghệ, có tính châm biếm cán bộ văn hóa nhà nước, liên quan đến nhà văn lão thành Phan Khôi (1887-1960). Đầu năm 1956, người ta giao cho Phan Khôi dịch một quyển sách từ tiếng Pháp qua tiếng Việt. Trong sách có chữ “pomme de terre”. Phan Khôi dịch chữ đó là “khoai nhạc ngựa”. Khi phê bình sách nầy, báo Cứu Quốc, cơ quan tuyên truyền của đảng LĐ, chê Phan Khôi già nua, lẩm cẩm và dịch sai. Tác giả bài phê bình viết rằng chữ “pomme de terre” phải dịch là “khoai tây”, sao lại dịch thành “khoai nhạc ngựa”?
Phan Khôi trả lời đại ý như sau: Ai cũng biết “pomme de terre” là “khoai tây”, nhưng lâu nay cán bộ phụ trách cấm ông dùng chữ “tây” và chữ “Tàu”. Ví dụ khi ông dùng chữ “đường tây” thì bị sửa lại là “đường kính”; khi ông viết “chè Tàu” thì bị sửa thành “chè Trung Quốc”, “thịt kho Tàu” thì đổi thành “thịt kho Trung Quốc”. Do đó, để chiều ý lãnh đạo, lần nầy, chữ “pomme de terre”, ông không dịch là “khoai tây”, mà dịch là “khoai nhạc ngựa”, vì tiếng Trung Quốc gọi là “mã linh thự” (22). Lối viết thật là thâm thúy mà không thể bắt bẻ được.
Những sự kiện nầy là những triệu chứng đầu tiên về một cuộc phản kháng lớn hơn sẽ diễn ra ngay sau đó, với sự xuất hiện của Giai Phẩm 1956, Giai Phẩm mùa Xuân.
2. GIAI PHẨM XUẤT HIỆN
GIAI PHẨM 1956: Nhân dịp Tết nguyên đán năm Bính Thân (1956), vào đầu tháng 2 năm 1956, tại Hà Nội xuất hiện đặc san Giai Phẩm 1956 do nhà xuất bản Minh Đức của Trần Thiếu Bảo ấn hành. (23) (Giai phẩm nầy về sau được gọi là "Giai Phẩm Mùa Xuân", vì cũng trong năm 1956 xuất hiện thêm các "Giai Phẩm Mùa Thu" tập 1, "Giai Phẩm Mùa Thu" tập 2, "Giai Phẩm Mùa Thu" tập 3, và "Giai Phẩm Mùa Đông").
Đây là một tập họp sáng tác của các văn nghệ sĩ không chấp nhận sự “lãnh đạo văn nghệ”, thuộc thành phần đối kháng với nhà cầm quyền cộng sản. Giai phẩm nầy được đánh dấu bằng ba bài quan trọng là “Cái chỗi quét rác rưởi” của Phùng Quán, “Ông bình vôi” (thơ) của Lê Đạt, và “Nhất định thắng” (thơ) của Trần Dần.
Phùng Quán (1932-1995), nguyên quán Thừa Thiên, cháu gọi Tố Hữu bằng cậu, gia nhập quân đội Việt Minh ở Thừa Thiên, sau năm 1954 tập kết ra Hà Nội. Trong bài “Cái chỗi quét rác rưởi”, Phùng Quán cho rằng dưới chế độ ông đang sống, có quá nhiều rác rưởi làm dơ bẩn xã hội, và ông tình nguyện dùng văn chương quét sạch những rác rưởi đó.(24)
Lê Đạt đã mượn hình tượng “Ông bình vôi” để chống tệ nạn tôn sùng cá nhân, là căn bệnh trầm kha của chế độ cộng sản:
“Những kiếp người sống lâu trăm tuổi
Y như một cái bình vôi
Càng sống càng tồi
Càng sống càng bé lại.” (24)
Đặc biệt bài thơ dài trên 300 câu của Trần Dần, chịu ảnh hưởng của bút pháp Maiakovski,(25) mô tả cảm nghĩ và cuộc sống của hai người yêu nhau ở phố Sinh Từ, Hà Nội trong giai đoạn giao thời, dân chúng bỏ miền Bắc di cư vào Nam. Theo lời Hoàng Cầm trong bài “Con người Trần Dần” đăng trên Nhân Văn số 1, xuất bản tại Hà Nội ngày 20-9-1956, thì Trần Dần giao bài thơ nầy cho Lê Đạt trước khi đi quan sát đoàn CCRĐ. Hoàng Cầm đã đem đăng vào Giai Phẩm Mùa Xuân. Trong bài thơ nầy có những câu được lặp lại nhiều lần như một điệp khúc:
“Tôi bước đi
không thấy phố
không thấy nhà
Chỉ thấy mưa sa
trên màu cờ đỏ.” (HVC, sđd.103)
Những câu sau đây của bài “Nhất định thắng” đã bị quy chụp là ám chỉ lãnh tụ:
“…Tôi đi giữa trời mưa đất Bắc
Tôi bỗng nghe những tiếng thì thầm
Tiếng người nói xen tiếng đời ầm ã.
- Chúng phá hiệp thương!
- Liệu có hiệp thương?
- Liệu có tuyển cử?
- Liệu tổng hay chẳng tổng?
- Liệu đúng kỳ hay chậm vài năm?
Những câu hỏi đi giữa đời lỏng chỏng.
Ôi! Xưa nay Người vẫn thiếu tin Người
Người vẫn thường kinh hoảng trước tương lai…” (HVC, sđd. 108)
Chữ “Người” viết hoa dưới chế độ cộng sản Hà Nội chỉ dùng để chỉ Hồ Chí Minh hay các lãnh tụ cộng sản như Lenin, Stalin hay Mao Trạch Đông. Trong bài thơ nầy, Trần Dần lại dùng chữ “Người” viết hoa. Đảng LĐ quy chụp rằng Trần Dần muốn ám chỉ lãnh tụ của họ. Dựa vào điều nầy, nhà cầm quyền Hà Nội ra lệnh tịch thâu Giai Phẩm 1956, và ngày mồng 2 Tết Bính Thân (13-2-1956), khi Trần Dần từ phố Sinh Từ trở về đơn vị quân đội, ông bị bắt giam lần thứ hai. Lần nầy ông cũng phải ngồi tù ba tháng. (GB, sđd.134).
