TRỞ LẠI TƯƠNG LAI: SỰ BẤT ỔN TẠI CHÂU ÂU SAU CHIẾN TRANH LẠNH
(Back to the Future: Instability in Europe after the Cold War)
By John J. Mearsheimer
Mạch Nguyễn Phương-Uyên dịch
Ngô Thị Thu-Hương hiệu đính
International Security, Vol. 15, No. 1. (Summer), pp. 5-56.
Phần 1
Các dàn hỏa tiễn vẫn còn được tăng cường
mặc dù chiến tranh lạnh đã chấm dứt
Những thay đổi sâu sắc diễn ra tại Châu Âu đang được nhìn nhận một cách rộng rãi như điềm báo về một kỷ nguyên hòa bình mới. Sự kết thúc của Chiến tranh Lạnh cho thấy nguy cơ chiến tranh luôn đè nặng lên Châu Âu trong suốt hơn bốn thập niên đã được gỡ bỏ. Gươm kiếm nay đã trở thành lưỡi cày; sự hòa thuận ngự trị giữa các quốc gia và dân tộc ở Châu Âu. Trung Âu, nơi đã phải rên xiết trong một thời gian dài vì những lực lượng ồ ạt của hai khối quân sự, bây giờ có thể cải tạo những căn cứ quân sự thành khu công nghiệp, sân chơi và chung cư.
Những học giả về an ninh có thể dừng các cuộc tranh luận buồn chán về học thuyết quân sự và những đánh giá về thế cân bằng, và hướng sự quan tâm của họ sang việc tìm cách ngăn chặn hiện tượng Trái Đất nóng lên cũng như bảo vệ tầng ozone. Các nhà lãnh đạo Châu Âu hiện có thể suy nghĩ về việc chia sẻ những lợi ích hòa bình như thế nào. Đó là quan điểm chung hiện nay.
Bài viết này đánh giá cách nhìn lạc quan trên thông qua việc tìm hiểu chi tiết những hậu quả của sự kết thúc của Chiến tranh Lạnh đối với Châu Âu. Đặc biệt, tôi sẽ xem xét những tác động của viễn cảnh Chiến tranh Lạnh kết thúc hoàn toàn. Liên Xô rút hết quân khỏi Đông Âu, để các quốc gia trong khu vực được độc lập. Do đó đã xuất hiện nhiều ý kiến ở Mỹ, Anh, và Đức cho rằng các lực lượng quân sự của Mỹ và Anh tại Đức đã mất đi lý do tồn tại chính của mình, và những lực lượng này đang rút khỏi Lục địa. NATO và Hiệp ước Vacxava sau đó sẽ tan rã; họ có thể vẫn còn tiếp tục tồn tại trên giấy tờ, nhưng mỗi bên sẽ ngừng thực hiện chức năng của một liên minh. [1] Kết quả là, cấu trúc hai cực vốn đã trở thành đặc trưng của Châu Âu từ khi kết thúc Chiến tranh thế giới thứ hai được thay bằng cấu trúc đa cực. Về bản chất, cuộc Chiến tranh Lạnh mà chúng ta đã biết đến trong gần nửa thế kỷ qua đã kết thúc, và trật tự Châu Âu hậu chiến tranh cũng không còn nữa. [2]
Sự thay đổi cơ bản đó sẽ ảnh hưởng đến viễn cảnh hòa bình ở Châu Âu như thế nào? [3] Nó sẽ làm nguy cơ chiến tranh tăng lên hay giảm đi?
Tôi lập luận rằng khả năng xảy ra các cuộc khủng hoảng lớn và chiến tranh tại Châu Âu sẽ tăng lên rõ rệt nếu Chiến tranh Lạnh kết thúc và kịch bản này trở thành hiện thực. Những thập niên tiếp theo ở Châu Âu khi không còn các siêu cường có thể không bạo lực như 45 năm đầu của thế kỷ 20, nhưng về cơ bản cũng có thể thiên về bạo lực nhiều hơn 45 năm qua.
Kết luận bi quan này dựa trên lập luận rằng đặc tính và sự phân chia sức mạnh quân sự là gốc rễ dẫn đến chiến tranh và hòa bình. Cụ thể, việc chiến tranh không xảy ra tại Châu Âu từ năm 1945 là hệ quả của ba yếu tố: sự phân bố sức mạnh quân sự lưỡng cực tại Lục địa; thế cân bằng quân sự tương đối giữa hai quốc gia đứng đầu hai cực ở Châu Âu là Mỹ và Liên Xô; và thực tế là mỗi siêu cường đều được trang bị kho vũ khí hạt nhân lớn. [4] Các yếu tố nội tại của các quốc gia cũng ảnh hưởng đến khả năng chiến tranh, và đã giúp mang lại nền hòa bình thời hậu chiến. Quan trọng nhất, chủ nghĩa dân tộc quá khích đã khiến hai cuộc chiến tranh thế giới nổ ra, và sự suy giảm của chủ nghĩa dân tộc tại Châu Âu từ năm 1945 đã góp phần mang lại hòa bình cho thế giới thời kì hậu chiến. Tuy nhiên, các yếu tố quyền lực quân sự đóng vai trò quan trọng nhất trong việc tạo nên các sự kiện lịch sử, và sẽ vẫn giữ vị trí trung tâm trong tương lai.
Việc các siêu cường rút lui khỏi Trung Âu sẽ biến Châu Âu từ hệ thống hai cực sang đa cực. [5] Đức, Pháp, Anh, và có lẽ cả Ý sẽ trở thành cường quốc; Liên Xô không còn là siêu cường nhưng vẫn là một nước lớn tại Châu Âu, tạo nên hệ thống gồm năm cường quốc và nhiều quốc gia nhỏ hơn. Hệ thống này sẽ gặp những khó khăn chung của các hệ thống đa cực, và do đó sẽ dễ đi đến bất ổn hơn. [6] Sự bất bình đẳng về quyền lực sẽ xảy ra; nếu như vậy thì sự ổn định sẽ suy yếu hơn nữa.
Sự rút lui của các siêu cường cũng sẽ loại bỏ các kho vũ khí hạt nhân lớn mà họ đang duy trì ở Trung Âu. Điều đó sẽ làm mất đi tác dụng kiềm chế mà loại vũ khí này áp đặt lên nền chính trị Châu Âu. Bốn kịch bản chính có thể xảy ra. Ở kịch bản đầu tiên, Châu Âu sẽ trở thành khu vực phi hạt nhân, như vậy sẽ xóa bỏ một trụ cột chính của trật tự trong thời kì Chiến tranh Lạnh. Trong kịch bản thứ hai, các quốc gia Châu Âu sẽ không phát triển kho vũ khí của họ để bù lại việc các siêu cường rút kho vũ khí khỏi khu vực này. Trong kịch bản thứ ba, sự phổ biến vũ khí hạt nhân sẽ xảy ra, nhưng không được kiểm soát; không biện pháp nào được đưa ra để làm giảm những rủi ro vốn có trong quá trình phổ biến. Tất cả ba kịch bản này đều sẽ gây ra nguy cơ chiến tranh nghiêm trọng.
Ở kịch bản thứ tư và cũng là kịch bản ít nguy hiểm nhất, vũ khí hạt nhân phổ biến ở Châu Âu nhưng quá trình này sẽ được các cường quốc hạt nhân hiện nay kiểm soát tốt. Họ sẽ tiến hành các biện pháp ngăn cản nỗ lực phát triển thêm các cường quốc hạt nhân, thiết lập giới hạn cho quá trình phổ biến này bằng cách mở rộng chiếc ô an ninh cho các nước láng giềng của những cường quốc hạt nhân mới nổi, giúp những cường quốc này xây dựng lực lượng răn đe an toàn và can ngăn họ triển khai hệ thống đánh trả đe dọa đến khả năng răn đe của các quốc gia láng giềng. Kết quả này có thể mang lại hy vọng tốt nhất cho việc duy trì hòa bình tại Châu Âu. Tuy nhiên, kịch bản này vẫn nguy hiểm hơn so với giai đoạn 1945 – 1990. Hơn nữa, rất khó có khả năng sự phổ biến vũ khí hạt nhân sẽ được kiểm soát tốt.
Có thể đưa ra ba lập luận phản đối những dự đoán bi quan trên về tương lai của Châu Âu. Lập luận thứ nhất là hòa bình vẫn sẽ được duy trì bởi những tác động của trật tự kinh tế quốc tế tự do phát triển từ Chiến tranh thế giới thứ hai. Lập luận thứ hai dựa trên kết quả quan sát cho thấy các nền dân chủ tự do hiếm khi tiến hành chiến tranh chống lại nhau, và cho rằng việc chế độ dân chủ được truyền bá rộng rãi khắp Châu Âu trước kia đã củng cố nền hòa bình, và quá trình dân chủ hóa đang diễn ra tại Đông Âu càng giúp giảm nguy cơ xảy ra chiến tranh. Lập luận thứ ba cho rằng người Châu Âu đã có được bài học từ những kinh nghiệm thảm khốc trong thế kỷ này, rằng chiến tranh, cho dù là cuộc chiến bình thường hay chiến tranh hạt nhân, đều rất tốn kém đến mức nó không còn là lựa chọn có lý trí của các quốc gia nữa.
Nhưng như tôi sẽ giải thích, những lý thuyết đằng sau các lập luận này không hoàn hảo; do đó dự đoán về nền hòa bình ở Châu Âu đa cực của chúng cũng bị lỗi.
Có thể rút ra ba khuyến nghị chính sách từ bản phân tích này. Thứ nhất, Mỹ nên khuyến khích quá trình phổ biến vũ khí hạt nhân hạn chế tại châu Âu. Đặc biệt, Châu Âu sẽ ổn định hơn nếu Đức có được khả năng răn đe hạt nhân an toàn, nhưng sự phổ biến vụ khí hạt nhân không được vượt quá giới hạn này. Thứ hai, Mỹ không nên rút lui hoàn toàn khỏi châu Âu, ngay cả khi Liên Xô rút hết lực lượng khỏi Đông Âu. Thứ ba, Mỹ nên có những biện pháp ngăn chặn chủ nghĩa dân tộc quá khích trỗi dậy trở lại ở châu Âu.
Phương pháp luận: Chúng ta nên nghĩ về tương lai của Châu Âu như thế nào?
Những dự đoán về nguy cơ diễn ra chiến tranh trong tương lai và khuyến nghị cách thức tốt nhất để duy trì nền hòa bình nên dựa trên các lý thuyết chung về nguyên nhân của chiến tranh và hòa bình. Điều này là đúng đối với cả các học giả và nhà hoạch định chính sách. Những nhà hoạch định chính sách hiếm khi tự ý thức về việc sử dụng lý thuyết. Tuy nhiên, tầm nhìn của họ về tương lai Châu Âu được định hình bởi ưu tiên ngầm dành cho một học thuyết quan hệ quốc tế so với những học thuyết khác. Do đó, nhiệm vụ của chúng ta là quyết định xem lý thuyết nào giải thích quá khứ tốt nhất, và sẽ được áp dụng tốt nhất cho tương lai; sau đó sẽ dùng những lý thuyết này để tìm hiểu kết quả của các kịch bản có thể xảy ra.
Đặc biệt, trước hết chúng ta cần khảo sát sự hình thành của các lý thuyết quan hệ quốc tế để giải bài toán này. Lý thuyết nào giải thích tốt nhất cho giai đoạn bạo lực trước Chiến tranh Lạnh? Lý thuyết nào giải thích tốt nhất cho khoảng thời gian 45 năm hòa bình sau đó? Có những lý thuyết nào khác giải thích một chút về Châu Âu trước Chiến tranh Lạnh, hay Châu Âu trong Chiến tranh Lạnh, mà phù hợp để giải thích điều gì sẽ xảy ra với Châu Âu nếu không có sự hiện diện quân sự của Mỹ và Liên Xô?
Tiếp theo, chúng ta nên tìm hiểu xem những lý thuyết này suy đoán điều gì về bản chất của chính trị quốc tế ở một Châu Âu đa cực thời kỳ hậu Chiến tranh Lạnh. Liệu những nguyên nhân dẫn đến nền hòa bình hậu chiến vẫn còn, hay những nguyên nhân gây ra hai cuộc chiến tranh thế giới sẽ trở lại, hay những lý do khác sẽ xuất hiện?
Sau đó chúng ta sẽ đánh giá xem liệu có nên mong chờ những thập kỷ tiếp theo sẽ bình yên hơn, hoặc ít nhất cũng yên ổn như 45 năm qua, hay tương lai sẽ giống như 45 năm đầu của thế kỷ 20. Chúng ta cũng có thể tìm hiểu xem các học thuyết này gợi ý những khuyến nghị chính sách gì.
Nghiên cứu quan hệ quốc tế, như nhiều ngành khoa học xã hội, không giống như các ngành khoa học khác. Các lý thuyết của chúng ta không đồng nhất và ít khi được kiểm chứng. Những điều kiện cần cho sự vận hành của các học thuyết hiện có vẫn chưa được hiểu rõ. Hơn nữa, các hiện tượng chính trị cực kỳ phức tạp; do đó không thể có dự đoán chính trị chính xác nếu thiếu những công cụ lý thuyết cực mạnh, ưu việt hơn hẳn những gì chúng ta đang có. Kết quả là tất cả các dự đoán chính trị đều chắc chắn có một vài sai sót. Những ai mạo hiểm dự đoán, như tôi đang làm, vì thế nên tiếp tục công việc với sự khiêm tốn, chú ý đừng đòi hỏi sự tin tưởng tuyệt đối và nên thừa nhận rằng sau này khi nhìn nhận lại, chắc chắn sẽ thấy những bất ngờ và sai lầm.
