Diễn đàn của người dân Quảng Ngãi
giới thiệu | liên lạc | lưu niệm

 January 09, 2025
Trang đầu Hình ảnh, sinh hoạt QN:Đất nước/con người Liên trường Quảng Ngãi Biên khảo Hải Quân HQ.VNCH HQ.Thế giới Kiến thức, tài liệu Y học & đời sống Phiếm luận Văn học Tạp văn, tùy bút Cổ văn thơ văn Kim văn thơ văn Giải trí Nhạc Trang Anh ngữ Trang thanh niên Linh tinh Tác giả Nhắn tin, tìm người

  Văn học
NHỚ RỪNG (Thế Lữ)
Webmaster


Lời mở đầu:
Dưới đây là bài thơ “Nhớ rừng” của Thế Lữ cùng 2 bài “điểm thơ”, viết sơ lược về tác giả và phân tích vắn tắt về nội dung bài nầy. Tuy nhiên, để mở đầu, gởi đến độc giả bài thơ “độ” vui, về “thân phận đàn ông ở Mỹ”, không nêu tên tác giả. Bài thơ vui nầy nằm sau vài dòng “tự sự” của người chuyển (cũng vô danh). Đây chỉ là chuyện phụ, xem như để giải trí.
Webmaster


* * *

(Tặng những bạn “yamaha” của tôi)

Đọc bài thơ của tác giả cũng một thời "Hổ Nhớ Rừng" như Thế Lữ, tôi không khỏi xúc động cảm thương; nhưng nghĩ lại tâm trạng của tác giả cũng là của chính tôi, nên một chút gì đó ngậm ngùi thân phận chiến sĩ thua trận nên hết thời.

Văng vẳng tiếng gọi the thé từ trong bếp: nhà không quét, không hút bụi, chén không rửa, suốt ngày ôm điện thoại rù rì với mấy thằng cha yamaha hoặc ôm ti vi xem mấy chục thằng giành nhau một trái banh (!)

Dù cọp già bảy bó gập, nhưng chưa bị lột da, bẻ móng, hay gom xương làm cao hổ cốt, thì ta vẫn hy vọng một ngày về…


- - - -

ÔI! THỜI OANH LIỆT NAY CÒN ĐÂU!
(Khuyết danh)



Bà chằn lửa đang nhe nanh

 

Ngậm một khối u hoài bên cạnh vợ,
Ta lờ khờ và lớ ngớ ngu ngơ
Giận vợ già quá ngạo mạn khó ưa
Giương mắt... lão nhìn ta như con trẻ.

Nay già rồi chịu gông cùm lép vế
Để mụ già nổi hứng, mụ hành chơi!
Chịu ngang bầy cùng lũ chó dở hơi,
Thường đẩy xe sau mỗi lần đi chợ.

Ta sống mãi trong tình thương nỗi nhớ,
Thưở tung hoành hống hách những ngày xưa:
Đất Saigon nhớ biết mấy cho vừa
Phố xá rộn ràng gái trai dìu dặt.

Ngoài chiến trận ta vẫy vùng ngang dọc
Thật kiêu hùng quyết bảo vệ quê hương.
Có toàn dân và em gái hậu phương,
Nàng ngưỡng mộ tôn ta làm thần tượng.

Đi bên ta nàng nhẹ như cánh phượng,
Nép vào ta nhờ che chở chở che
Ta hiên ngang dìu em dưới hàng me
Hoặc trốn nắng vào ci-nê hú hí.

Chiều công viên cùng nàng mừng cho có!
Hoặc đêm về ngồi ngắm ánh trăng trong
Nàng hiền khô yếu đuối gọn trong lòng
Để từ đó yêu nàng vô bờ bến...

Đâu những yêu kiều, dịu dàng, thương mến
Tiếng thu ca ru giấc ngủ êm đềm
Đâu những chiều có chỗ đứng bên thềm
Ta chết cứng trong tóc mềm môi ướt.

Để ta chiếm lấy phần riêng bí mật
Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu!
Để giờ đây ta ngậm một mối sầu
Ghét thế sự con người nhiều thay đổi.