3. PHẢN ỨNG CỦA “LÃNH ĐẠO”
Trong khi Trần Dần ở trong tù, các nhà văn của chính quyền trong Hội Văn nghệ (sau nầy là Hội Nhà văn) đã phê bình đả kích đặc san Giai Phẩm 1956. Đặc biệt, tại trụ sở hội Văn nghệ Hà Nội, người ta tổ chức một buổi phê bình thơ Trần Dần, có khoảng 150 người tham dự, từ 7 giờ tối đến 1 giờ sáng, nhưng thực tế để kết tội Trần Dần. Hoài Thanh viết bài tham luận “Vạch trần tính cách phản động trong bài thơ “Nhất định thắng” của Trần Dần”, đăng trên báo Văn Nghệ số 110, ra ngày 17-3-1956, ghép Trần Dần vào tội phản động. (26) Ở đây cần chú ý thủ đoạn của cộng sản: họ không đả kích tập thể các văn thi sĩ trong nhóm Giai Phẩm, mà tách ra đả kích riêng từng người, bắt đầu là Trần Dần để cô lập thi sĩ nầy.
Tiếp tay với Hoài Thanh để mạt sát Trần Dần và các văn sĩ trong Giai Phẩm, còn có những tên tuổi như Hoàng Trung Thông, Nguyễn Đình Thi. Nhà thơ Hoàng Cầm kể lại:
-“… Người ta cho rằng bè phái độc quyền trong giới văn nghệ sĩ bị công kích (bắt đầu từ cuộc phê bình tập thơ Việt Bắc) đã tìm cách giả thù. Trần Dần, Tử Phác đều bị tống giam. Cái nút thứ hai khốc liệt hơn của tấn thảm kịch Trần Dần… Từ những ngày Tết mưa lã chã, cái bè phái độc quyền trong văn nghệ bắt đầu họp đứng họp ngồi để tìm cách đối phó với cái Giai Phẩm. Một không khí ngạt thở đè nặng lên những anh em có bài trong tập sách đó. Rồi đến một đêm, bài thơ “Nhất định thắng” bị đem ra luận tội… Thôi thế là đêm luận tội nầy đã đóng một cái án tử hình xuống một bài thơ, xuống một con người, đồng thời là sự đe dọa nặng nề chung cho anh em văn nghệ sĩ đang muốn tìm những lối sáng tác khác với cái bè phái kia…”(27)
Ở trong tù, Trần Dần rất uất ức, dùng dao cạo râu cứa cổ tự tử, nhưng bị các cán bộ cộng sản cản trở không cho chết, vì sợ tiếng vang. Sau nầy ông mang một vết sẹo dài ở cổ.
CHÚ THÍCH
19. Georges Boudarel, sđd. tr. 119. Cũng theo Boudarel, trong khi đó, thơ của thi sĩ Hoàng Cầm chỉ được in 1,000 bản. Boudarel trích dẫn danh sách các tác phẩm văn chương xuất bản trong các năm 1954, 1955 của nhà cầm quyền Hà Nội.
20. Hoàng Cầm, “Con người Trần Dần”, Nhân Văn số 1, Hà Nội, ngày 20-9-1956. Tài liệu từ Internet: http://members.aol.com/canhen/nhvan1.htm
21. Trần Công trích ghi lại, “Chống bè phái trong văn nghệ”, Nhân Văn số 1, báo đd.
22. Hoàng Văn Chí, sđd. tr. 24. [Người Trung Hoa gọi là mã linh thự tức khoai nhạc ngựa vì khoai tròn, nhỏ, mọc từng chùm như cái lục lạc treo ở đầu ngựa. Người Việt gọi là khoai tây vì do người Tây dương (Âu châu) du nhập vào VN.]
23. Theo tác giả Hoàng Văn Chí sđd. tr. 24 thì Giai Phẩm 1956 ra mắt tháng 3-1956. Tuy nhiên có hai điều cần chú ý: thứ nhất, mồng 1 Tết Bính Thân nhằm ngày 12-2-1956, báo xuân thường ra trước Tết; thứ hai vì bài thơ “Nhất định thắng” đăng trên Giai Phẩm 1956 mà Trần Dần bị bắt ngày mồng 2 Tết Bính Thân (13-2-1956). Vậy báo Giai Phẩm 1956 ra trễ nhất là trước Tết, đầu tháng 2-1956.
24. Hoàng Văn Chí, sđd. tr. 24. Lê Đạt tên thật là Đào Công Đạt, đã từng là thư ký riêng của tổng bí thư Trường Chinh trong thời kỳ chiến tranh chống Pháp. (Phần chú thích của Thông Điệp Xanh trong bài “Dạ ký”, truyện ngắn của Phùng Cung, http://members.aol.com/canhen/nhanvan17.htm)
25. Georges Boudarel, sđd. tr. 128. [Maiakovski (Vladimir Vladimirovich, 1893-1930): sinh ở Georgia (Nga), nhà thơ, nhà soạn kịch Xô Viết thuộc trường phái "Tương lai", mạnh mẽ tuyên dương cách mạng năm 1917. Ông cách tân về nhịp điệu và hành văn để diễn tả cảm thức con người mới trong thời đại cách mạng. Tác phẩm: Lenin (1924), Rất tốt (1927), Con rệp (kịch, 1928, châm biếm tệ nạn quan liêu Xô Viết). Ông tự sát năm 1930.]