Tuy nhiên, khoa học xã hội nên đưa ra dự đoán về khả năng xảy ra của những sự việc quan trọng và hay thay đổi, như những gì đang diễn ra tại Châu Âu. Những dự đoán này có thể là tiền đề cho các cuộc nghị luận chính sách. Thậm chí chúng còn giúp những người phản đối định hình ý tưởng của mình bằng cách làm rõ những điểm bất đồng. Hơn nữa, việc dự đoán các sự kiện sắp diễn ra sẽ là bài kiểm chứng tốt nhất cho các lý thuyết khoa học xã hội, bằng cách làm rõ những gì mà các lý thuyết dự đoán về những sự kiện đó. Nói tóm lại, thế giới có thể trở thành một phòng thí nghiệm nơi quyết định lý thuyết nào sẽ lý giải tốt nhất về chính trị quốc tế. Trong bài viết này, tôi dùng những thuyết mà tôi thấy thuyết phục nhất để nhìn về tương lai. Thời gian sẽ cho thấy liệu những lý thuyết này trong thực tế có khả năng giải thích nền chính trị quốc tế hay không.
Phần tiếp theo sẽ đưa ra giải thích cho sự bình yên của trật tự hậu Chiến tranh thế giới thứ hai. Phần sau lập luận rằng sự kết thúc của Chiến tranh Lạnh có thể khiến Châu Âu trở nên bất ổn hơn. Tiếp đó, tôi sẽ xem xét những học thuyết làm cơ sở của các tuyên bố rằng một Châu Âu đa cực có thể yên ổn như Châu Âu thời Chiến tranh Lạnh, nếu không muốn nói là yên ổn hơn. Phần kết luận sẽ đề xuất những khuyến nghị chính sách xuất phát từ phân tích của tôi.
Lý giải “nền hòa bình dài lâu”
45 năm vừa qua chính là khoảng thời gian hòa bình lâu nhất trong lịch sử Châu Âu. [7] Suốt những năm này, ở Châu Âu không có các cuộc chiến tranh lớn mà chỉ có hai cuộc xung đột nhỏ (sự can thiệp của Liên Xô ở Hungary năm 1956 và chiến tranh Hy Lạp – Thổ Nhĩ Kì ở đảo Síp năm 1974). Không cuộc xung đột nào đe dọa lan rộng sang các quốc gia khác. Những năm đầu Chiến tranh Lạnh (1945 – 1963) được đánh dấu bởi một số cuộc khủng hoảng lớn, tuy vậy, không sự kiện nào đưa Châu Âu đến bên bờ vực chiến tranh. Tuy nhiên, từ năm 1963 đã không còn xảy ra các cuộc khủng hoảng Đông – Tây tại Châu Âu. Trong hai thập niên gần đây, rất khó, hoặc có thể nói là không thể, tìm thấy bất cứ một nhà phân tích an ninh quốc gia nghiêm túc nào cho rằng Liên Xô sẽ tấn công Tây Âu.
Nền hòa bình thời Chiến tranh Lạnh tương phản hoàn toàn với chính trị Châu Âu trong suốt 45 năm đầu của thế kỷ 20, khoảng thời gian chứng kiến hai cuộc chiến tranh thế giới, một số cuộc chiến tranh nhỏ, và nhiều cuộc khủng hoảng gần dẫn đến chiến tranh. Khoảng 50 triệu người Châu Âu đã bỏ mạng trong hai cuộc chiến tranh thế giới; ngược lại, chỉ khoảng 15.000 người chết trong các cuộc xung đột tại Châu Âu sau năm 1945. [8] Châu Âu thời Chiến tranh Lạnh bình yên hơn rất nhiều so với Châu Âu đầu thế kỷ 20.
Cả người Mỹ và người Châu Âu ngày càng cho rằng hòa bình và yên ổn là trật tự tự nhiên ở Châu Âu, và rằng 45 năm đầu của thế kỷ này, chứ không phải 45 năm gần đây, là giai đoạn bất thường. Điều này cũng dễ hiểu vì Châu Âu đã không có chiến tranh trong một khoảng thời gian dài đến mức mà tỷ lệ người phương Tây được sinh ra sau Chiến tranh thế giới thứ hai không có những trải nghiệm trực tiếp về các cuộc chiến tranh lớn ngày càng tăng. Tuy nhiên, cái nhìn lạc quan này không chính xác.
Hệ thống các quốc gia Châu Âu luôn phải gánh chịu tai họa chiến tranh từ khi mới ra đời. Trong phần lớn hai thế kỷ 17 và 18, chiến tranh luôn hiện diện đâu đó trên lục địa Châu Âu. [9] Dù thế kỷ 19 có thời gian hòa bình lâu hơn nhưng vẫn xảy ra vài cuộc chiến tranh và khủng hoảng lớn. Nửa đầu thế kỷ này đã chứng kiến cuộc chiến tranh Napoleon đẫm máu kéo dài; sau đó là đến chiến tranh Crưm, và cuộc chiến Ý – Đức để thống nhất đất nước. [10] Các cuộc chiến trong giai đoạn 1914 – 1945 tiếp nối mô hình lịch sử lâu dài này. Chúng chỉ khác các cuộc chiến trong những thế kỷ trước đó ở quy mô tàn phá với mức độ gia tăng khủng khiếp.
Giai đoạn chiến tranh này kết thúc đột ngột với cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai. Sau đó, một trật tự hoàn toàn mới và đặc biệt hòa bình đã được xây dựng tại Lục địa.
Nguyên nhân của nền hòa bình dài lâu: Sức mạnh quân sự và sự ổn định
Điều gì tạo nên kỷ nguyên bạo lực trước năm 1945? Tại sao thời kỳ hậu chiến lại hòa bình hơn nhiều như vậy? Mỗi cuộc chiến trước năm 1945 đều có nguyên nhân đặc thù của nó nhưng sự phân chia quyền lực ở Châu Âu – tính đa cực và mất cân bằng quyền lực thường xảy ra giữa các nước lớn trong hệ thống đa cực – là điều kiện chủ yếu cho phép các nguyên nhân đặc thù này phát huy tác dụng. Nền hòa bình trong thời kỳ hậu chiến có được là do ba nguyên nhân chính: tính lưỡng cực của sự phân chia quyền lực ở Lục địa, sự cân bằng tương đối trong sức mạnh quân sự của hai quốc gia đứng đầu hai cực, và sự xuất hiện của vũ khí hạt nhân làm tăng đáng kể tính bạo lực của chiến tranh, khiến cho khả năng răn đe mạnh hơn rất nhiều. [11]
Những yếu tố này là các khía cạnh của hệ thống quốc gia Châu Âu – các khía cạnh của đặc tính sức mạnh quân sự và sự phân chia sức mạnh đó giữa các nước – chứ không phải của bản thân các quốc gia. Do đó, chìa khóa cho chiến tranh và hòa bình nằm ở cấu trúc của hệ thống quốc tế nhiều hơn là bản chất của các quốc gia đơn lẻ. Những yếu tố trong nước – đáng chú ý nhất là chủ nghĩa dân tộc quá khích – cũng góp phần gây ra các cuộc chiến trong giai đoạn trước năm 1945, và cấu trúc nội tại của các quốc gia Châu Âu sau năm 1945 có lợi hơn cho nền hòa bình, nhưng những nhân tố trong nước này ít quan trọng hơn so với đặc tính và sự phân chia quyền lực quân sự giữa các quốc gia. Hơn nữa, chủ nghĩa dân tộc quá khích phát triển phần lớn là do sự cạnh tranh an ninh giữa các quốc gia Châu Âu, buộc giới cầm quyền Châu Âu phải huy động dân chúng ủng hộ các nỗ lực quốc phòng; do vậy, nói đúng hơn thì nhân tố trong nước quan trọng này là hệ quả xa của hệ thống quốc tế.
Xung đột là chuyện bình thường giữa các quốc gia bởi hệ thống quốc tế tạo ra động lực mạnh mẽ cho các cuộc xâm lược. [12] Nguyên nhân gốc rễ của vấn đề này là bản chất vô chính phủ của hệ thống quốc tế. Trong tình trạng vô chính phủ, không có hội đồng cao cấp hay người trị vì để bảo vệ quốc gia này khỏi quốc gia khác. Do đó mỗi quốc gia sống trong tình trạng vô chính phủ phải đối mặt với khả năng luôn hiện hữu rằng một quốc gia khác có thể sử dụng sức mạnh để làm hại hay đánh chiếm mình. Hành động tấn công quân sự luôn là một mối đe dọa đối với các quốc gia trong hệ thống.
Tình trạng vô chính phủ có hai hệ quả chính. Thứ nhất, các quốc gia ít có lòng tin với nhau bởi vì một đất nước có thể không phục hồi được một khi lòng tin bị phản bội. Thứ hai, mỗi quốc gia phải tự đảm bảo sự sống còn cho chính mình vì sẽ không ai khác giúp đảm bảo an ninh cho họ. Tất cả các quốc gia khác đều là mối đe dọa tiềm tàng, và không một thể chế quốc tế nào có khả năng thực thi trật tự hay trừng phạt những kẻ xâm lược hùng mạnh.
Các quốc gia tìm cách sinh tồn trong tình trạng vô chính phủ bằng cách tối đa hóa sức mạnh của mình so với các quốc gia khác nhằm duy trì các phương tiện tự vệ. Sức mạnh tương đối, chứ không phải là sức mạnh tuyệt đối, mới có ý nghĩa đối với các quốc gia. Do vậy, các quốc gia đều tìm kiếm cơ hội làm suy yếu đối thủ và cải thiện vị thế quyền lực tương đối của mình. Đôi khi họ coi xâm lược là cách tốt nhất để tích lũy thêm sức mạnh và gây bất lợi cho các đối thủ.
Thế giới ganh đua này chỉ hòa bình khi chi phí và rủi ro của việc tiến hành chiến tranh là cao, trong khi lợi ích lại thấp trở thành điều hiển nhiên. Hai khía cạnh của sức mạnh quân sự là cốt lõi của cơ chế mang tính khuyến khích này: sự phân chia quyền lực giữa các quốc gia và bản chất của sức mạnh quân sự sẵn có. Sự phân chia quyền lực giữa các quốc gia cho chúng ta thấy những nước này có vị thế tốt thế nào để tiến hành xâm lược và liệu các nước khác có thể kháng cự lại cuộc xâm lược của họ không. Sự phân chia này là chức năng của số cực trong hệ thống và sức mạnh tương đối của họ. Bản chất của sức mạnh quân sự ảnh hưởng trực tiếp đến chi phí, rủi ro và lợi ích của việc tiến hành chiến tranh. Nếu những vũ khí quân sự có sẵn đảm bảo chiến tranh sẽ mang tính tàn phá lớn, các quốc gia có thể sẽ nhụt chí vì chi phí chiến tranh. [13] Nếu những vũ khí sẵn có phục vụ phòng vệ tốt hơn là tấn công, sự vô ích của các cuộc xâm lược sẽ có thể làm nhụt chí những kẻ xâm lăng, và các quốc gia sẽ ít thấy cần thiết phải tiến hành xâm lược hơn bởi vì họ có được nền an ninh tốt hơn, do đó ít cần củng cố an ninh bằng cách bành trướng hơn. [14] Nếu những vũ khí sẵn có có xu hướng bình đẳng hóa sức mạnh tương đối của các quốc gia, điều này sẽ ngăn cản những kẻ xâm lược tiến hành chiến tranh. Nếu vũ khí quân sự giúp việc đánh giá sức mạnh tương đối của các nước dễ dàng hơn, điều này sẽ giúp ngăn cản sự lạc quan vô căn cứ và những cuộc chiến sai lầm sẽ ít có khả năng xảy ra hơn.
Có thể lập luận rằng nền hòa bình tại Châu Âu trong suốt cuộc Chiến tranh Lạnh có được là nhờ trật tự hai cực, sự cân bằng quân sự tương đối giữa hai siêu cường, và sự hiện diện của số lượng lớn vũ khí hạt nhân ở cả hai phía theo ba cách: thứ nhất, bằng cách chứng minh những lý thuyết tổng quan mà nó dựa vào là có cơ sở; thứ hai, bằng cách chứng minh rằng những lý thuyết này có thể lý giải các cuộc xung đột trong thời gian trước năm 1945 và nền hòa bình sau năm 1945; và thứ ba, bằng cách chứng minh rằng các học thuyết cạnh tranh không thể giải thích cho nền hòa bình hậu chiến.
NHỮNG ƯU ĐIỂM CỦA TRẬT TỰ HAI CỰC SO VỚI TRẬT TỰ ĐA CỰC.