Những cảnh đời nhiều tầm thường giả dối
Bao bon chen bao gian dối lọc lừa
Nàng của ta cũng thay đổi bao mùa,
Hay đanh đá hay chanh chua quát tháo!

Mắt nai tơ giờ trợn trừng thao láo
Đôi môi mềm cong cớn hết cười tươi,
Mỗi cuối tuần lãnh check bảo "Đưa tôi!"
Ta ngửa mặt "Thế thời thời phải thế"!!!

Nơi xứ Mỹ thôi ta đành lép vế
Đành ngu ngơ đành nhẫn nhục chờ thời
Nhưng càng lâu ta càng thấy… hết thời
Cho đến lúc tự nhiên đâm ra nhát.

Để giờ đây những đêm trường ngao ngán
Ta lâu ngày... phở tái vẫn thèm ăn
Vẫn đợi chờ gió đến để... bẻ măng
Nằm phục kích...chờ nai vàng nộp mạng!

Ta nhớ lại những ngày xưa ngang dọc
Mà giờ đây ôm hận suốt đêm thâu.
Hãy vùng lên có chỗ đứng ngẩng đầu
Thà một phút huy hoàng rồi chợt tắt!

Hãy vươn lên dù chỉ còn chút sức,
Hãy la to cho chằn lửa giật mình...

. . . . . .

Nói cho đã rồi sao lại nín thinh
Vì vợ mới kêu ta...đi rửa chén
Thì rửa thôi!


KKB (Không không Biết)

* * *

NHỚ RỪNG
Thế Lữ

(Lời con hổ trong vườn bách thú)

Tặng Nguyễn Tường Tam.

Gậm một khối căm hờn trong cũi sắt
Ta nằm dài, trông ngày tháng dần qua.
Khinh lũ người kia ngạo mạn, ngẩn ngơ,
Giương mắt bé diễu oai linh rừng thẳm,
Nay sa cơ, bị nhục nhằn tù hãm,
Để làm trò lạ mắt, thứ đồ chơi.
Chịu ngang bầy cùng bọn gấu dở hơi,
Với cặp báo chuồng bên vô tư lự.

Ta sống mãi trong tình thương nỗi nhớ
Thuở tung hoành hống hách những ngày xưa:
Nhớ cảnh sơn lâm, bóng cả, cây già,
Với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn hét núi,
Với khi thét khúc trường ca dữ dội,
Ta bước chân lên, dõng dạc, đường hoàng,
Lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng,
Vờn bóng âm thầm, lá gai, cỏ sắc.
Trong hang tối, mắt thần khi đã quắc,
Là khiến cho mọi vật đều im hơi,
Ta biết ta chúa tể của muôn loài
Giữa chốn thảo hoa không tên, không tuổi.



Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối,
Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan.
Đâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn,
Ta lặng ngắm giang san ta đổi mới
Đâu những bình minh cây xanh nắng gội,
Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng!
Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng.
Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt,
Để ta chiếm lấy riêng phần bí mật?
- Than ôi! thời oanh liệt nay còn đâu?

Nay ta ôm niềm uất hận suốt ngàn thâu,
Sống những cảnh không đời nào thay đổi,
Những cảnh sửa sang, tầm thường, giả dối:
Hoa chăm, cỏ xén, lối phẳng, cây trồng
Giải nước đen giả suối, chẳng thông dòng
Len dưới nách những mô gò thấp kém
Dăm vừng lá hiền lành, không bí hiểm,
Cũng học đòi bắt chước vẻ hoang vu
Của chốn ngàn năm cao cả, âm u.



Hỡi oai linh, cảnh nước non hùng vĩ!
Là nơi giống hùm thiêng ta ngự trị.
Nơi thênh thang ta vùng vẫy ngày xưa
Nơi ta không còn được thấy bao giờ
Có biết chăng trong những ngày ngao ngán,
Ta đương theo giấc mộng ngàn to lớn
Để hồn ta phảng phất được gần ngươi,
- Hỡi cảnh rừng ghê gớm của ta ơi!