26. Phan Khôi, “Phê bình lãnh đạo văn nghệ”, Giai Phẩm Mùa Thu tập 1, Hà Nội 1956, Hoàng Văn Chí, sđd. trích đăng, tr. 67. Georges Boudarel, sđd. tr. 135. Riêng bài viết của Hoài Thanh, chúng tôi không có bản tiếng Việt, nên đề bài của Hoài Thanh chúng tôi dịch lại bản dịch của Boudarel: “Dévoilons le caractère réactionnaire du poème “Nous vaincrons!” de Tran Zan” (Vạch trần tính cách phản động trong bài thơ “Nhất định thắng” của Trần Dần).
27. Hoàng Cầm, “Con người Trần Dần”, báo Nhân Văn số 1, Hà Nội, ngày 20-9-1956. Tài liệu rút từ Internet: http://members.aol.com/canhen/nhanvan17.htm.
III. NHỮNG BIẾN CỐ VĂN HỌC
1. GIẢI THƯỞNG VĂN CHƯƠNG
Trong khi đó, tại Hà Nội, sau Giai Phẩm Mùa Xuân, và sau việc Trần Dần bị cầm tù,...một sự kiện văn học nổi bật khác xảy ra, gây xôn xao dư luận là việc công bố kết quả các giải thưởng văn học năm 1954-1955 trên báo Văn Nghệ Hà Nội, số 112 ra ngày 15-3-1956, và trên báo Nhân Dân số ra ngày 17-3-1956. Kết quả các giải đó như sau:
Thơ: giải nhất: Tố Hữu (tập Việt Bắc); giải nhì: Trần Hữu Thung (tập Đồng tháng tám và Dặn con), Xuân Diệu (tập Ngôi sao), Tú Mỡ (tập Nụ cười chính nghĩa); giải ba: Hồ Khải Đạt (tập Thơ chiến sĩ ).
Tiểu thuyết: giải nhất: Nguyễn Ngọc (Đất nước đứng lên), Tô Hoài (Truyện Tây bắc); giải nhì: Nguyễn Huy Tưởng (Truyện anh Lục), Nguyễn Văn Bổng (Con trâu), giải ba: Phùng Quán (Vượt Côn Đảo), Trần Kim Trắc (Cái Lu); giải khuyến khích: Hoàng Trung Nho (Đồng quê hoa nở), Bùi Hiển (Gặp gỡ), Đoàn Giỏi (Cá bống mú). (GB sđd. tt. 233-234.)
Chân dung ông Phan Khôi
Kết quả giải thưởng gây nhiều tranh cãi sôi nổi vì đa số các nhà thơ, nhà văn trúng giải đều là người thân cận của đảng LĐ, trong đó dư luận bàn tán nhiều về các tác phẩm của Tố Hữu, Xuân Diệu, Nguyễn Huy Tưởng. Tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu đã từng bị Trần Dần, Hoàng Cầm, Hoàng Yến, Lê Đạt phê bình một năm về trước; tập Ngôi sao của Xuân Diệu đã bị ba bài liên tiếp công kích trên báo Trăm Hoa ở Hà Nội của Nguyễn Bính, mà vẫn được giải thưởng.
Đặc biệt hơn nữa, các tác giả Xuân Diệu, Nguyễn Huy Tưởng và Hoài Thanh vừa có tác phẩm dự giải, vừa được sung vào ban chấm giải, và sau đó lại vừa trúng giải. (Nhà văn Phan Khôi nêu ra đầy đủ những bê bối của các giải thưởng nầy trong bài “Phê bình lãnh đạo văn nghệ” đăng trong Giai phẩm Mùa Thu tập 1, xuất bản ngày 29-8-1956.)
Ba sự kiện, Giai Phẩm Mùa Xuân, việc bắt giam Trần Dần và giải thưởng văn học, tạo nên những làn sóng bàn luận âm ỷ liên tục trên các báo và trong các giới văn nghệ sĩ. Ngày 5-5-1956, Trần Dần ra khỏi tù. Lúc đó cũng là thời gian đảng LĐ sửa soạn tổ chức đại hội Văn học nghệ thuật toàn quốc lần thứ hai, nhắm đưa các văn nghệ sĩ đi theo đúng quỹ đạo của đảng. Hội Văn nghệ liền cho thành lập ban Trù bị đại hội ngày 16-5-1956. Thành phần ban Trù bị không được bầu từ dưới lên mà do từ trung ương chỉ định xuống (GB, sđd. 238-239).
2. TRĂM HOA ĐUA NỞ Ở TRUNG HOA
Có một điều ít ai chú ý là sau vụ Giai Phẩm Mùa Xuân ở Bắc Việt 3 tháng, mới xảy ra biến cố “Trăm hoa đua nở, trăm nhà tranh tiếng” ở CHNDTH. Nguyên sau Đại hội 20 của đảng CSLX, quan điểm chính trị mới của đảng CSLX chẳng những được truyền sang Bắc Việt mà cả CHNDTH. Đảng Cộng sản Trung Hoa (CSTH) cầm quyền trên toàn thể lục địa Trung Hoa từ cuối năm 1949. Cộng sản TH ổn định tình hình nội bộ khá lâu, và quyết tâm tiêu diệt các thành phần trí thức, văn nghệ sĩ đối kháng sau vụ Hồ Phong vào tháng 7-1954. Do đó, khi Liên Xô tuyên bố chính sách mới, thì CSTH liền hưởng ứng chính sách nầy theo cách của CSTH.