Hai kiểu dàn xếp quyền lực chủ yếu giữa các quốc gia là trật tự hai cực và đa cực. [15] Hệ thống hai cực sẽ hòa bình hơn vì ba nguyên nhân chính. Thứ nhất, số lượng các cặp xung đột ít hơn nên ít có khả năng xảy ra chiến tranh hơn. Thứ hai, khả năng ngăn cản chiến tranh sẽ dễ dàng hơn vì sự mất cân bằng quyền lực ít xảy ra hơn và dễ ngăn chặn hơn. Thứ ba, khả năng ngăn chặn chiến tranh sẽ lớn hơn vì ít có những tính toán sai lầm về sức mạnh tương đối và quyết tâm của đối thủ. [16]
Trong hệ thống hai cực, có hai cường quốc thống trị. Những nước nhỏ hơn khó có thể duy trì tình trạng trung lập với một trong hai bên bởi các cường quốc nhìn chung đều đòi hỏi sự phục tùng của những nước nhỏ hơn. (Điều này đặc biệt đúng với những vùng địa lý lõi và ít chính xác hơn đối với những vùng ngoại biên.) Hơn nữa, các nước nhỏ ít có cơ hội kích động nước lớn chống lại nhau bởi vì khi số lượng những nước lớn ít, hệ thống sẽ càng vững chắc hơn. Kết quả là các nước nhỏ chịu sức ép lớn trong việc giữ quyền tự chủ.
Ngược lại, trong hệ thống đa cực, có từ ba cường quốc trở lên thống trị. Những nước nhỏ trong hệ thống như vậy có được sự linh hoạt đáng kể về đồng minh và có thể lựa chọn không theo bên nào. Hình thức chính xác của hệ thống đa cực có thể thay đổi đáng kể dựa vào số lượng cường quốc và quốc gia nhỏ trong hệ thống, và cả sự sắp đặt về địa lý của họ.
Hệ thống hai cực chỉ có một cặp xung đột có thể khiến chiến tranh nổ ra: chỉ có hai cường quốc cạnh tranh với nhau, và những nước nhỏ khó có thể tấn công lẫn nhau. Trong một hệ thống đa cực có nhiều tình huống xung đột có thể xảy ra. Số cặp nước lớn rất nhiều, mỗi cặp đều có khả năng gây xung đột. Xung đột cũng có thể nảy sinh giữa các cặp nước lớn và nước nhỏ. Những cặp xung đột giữa các nước nhỏ cũng có thể dẫn tới chiến tranh. Vì thế, nếu các yếu tố khác không đổi, chiến tranh có nhiều khả năng xảy ra trong hệ thống đa cực hơn là lưỡng cực.
Những cuộc chiến trong thế giới đa cực liên quan đến các nước nhỏ hay chỉ một nước lớn sẽ ít có khả năng tàn phá như cuộc xung đột giữa hai cường quốc. Tuy nhiên, những cuộc chiến tranh cục bộ thường có xu hướng mở rộng và leo thang. Do đó luôn tồn tại khả năng một cuộc chiến nhỏ có thể châm ngòi cho một cuộc xung đột lớn.
Khả năng ngăn chặn chiến tranh cũng khó khăn hơn trong một thế giới đa cực bởi vì sự mất cân bằng quyền lực là phổ biến, khi đó, nước mạnh sẽ trở nên khó ngăn chặn hơn. [17] Sự mất cân bằng quyền lực có thể dẫn đến xung đột theo hai cách. Đầu tiên, hai nước có thể liên kết với nhau để tấn công nước thứ ba. Thứ hai, một cường quốc có thể chỉ đơn giản ức hiếp nước bé hơn theo kiểu một chọi một, sử dụng sức mạnh vượt trội của mình để đàn áp hay đánh bại nước nhỏ. [18]
Cơ chế cân bằng quyền lực có thể đối phó với sự mất cân bằng quyền lực như vậy, nhưng chỉ khi chúng hoạt động hiệu quả. [19] Không quốc gia nào thống trị được nước khác, dù bằng cách liên kết lại hay đe dọa, nếu những nước khác liên minh chặt chẽ lại để chống lại nó, nhưng các yếu tố địa lý hay phối hợp có thể cản trở sự hình thành những liên minh như vậy. [20] Những chướng ngại này có thể mất đi trong thời chiến, nhưng lại rất phổ biến trong thời bình, và có thể làm hỏng các nỗ lực răn đe, ngay cả trong trường hợp cuối cùng một liên minh hiệu quả sẽ được thiết lập để đánh bại kẻ xâm lược trên chiến trường.
Đầu tiên, yếu tố địa lý có thể cản trở các nước tham gia vào quá trình cân bằng quyền lực gây áp lực đáng kể lên những kẻ xâm lược tiềm năng. Ví dụ, một cường quốc khó có thể gây áp lực quân sự một cách hiệu quả lên quốc gia đe dọa gây rắc rối do có những nước vùng đệm nằm ở giữa.
Thêm vào đó, quá trình cân bằng quyền lực trong thế giới đa cực cũng phải khắc phục được những vấn đề khó khăn trong hợp tác. Có bốn yếu tố gây khó khăn cho hợp tác. Thứ nhất, các liên minh cung cấp an ninh chung, do đó các nước đồng minh đối mặt với tình thế tiến thoái lưỡng nan rất lớn trong hành động tập thể. Đặc biệt, mỗi quốc gia có thể cố chuyển những gánh nặng liên minh sang vai các nước được xem là đồng minh của mình. Hành động “chối bỏ trách nhiệm” này là đặc tính phổ biến trong chính trị liên minh. [21] Điều này là bình thường khi số lượng quốc gia cần có để hình thành một liên minh có khả năng ngăn chặn hiệu quả là lớn. Thứ hai, một quốc gia phải đối mặt với hai kẻ thù tiềm tàng có thể kết luận rằng một cuộc chiến kéo dài giữa các đối thủ này sẽ làm cả hai suy yếu, cho dù bên nào chiến thắng đi chăng nữa; vì thế họ sẽ chọn đứng bên lề cuộc chiến và hy vọng sẽ cải thiện được vị thế sức mạnh của mình so với mỗi bên tham chiến. (Tuy nhiên, chiến lược này có thể thất bại nếu một trong hai nước tham chiến nhanh chóng khuất phục đối phương và trở nên mạnh hơn, chứ không phải yếu hơn, so với trước chiến tranh.) Thứ ba, một số nước có thể lựa chọn không tham gia vào quá trình cân bằng quyền lực này bởi họ tin rằng mình sẽ không phải là mục tiêu của những kẻ xâm lược mà không nhận thấy họ vẫn gặp nguy hiểm cho tới khi nước xâm lược bắt đầu có những chiến thắng đầu tiên. Thứ tư, ngoại giao là một quá trình thiếu chắc chắn, và do đó cần phải có thời gian để xây dựng nên một liên minh phòng thủ. Một kẻ xâm lược tiềm năng có thể cho rằng mình sẽ thành công trong cuộc xâm lăng trước khi liên minh hình thành, xa hơn nữa, họ có thể cho rằng nên tận dụng những cơ hội mà tình huống này mang lại trước khi chúng biến mất. [22]
Nếu những vấn đề địa lý và hợp tác này là nghiêm trọng thì các quốc gia có thể mất lòng tin vào quá trình cân bằng quyền lực. Trong trường hợp này, ngày càng có nhiều khả năng họ sẽ theo đuôi những kẻ xâm lược, vì đơn độc kháng cự là hành động vô ích. [23] Do vậy, những nhân tố làm suy yếu quá trình cân bằng quyền lực có thể tạo ra những hiệu ứng quả cầu tuyết khiến cho quá trình ngày càng suy yếu hơn nữa.
Vấn đề lớn thứ ba của trật tự đa cực là xu hướng khuyến khích những tính toán sai lầm về quyết tâm của từng nước đối địch, và về sức mạnh của các liên minh đối địch.
Chiến tranh có khả năng xảy ra khi một nước đánh giá thấp thái độ cứng rắn của các nước đối địch về những vấn đề khác biệt. Khi đó nước này có thể sẽ ép các nước khác quá mạnh với mong muốn rằng những nước này sẽ chịu thua, trong khi trên thực tế đối thủ sẽ chọn chiến đấu. Những tính toán sai lầm như vậy thường xảy ra trong trật tự đa cực vì hình thái của trật tự thế giới có xu hướng không bền vững do tính hay thay đổi của các liên minh. Kết quả là, luật chơi quốc tế – tiêu chuẩn hành vi ứng xử của các nước và sự phân chia quyền lãnh thổ và các đặc quyền khác đã được thỏa thuận – thường thay đổi liên tục. Chỉ khi những luật lệ cho một mối quan hệ thù địch được thiết lập thì quan hệ đó mới có thể trở thành quan hệ bạn bè, và một mối quan hệ thù địch khác có thể hình thành với một nước bạn bè hay nước trung lập trước đây, và những luật lệ mới phải được thiết lập. Trong hoàn cảnh này, một nước có thể vô tình ép nước khác quá mạnh, bởi vì những điều mơ hồ về quyền và nghĩa vụ quốc gia thường tạo ra nhiều vấn đề đa dạng hơn khiến một nước có thể đánh giá sai quyết tâm của nước khác. Các tiêu chuẩn về hành vi của quốc gia có thể được tất cả các nước hiểu và thừa nhận một cách rộng rãi, thậm chí trong trật tự đa cực, giống như các tiêu chuẩn cơ bản của ngoại giao được các cường quốc Châu Âu ở thế kỷ 18 thừa nhận. Tuy nhiên, sự phân chia quyền một cách rõ ràng như vậy nhìn chung sẽ khó khăn hơn khi có nhiều quốc gia, và quan hệ giữa họ không ổn định, như trong trường hợp trật tự đa cực.
Chiến tranh cũng dễ xảy ra hơn khi các nước đánh giá thấp sức mạnh tương đối của liên minh đối lập, do đánh giá thấp số nước chống lại mình, hay bởi vì họ cường điệu quá mức về số nước đồng minh sẽ cùng chiến đấu với mình. [24] Những sai lầm như thế thường xảy ra trong một hệ thống bao gồm nhiều quốc gia bởi vì họ phải tiên đoán hành vi của nhiều nước, chứ không phải chỉ một nước, để tính toán cán cân sức mạnh giữa các liên minh.
Hệ thống hai cực vượt trội hơn hệ thống đa cực trên tất cả các khía cạnh này. Không có chuyện bắt nạt và kết bè vì chỉ có hai nước cạnh tranh với nhau, do đó cũng không có bất đối xứng quyền lực do bắt nạt và kết bè phái. Khi cần, sự cân bằng có thể đạt được một cách hiệu quả. Các quốc gia có thể cân bằng với các phương tiện nội tại – như tăng cường khả năng quân sự – hoặc các phương tiện bên ngoài – như chính sách ngoại giao và liên minh. Trong trật tự đa cực, các quốc gia có xu hướng dùng phương tiện bên ngoài để cân bằng quyền lực; trong trật tự hai cực, các quốc gia buộc phải dùng phương tiện nội tại. Các phương tiện nội tại hoàn toàn nằm dưới sự kiểm soát của nhà nước, do đó chúng hiệu quả hơn và khả năng tạo ra được thế cân bằng thực sự là chắc chắn hơn. [25] Những vấn đề đòi hỏi nỗ lực cân bằng quyền lực bằng các phương pháp ngoại giao – những rắc rối về mặt địa lý và khó khăn trong hợp tác – không còn quan trọng nữa. Cuối cùng, những tính toán sai lầm ít có khả năng xảy ra hơn so với trong thế giới đa cực. Các quốc gia ít khi sai lầm về quyết tâm của nước khác vì các luật lệ trong quan hệ với đối thủ chính dần đi vào hiệu quả theo thời gian, khiến cả hai bên nhận thấy những giới hạn mà mình không thể ép được đối phương. Các nước cũng không thể mắc sai lầm trong việc đánh giá số lượng thành viên của liên minh đối địch, bởi vì mỗi bên chỉ đối mặt với một kẻ thù chính. Sự đơn giản tạo ra tính chắc chắn; tính chắc chắn củng cố nền hòa bình.
Không có nghiên cứu thực nghiệm nào đưa ra chứng cứ thuyết phục về ảnh hưởng của trật tự hai cực và đa cực đối với nguy cơ xảy ra chiến tranh. Điều này, không nghi ngờ gì, phản ánh sự khó khăn của nhiệm vụ này: từ khi bắt đầu cho đến năm 1945, hệ thống quốc gia Châu Âu là một hệ thống đa cực, do vậy khó có thể rút ra được những so sánh giữa trật tự đa cực và hai cực. Lịch sử trước đó có cho thấy một số ví dụ rõ ràng về hệ thống hai cực, trong đó có những ví dụ về chiến tranh – cuộc chiến giữa Athens và Sparta, Rome và Carthage – nhưng giai đoạn lịch sử này không thuyết phục bởi nó sơ lược và chưa hoàn chỉnh và do đó không cung cấp đủ thông tin chi tiết để xác thực giá trị của những so sánh này. Thiếu một bản khảo sát lịch sử toàn diện, chúng ta không thể làm gì khác ngoài việc đưa ra những ví dụ về lợi thế và bất lợi mà không biết những ví dụ nào đại diện phù hợp nhất cho tập hợp các trường hợp xảy ra. Kết quả là trường hợp được dùng ở đây thiếu luận chứng thực tiễn và dựa chủ yếu vào suy luận. Tuy nhiên, tôi tin rằng trường hợp suy luận này đã cung cấp nền tảng vững chắc để thừa nhận lập luận rằng trật tự hai cực hòa bình hơn đa cực; suy luận logic này có vẻ thuyết phục, và không có chứng cứ lịch sử rõ ràng nào phản bác lại nó. Dưới đây tôi sẽ chỉ ra rằng những ý tưởng được phát triển ở đây có thể áp dụng cho các sự kiện trong thế kỷ 20 tại Châu Âu, cả trước và sau năm 1945.
NHỮNG ƯU ĐIỂM CỦA SỰ BÌNH ĐẲNG QUYỀN LỰC SO VỚI BẤT BÌNH ĐẲNG.