Thế Lữ
(1936)

* * *

THẾ LỮ
 
Anh Hồ

"Than ôi! thời oanh liệt nay còn đâu?"

Tên thật là Nguyễn Thứ Lễ, sinh tại Hà Nội, quê gốc Bắc Ninh. Bút danh Thế Lữ là do đọc lái tên thật mà thành, còn có nghĩa là "quán trọ của đời" (06.10.1907 - 03.6.1989).

 

 

Chân dung Thế Lữ


Thế Lữ viết truyện trinh thám, làm thơ. Thế Lữ chỉ có hai tập thơ, được sáng tác trong vòng bảy năm, nhưng lại có ý nghĩa khai sinh một chặng phát triển mới cho thơ ca VN, đó là phong trào Thơ Mới. Những năm đầu thập niên 30 của thế kỷ 20, thơ cũ theo luật Đường không thể chuyên chở những tình cảm mới. Ngay từ Tản Đà đã phải có những yếu tố cách tân. Năm 1932, nhiều thi sĩ thổi vào thơ những đổi mới cả về nội dung lẫn hình thức. Tranh luận giữa mới - cũ rất sôi nổi. Thế Lữ chỉ lặng lẽ làm Thơ Mới, không tham gia tranh luận! Khi Thế Lữ cho xuất bản tập "Mấy vần thơ" vào năm 1935, cũng là đặt dấu chấm hết cho các cuộc tranh luận triền miên vì "phái thơ cũ" đã hết lý lẽ để công kích Thơ Mới nữa. Qua Thế Lữ lần đầu công chúng thơ được thưởng thức một loại thơ ca mới mẻ...

Bài "Nhớ rừng" của Thế Lữ thực chất là một tuyên ngôn của chủ nghĩa lãng mạn, không chấp nhận cái tầm thường...

Sự đa tầng, đa nghĩa thường làm cho thơ giàu sức khái quát và cũng là thuộc tính tất yếu làm cho thơ có thể thành thi phẩm bất hủ. Sụ lay động và lấp lánh của thơ thường loé lên, toả sáng từ nhiều tầng cảm xúc. Phải chăng chính những cảm xúc hợp lý vẫn cứ mở rộng thơ ra về kích cỡ để tạo nên từng nét thơ, hoặc cả dung mạo một bài thơ bất tử? Đọc "Nhớ rừng" của Thế Lữ chừng như nhiều thế hệ đã nhận định như vậy...


Xưa nay, sự bí mật và kỳ vĩ của thơ ca thường khởi nguyên từ bút pháp rất dung dị mà đậm chất hàm súc. Chỉ một "lốt" hổ trong "Nhớ rừng", Thế lữ cũng đã tạo ra biết bao tầng nghĩa rất khác nhau, biến con hổ trong thơ hoá thân thành muôn hình vạn trạng của muôn điều suy tưởng từ những "gốc rễ" nhận thức rất riêng của từng người đọc.

Với Thơ Mới, Thế Lữ không luận chiến mà ông ung hoành dùng ngọn bút của chủ nghĩa lãng mạn để lột tả cái khí phách của vị chúa sơn lâm khi bị hãm mình trong "cũi sắt".

Gặm một khối căm hờn trong cũi sắt,
Ta nằm dài, trông ngày tháng dần qua.
Khinh lũ người kia ngạo mạn, ngẩn ngơ,
Giương mắt bé riễu oai linh rừng thẳm
Nay sa cơ, bị nhục nhằn tù hãm
Để làm trò lạ mắt, thứ đồ chơi.

Thơ cũ giam mình trong lốt hổ, nhà thơ tả hổ sa cơ bằng bút pháp và kích cỡ vung ngang, chém dọc rất tự nhiên, ngẫu hứng, sắc bén bằng tố chất mới lạ của Thơ Mới?