Lục Định Nhất (Lu Dingyi), cục trưởng cục Tuyên huấn đảng CSTH, triệu tập cuộc họp ngày 25-5-1956 tại Bắc Kinh, gồm những nhà trí thức, nghiên cứu, văn nghệ sĩ, nhân sĩ, đại diện hội đoàn. Trong cuộc họp nầy, Lục Định Nhất đọc bài diễn văn nhan đề: “Bách hoa tề khai, bách gia tranh minh” [Trăm hoa đua nở, trăm nhà tranh tiếng]. Họ Lục cho biết chủ tịch Mao Trạch Đông trích hai câu nầy từ cổ văn, và giao cho ông giải thích với hội nghị. Họ Lục trình bày:
-“… Nếu không có nhiều môn phái, nhiều chủ trương thì văn nghệ không thể trở nên phong phú được… Hai nghìn năm trước, trong thời Xuân Thu và Chiến Quốc, Trung Quốc có nhiều học phái khác nhau… Hồi đó, các học phái đều tự ý phát triển, không phục tòng một hệ thống tư tưởng nào cả, nhưng ngày nay, chính quyền của nhân dân đã thành lập và vững mạnh thì sự tranh đua của bách gia ngày nay phải nằm trong khuôn khổ của một chương trình chung… Cần phải đề cao sự tự do tranh luận và bênh vực ý kiến trong mọi ngành học thuật nhưng đồng thời cũng không nên lẫn lộn những cuộc tranh luận xây dựng trong nội bộ Đảng với những cuộc tranh đấu để tiêu diệt những phần tử phản động… Có hai lối phê bình: Phê bình kẻ thù và phê bình những đồng chí phạm sai lầm. Phê bình kẻ thù là đập cho nó một trùy vỡ sọ chết tươi, còn phê bình một đồng chí phạm sai lầm là lấy khoan hồng đưa dần họ về với chính nghĩa…” (HVC, sđd. tt. 7-8).
Ngày hôm sau, 26-5-1956, Mao Trạch Đông chính thức công bố phát động chiến dịch “Trăm hoa đua nở”. (HVC sđd. tr. 26). Như thế, CHNDTH mở ra chiến dịch “Trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng”, nhưng để sẵn quả “trùy” [chùy] trước mặt mọi người, cảnh cáo những ai đi sai “khuôn khổ của một chương trình chung” sẽ bị “vỡ sọ chết tươi”, nghĩa là vừa mở vừa hù dọa.
Bài phát biểu của Lục Định Nhất đăng trên Nhân Dân Nhật Báo ở Bắc Kinh ngày 13-6, tức thì được sinh viên Hà Nội, do giáo sư Trần Đức Thảo bảo trợ, đã dịch đăng lên bích báo nhà trường. Trong khi đó, bản tin điện về bài của Lục Định Nhất do Lê Phú Hào, đặc phái viên báo Nhân Dân (Hà Nội) tại Bắc Kinh, gởi về vào tháng 7, nhưng mãi đến ngày 5-8, Nhân Dân (Hà Nội) mới đưa lên mặt báo. Bài viết đã làm xôn xao các giới cầm quyền và dư luận Hà Nội. Một biên tập viên báo Nhân Dân (Hà Nội) đã nói với Lê Phú Hào vài tuần sau đó, khi ông về Hà Nội công tác:
-“Bản tin của anh có hiệu quả của một trái bom”. (GB, sđd.239-242)
Ngày 15-9-1956, đảng CSTH họp Đại hội lần thứ 8, đại hội đầu tiên kể từ 1945, khẳng định lập trường “sống chung hòa bình” mà Liên Xô đã đưa ra trong Đại hội 20 của đảng CSLX (CĐ, I-C, sđd.103). Sau đó, đến ngày 30-9, báo Nhân Dân (Hà Nội) mới chịu đăng toàn văn bài phát biểu của Lục Định Nhất. Ở đây xin mở ngoặc thêm một chi tiết: sau khi nhóm Nhân Văn – Giai Phẩm đứng ra đòi hỏi cởi trói văn nghệ ở Bắc Việt vào năm 1956, thì năm sau, 1957, bên Trung Hoa cũng xảy ra sự phản kháng của nhóm văn thi sĩ do bà Đinh Linh [Ding Ling] dẫn đầu. Bà Đinh Linh cũng đã bị nhà cầm quyền Bắc Kinh bắt giam. Như vậy phong trào đòi hỏi tự do báo chí ở Bắc Việt đi trước phong trào ở CHNDTH).(28)
3. CUỘC HỌC TẬP 18 NGÀY
Để nắm chắc tình hình trước khi vào Đại hội Văn học Nghệ thuật toàn quốc kỳ 2, ban Tuyên huấn Trung ương đảng LĐ do Tố Hữu đứng đầu, tổ chức lớp “Bồi dưỡng về lý luận văn nghệ” từ ngày 1 đến ngày 18-8-1956, thường được gọi là “Cuộc học tập 18 ngày”, với khoảng 300 trí thức, văn nghệ sĩ tham dự. Có thể nói cuộc học tập nầy bao gồm hầu hết những tinh hoa trí tuệ Bắc Việt, trừ những nhà nghiên cứu khoa học chuyên môn.
Có lẽ kết quả không được như ý theo nhà cầm quyền. Báo chí chỉ tường thuật rất sơ lược cuộc học tập nầy, không phải vì nội dung thiếu hấp dẫn, nhưng vì quá nhiều “thắc mắc” được đưa ra mà không có câu trả lời. Những ngày đầu khá buồn tẻ vì những diễn văn khai mạc có tính cách công thức, và những người tham dự có vẻ thụ động. Càng về sau, cuộc học tập càng sôi nổi khi những vấn đề thực tiễn đời sống được nêu ra thảo luận, như cuộc Cải cách ruộng đất, việc kiểm soát dân số, hoạt động các cửa hàng quốc doanh… Những thắc mắc cụ thể được nêu lên xoay quanh mối tương quan giữa chính trị và tự do sáng tác; vấn đề lãnh đạo văn nghệ; những sai lầm trong việc bình chọn giải văn học vừa qua, và cả nội dung của Giai Phẩm Mùa Xuân. Cuộc học tập nầy không đưa ra một thông báo chính thức nào (GB, sđd.238-242). Lý do thật dễ hiểu vì:
-“…Đợt học tập của giới văn nghệ tháng Tám vừa qua đã là một cuộc tranh đấu sôi nổi của trên 300 người công tác văn nghệ. Phát triển sự việc như thế nào, chỉ trích bè phái như thế nào, xây dựng Trung ương đảng như thế nào, Nguyễn Đình Thi tổng kết quanh co như thế nào, Nguyễn Hữu Đang tham luận mạnh bạo như thế nào, Tố Hữu nhận lỗi qua loa như thế nào, anh chị em đã nghĩ những gì…báo Nhân Dân biết rõ. Thế rồi bè phái lãnh đạo văn nghệ vẫn cứ ngoan cố làm thinh…tuyệt nhiên không giải quyết một nguyện vọng nào của anh chị em” (HCV,sđd. tr.26.)