Quyền lực có thể được phân chia tương đối đồng đều giữa các cường quốc trong cả hệ thống hai cực và đa cực. Cả hai hệ thống đều hòa bình hơn khi quyền lực giữa các cực đạt sự cân bằng cao nhất. Bất cân bằng quyền lực khiến chiến tranh nổ ra bằng cách làm tăng khả năng tiến hành xâm lược; do đó chiến tranh sẽ được giảm thiểu khi sự bất bình đẳng ở mức tối thiểu. 26
Làm thế nào để đánh giá mức độ bình đẳng trong sự phân chia quyền lực của hệ thống? Trong trật tự hai cực, sự bình đẳng chung của hệ thống chỉ đơn giản là chức năng của cân bằng quyền lực giữa hai cực – một sự cân bằng quyền lực tạo ra một hệ thống bình đẳng, sự cân bằng sai lệch sẽ sinh ra một hệ thống bất bình đẳng. Trong trật tự đa cực, trọng tâm là sự cân bằng quyền lực giữa hai quốc gia đứng đầu trong hệ thống, nhưng tỷ lệ quyền lực của những cặp xung đột tiềm năng khác cũng quan trọng. Tổng thể sự bình đẳng của hệ thống là tập hợp mức độ bình bẳng giữa tất cả các cực. Tuy nhiên, hầu hết những cuộc chiến thông thường trong hệ thống đa cực đều phát sinh từ những cuộc chiến giành quyền bá chủ mà quốc gia đứng đầu – một kẻ bá chủ đầy tham vọng – chống lại các cường quốc khác trong cùng hệ thống. Những cuộc chiến như vậy có khả năng xảy ra nhất khi một quốc gia đứng đầu nổi lên và hy vọng đánh bại từng nước khác nếu có thể cô lập được họ. Hình mẫu này là đặc trưng của những cuộc chiến xuất phát từ các nỗ lực giành quyền bá chủ của Charles V, Philip II, Louis XIV, nước Pháp thời cách mạng và thời Napoleon, nước Đức thời Wilhelm, và nước Đức Quốc Xã. 27 Do đó tỷ lệ giữa sức mạnh của nước đứng đầu và đối thủ gần nó nhất – trong trật tự hai cực và đa cực – tác động nhiều hơn đến sự ổn định của hệ thống so với những tỷ lệ khác, và do đó là tỷ lệ chủ yếu mô tả sự bình đẳng trong hệ thống. Sự bình đẳng sít sao giúp làm giảm nguy cơ chiến tranh.
Tính phân cực của hệ thống quốc tế và mức độ bình đẳng quyền lực trong hệ thống có liên quan đến nhau: những hệ thống hai cực thường hướng đến sự bình đẳng vì như đã nói ở trên, các quốc gia bị buộc phải dùng những phương pháp nội bộ để cân bằng quyền lực, và sự cân bằng này hiệu quả hơn là dùng các phương pháp bên ngoài. Đặc biệt, quốc gia số hai trong hệ thống hai cực chỉ có thể hy vọng cân bằng được quốc gia đứng đầu bằng cách huy động mọi tiềm lực kinh tế, quân sự của chính nó để thu hẹp khoảng cách, vì nó không có các đồng minh tiềm năng. Mặt khác, quốc gia lớn thứ hai trong hệ thống đa cực có thể tìm kiếm an ninh quốc gia thông qua liên minh với các nước khác, và có thể muốn đổ hết trách nhiệm lên những nước khác thay vì tự tạo ra sức mạnh cho mình. Sự cân bằng quyền lực bằng phương pháp bên ngoài kiểu này đặc biệt hấp dẫn vì nó không tốn kém và nhanh chóng. Tuy nhiên, cách hành xử này sẽ giữ nguyên khoảng cách quyền lực giữa hai quốc gia đứng đầu, và do đó để lại mối nguy do khoảng cách quyền lực gây ra. Thế nên sự ổn định trong trật tự hai cực cũng có thể dựa trên xu thế các cực bình đẳng với nhau.
NHỮNG ƯU ĐIỂM CỦA BIỆN PHÁP RĂN ĐE HẠT NHÂN.
Sự răn đe được duy trì tốt nhất khi chi phí và nguy cơ diễn ra chiến tranh rõ ràng là lớn. Viễn cảnh chiến tranh càng khủng khiếp thì nó càng ít khả năng xảy ra. Sự răn đe cũng mạnh nhất khi việc tiến hành xâm lược là khó khăn nhất. Những kẻ xâm lược có thể bị ngăn chặn bởi sự vô ích của việc bành trướng lãnh thổ, và tất cả nước ít thấy sự cần thiết phải bành trướng để tăng cường an ninh, giúp họ dễ dàng thực hiện răn đe hơn vì ít bị buộc phải tiến hành xâm lược.
Vũ khí hạt nhân có lợi cho hòa bình trên cả hai phương diện. Chúng là vũ khí hủy diệt hàng loạt và sẽ tạo ra sự tàn phá khủng khiếp dù được dùng với số lượng bao nhiêu. Hơn nữa, nếu kho vũ khí hạt nhân của các bên được an toàn trước các cuộc tấn công, mang lại khả năng đảm bảo trả đũa lẫn nhau (sự đảm bảo hủy diệt lẫn nhau hay còn gọi là MAD – Mutually Assured Destruction) thì vũ khí hạt nhân sẽ khiến cho việc tiến hành xâm lược trở nên khó khăn hơn; các cuộc xung đột quốc tế, từ những bài thử nghiệm về khả năng và ý chí, sẽ trở lại thành những bài thử nghiệm thuần nhất hơn về ý chí khi mà bên chiến thắng sẽ là bên sẵn sàng chấp nhận rủi ro lớn hơn và trả giá cao hơn. Điều này đem lại lợi thế cho nước bị tấn công vì các nước này coi trọng tự do hơn là nước xâm lược coi trọng những vùng đất mới chiếm được. Bởi thế vũ khí hạt nhân là một biện pháp răn đe tuyệt vời: chúng đảm bảo chi phí cao, do đó sẽ có ích hơn nếu dùng để tự vệ hơn là để gây chiến. 28
Thêm vào đó, vũ khí hạt nhân tác động đến mức độ bình đẳng của hệ thống. Đặc biệt tình huống do MAD tạo ra giúp củng cố hòa bình bằng cách đẩy mối quan hệ quyền lực giữa các quốc gia đến trạng thái bình đẳng. Những nước sở hữu khả năng răn đe hạt nhân có thể đương đầu với nhau ngay cả khi kho vũ khí hạt nhân của họ có sự khác biệt lớn về quy mô, miễn là vũ khí hạt nhân của hai bên đều được an toàn trước các cuộc tấn công. Tình huống bình đẳng sít sao hơn như vậy có tác động ổn định như đã nói ở trên.
Cuối cùng, MAD cũng củng cố hòa bình bằng cách làm rõ sức mạnh tương đối của các quốc gia và liên minh.29 Các quốc gia vẫn có thể tính toán sai lầm về ý chí của đối phương, nhưng tính toán sai lầm về năng lực tương đối ít khi xảy ra bởi vì năng lực hạt nhân không nhất thiết thay đổi theo quy mô và đặc tính của lực lượng quân sự; một khi có được năng lực đảm bảo hủy diệt, sự gia tăng khả năng hạt nhân hơn nữa ít có tầm quan trọng chiến lược. Do đó những sai lầm trong việc đánh giá những đặc tính cụ thể này cũng ít gây ảnh hưởng. Những sai lầm trong việc dự đoán số lượng thành viên của các liên minh chiến tranh cũng ít gây tác động, bởi vì sự thêm bớt thành viên không lường trước trong những liên minh như vậy sẽ không ảnh hưởng đến kết quả chiến tranh trừ khi chúng tạo ra thay đổi lớn về mặt cân bằng hạt nhân – đủ để giúp một bên có được sức mạnh hạt nhân vượt trội.
SỰ NGUY HIỂM CỦA CHỦ NGHĨA DÂN TỘC QUÁ KHÍCH.
Chủ nghĩa dân tộc được định nghĩa chính xác nhất là một hệ thống những niềm tin chính trị cho rằng một quốc gia – một thực thể bao gồm các cá nhân với những đặc tính được thừa nhận phân biệt họ với những cá nhân khác – nên có nhà nước của riêng mình. 30 Mặc dù những người theo chủ nghĩa dân tộc thường tin rằng quốc gia của họ là độc nhất và đặc biệt, kết luận này không có nghĩa là họ cho rằng mình vượt trội hơn những người khác, chỉ đơn giản là họ tự hào về dân tộc mình.
Tuy nhiên, chủ nghĩa dân tộc với nghĩa tích cực như vậy thường biến thành chủ nghĩa dân tộc quá khích nguy hiểm -đó là niềm tin rằng các dân tộc hay quốc gia-dân tộc khác vừa thấp kém vừa nguy hiểm và do đó nhất định phải xử rắn với họ. Trong quá khứ, chủ nghĩa dân tộc quá khích giữa các nhà nước Châu Âu nổi lên chủ yếu là do hầu hết các nhà nước Châu Âu đều là các quốc gia dân tộc – những nhà nước bao gồm một dân tộc chủ yếu – và những quốc gia dân tộc này tồn tại trong một thế giới vô chính phủ, thường xuyên bị đe dọa bởi các nước khác. Trong tình huống như vậy, những người yêu dân tộc và yêu nước có thể hình thành thái độ khinh miệt và ghê tởm đối với người dân của nước thù địch. Vấn đề càng trầm trọng hơn bởi một thực tế là giới tinh hoa chính trị thường bị thôi thúc phải mô tả những dân tộc thù địch một cách tiêu cực nhất nhằm huy động sự ủng hộ của dân chúng đối với các chính sách an ninh quốc gia.
Chủ nghĩa dân tộc nguy hiểm phát triển mạnh nhất trong các hệ thống quân sự đòi hỏi sự phụ thuộc vào quân đội đại chúng; trong đó nhà nước có thể khai thác sự lôi cuốn của chủ nghĩa dân tộc để huy động những hy sinh cần thiết của nhân dân nhằm duy trì lực lượng quân đội thường trực lớn. Mặt khác, chủ nghĩa dân tộc quá khích khó phát triển nhất khi nhà nước có thể dựa vào lực lượng quân đội chuyên nghiệp quy mô nhỏ hoặc những tổ chức quân sự công nghệ cao phức tạp mà không cần nguồn nhân lực lớn. Vì lý do này mà vũ khí hạt nhân đã phát huy khả năng làm suy yếu chủ nghĩa dân tộc, bởi chúng làm thay đổi cơ sở sức mạnh quân sự, giảm sự lệ thuộc hoàn toàn vào quân đội đại chúng và hướng đến dựa vào các tổ chức công nghệ cao với quy mô nhỏ hơn.
Tóm lại, chủ nghĩa dân tộc qua khích là nguyên nhân bên trong quan trọng nhất gây ra chiến tranh, dù nó vẫn là lực lượng trật tự thứ hai trong chính trị thế giới. Hơn nữa, những nguyên nhân của chủ nghĩa dân tộc quá khích phần lớn nằm ở hệ thống quốc tế.
Những nguyên nhân của nền hòa bình dài lâu: Bằng chứng
Ghi chép lịch sử cho thấy mối tương quan hoàn hảo giữa trật tự hai cực, sự bình đẳng về sức mạnh quân sự và vũ khí hạt nhân ở một bên, và nền hòa bình dài lâu ở bên còn lại. Khi một trật tự hai cực bình đẳng nổi lên và vũ khí hạt nhân xuất hiện, hòa bình sẽ được thiết lập. Mối tương quan này chỉ ra rằng tất cả lý thuyết lưỡng cực, lý thuyết về sự bình đẳng và lý thuyết hạt nhân giải thích cho nền hòa bình dài lâu đều đúng. Tuy nhiên, chỉ một mình mối tương quan này không thể chứng minh quan hệ nhân quả. Những nhân tố khác vẫn có thể giải thích cho nền hòa bình dài lâu. Có một cách để bác bỏ khả năng này, đó là liệt kê ra những điều mà ba học thuyết trên dự đoán về thời kì tiền chiến và hậu chiến, và sau đó xem xét xem liệu những dự đoán này có trở thành hiện thực hay không trong suốt những thời kỳ khác nhau của lịch sử.
TRƯỚC CHIẾN TRANH LẠNH.
Những mối nguy hiểm của trật tự đa cực nổi bật lên nhờ những sự kiện diễn ra trước hai cuộc chiến tranh thế giới. Sự tồn tại của nhiều cặp xung đột tiềm tàng tạo ra nhiều ngòi nổ cho chiến tranh tại Châu Âu. Chính sách ngoại giao trước Chiến tranh thế giới thế giới thứ nhất liên quan đến sự tương tác mạnh mẽ giữa năm cường quốc lớn (Anh, Pháp, Nga, Áo – Hung và Đức) và hai nước nhỏ (Serbia và Bỉ). Ít nhất sáu mối quan hệ thù địch rõ ràng đã nổi lên: Đức với Anh, Pháp, Nga và Bỉ; và Áo – Hung với Serbia và Nga. Trước Chiến tranh thế giới thứ hai, 5 cường quốc lớn (Anh, Pháp, Liên Xô, Đức và Ý) và 7 nước nhỏ (Bỉ, Ba Lan, Tiệp Khắc, Áo, Hungary, Rumani, và Phần Lan) có tương tác lẫn nhau. Các mối quan hệ này đã tạo ra khoảng 13 cặp xung đột quan trọng: Đức với Anh, Pháp, Liên Xô, Tiệp Khắc, Ba Lan và Áo; Ý với với Anh và Pháp; Liên Xô với Phần Lan và Ba Lan; Tiệp Khắc với Ba Lan và Hungary; và Rumani với Hungary. Sự đa dạng của các xung đột khiến cho khả năng bùng nổ chiến tranh lớn hơn. Hơn nữa, nhiều lợi ích quốc gia đang bị tranh chấp trong các xung đột này có quan hệ gắn bó qua lại với nhau, làm nổi lên nguy cơ bất kỳ một xung đột riêng lẻ nào nếu biến thành bạo lực đều sẽ châm ngòi cho một cuộc chiến tranh toàn diện, như đã xảy ra vào năm 1914 và 1939.