Nếu trước đó, nhà thơ miền Nam Đông Hồ đã ví thơ cũ như "Chiếc áo năm xưa đã cũ rồi", cũ về màu sắc đặt định, cũ cả về kích thước của cảm xúc... thì giờ đây Thế Lữ không muốn chỉ ra hết tất thảy nhược điểm của thơ cũ. Trái lại, chừng như ông nhìn thấy hồn thơ cũ vẫn còn âm vang trong Thơ Mới, có điều nó được diễn đạt thoải mái hơn, tự do hơn. Con hổ bị giam nhưng vẫn cố ánh lên thứ khí phách phi thường bằng đặc chất của chủ nghĩa lãng mạn qua những ngôn từ cực mạnh của của "gió rừng", của "giọng nguồn hét núi", của những động từ dữ dội: "thét, dõng dạc, cuộn, quắc...":

Ta bước chân lên, dõng dạc, đường hoàng,

Thế Lữ không đi tận cùng với thơ. Từ năm 1937, ông chuyển sang kịch và cũng có nhiều thành tựu ở lĩnh vực này. Nhưng Thế Lữ đã được coi là người cách tân số một của thơ Việt Nam thế kỷ 20, mở đường cho một loạt thi sĩ tài năng xuất hiện trong thời gian 1932-1945.

(Vũ Quần Phương)

Lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng,
Vờn bóng âm thầm, lá gai, cỏ sắc.
Trong hang tối, mắt thần khi đã quắc
Là khiến cho mọi vật đều im hơi.
Ta biết ta chúa tể muôn của loài
Giữa chốn thảo hoa, không tên không tuổi.

"Giữa chốn thảo hoa, không tên không tuổi" phải chăng là câu thơ làm cho mãnh lực phi thường của chúa sơn lâm trước muôn loài vụt tan biến... mọi oai linh? Bởi quyền uy đó chẳng có gì để đối chứng, để xác tín chăng? Cái siêu phàm chợt đồng nghĩa với nỗi cô đơn? Trong bài thơ "Hi Mã Lạp Sơn" Xuân Diệu chừng như cũng chỉ ra điều đó:

Ta là Một, là Riêng, là Thứ Nhất
Không có chi bè bạn nổi cùng ta

(.....)

Ta bỏ đời, mà đời cũng bỏ ta
Giữa vắng ngắt, giữa lạnh lùng thế tuyệt!

Phải chăng hình ảnh hổ bị giam là một ẩn dụ về sự độc đáo trong khuôn khổ của thơ cũ, cũng chính là một thứ độc đoán tự giam mình? Khuôn khổ thơ hay là chiếc "cũi sắt" giam hổ trong thơ:

Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối,
Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan?
Đâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn
Ta lặng ngắm giang san ta đổi mới?
Đâu những bình minh cây xanh nắng gội
Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng?
Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng
Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt
Để ta chiếm lấy riêng phần bí mật?

"Đâu... đâu... đâu...?" điệp động liên hồi về một quyền năng chỉ còn trong hoài niệm của hổ. Sự khuôn định, niêm luật khắt khe chưa hẳn là thế mạnh của thơ cũ, ngược lại nó gò bó thơ cũ. Nhưng tính súc tích, cô đọng về ngôn từ của thơ cũ vẫn có thể vận dụng để làm giàu đẹp cho Thơ Mới. Yêu tự do, muốn vượt mọi khuôn định, nhưng sự dài dòng, khuynh hướng viết "thoải mái", "tràng giang" nhất địng không thể là thế mạnh của Thơ Mới, mà nó đã vấp phải trong giai đoạn sơ khai.

 

Phải chăng ngoài sự thắng lợi của Thơ Mới, vị chủ tướng Thế Lữ vẫn còn rất trân trọng với thơ cũ về năng lực đậm đặc và súc tích của nó? Nếu như vậy, "Nhớ rừng" của Thế Lữ đã mở ra triển vọng cho Thơ Mới về cả hai cực: tiến tới sự phóng khoáng của ngày mai trong sự kế thừa, chắt lọc bao tinh túy của cái hôm qua?