IV. GIAI PHẨM RỒI NHÂN VĂN
1. GIAI PHẨM MÙA THU
Đảng Lao Động tưởng rằng đợt học tập 18 ngày có thể uốn nắn tư tưởng của các giới trí thức và văn nghệ sĩ, không ngờ lại tạo hiệu ứng ngược lại, bất lợi cho chính sách của đảng. Hiệu ứng bất lợi rõ nét nhất là sự xuất hiện của Giai Phẩm Mùa Thu ngày 29-8, nghĩa là cùng tháng với đợt học tập 18 ngày. Về sau Giai Phẩm Mùa Thu được gọi là Giai Phẩm Mùa Thu tập 1 vì giai phẩm nầy được hoan nghênh quá, nên các nhà chủ trương cho ra thêm Giai Phẩm Mùa Thu tập 2 và Giai Phẩm Mùa Thu tập 3.
Cái đinh của Giai Phẩm Mùa Thu tập 1 là bài viết của nhà văn lão thành Phan Khôi, tựa đề là “Phê bình lãnh đạo văn nghệ”, dài 14 trang (sách), cở chữ nhỏ. Trong bài nầy, phần dẫn nhập, Phan Khôi viết rằng trong thời gian chiến tranh, các văn thi sĩ chỉ nghĩ đến kháng chiến, nên sẵn sàng hy sinh, chín bỏ làm mười, không ai thắc mắc gì cả, nhưng sau năm 1954, trở về Hà Nội, “lãnh đạo văn nghệ thành ra vấn đề, quần chúng văn nghệ thắc mắc với lãnh đạo”. Phan Khôi đưa ra ba vấn đề chính để phê bình: đó là tự do của văn nghệ sĩ, vụ Giai Phẩm Mùa Xuân, và Giải thưởng văn học 1954-1955.
Theo Phan Khôi, lúc đó tại Bắc Việt văn nghệ sĩ bị kềm kẹp một cách nghiệt ngã, khiến một ngày nào đó, “nhược bằng bắt mọi người phải viết theo lối của mình, thì rồi đến một ngày kia, hàng trăm thứ hoa cúc đều phải nở ra cúc vạn thọ hết.” Phan Khôi chỉ còn biết than với Nguyễn Đình Chiểu:
-“Cụ Đồ Chiểu ơi! Cụ Đồ Chiểu ơi! Ở thời cụ, cụ đã kêu: Ở đây nào phải trường thi,/ Ra đề hạn vận một khi buộc ràng! Thế mà ngày nay, bảy tám mươi năm sau cụ, người ta còn ra đề dàn bài, lại hạn chữ cho tôi nữa đó cụ ơi! Tôi còn làm ăn gì được nữa cụ ơi! Tôi đâu còn là tôi đâu được nữa cụ ơi!”
Từ lãnh đạo như thế nên đưa đến phản ứng qua Giai Phẩm Mùa Xuân. Rồi lại xảy ra những vụ chụp mũ phản động mà theo Phan Khôi “thật là cái tội phản động ở xứ nầy sao mà ghép một cách dễ dàng quá.” Cũng vì lãnh đạo như thế mới đưa đến kết quả giải văn học 1954-1955, mà “ở Hà Nội, dư luận bàn tán xôn xao, nhiều người không phục, cho rằng có mấy tác phẩm trong đó không xứng đáng được giải.” Chẳng những nêu danh những tác phẩm không xứng đáng, Phan Khôi còn đưa ra lối làm việc theo mệnh lệnh của Hội đồng chấm giải, lấy đa số hội viên trong hội đồng để chèn ép “thiểu số tuyệt đối” là chính Phan Khôi. Điều khôi hài nhất được ông nêu ra là có tác giả vừa được sung vào ban chấm giải, vừa có tác phẩm dự giải, và sau đó lại vừa trúng giải.
Khi phê bình lãnh đạo văn nghệ, Phan Khôi đã phê bình luôn sự lãnh đạo của đảng LĐ, bởi vì tổ chức thực sự lãnh đạo nền văn nghệ Bắc Việt là chi bộ đảng LĐ trong Hội nhà văn trực thuộc hệ thống đảng, và ông cũng phê bình luôn chế độ ông ta đang sống. Phan Khôi viết:
-“Dưới chế độ tư sản, sự đối lập là thường: nhân dân đối lập với chính phủ, công nhân đối lập với chủ xưởng, học sinh đối lập với nhà trường. Nhưng ở dưới chế độ của chúng ta, về mọi phương diện, yêu cầu phải không đi đến đối lập, hễ còn đối lập là cái hiện tượng không tốt, cái triệu chứng không tốt.” (HVC sđd. tt. 59-72.)
Bài báo của Phan Khôi đã làm xôn xao dư luận Hà Nội. Báo Thời Mới (báo tư nhân do Hiền Nhân chủ trương) đã gọi bài viết của Phan Khôi là một “quả bom tạ” thả ngay tại thủ đô Hà Nội. ”Có người lại thốt lên rằng chín mười năm nay mới được nghe tiếng nói sang sảng của cụ Phan Khôi.” (HVC, sđd. 26).