Trước Chiến tranh thế giới thứ hai, nước Đức có thể liên kết với những nước khác chống lại một số nước nhỏ, và buộc các nước này phải đứng về phe mình. Năm 1939, Đức củng cố sức mạnh của mình bằng cách liên kết với Ba Lan và Hungary để chia cắt Tiệp Khắc, và sau đó lại kết hợp với Liên Xô chống lại Ba Lan. Năm 1938 Đức buộc Tiệp Khắc từ bỏ Sudetenland và ép người Áo đầu hàng hoàn toàn.31 Với những thành công này, Đức đã mở rộng sức mạnh của mình, khiến nó trở nên mạnh hơn nhiều so với các quốc gia láng giềng, và do đó khiến cho việc ngăn chặn chiến tranh càng khó khăn hơn.
Sức mạnh của Đức có thể đã bị kiềm chế trước cả hai cuộc chiến tranh thế giới nếu các nước Châu Âu khác có thể cân bằng nước Đức một cách hiệu quả. Nếu như vậy, Đức có thể đã bị ngăn chặn, và có thể tránh được chiến tranh trong cả hai trường hợp. Tuy nhiên, các cường quốc khác đã hai lần thất bại trong việc cân bằng Đức. Trước năm 1914, tầm ảnh hưởng của thất bại này ít khi được tuyên bố rộng rãi; Pháp và Nga nỗ lực mạnh mẽ để cân bằng Đức trong khi chỉ có Anh là không kiên quyết chống lại Đức trước khi chiến tranh bắt đầu. 32
Trước năm 1939, thất bại của việc cân bằng quyền lực còn lan rộng hơn nữa.33 Liên Xô không thể giúp Tiệp Khắc chống Đức năm 1938, một phần là vì vấn đề địa lý: hai nước này không có chung biên giới, do đó Liên Xô không thể trực tiếp tiến vào lãnh thổ Tiệp Khắc. Pháp không thể trợ giúp hiệu quả cho Tiệp Khắc và Ba Lan, một phần bởi vì học thuyết quân sự của Pháp được định hướng để phòng thủ, nhưng cũng vì Pháp không thể tiếp cận trực tiếp Tiệp Khắc và Ba Lan, và do đó không thê dễ dàng triển khai lực lượng để giúp củng cố khả năng phòng thủ của hai nước này.
Anh và Pháp đều đổ trách nhiệm cho nhau bằng cách chuyển chi phí của việc răn đe Đức sang nước khác, do đó làm yếu đi những nỗ lực chung của cả hai. Liên Xô, với Hiệp ước Molotov-Ribbentrop, đã tìm cách đẩy quân đội Đức về hướng tây, hy vọng rằng người Đức sẽ sa lầy trong trong cuộc chiến tiêu hao sinh lực tương tự như Chiến tranh thế giới thứ nhất ở mặt trận phía Tây. Một số nước nhỏ hơn ở Châu Âu, bao gồm Bỉ, Hà Lan, Đan Mạch, và những quốc gia Bắc Âu, đổ trách nhiệm cho các cường quốc bằng cách đứng bên lề trong suốt các cuộc khủng hoảng năm 1938 và 1939.
Anh và Mỹ đã không nhận ra rằng họ bị Đức đe dọa cho đến cuối cuộc chơi – năm 1939 đối với Anh, và năm 1940 đối với Mỹ -và do đó cũng không có những hành động chống trả sớm. Khi cuối cùng cũng nhận ra mối nguy hiểm do Đức gây ra và quyết tâm đáp trả, họ lại thiếu lực lượng quân sự thích hợp. Nước Anh không thể gây ra mối đe dọa quân sự đáng kể đối với Đức cho tới sau khi họ xây dựng lực lượng quân sự cho riêng mình và hợp tác với các đồng minh Pháp và Ba Lan về các kế hoạch cũng như học thuyết quân sự. Trong lúc đó, những nỗ lực răn đe đã thất bại. Mỹ không tiến hành gia tăng khả năng quân sự một cách đáng kể cho tới tận sau khi chiến tranh nổ ra.
Trật tự đa cực đã tạo nên những điều kiện cho phép các tính toán sai lầm xảy ra trước hai cuộc thế chiến, khuyến khích cuộc xâm chiếm của người Đức trong cả hai thời điểm. Trước năm 1914, Đức không chắc chắn lắm về sự chống đối của Anh nếu họ trở thành thế lực bá quyền ở lục địa, và Đức hoàn toàn không nhìn thấy trước được rằng cuối cùng Mỹ sẽ ngăn chặn họ. Năm 1939, Đức hy vọng rằng Pháp và Anh sẽ đứng sang một bên khi họ xâm lược Ba Lan, và một lần nữa lại không dự đoán được rằng cuối cùng Mỹ cũng sẽ tham gia vào cuộc chiến. Kết quả là Đức đã ảo tưởng về viễn cảnh thành công của chính mình. Điều này đã ngầm phá hoại các nỗ lực ngăn chặn chiến tranh bằng cách ủng hộ chủ nghĩa phiêu lưu của Đức.
Nói tóm lại, những sự kiện dẫn đến hai cuộc chiến tranh thế giới minh họa đầy đủ cho những nguy cơ nổi lên trong thế giới đa cực. Khả năng răn đe đã bị suy yếu trong cả hai thời điểm bởi những hiện tượng phổ biến dưới sự phân chia quyền lực đa cực hơn là lưỡng cực. 34
Việc răn đe trước cả hai cuộc chiến cũng khó khăn hơn bởi vì quyền lực không được phân chia một cách cân xứng giữa các cường quốc Châu Âu. Đặc biệt, Đức đã mạnh hơn đáng kể so với các nước láng giềng gần nhất. Năm 1914 Đức rõ ràng đã nắm trong tay sự vượt trội về quân sự so với các đối thủ của mình ở Châu Âu; chỉ khi liên kết với nhau thì các nước này mới đánh bại được Đức, và cũng chỉ khi có nước Mỹ giúp đỡ. Năm 1939 là một trường hợp khó hiểu hơn. Kết quả của cuộc chiến tiết lộ rằng Liên Xô có đủ khả năng để chống lại Đức, nhưng điều này không rõ ràng ngay từ đầu. Hitler rất tự tin Đức sẽ đánh bại Liên Xô, và chính sự tự tin này là điểm mấu chốt để Hitler đưa ra quyết định tấn công vào năm 1941.
Cuối cùng, những sự kiện đưa đến hai cuộc thế chiến cũng minh họa cho những nguy cơ phát sinh trong một thế giới chỉ có các biện pháp răn đe phi hạt nhân và không tồn tại vũ khí hủy diệt hàng loạt. Chiến tranh thế giới lần thứ nhất nổ ra một phần vì tất cả các quốc gia quan trọng đều tin rằng cái giá của chiến tranh không lớn và các cuộc tấn công thành công là rất khả thi. 35 Trước Chiến tranh thế giới lần thứ hai những niềm tin như vậy ít phổ biến hơn nhưng vẫn có cùng ảnh hưởng. 36 Các nước nhỏ hơn cho rằng chiến tranh rất tốn kém và xâm lược là chuyện khó khăn, nhưng những người đứng đầu của quốc gia mạnh nhất – nước Đức – đã nhìn thấy viễn cảnh một chiến thắng không tốn kém, và chỉ cần niềm tin này thôi là đủ để phá hủy mọi nỗ lực răn đe và gây ra chiến tranh. Nếu khi đó có vũ khí hạt nhân thì những niềm tin này sẽ giảm giá trị, loại bỏ điều kiện chủ yếu cho phép hai cuộc chiến tranh thế giới nổ ra.
Vai trò của chính trị nội bộ Đức trong việc gây ra chiến tranh thế giới là gì? Cho đến nay tôi luôn tập trung vào các khía cạnh của hệ thống quốc tế xung quanh Đức. Sự tập trung này phản ánh quan điểm của tôi cho rằng những nhân tố mang tính hệ thống là quan trọng hơn cả. Nhưng những diễn biến chính trị và xã hội bên trong nước Đức cũng đóng vai trò đáng kể, góp phần vào đặc điểm hung hăng trong chính sách đối ngoại của Đức. Đặc biệt, xã hội Đức đã bị tiêm nhiễm chủ nghĩa dân tộc độc hại trong giai đoạn từ 1870 đến 1945, và điều này đã đặt nền móng cho những chính sách ngoại giao bành trướng. 37
Tuy nhiên, có hai điểm chúng ta nên nghĩ đến. Đầu tiên, chủ nghĩa dân tộc quá khích của người Đức phần nào bị kích động bởi cảm giác bất an rõ rệt, điều này phản ánh vị trí dễ tổn thương của Đức ngay tại trung tâm Châu Âu với đường biên giới tương đối mở ở cả hai phía. Những thực tế địa lý này khiến các vấn đề an ninh của nước Đức đặc biệt cấp thiết; tình huống này đã khiến giới cầm quyền ở Đức có động lực đặc biệt mạnh mẽ để huy động nhân dân tham gia chiến tranh, và họ đã làm điều này chủ yếu bằng cách truyền bá chủ nghĩa dân tộc. Như vậy, có thể nói rằng chủ nghĩa dân tộc quá khích của Đức phần nào là do bản chất của hệ thống quốc tế trước năm 1945.
Thứ hai, nỗi kinh hoàng vì lối hành xử sát nhân của Đức trong suốt Chiến tranh thế giới lần thứ hai nên được phân biệt rõ ràng với mức độ hiếu chiến trong chính sách đối ngoại của Đức.38 Đức thật sự rất hung hăng nhưng không phải trong lịch sử chưa từng có nước nào như vậy. Các nước khác đã từng khát khao quyền bá chủ Châu Âu, và nỗ lực để khơi mào chiến tranh; Đức chỉ đơn thuần là nước gần đây nhất cố gắng chuyển từ vị trí là nước thống trị sang nước bá quyền. Điểm khác biệt trong hành vi ứng xử của Đức là chính sách tàn sát hàng loạt dân tộc Châu Âu. Không nên đem lồng ghép nguyên nhân của chính sách tàn sát này với nguyên nhân dẫn đến hai cuộc chiến tranh thế giới. Chính sách tàn sát này có nguồn gốc phát sinh chủ yếu từ trong nước; các cuộc chiến này nảy sinh chủ yếu từ các khía cạnh của sự phân chia quyền lực và đặc tính quyền lực ở Châu Âu.
HỒ SƠ CHIẾN TRANH LẠNH.
Hệ thống quốc gia Châu Âu đột ngột chuyển từ hình thái đa cực sang lưỡng cực từ sau năm 1945. Ba yếu tố gây ra điều này là: sự sụp đổ gần như hoàn toàn của quyền lực Đức, sự phát triển của quyền lực Liên Xô và cam kết tạm thời của Mỹ đối với lục địa Châu Âu. Sự suy yếu của đế chế Đức xảy ra là do sự chiếm đóng của các nước đồng minh và sự chia cắt đất nước. Silesia, Pomerania, Đông Phổ, và một số phần của vùng Tây Phổ và Brandenburg được chia cho các nước khác, Sudetenland được trả về cho Tiệp Khắc, và Áo được độc lập. Phần còn lại của Đế chế Đức bị chia cắt thành hai nước trở thành kẻ thù của nhau, Đông Đức và Tây Đức. Sự suy giảm quyền lực đi đôi với sự hiện diện của quân đội Mỹ và Liên Xô ngay tại trung tâm Châu Âu đã dập tắt những hiểm họa thôn tính của người Đức. 39
Trong khi đó Liên Xô mở rộng quyền lực của mình về phía tây, trở thành thế lực thống trị ở Lục địa và là một trong hai cường quốc mạnh nhất thế giới. Không lý do gì mà nghĩ rằng người Liên Xô sẽ không vươn tới làm bá chủ lục địa, như Tây Ban Nha, Pháp và Đức đã làm trước đây nếu như họ thật sự tin tưởng rằng mình sẽ thắng trong cuộc chiến giành quyền bá chủ. Nhưng Liên Xô, không như những nước đi trước, đã không nỗ lực giành bá quyền bằng bạo lực, điều này đã giúp Châu Âu được sống trong hòa bình.
Trật tự hai cực là một phần nguyên nhân. Trật tự hai cực khiến Châu Âu trở nên đơn giản hơn, nơi chỉ có một sự xích mích – đó là xung đột Đông – Tây – cần được kiểm soát nhằm tránh chiến tranh xảy ra. Hai khối này bao trùm cả Châu Âu, để lại vài quốc gia nhỏ không được bảo vệ cho Liên Xô chiếm đóng. Kết quả là Liên Xô chỉ có ít mục tiêu để đe dọa. Liên Xô cũng không thể liên kết với nhau để chống lại những quốc gia không được bảo hộ bởi vì chính đối thủ phương Tây là đối tượng liên kết tiềm năng nhất của Liên Xô.