Anh Hồ

* * *

ĐỌC LẠI “NHỚ RỪNG” CỦA THẾ LỮ
Phan Thành Khương

“Nhớ rừng” của Thế Lữ là một bài thơ hay. Những ai có chí khí, có khát vọng thoát ra khỏi cuộc sống chật hẹp, tù túng, quẩn quanh, gò bó, tầm thường đều thấy phấn khích khi đọc hay khi nghe ngâm bài thơ “Nhớ rừng”. Bài thơ được tác giả đề tặng nhà văn lớn Nhất Linh và có một chú thích rất rõ ràng, cụ thể: “Lời con hổ ở vườn Bách thú”. Đúng vậy. Bài thơ là “lời con hổ” nhưng lại mang tâm trạng của con người. Và, đó không chỉ là tâm trạng của một người, của riêng Thế Lữ mà còn là tâm trạng của cả một tầng lớp, một thế hệ. Đáng tiếc thay, đó lại là tâm trạng gần như bất lực và bế tắc!

“Nhớ rừng” mở đầu bằng một nỗi căm hờn, một niềm bi phẫn cao độ:

Gậm một khối căm hờn trong cũi sắt,
Ta nằm dài, trông ngày tháng dần qua,
Khinh lũ người kia ngạo mạn, ngẩn ngơ,
Giương mắt bé diễu oai linh rừng thẳm
Nay sa cơ, bị nhục nhằn tù hãm,
Để làm trò lạ mắt, thứ đồ chơi,
Chịu ngang bầy cùng bọn gấu dở hơi,
Với cặp báo chuồng bên vô tư lự.

Con hổ xót xa khi mình không còn là mình mà chỉ còn là “thứ đồ chơi” và phải “chịu ngang bầy cùng bọn gấu dở hơi, với cặp báo chuồng bên vô tư lự”.

Đúng. Chẳng có nỗi bất hạnh nào lớn hơn khi mình không còn là mình, khi ta không còn là ta, khi đã đánh mất bản ngã, đánh mất cái tôi độc đáo để chỉ còn là một “cái tôi” giả tạo, nhợt nhạt, khốn khổ.

Và, con hổ chỉ còn biết sống với quá khứ, sống với “thủa (thuở) tung hoành” ngày xưa. Cũng may cho con hổ là hắn còn có một quá khứ hào hùng để mà thương nhớ. Nhờ thế, con hổ may ra quên đi được, dù là trong chốc lát, cái hiện tại “nhục nhằn, tù hãm”:

Ta sống mãi trong tình thương nỗi nhớ,
Thủa tung hoành, hống hách những ngày xưa.
Nhớ cảnh sơn lâm, bóng cả, cây già,
Với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn hét núi,
Với khi thét khúc trường ca dữ dội
Ta bước chân lên, dõng dạc, đường hoàng,
Lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng,
Vờn bóng âm-thầm, lá gai, cỏ sắc.
Trong hang tối, mắt thần khi đã quắc
Là khiến cho mọi vật đều im hơi.
Ta biết ta chúa tể muôn của loài
Giữa chốn thảo hoa, không tên không tuổi.

Con hổ nhớ mãnh liệt nhất, nhớ quay quắt nhất, nhớ cụ thể nhất là “những đêm vàng bên bờ suối”, “những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn”, “những bình minh cây xanh nắng gội” và “những chiều lênh láng máu sau rừng”:

Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối
Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan?
Đâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn
Ta lặng ngắm giang sơn ta đổi mới?
Đâu những bình minh cây xanh nắng gội,
Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng?
Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng
Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt,
Để ta chiếm lấy riêng phần bí mật?

Nhưng, đấy cũng chỉ là quá khứ. Quá khứ dù hào hùng, tươi đẹp bao nhiêu cũng không thể thay thế cho hiện tại. Cũng như con người, con hổ vẫn phải sống với cái hiện tại của nó và con hổ đã không hề mơ hồ, không hề ảo tưởng khi cất lời than vãn:

Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu?