Ngoài bài “Phê bình lãnh đạo văn nghệ” của Phan Khôi, Giai Phẩm Mùa Thu tập 1 còn có các bài “Ông bình vôi” cũng của Phan Khôi, kể chuyện những chiếc bình vôi ở quê ông và khai triển thêm ý tưởng bài thơ của Lê Đạt trong Giai Phẩm Mùa Xuân; bài “Bệnh sùng bái cá nhân trong giới lãnh đạo văn nghệ” của Trương Tửu, đả kích những hiện tượng tôn sùng các “quan văn nghệ”; bài “Bức thư gởi một người bạn cũ” của Trần Lê Văn, diễn tả hình ảnh của một cán bộ cộng sản được mệnh danh là “Ông Khẩu Hiệu”.
2. NHÂN VĂN
Hai mươi ngày sau Giai phẩm Mùa Thu tập 1, tờ Nhân Văn số 1 được phát hành ngày 20-9-1956, do chính Phan Khôi giữ chức chủ nhiệm kiêm chủ bút, Trần Duy (tên thật là Trần Quang Tăng) làm thư ký. (GB sđd. tr. 23). Trong phần mở đầu, báo nầy tuyên bố:
-“Báo Nhân Văn đứng dưới sự lãnh đạo của đảng Lao Động Việt Nam, theo chủ nghĩa Mác-Lênin với tinh thần thực tiễn, để xúc tiến công cuộc củng cố miền Bắc, thống nhất nước nhà, để đi đến thực hiện xã hội chủ nghĩa, theo như ý muốn của Đảng cũng như của nhân dân cả nước.” (29)
Nhân Văn số 1 được dư luận chú ý ngay vì một số bài nổi bật như: “Chúng tôi phỏng vấn về vấn đề Mở rộng tự do dân chủ” với phần trả lời của luật sư Nguyễn Mạnh Tường, giáo sư đại học, theo đó ông cho rằng “sự thực hiện dân chủ trong hai năm vừa qua còn thiếu sót nhiều”; bài “Chống bè phái trong văn nghệ” của Trần Công, trình bày nạn độc đoán của nhóm lãnh đạo văn nghệ; bài thơ “Nhân câu chuyện mấy người tự tử” của Lê Đạt, và đặc biệt nhất là bài “Con người Trần Dần” của Hoàng Cầm. Trong bài báo nầy, qua câu chuyện về việc Trần Dần hai lần bị bắt, Hoàng Cầm lên án việc thiếu tự do sáng tác và tự do tư tưởng dưới chế độ Hà Nội. (Những bài trong Nhân Văn số 1, 20-9-1956, trên đây đã được điện báo Thông Điệp Xanh đưa lên Internet.)
Báo Nhân Văn vừa ra mắt liền được độc giả hoan hô, chuyền tay nhau đọc, và bàn tán sôi nổi, đồng thời cũng được các giới cầm quyền nghiên cứu tỷ mỷ và bị giới nầy lên án gắt gao. Đầu tiên, ngày 25-9-1956, báo Nhân Dân đăng bài của Nguyễn Chương, phó trưởng ban Tuyên huấn trung ương đảng. Nguyễn Chương cho rằng báo Nhân Văn là tay sai của “địch”, vì công kích địch thì ít mà công kích “ta” thì nhiều (HVC,sđd.28). Theo Nguyễn Chương, báo Nhân Văn đã “muốn nhân việc phê bình lãnh đạo văn nghệ hẹp hòi, mệnh lệnh mà làm cho người ta tưởng rằng toàn bộ sự lãnh đạo của đảng LĐVN và toàn bộ chế độ chính trị ở miền Bắc là độc đoán, độc tài, chà đạp con người, không có nhân văn” (NMC,sđd. 23-24).
Tiếp tục trả lời cuộc phỏng vấn về vấn đề mở rộng tự do và dân chủ, trên Nhân Văn số 2 ra ngày 5-10-1956, học giả Đào Duy Anh cho rằng:
-“Trong quá trình xây dựng chế độ, chúng ta gặp trong chính nội bộ của chúng ta, những cái hạn chế và ngăn cản tự do. Tên tuổi của những kẻ thù nội bộ của tự do ấy, người ta đều biết cả: tức là tệ quan liêu, mệnh lệnh, độc đoán, bè phái… những bệnh giáo điều chủ nghĩa, công thức chủ nghĩa, sùng bái cá nhân còn ngự trị trong công tác lãnh đạo văn nghệ và học thuật…” (30)
Đáp lại đả kích của Nguyễn Chương, cũng trên báo Nhân Văn số 2, ba tác giả Hoàng Cầm, Hữu Loan, và Trần Duy viết bài “Chúng tôi cực lực phản đối luận điệu vu cáo chính trị”, trả lời từng lý luận một. Sau mỗi đoạn bẻ gãy lý luận của Nguyễn Chương, các tác giả nầy giễu cợt bằng một điệp khúc:
-“Bạn cố tình đến thế, chúng tôi còn biết làm sao?” (HVC, sđd. 28).