Trật tự hai cực cũng khiến cho những tính toán sai lầm về sự quyết tâm và năng lực ít có khả năng xảy ra hơn. Trong suốt mười lăm năm đầu của thời Chiến tranh Lạnh, luật chơi của xung đột chưa được hình thành, dẫn đến sự xuất hiện của vài cuộc khủng hoảng nghiêm trọng. Tuy nhiên, theo thời gian mỗi bên đều hiểu rõ rằng họ có thể ép đối phương đến mức nào và các quốc gia khác không thể chấp nhận điều gì. Một bộ quy luật đã được thống nhất: nhận thức về sự phân chia quyền lợi tại Áo, Berlin, và những nơi khác ở Châu Âu; sự cam đoan không bí mật đơn phương tái triển khai lực lượng hạt nhân lớn ở các khu vực tiếp giáp với đối thủ; sự chịu đựng lẫn nhau đối với các vệ tinh do thám; thỏa thuận về những quy luật tham gia thời bình giữa các lực lượng hải quân, v.v... Những cuộc khủng hoảng nghiêm trọng không xuất hiện trong giai đoạn 1963 – 1990 một phần bởi vì các thỏa thuận quyền lợi đôi bên và những quy tắc ứng xử đạt được nhiều hơn. Những thỏa thuận này phát triển được phần lớn nhờ đặc tính của hệ thống là lưỡng cực. Trật tự hai cực có nghĩa là hai quốc gia là đối thủ của nhau trong một thời gian dài, do vậy, họ có nhiều thời gian để học cách kiểm soát xung đột mà không dẫn đến chiến tranh. Ngược lại, một thế giới đa cực gồm những liên minh luôn thay đổi sẽ nhiều lần buộc các nước học lại cách xác định lợi ích của đối thủ, đạt được những thỏa thuận phân chia quyền lợi, và hình thành nên các quy tắc ứng xử trong cạnh tranh.
Trật tự hai cực cũng không tạo nhiều cơ hội cho tính toán sai lầm về sức mạnh tương đối của các liên minh đối lập. Thành phần của các liên minh chiến tranh tiềm năng đều rất rõ ràng vì chỉ có hai khối tồn tại, mỗi bên được lãnh đạo bởi một cường quốc thống trị áp đảo có khả năng trừng phạt các thành viên của mình. Mỗi bên có thể từng tính toán sai lầm về sức mạnh quân sự tương đối của mình, nhưng trật tự hai cực đã loại bỏ sự mơ hồ trong sức mạnh tương đối của các liên minh đối lập, phát sinh từ những điều không chắc chắn trong ngoại giao.
Sức mạnh quân sự giữa hai phe Đông – Tây ở Châu Âu tương đương nhau trong suốt Chiến tranh Lạnh và chính điều này đã củng cố hơn nữa sự ổn định. Sự cân bằng tương đối này tăng cường khả năng răn đe bằng cách đảm bảo rằng không quốc gia nào bị cám dỗ dùng vũ lực để khai thác lợi thế quyền lực. Sự bình đẳng này phần nào là do trật tự hai cực: do hai khối đã bao trùm tất cả các nước Châu Âu nên hai phe cân bằng chủ yếu nhờ những công cụ nội bộ hơn là bên ngoài. Những công cụ hiệu quả hơn đã tạo nên thế cân bằng sít sao hơn.
Vũ khí hạt nhân cũng đóng vai trò quan trọng trong việc ngăn chặn chiến tranh ở Châu Âu thời hậu Chiến tranh thế giới lần thứ hai.
Các nhà lãnh đạo phương Tây ở cả hai bờ Đại Tây Dương nhanh chóng nhận ra rằng vũ khí hạt nhân có khả năng tàn phá khủng khiếp và việc sử dụng chúng rộng rãi tại Châu Âu sẽ gây nên tổn thất chưa từng có. Các cuộc tập trận Carte Blanche được tiến hành tại Đức năm 1955 cho thấy rõ ràng rằng một cuộc chiến tranh hạt nhân tại Châu Âu sẽ phải trả cái giá lớn hơn nhiều so với một cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ hai khác.40 Theo đó, các nhà hoạch định chính sách phương Tây hiếm khi cho rằng chiến tranh hạt nhân sẽ đem lại “chiến thắng”, và thay vào đó nhấn mạnh đến những điều kinh khủng sẽ đi kèm theo chiến tranh hạt nhân. Hơn nữa, họ hiểu rằng chiến tranh truyền thống sẽ nhanh chóng leo thang tới cấp độ chiến tranh hạt nhân, và quả thực họ đã xây dựng chiến lược của NATO dựa trên thực tế này.
Các nhà lãnh đạo Liên Xô cũng nhận thấy những hậu quả khủng khiếp mà một cuộc chiến hạt nhân có thể đem lại.41 Vài sĩ quan quân đội Xô Viết khẳng định chiến thắng là điều có thể xảy ra trong chiến tranh hạt nhân, nhưng ngay cả họ cũng thừa nhận rằng một chiến thắng như vậy sẽ chẳng khác nào thất bại. Người Liên Xô nói chung cũng coi chiến thắng là điều không thể. Hơn nữa, Liên Xô trong một thời gian dài đã cho rằng không thể tiến hành một cuộc chiến tranh hoàn toàn truyền thống tại Châu Âu, và chiến thắng trong một cuộc chiến như vậy sẽ chỉ thúc đẩy phe bại trận tham gia vào cuộc leo thang hạt nhân.42 Liên Xô sau đó thừa nhận có khả năng một cuộc chiến tranh truyền thống sẽ được kiểm soát, nhưng vẫn hiểu rằng sự leo thang chiến tranh là điều có thể xảy ra. 43 Dưới thời Gorbachev, tư tưởng quân sự của Liên Xô còn nhấn mạnh hơn nữa sự cần thiết phải tránh chiến tranh hạt nhân và chú trọng hơn đến những hiểm nguy của một cuộc chiến hạt nhân vô tình xảy ra. 44
Bên cạnh những luận điệu chính thức, các nhà hoạch địch chính sách của cả hai phe đều hành động rất cẩn trọng với sự có mặt của vũ khí hạt nhân. Chưa từng có trường hợp nào mà các lãnh đạo dùng đến vũ khí hạt nhân trong xung đột, hay hành động như thể chiến tranh hạt nhân là lựa chọn khả thi để giải quyết các vấn đề chính trị quan trọng. Mặt khác, các nhà hoạch định chính sách chưa bao giờ vượt quá việc đưa ra những đe dọa hạt nhân rất tài tình và thể hiện sự cẩn trọng hết mức khi khả năng một cuộc đối đầu hạt nhân nổi lên.45 Cách hành xử thận trọng này đã làm giảm bớt nguy cơ chiến tranh.
Vũ khí hạt nhân cũng tạo nên sự bình đẳng và rõ ràng trong mối quan hệ quyền lực giữa các siêu cường. Sự bình đẳng và rõ ràng này đại diện cho sự biến đổi rõ rệt từ thế giới phi hạt nhân trước kia, nơi mà sự bất bình đẳng quyền lực dễ nhận thấy và những tính toán sai lầm về quyền lực tương đối là phổ biến. 46 Trong suốt thời kì Chiến tranh Lạnh, Mỹ và Liên Xô rõ ràng đã thể hiện chủ nghĩa dân tộc quá khích ít hơn so với các cường quốc Châu Âu trước năm 1945. Sau Chiến tranh Thế giới thứ hai, chủ nghĩa dân tộc giảm mạnh tại Châu Âu, phần nào là do các lực lượng chiếm đóng đã có những bước đi tích cực nhằm loại bỏ nó,47 và cũng bởi những nước Châu Âu, vì không còn tự đảm bảo an ninh của chính mình nữa nên thiếu động lực tiếp tục nuôi dưỡng chủ nghĩa dân tộc quá khích để tăng cường sự ủng hộ của nhân dân cho quốc phòng. Tuy nhiên điều quan trọng hơn là trọng tâm của chính trị Châu Âu đã chuyển sang cho Mỹ và Liên Xô – hai quốc gia, vì những lý do riêng, đã không thể hiện chủ nghĩa dân tộc theo chiều hướng có hại như ở Châu Âu trước đây. Chủ nghĩa dân tộc của mỗi siêu cường cũng không trở nên nguy hiểm trong suốt thời Chiến tranh Lạnh. Phần nào điều này đã phản ánh sự ổn định hơn của trật tự hậu chiến, phát sinh từ trật tự hai cực, sự cân bằng quân sự và vũ khí hạt nhân; với ít kỳ vọng vào chiến tranh, và cũng không siêu cường nào phải đối mặt với nhu cầu huy động dân chúng phục vụ cho chiến tranh. Điều này cũng thể hiện tác dụng thứ hai của vũ khí hạt nhân: chúng đã làm giảm đi tầm quan trọng của quân đội đại chúng trong bảo vệ chủ quyền, do đó xóa bỏ tầm quan trọng của việc cần phải duy trì một lực lượng dân chúng bị kích động bởi chủ nghĩa dân tộc quá khích.
Nguyên nhân của nền hòa bình dài lâu: Những giải thích đối lập
Ý kiến cho rằng trật tự hai cực, sự bình đẳng và vũ khí hạt nhân có vai trò lớn đối với sự ổn định trong 45 năm qua được củng cố thêm nữa bởi sự thiếu vắng những giải thích đối lập mang tính thuyết phục. Hai trong số những lý thuyết phổ biến nhất về hòa bình – thuyết tự do kinh tế và các nền dân chủ yêu hòa bình – đều không phù hợp để giải thích vấn đề này.
Tự do kinh tế, học thuyết cho rằng rằng một trật tự kinh tế tự do củng cố nền hòa bình (sẽ được thảo luận rõ hơn bên dưới), không thể giải thích cho sự ổn định của Châu Âu thời hậu chiến vì có rất ít sự giao lưu kinh tế giữa Liên Xô và phương Tây trong hơn 45 năm qua. Dù cho giao lưu kinh tế giữa Đông và Tây Âu đã tăng lên thì điều đó cũng không có nghĩa rằng toàn Châu Âu đang nằm trong một trật tự kinh tế tự do.
Lý thuyết các nền dân chủ yêu chuộng hòa bình (cũng sẽ được đề cập bên dưới) cho rằng các nước dân chủ sẽ không gây chiến với những nước dân chủ khác, nhưng thừa nhận rằng các nước này sẽ đặc biệt không yêu chuộng hòa bình khi phải đối mặt với những nước phi dân chủ. Lý thuyết này không thể giải thích cho sự ổn định hậu chiến tranh thế giới thứ hai bởi vì Liên Xô và những đồng minh của họ ở Đông Âu không theo chế độ dân chủ trong hơn 45 năm qua.
Lý thuyết thứ ba về hòa bình, sự lỗi thời của chiến tranh, cho rằng chiến tranh phi hạt nhân hiện đại đã trở nên khủng khiếp trong thế kỷ 21 đến độ không thể xem chiến tranh như một phương tiện hợp lý để đạt được những mục tiêu của quốc gia.48 Phải cần tới hai cuộc chiến tranh thế giới để chứng minh cho quan điểm này, nhưng cho tới năm 1945, rõ ràng là các cuộc chiến tranh thông thường trên diện rộng đã trở nên thiếu lý trí và không thể chấp nhận về mặt đạo đức, như chế độ nô lệ và các cuộc đấu kiếm. Do đó, ngay cả khi không có vũ khí hạt nhân, các chính khách trong Chiến tranh Lạnh sẽ không nghiêm túc ủng hộ chiến tranh khi nó trở nên lỗi thời. Cần nhấn mạnh là lý thuyết này không cho rằng vũ khí hạt nhân là nguyên nhân chiến tranh không xảy ra, thay vào đó, nó chỉ ra sự khủng của khiếp chiến tranh phi hạt nhân hiện đại.