 


Và, con hổ chỉ còn biết “ôm niềm uất hận ngàn thâu (thu)”, một niềm uất hận lớn, niềm uất hận vĩnh cửu và chỉ còn biết ghét, ghét cay ghét đắng, sự trì trệ, sự tầm thường, sự giả dối, sự học đòi, sự bắt chước, …

Nay ta ôm niềm uất hận ngàn thâu
Ghét những cảnh không đời nào thay đổi,
Những cảnh sửa sang, tầm thường, giả dối:
Hoa chăm, cỏ xén, lối phẳng, cây trồng;
Giải nước đen giả suối, chẳng thông dòng
Len dưới nách những mô gò thấp kém;
Dăm vừng lá hiền lành, không bí hiểm,
Cũng học đòi bắt chước vẻ hoang vu
Của chốn ngàn năm cao cả, thâm u.

Cuối cùng, con hổ chỉ còn biết sống trong mộng, một “giấc mộng ngàn to lớn”, để quên đi thực tại, để được tự do, dù chỉ là trong mộng.

Hỡi oai linh, cảnh nước non hùng vĩ!
Là nơi giống hùm thiêng ta ngự trị,
Nơi thênh thang ta vùng vẫy ngày xưa,
Nơi ta không còn được thấy bao giờ!
Có biết chăng trong những ngày ngao ngán,
Ta đương theo giấc mộng ngàn to lớn
Để hồn ta phảng phất được gần ngươi,
- Hỡi cảnh rừng ghê gớm của ta ơi!

Như đã nói ở trên, tuy là “lời của con hổ ở vườn Bách thú” nhưng rõ ràng bài thơ là tâm trạng của cả một tầng lớp, một thế hệ thanh niên Việt Nam cảm thấy bất lực và bế tắc. Ta muốn thấy một con hổ biết phá cũi sổ lồng, một con hổ biết tung người lên, bay qua các hàng rào để tự giải phóng cho mình hay tiêu cực hơn, tự đập đầu vào tường, để tự sát, quyết không chịu sống cảnh “nhục nhằn tù hãm” nhưng con hổ của chúng ta, con hổ của Thế Lữ, không được như thế. Con hổ của chúng ta, con hổ của Thế Lữ, chỉ biết dừng lại ở chỗ: bất bình với hiện tại, xót xa với cái hôm nay, nhớ tiếc quá khứ, mơ mộng đến những ngày tháng đã qua!

Nhưng, dù sao đi nữa, dù bất lực và bế tắc thì sự bất lực và bế tắc của một con hổ vẫn kì vĩ hơn nhiều, hào hùng hơn nhiều so với sự bất lực và bế tắc của một con sâu hay sự bất lực và bế tắc của một con dòi. Bởi một lẽ đơn giản là con hổ được người ta tôn trọng: người ta gọi con hổ là ông Hổ, ông Hùm, ông Cọp, ông Ba mươi. Ở Phan Rang (Ninh Thuận) có Cầu ông Cọp, ở Hội An (Quảng Nam) có Miếu ông Cọp v.v…

Có lẽ, chính vì thế, bài thơ “Nhớ rừng” đã, đang và sẽ còn làm phấn khích nhiều thế hệ người đọc. Kỉ niệm 102 năm ngày sinh của Thế Lữ (1907-2009), chúng ta cảm ơn nhà thơ đã để lại cho đời một bài thơ độc đáo, bi tráng.

Chúng ta tin rằng, nhà thơ của chúng ta, con hổ của Thế Lữ, đã về với khu rừng vĩnh cửu của mình, đã chẳng còn phải sống cảnh “nhục nhằn tù hãm” nữa.


Chờ đón năm Canh Dần
Ninh Thuận, 12-2009
PHAN THÀNH KHƯƠNG

* * *

Xem bài trên trang Văn học,  click vào đây 
Trở về trang chính: 
www.nuiansongtra.com

 


Nếu độc giả, đồng hương, thân hữu muốn: 

* Liên-lạc với Ban Điều Hành hay webmaster 
* Gởi các sáng tác, tài liệu, hình-ảnh... để đăng 
* Cần bản copy tài liệu, hình, bài...trên trang web:

Xin gởi email về: quangngai@nuiansongtra.net 
hay: nuiansongtra1941@gmail.com

*  *  *

Copyright by authors & Website Nui An Song Tra - 2006


Created by Hiep Nguyen
log in | ghi danh