Nguyễn Chương giải thích vớt vát bằng một bài báo khác cũng đăng trên Nhân Dân, thì bị Chu Ngọc trả lời qua bài báo nhan đề “Quần chúng đã chán ghét lối chận họng đó rồi” trên Nhân Văn số 3 ra ngày 20-10-1956. Nhân Văn số 3 còn đăng bài “Nỗ lực phát triển tự do dân chủ” của giáo sư thạc sĩ Trần Đức Thảo. Ông Trần Đức Thảo nhấn mạnh rằng:
-“Trong nhiệm vụ thực hiện phương châm của Đại hội 20 của đảng Cộng Sản Liên Xô, đặng hưởng ứng lời kêu gọi của đảng Lao Động Việt Nam, hưởng ứng phong trào phát triển tự do dân chủ trong những nước dân chủ nhân dân anh em, người trí thức Việt Nam có phần trách nhiệm quan trọng. Người trí thức hoạt động văn hóa, cần tự do như khí trời để thở. Có tự do mới đẩy mạnh được sáng tác văn nghệ, nghiên cứu khoa học, cải tiến kỹ thuật. Phát triển tự do là nhu cầu thiết thân đồng thời là nhiệm vụ số 1 của người trí thức cũng như của toàn dân” (HVC,sđd.292)
Trong khi đó, báo Nhân Dân ngày 16 và 17-10-1956 đăng bài “Chủ nghĩa nhân văn của chúng ta” của giáo sư thạc sĩ Hoàng Xuân Nhị. Ông Hoàng Xuân Nhị vận dụng lý thuyết Mác – Lê để chứng minh rằng văn nghệ phải có đảng tính và văn nghệ sĩ phải triệt để phục tòng sự lãnh đạo của đảng. Báo Nhân Văn số 4 ngày 5-11-1956 phản bác lại bằng bài “Chủ nghĩa nhân văn của ông Hoàng Xuân Nhị” của Bùi Quang Đoài. Ông Bùi Quang Đoài vào lúc đó là sinh viên trường Đại học Hà Nội. Tuy trẻ tuổi, lối lý luận của ông Bùi Quang Đoài rất sắc bén. Sau khi chứng minh những sai lầm của giáo sư thạc sĩ Hoàng Xuân Nhị, Bùi Quang Đoài viết:
-“Xuất phát từ lệch lạc đó, Hoàng Xuân Nhị cho rằng nhờ có Đảng mới có tự do tư tưởng. Như ý kiến tôi vừa trình bày, tôi hỏi lại ông Nhị là có Đảng rồi mới có quần chúng hay có quần chúng rồi mới có Đảng. Như thế thì rõ ràng không phải có Đảng người nghệ sĩ mới có tự do tư tưởng mà ngay cả những thế kỷ trước, cũng như thời kỳ cách mạng, mặc dầu thực dân đàn áp khủng bố, Vũ Trọng Phụng vẫn kiên quyết tự do tư tưởng, tố cáo “cái xã hội đểu” buộc tội giới cầm quyền lúc bấy giờ. Lúc ấy họ có là đảng viên đâu… Như thế thì tự do tư tưởng không phải là một vấn đề Đảng ban ơn cho quần chúng như ông Nhị đã lầm tưởng…”
Bùi Quang Đoài kết luận bài viết của mình như sau:
-“Trong một bài báo ngắn, tôi đã cố gắng trình bày vài sai lầm hoặc vài thiếu sót của ông Nhị về mặt kiến thức. Tôi đề nghị với ông Nhị một điều mà ông Nhị đã từng đề nghị với anh em Nhân Văn và Giai Phẩm: Cố gắng nghiên cứu, suy nghĩ, để giữ cho bản chất trung thực của người trí thức.” (HVC, sđd.139-140) (31)
Cũng trên Nhân Văn số 4, truyện ngắn “Con ngựa già của chúa Trịnh” của Phùng Cung, một văn sĩ trẻ, kể chuyện cuộc đời của một con ngựa chiến được mệnh danh là “Bạch Long Thiên Lý Mã”. Lúc ở với mã phu là lão Nông, thì nó chạy như bay, không con ngựa nào địch lại, nhưng khi về phủ chúa Trịnh, chỉ ăn, tắm, trang điểm lộng lẫy, và kéo xe cho chúa, nên không còn lạnh lẹ như trước, và cuối cùng thất bại trong một cuộc đua sau đó. Phùng Cung muốn dùng hình ảnh của con ngựa nầy để ngụ ý đả kích những văn nghệ sĩ tài hoa trước kia như Xuân Diệu, Huy Cận, Hoài Thanh, đã cam tâm làm tay sai cho chế độ cộng sản, nên tài năng bị thui chột và mai một dần. (HVC, sđd.149-154).
Ngoài những mục khôi hài biếm họa chỉ trích cán bộ đã xuất hiện ngay từ số đầu, Nhân Văn số 5 ra ngày 20-11-1956 được ghi dấu bằng bài viết “Thi sĩ máy” của Châm Văn Biếm, mà sau nầy người ta mới biết Châm Văn Biếm là Như Mai hay Hoàng Như Mai. Theo tác giả Châm Văn Biếm, chế độ cộng sản chỉ cần những người làm theo công thức như máy sản xuất, kể cả thơ ca, chứ không quý trọng tình cảm cũng như sáng tạo cá nhân con người. (HVC, sđd.274-282)
3. CUỘC PHẢN KHÁNG LAN RỘNG
Khi báo Nhân Văn mới xuất hiện, đảng LĐ đang mở ra phong trào sửa sai sau Cải cách ruộng đất, nên cũng có phần mềm mỏng và nới lỏng. Do đó, nhân những bài mào đầu của Nhân Văn, nhiều báo ở Hà Nội đã hưởng ứng sôi nổi, tuy ngắn ngủi nhưng khá hào hứng. Lúc đó, ở HN truyền khẩu một câu đồng dao:
“Trần Dần, Lê Đạt, Phan Khôi,
Các chú đi trước, thì rồi cháu theo.” (NVT, sđd.187)
Tờ báo trước tiên theo chân Nhân Văn là Đất Mới, tiếng nói của anh em sinh viên Hà Nội, ra mắt tháng 10-1956. Xuất bản được một số thì Đất Mới bị đình bản. Người chủ trương Đất Mới là Bùi Quang Đoài. Trên Đất Mới số 1, Bùi Quang Đoài đăng truyện ngắn “Lịch sử một chuyện tình”, kể lại một câu chuyện thật ở Hà Nội lúc bấy giờ, theo đó một cán bộ giáo dục cộng sản đã lợi dụng chức vụ chiếm đoạt tình yêu của nữ sinh. (HVC, sđd. 125-135).
Những tạp chí khác trước kia bình thường, nay cũng bắt đầu đăng những bài báo công kích những tệ nạn của nhà nước CS và đảng Lao Động như báo Trăm Hoa của Nguyễn Bính, báo Thời Mới của Hiền Nhân.