Lập luận này này có thể đưa ra lời giải thích thuyết phục nhất cho sự ổn định thời Chiến tranh Lạnh, nhưng khi phân tích kỹ hơn, có thể thấy nó thiếu sức thuyết phục. Việc Chiến tranh thế giới lần thứ hai xảy ra đã gây nên một mối nghi ngờ rất lớn về lý thuyết này bởi vì nếu bất kỳ cuộc chiến nào khiến Châu Âu hoàn toàn từ bỏ chiến tranh thông thường thì đó phải là cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất với số thương vong khủng khiếp của nó. Không nghi ngờ gì rằng chiến tranh thông thường giữa các quốc gia hiện đại có thể tàn phá chính các nước tham chiến. Tuy nhiên, lời giải thích này đã bỏ qua một điểm khác biệt cốt yếu giữa chiến tranh hạt nhân và chiến tranh thông thường, một khác biệt lý giải vì sao chiến tranh vẫn là lựa chọn khả thi cho các quốc gia. Những người ủng hộ lý thuyết này cho rằng tất cả các cuộc chiến tranh thông thường là những cuộc chiến hao tốn, đẫm máu và kéo dài, như Chiến tranh thế giới lần thứ nhất ở chiến trường phía Tây. Tuy nhiên, có thể đạt được một chiến thắng nhanh chóng và quyết định trong một cuộc chiến tranh thông thường và tránh sự tàn phá thường kèm theo một cuộc chiến tranh thông thường kéo dài.49 Một cuộc chiến tranh thông thường có thể có bên thắng cuộc; chiến tranh hạt nhân thì không, bởi không bên nào thoát khỏi sự tàn phá do đối thủ gây ra, bất chấp kết quả trên chiến trường. Do vậy, động lực để tránh chiến tranh hạt nhân lớn hơn chiến tranh thông thường, khiến sự răn đe hạt nhân có sức mạnh hơn nhiều so với răn đe phi hạt nhân. 50
* * *
Chú thích:
[1] Có sự ủng hộ to lớn trong nhóm lãnh đạo cấp cao của NATO, bao gồm chính quyền của Bush, nhằm duy trì NATO sau Chiến tranh Lạnh. Các nhà lãnh đạo NATO không thể hiện rõ ràng những mục tiêu cụ thể là NATO sẽ phục vụ tại Châu Âu hậu Chiến tranh Lạnh, nhưng họ hình thành ý tưởng trong đầu về một tương lai trong đó NATO là công cụ bảo đảm an ninh tại Đức, bằng cách đó xóa bỏ những động lực đối với chính sách hiếu chiến của người Đức và cũng là công cụ giúp bảo vệ những quốc gia NATO tránh khỏi cuộc xâm lăng của Đức. Tuy nhiên, người Đức, hiện đang có số quân nhiều nhất trong những lực lượng thường trực của phe Đồng minh, có thể sẽ phản đối vai trò này của NATO. Một cơ cấu an ninh dạng này giả định rằng không thể tin vào Đức và NATO cần phải được duy trì để kiềm chế Đức. Một nước Đức thống nhất về lâu dài sẽ không chấp nhận cơ cấu dựa trên giả thuyết này. Người Đức chấp nhận NATO trong suốt Chiến tranh Lạnh vì nó giúp bảo vệ nước Đức tránh khỏi sự đe dọa của Liên Xô vốn nổi lên sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Không có mối đe dọa rõ ràng như thế, và sự thực là mối đe dọa này hiện đang giảm đi nhanh chóng, Đức có khả năng sẽ phản đối việc tiếp tục duy trì NATO như chúng ta vẫn biết.
[2] Tôi không lập luận rằng Chiến tranh Lạnh hoàn toàn kết thúc là điều chắc chắn xảy ra, rất có thể đó chỉ là kết quả trung gian, trong đó hiện trạng sẽ thay đổi về cơ bản, nhưng những nét chính của trật tự hiện nay vẫn được giữ nguyên. Đặc biệt là Liên Xô có thể rút phần lớn quân khỏi Đông Âu, nhưng vẫn để lại những lực lượng quan trọng. Nếu vậy thì lực lượng của NATO sẽ có khả năng bị cắt giảm đáng kể, nhưng NATO vẫn có thể tiếp tục duy trì những lực lượng quan trọng tại Đức. Anh và Mỹ sẽ rút một số quân khỏi Lục địa nhưng không rút hết. Nếu kết quả này xảy ra, sự cạnh tranh quân sự lưỡng cực cốt yếu đã định hình bản đồ Châu Âu trong suốt Chiến tranh Lạnh sẽ tiếp diễn. Tôi không xem xét đến tình huống này, thay vào đó, tôi sẽ tìm hiểu xem điều gì sẽ xảy ra tiếp theo sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc hoàn toàn tại Châu Âu, bởi vì trong hai tình huống trên, đây là cái ít được để ý hơn, và bởi những hậu quả, và do đó là sự đáng mong muốn của việc kết thúc Chiến tranh Lạnh sẽ vẫn còn là vấn đề lớn nếu kết quả trung gian xảy ra.
[3] Sự ảnh hưởng của thay đổi về mặt nhân quyền tại Đông Âu sẽ không được trực tiếp lưu ý đến trong bài này. Người dân Đông Âu đã phải chịu nhiều khổ sở vì sự chiếm đóng của Liên Xô. Liên bang Xô Viết đã đặt chế độ chính trị áp bức tại khu vực này, tước bỏ của người Đông Âu các quyền tự do căn bản. Việc Liên Xô rút quân khỏi Đông Âu sẽ có thể làm tình hình thay đổi theo chiều hướng tốt hơn, dù thay đổi này chưa hẳn hoàn toàn là phúc lành như phần lớn mọi người nghĩ. Thứ nhất, không rõ rằng chế độ cộng sản sẽ ngay lập tức được thay thế bởi những hệ thống chính trị ưu tiên bảo vệ quyền lợi thiểu số và quyền tự do của công dân. Thứ hai, mối hận máu lâu dài giữa các dân tộc ở Đông Âu có thể sẽ lại nổi lên ở một Châu Âu đa cực, bất kể trật tự chính trị đã tồn tại sẵn. Nếu chiến tranh diễn ra tại Đông Âu, chắc chắn nhân quyền sẽ chịu nhiều ảnh hưởng.
[4] Người ta thường mô tả đặc điểm của sự phân cực – lưỡng cực hay đa cực – của hệ thống quốc tế nói chung, chứ không phải là một khu vực riêng biệt nào đó. Tuy nhiên trọng tâm của bài này không đề cập đến sự phân chia quyền lực trên toàn cầu, mà là sự phân chia quyền lực ở Châu Âu. Những tranh luận phân cực có thể được dùng để đánh giá triển vọng ổn định tại một khu vực cụ thể, miễn là sự cân bằng trong khu vực và thế giới được phân biệt với nhau và phần phân tích này tập trung vào cơ cấu quyền lực tại một khu vực cụ thể.
[5] Để trở thành một cực trong hệ thống khu vực và quốc tế, một quốc gia phải có khả năng tự bảo vệ mình trước các quốc gia lãnh đạo trong hệ thống ở mức độ hợp lý. Mỹ và Liên Xô có sự vượt trội về quân sự rõ ràng hơn hẳn các nước Châu Âu khác, và cả những nước không thuộc Châu Âu, trong suốt Chiến tranh Lạnh; do đó họ đã tạo nên hai cực của cả hệ thống Châu Âu và thế giới. Những gì đang diễn ra nhằm thay đổi điều này chính là cả Liên Xô và Mỹ đều đang rút các lực lượng khỏi Trung Âu, điều này khiến cả hai gặp khó khăn trong việc thiết lập quyền lực ở Lục địa và như vậy làm suy yếu ảnh hưởng của họ tại đây; cũng như giảm quy mô lực lượng, khiến họ không còn nhiều sức mạnh quân sự để triển khai. Vì yếu tố gần gũi về mặt địa lý với Châu Âu, Liên Xô vẫn là một cực trong hệ thống Châu Âu miễn là họ giữ các lực lượng quân sự quan trọng ở lại lãnh thổ của mình. Mỹ chỉ có thể tiếp tục là một cực ở Châu Âu khi còn có khả năng triển khai sức mạnh quân sự lớn tại Trung Âu.
[6] Sự ổn định được định nghĩa một cách đơn giản là không có chiến tranh và các cuộc khủng hoảng lớn.
[7] Thuật ngữ “nền hòa bình dài lâu” được đưa ra bởi John Lewis Gaddis, “The Long Peace: Elements of Stability in the Postwar International System,” International Security, Vol. 10, No. 4 (Spring 1986), trang 99-142.
[8] Có khoảng 10.000 người chết trên chiến trường trong chiến tranh Nga – Hung vào tháng 10 – tháng 11 năm 1956, và khoảng 1.500 – 5000 người đã chết trên chiến trường trong cuộc chiến ở Cyprus vào tháng 7 – tháng 8 năm 1974. Xem Ruth Leger Sivard, World Military and Social Expenditures 1989 (Washington, D.C.: World Priorities, 1989), trang 22; Melvin Small và J. David Singer, Resort to Arms: International and Civil Wars, 1816-1980 (Beverly Hills, Calif.: Sage, 1982), trang 93-94.
[9] Để tìm hiểu tóm tắt các cuộc chiến trong quá khứ, xem Jack S. Levy, War In the Modern Great Power System, 1495-1975 (Lexington: University Press of Kentucky, 1983); và Small and Singer, Resort to Arms.
[10] Không có cuộc chiến tranh lớn nào diễn ra ở Châu Âu trong giai đoạn 1815 – 1853 và 1871 – 1914, hai giai đoạn này dài gần bằng cuộc Chiến tranh Lạnh trong suốt 45 năm. Tuy nhiên có một sự khác biệt quan trọng giữa Chiến tranh Lạnh và những giai đoạn trước đó. Quan hệ giữa các cường quốc xấu đi rõ rệt vào những năm cuối của hai thời kì này, và mỗi trường hợp dẫn đến một cuộc chiến tranh lớn. Mặt khác, trật tự trong Chiến tranh Lạnh ngày càng trở nên ổn định hơn theo thời gian và hiện tại không có những mối đe dọa chiến tranh nghiêm trọng giữa NATO và khối Hiệp ước Warsaw. Châu Âu chắc chắn sẽ hòa bình trong tương lai có thể nhìn thấy trước nếu Chiến tranh Lạnh tiếp tục, đây là điểm làm nổi bật tính ổn định ngoại lệ của trật tự Châu Âu ngày nay.
[11] Mức độ quan trọng tương đối của ba yếu tố này không được khẳng định chính xác, nhưng cả ba đều có tầm quan trọng đáng kể.
[12] Hai tác phẩm kinh điển về đề tài này là Hans J. Morgenthau, Politics Among Nations: The Struggle for Power and Peace, 5th ed. (New York: Knopf, 1973); và Kenneth N. Waltz, Theory of International Politics (Reading, Mass.: Addison-Wesley, 1979).
[13] Những triển vọng răn đe này có thể chịu ảnh hưởng từ các tính toán nhằm ổn định khủng hoảng. Xem John J. Mearsheimer, “A Strategic Misstep: The Maritime Strategy and Deterrence in Europe,” International Security, Vol. 11, No. 2 (Fall 1986), trang 6-8.
[14] Xem Robert Jervis, “Cooperation Under the Security Dilemma,” World Politics, Vol. 30, No. 2 (January 1978), trang 167-214; và Stephen Van Evera, “Causes of War” (unpub. PhD dissertation, University of California at Berkeley, 1984), chap. 3. Như đã nói ở trên, tôi tin rằng sự khác biệt giữa vũ khí tấn công và phòng vệ và, tổng quát hơn, khái niệm về sự cân bằng giữa tấn công – phòng vệ, đều có liên quan ở cấp độ hạt nhân. Tuy vậy, tôi không tin những ý kiến này có liên quan ở cấp độ thông thường. Xem John J. Mearsheimer, Conventional Deterrence (Ithaca: Cornell University Press, 1983), trang 25-27.
[15] Bá quyền tượng trưng cho kiểu phân chia quyền lực thứ ba. Trong trật tự bá quyền, chỉ có duy nhất một cường quốc trong hệ thống. Còn lại là những nước nhỏ không có khả năng thách thức nước lớn, nhưng phải hành động theo mệnh lệnh của nước lớn. Mỗi quốc gia sẽ tìm cách đạt được quyền bá chủ, vì nó sẽ đem lại an ninh lớn: không đối thủ nào dám gây ra một mối đe dọa nghiêm trọng. Tuy nhiên hiếm khi trật tự này xảy ra bởi vì quyền lực có xu hướng được phân chia tương đối đồng đều giữa các quốc gia, vì những quốc gia bị đe dọa có động lực mạnh mẽ để gắn kết với nhau nhằm ngăn chặn một nước bá quyền nhiều tham vọng, và cũng bởi chi phí cho việc bành trướng luôn luôn vượt quá những lợi ích trước cả khi có được quyền thống trị khiến việc mở rộng quyền lực trở nên thái quá. Bá quyền chưa bao giờ là đặc trưng của hệ thống quốc gia Châu Âu ở bất cứ thời điểm nào từ khi hệ thống này nổi lên ở thế kỷ 17, và không có triển vọng nào cho bá quyền trong một tương lai có thể đoán trước được; do đó, bá quyền không thích hợp để đánh giá triển vọng hòa bình tại Châu Âu.
[16] Những tác phẩm quan trọng về trật tự hai cực và đa cực gồm có Thomas J. Christensen và Jack Snyder, “Chain Gangs and Passed Bucks: Predicting Alliance Patterns in Multipolarity,” International Organization, Vol. 44, No. 2 (Spring 1990), trang 137-168; Karl W. Deutsch và J. David Singer, “Multipolar Power Systems and International Stability,” World Politics, Vol. 16, No. 3 (April 1964), trang 390-406; Richard N. Rosecrance, “Bipolarity, Multipolarity, and the Future,” Journal of Conflict Resolution, Vol. 10, No. 3 (September 1966), trang 314-327; Kenneth N. Waltz, “The Stability of a Bipolar World, “Daedalus, Vol. 93, No. 3 (Summer 1964), trang 881-909; và Waltz, Theory of international Politics, chap. 8. Những kết luận của tôi về hệ thống lưỡng cực tương tự như của Waltz, mặc dù có những điểm khác nhau quan trọng trong cách lý giải của chúng tôi, sẽ được thể hiện dưới đây.