Giai Phẩm Mùa Thu tập 2 ra vào tháng 10-1956, có các bài nổi bật là “Những người khổng lồ” của Trần Duy, bài thơ “Những ngày báo hiệu mùa xuân” của Văn Cao, và bài thơ “Chống tham ô lãng phí” của Phùng Quán. Bài của Phùng Quán được truyền bá rộng rãi nhờ những lời thơ thẳng thắn:
“Tôi muốn đúc thơ thành đạn
Bắn vào tim những kẻ làm càn
Những con người tiêu máu của dân
Như tiêu giấy bạc giả!…
Những tên quan liêu đảng đã phê bình trên báo
Và bao nhiêu tên chưa ai biết, ai hay
Lớn, bé, nhỏ, to, cao, thấp, béo, gầy
Khắp mặt đất như bầy ruồi nhặng
Ở đâu cũng có! …” (HVC, sđd.119)
Giai Phẩm Mùa Thu tập 3 ra đời tháng 11-1956 đánh dấu bằng vở kịch nổi tiếng của Chu Ngọc:
-“Chúng ta gắng nuôi con”.
Giai Phẩm Mùa Đông tháng 12-1956 đăng bài tham luận về vấn đề tự do của giáo sư Trần Đức Thảo nhan đề “Nội dung xã hội và hình thức tự do”. Giáo sư Trần Đức Thảo đã kết luận bài viết của mình như sau:
-“Trong bản tham luận đọc trước Đại hội 8 của đảng Cộng Sản Trung Quốc, đồng chí Đặng Tiểu Bình, hiện giờ là Tổng bí thư đảng Cộng Sản Trung Quốc đã nói:
-“Đảng không có quyền vượt lên trên quần chúng nhân dân, tức là đảng không có quyền ban ơn, cưỡng bách, mệnh lệnh đối với quần chúng nhân dân, đảng không có quyền xưng vương xưng bá trên đầu nhân dân”.” (HVC, sđd.291)
Cũng trong Giai Phẩm Mùa Đông, với bài “Văn nghệ và chính trị”, nhà nghiên cứu Trương Tửu, tuy thừa nhận “Đảng lãnh đạo văn nghệ là một tất yếu lịch sử”, nhưng lại đòi hỏi đảng “phải trả quyền điều khiển chuyên môn cho những nhà chuyên môn”. Trương Tửu viết:
-“Lãnh đạo tốt là tuyệt đối không ngăn cản văn nghệ sĩ phát hiện sự thật một cách hoàn toàn tự do…Họ [văn nghệ sĩ] hoàn toàn độc lập tác chiến, độc lập sáng tạo…họ chỉ tuân theo kỷ luật và chỉ thị của trái tim họ, của khối óc họ, của hiện thực xã hội mà họ phản ánh tùy theo trình độ nhận thức cá nhân của họ…Văn nghệ sĩ chân chính xưa nay đều chống lại chính trị của giai cấp cầm quyền…Văn nghệ sĩ yêu Đảng nhưng họ yêu sự thực hơn Đảng…Vận mạng của văn nghệ sĩ dài hơn vận mạng của Đảng, dài hơn vận mạng của chế độ.” (NHQ, sđd.155)
Phong trào công kích phê bình nhà cầm quyền lan rộng sang cả những tờ báo của đảng như tờ Cứu Quốc do Mặt trận Tổ quốc chủ trương, tờ Nhân Dân và cả tờ Học Tập, cơ quan nghiên cứu lý luận của đảng, cũng nêu lên những trường hợp tham ô lạm quyền của đảng viên. Các tờ báo đảng thì đổ lỗi cho cá nhân các cán bộ đảng viên thoái hóa. Còn các báo khác thì cho rằng đây là sai lầm của lãnh đạo và chính sách của đảng (HVC, sđd.27).
CHÚ THÍCH
28. Đinh Linh (Ding Ling, 1904-1986): Tên thật là Tưởng Băng Chi (Chiang Ping – chih). Những tác phẩm đầu tay nổi tiếng của bà trong thập niên 20 viết về những vấn đề phụ nữ và cuộc tranh chấp của giới phụ nữ trẻ chống lại xã hội phụ quyền Trung Hoa. Tác phẩm Lũ lụt xuất bản năm 1931 (dịch sang Anh ngữ năm 1937) bắt đầu phản ảnh quan điểm vô sản. Bà gia nhập đảng Cộng Sản Trung Hoa năm 1933 (có sách viết là 1931). Tác phẩm nổi tiếng nhất của bà là Mặt trời chiếu trên sông Tang-Càn [Sang-kan], xuất bản năm 1948, mô tả phong trào cải cách ruộng đất vào cuối thập niên 40, được Giải thưởng văn học Stalin năm 1951 (dịch sang Anh ngữ năm 1954). Bà liên tục dự vào những cuộc tranh luận văn học trong nội bộ đảng, bị chụp mũ là hữu phái, nên bị thanh trừng và loại ra khỏi đảng cũng như mọi chức vụ năm 1957. Dầu vậy, bà vẫn nổi tiếng và là nhà văn nữ hàng đầu được ưa chuộng ở Trung Hoa. Sau 20 năm lao động ở nông trại vùng xa, bà được trả tự do năm 1978 và ân xá năm 1979.
29. Nhân Văn số 1, Hà Nội, 20-9-1956. Tài liệu Internet: http://members.aol.com/canhen/nhvanxl.htm
30. Nhân Văn số 2, Hà Nội 5-10-1956, “Chúng tôi phỏng vấn về vấn đề mở rộng tự do và dân chủ”, Ý kiến của ông Đào Duy Anh. Tài liệu Internet: http://members.aol.com/canhen/nhvan7.htm
31. Sau đợt học tập và kiểm thảo năm 1958, Bùi Quang Đoài không còn được dùng tên thật của mình làm bút hiệu nữa. Từ năm 1975, tác phẩm của Bùi Quang Đoài phải đề tên của người con trai là Thái Vũ, như Ba Đình, Giặc Chày vôi…
(Xem tiếp phần 2)
* * *
Bài liên hệ:
- Phong trào Nhân Văn Giai Phẩm
- Phùng Quán trong tôi
Xem bài khác cùng chủ đề: click vào đây
Trở về trang chính: www.nuiansongtra.net