[17] Mặc dù sự cân bằng quyền lực có thể giúp ngăn chặn chiến tranh hơn là sự mất cân bằng quyền lực, nhưng sự cân bằng quyền lực giữa các quốc gia không đảm bảo rằng có thể đạt được khả năng răn đe. Các quốc gia thỉnh thoảng tìm ra những chiến lược quân sự mới có thể mang lại chiến thắng trên chiến trường, thâm chí không cần có lợi thế rõ rệt về mặt cân bằng sức mạnh quân sự cơ bản. Hơn nữa, những lực lượng chính trị rộng hơn khiến một quốc gia đi đến chiến tranh đôi khi buộc các nhà cầm quyền theo đuổi các chiến lược quân sự rất mạo hiểm, đẩy các quốc gia tới việc thách thức những đối thủ ngang tài ngang sức hay thậm chí là đối thủ mạnh hơn. Xem Mearsheimer, Conventional Deterrence, đặc biệt chương 2.
[18] Cuộc thảo luận về tính phân cực giả định rằng sức mạnh quân sự của các cường quốc tương đương nhau. Hậu quả của sự bất đối xứng quyền lực giữa những cường quốc sẽ được thảo luận bên dưới.
[19] Xem Stephen M. Walt, The Origins of Alliances (Ithaca: Cornell University Press, 1987); và Waltz, Theory of International Politics, trang 123-128.
[20] Một ngoại lệ cần được đề cập: việc kết bè phái vẫn có thể xảy ra ở trật tự đa cực trong trường hợp chỉ có ba cường quốc trong hệ thống, và do đó nạn nhân sẽ không thể có được đồng minh nào.
[21] Xem Mancur Olson and Richard Zeckhauser, “An Economic Theory of Alliances,” Review of Economics and Statistics, Vol. 48, No. 3 (August 1966), trang 266-279; và Barry R. Posen, The Sources of Military Doctrine: France, Britain, and Germany between the World Wars (Ithaca: Cornell University Press, 1984).
[22] Những cân nhắc về chính trị trong nước thỉnh thoảng cũng có thể gây cản trở hành vi cân bằng quyền lực. Ví dụ như, Anh và Pháp đã miễn cưỡng liên minh với Liên Xô trong thập niên 1930 vì mối ác cảm sâu xa của họ đối với chủ nghĩa cộng sản.
[23] Xem Walt, Origins of Alliances, trang 28-32, 173-178.
[24] Quan điểm này là chủ đề trung tâm của Waltz, “The Stability of a Bipolar World.” Xem Geoffrey Blainey, The Causes of War (New York: Free Press, 1973), chap. 3.
[25] Waltz, Theory of International Politics, pp. 163, 168 khẳng định hiệu quả lớn hơncủa cân bằng bên trong so với cân bằng bên ngoài.
26. Cuộc thảo luận này không bao gồm tình huống trong đó sự bất cân xứng quyền lực lớn đến nỗi mà một quốc gia nổi lên như một nước bá quyền. Xem ghi chú 15.
27. Điểm này là chủ đề trọng tâm của Ludwig Dehio, The Precarious Balance: Four Centuries of the European Power Struggle, trans. Charles Fullman (New York: Knopf, 1962). Xem Randolph M. Siverson và Michael R. Tennefoss, "Power, Alliance, and the Escalation of International Conflict, 1815-1965," American Political Science Review, Vol. 78, No. 4 (December 1984), trang 1057-1069. Hai thời ký hòa bình lâu dài trong lịch sử (xem ghi chú 10 ở trên) chủ yếu là nhờ sự phân chia quyền lực bình đẳng giữa các nước lớn ở Châu Âu. Đặc biệt, không có kẻ bá quyền tham vọng nào ở Châu Âu trong hầu hết hai giai đoạn này. Pháp, quốc gia mạnh nhất ở Châu Âu đầu thế kỷ 19, đã nhanh chóng suy giảm và trở nên gần như ngang hang với các đối thủ chủ yếu của mình, torng khi Đức lại nổi lên như một nước bá quyền tiềm năng ở đầu thế kỷ 20.
28. Những nghiên cứu phát triển lập luận rằng vũ khí hạt nhân, về bản chất, chủ yếu dùng để phòng thủ, bao gồm Shai Feldman, Israeli Nuclear Deterrence: A Strategy for the 1980s (New York: Columbia University Press, 1982), trang 45-49; Stephen Van Evera, "Why Europe Matters, Why the Third World Doesn't: American Grand Strategy after the Cold War," Journal of Strategic Studies, Vol. 13, No. 2 (June 1990, sắp xuất bản); và Vaq Evera, "Causes of War," chap. 13.
29. See Feldman, Israeli Nuclear Deterrence, tr. 50-52; và Van Evera, "Causes of War," tr. 697 699.
30. Định nghĩa này được rút ra từ Ernest Gellner, Nations and Nationalism (Ithaca: Cornell University Press, 1983). Đây là một nghiên cứu xuất sắc về nguồn gốc của chủ nghĩa dân tộc. Tuy nhiên, Gellner ít để ý đến việc làm thế nào chủ nghĩa dân tộc trở thành một sức mạnh hung ác góp phần tạo ra sự bất ổn trong hệ thống quốc tế.
31. Áo không phải là trường hợp bị ức hiếp điển hình, đã có một sự hỗ trợ lớn từ những kẻ ủng hộ Đức tại chính nước Áo trong khoảng cuối thập niên 30 thế kỷ trước.
32. Việc Anh không công khai tham gia vào một cuộc chiến tranh Lục địa trước Cuộc khủng hoảng tháng Bảy có lẽ là một sai lầm nghiêm trọng. Có chứng cứ cho rằng Thủ tướng Đức, Bethmann – Hollweg, đã cố gắng để Đức không trượt dài vào chiến tranh một khi việc Anh sẽ đứng về phe Pháp và Nga để chống lại Đức trở nên rõ ràng, biến cuộc chiến tranh Lục địa thành chiến tranh thế giới. Xem Imanuel Geiss, ed., July 1914: The Outbreak of the First World War (New York: Norton, 1967), chap. 7. Nếu người Đức hiểu rõ những mục đích của Anh trước cuộc khủng hoảng, họ có thể đã thận trọng hơn nhiều trong những giai đoạn đầu của cuộc khủng hoảng, khi vẫn còn có thể tránh được chiến tranh.
33. Xem Williamson Murray, The Change in the European Balance of Power, 1938-1939: The Path to Ruin (Princeton: Princeton University Press, 1984); Posen, Sources of Military Doctrine; and Arnold Wolfers, Britain and France between Two Wars: Conflicting Strategies of Peace from Versailles to World War I1 (New York: Norton, 1968); andvà Barry R. Posen, "Competing Images of the Soviet Union," World Politics, Vol. 39, No. 4 (July 1987), pp. 579-597.
34. Các vấn đề liên quan đến trật tự đa cực cũng phổ biến ở Châu Âu trước năm 1900. Ví dụ, hãy để ý đến sự cân bằng quyền lực kém hiệu quả đã dẫn đến sự sụp đổ của bốn liên minh đầu tiên nhằm chống lại nước Pháp thời Napoleon. Xem Steven T. Ross, European Diplomatic History, 1789-1815: France Against Europe (Garden City, N.Y.: Doubleday, 1969).
35. Stephen Van Evera, "The Cult of the Offensive and the Origins of the First World War", International Security, Vol. 9, No. 1 (Summer 1984), pp. 58-107. Xem thêm Jack Snyder, The Ideology of the Offensive: Military Decision-Making, and the Disasters of 1914 (Ithaca: Cornell University Press, 1984).
36. Mearsheimer, Conventional Deterrence, chaps. 3-4.
37. Xem Ludwig Dehio, Germany and World Politics in the Twentieth Century, trans. Dieter Pevsner (New York: Norton, 1967); Fritz Fischer, War of Illusions: German Policies from 1911 to 1914, trans. Marian Jackson (New York: Norton, 1975); Paul M. Kennedy, The Rise of the Anglo-German Antagonism, 1860-1914 (London: Allen and Unwin, 1980), chap. 18; Hans Kohn, The Mind of Germany: The Education of a Nation (New York: Harper Torchbook, 1965), chaps. 7-12; and Louis L. Snyder, German Nationalism: The Tragedy of a People (Harrisburg, Pa.: Telegraph Press, 1952).
38. Có cả một kho tài liệu đồ sộ về cỗ máy giết người Đức trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Một số nghiên cứu cung cấp cái nhìn tổng quan tốt nhất về đề tài này là Ian Kershaw, The Nazi Dictatorship: Problems and Perspectives of Interpretation, 2nd ed. (London: Arnold, 1989), chaps. 5, 8, 9; Henry L. Mason, "Imponderables of the Holocaust," World Politics, Vol. 34, No. 1 (October 1981), pp. 90-113; and Mason, "Implementing the Final Solution: The Ordinary Regulating of the Extraordinary," World Politics, Vol. 40, No. 4 (July 1988), trang 542-569.
39. Xem Anton W. DePorte, Europe between the Superpowers: The Enduring Balance, 2nd ed. (New Haven: Yale University Press, 1986).
40. Xem Hans Speier, German Rearmament and Atomic War: The Views of German Military and Political Leaders (Evanston, Ill.: Row, Peterson, 1957), chap. 10.
41. See Robert L. Arnett, "Soviet Attitudes Towards Nuclear War: Do They Really Think They Can Win?" Journal of Strategic Studies, Vol. 2, No. 2 (September 1979), pp. 172-191; and David Holloway, The Soviet Union and the Arms Race (New Haven: Yale University Press, 1983).
42. Do vậy Thus Nikita Khrushchev giải thích rằng “Giờ đây các nước lớn đều sở vũ khí nhiệt hạch, họ chắc chắn sẽ viện đến những vụ khí này nếu bắt đầu thua trong cuộc chiến với những phương tiện truyền thống. Nếu cuối cùng phải đứng trước câu hỏi liệu có phải đối mặt với thất bại hay không, thì chắc chắn sẽ có ai đó ủng hộ việc nhấn nút, và tên lửa sẽ bắt đầu bay.” "Nikita Khrushchev, Khrushchev Remembers: The Last Testament, trans. and ed. by Strobe Talbott (New York: Bantam, 1976), trang 603-604.
43. Xem James M. McConnell, "Shifts in Soviet Views on the Proper Focus of Military Development," World Politics, Vol. 37, No. 3 (April 1985), trang 317-343.
44. Xem Stephen M. Meyer, "The Sources and Prospects of Gorbachev's New Political Thinking on Security," International Security, Vol. 13, No. 2 (Fall 1988), trang 134-138.
45. Xem Hannes Adomeit, Soviet Risk-taking and Crisis Behavior: A Theoretical and Empirical Analysis (London: Allen and Unwin, 1982); Richard K. Betts, Nuclear Blackmail and Nuclear Balance (Washington, D.C.: Brookings, 1987); và McGeorge Bundy, Danger and Survival: Choices about the Bomb in the First Fifty Years (New York: Random House, 1988). Xem thêm Joseph S. Nye, Jr., "Nuclear Learning and U.S.-Soviet Security Regimes," International Organization, Vol. 41, No. 3 (Summer 1987), trang 371-402.
46. Một số chuyên gia thừa nhận rằng vũ khí hạt nhân có giá trị răn đe trong những thập niên đầu của Chiến tranh Lạnh, nhưng cho rằng chúng đã mất đi giá trị này vào giữa thập niên 60 khi Liên Xô cuối cùng cũng có được khả năng tấn công trả đũa ồ ạt trên lãnh thổ Mỹ. Tôi phản đối ý kiến này và đã thể hiện rõ quan điểm của mình trong John J. Mearsheimer, "Nuclear Weapons and Deterrence in Europe," International Security, Vol. 9, No. 3 (Winter 1984/85), trang 19-46.
47. Xem Paul M. Kennedy, "The Decline of Nationalistic History in the West, 1900-1970," Iournal of Contemporary History, Vol. 8, No. 1 CJanuary 1973), trang 77-100; và E.H. Dance, History the Betrayer (London: Hutchinson, 1960).
48. Lý thuyết này được trình bày rõ ràng nhất bởi John E. Mueller, Retreat from Doomsday: The Obsolescence of Major War (New York: Bagic Books, 1989). Xem thêm Carl Kaysen, "Is War Obsolete? A Review Essay" International Security, Vol. 14, No. 4 (Spring 1990), trang 42-64.
49 Xem Mearsheimer, Conventional Deterrence, chaps. 1-2.
50. Quá trình ra quyết định của Đức trong những năm đầu của Chiến tranh thế giới thứ hai đã nhấn mạnh điểm này. Xem Mearsheimer, Conventional Deterrence, chap. 4. Người Đức đã nhận thức rõ ràng từ kinh nghiệm trong Chiến tranh thế giới thứ nhất rằng chiến tranh thông thường giữa các nước lớn có thể mang lại những hậu quả tàn phá ghê gớm. Tuy nhiên, họ đã ba lần quyết định mở những cuộc tấn công xâm lược lớn trên bộ: Ba Lan (1939); Pháp (1940); và Liên Xô (1941). Ở mỗi trường hợp, người Đức tin rằng họ có thể giành chiến thắng quyết định nhanh chóng, tránh một cuộc chến kéo dài tốn kém như Chiến tranh thế giới thứ nhất. Những tính toán của họ đã đúng trong trường hợp Ba Lan và Pháp. Nhưng họ sai về Liên Xô, đất nước đã cản trở kế hoạch tấn công của Đức và cuối cùng đóng vai trò quan trung tâm trong việc hạ bệ Đức Quốc xã. Người Đức chắc chắn sẽ bị ngăn tấn công Liên Xô nếu họ thấy trước được những hậu quả có thể xảy ra. Tuy nhiên, điểm mấu chốt là họ đã thấy vài khả năng có thể giành được một chiến thắng dễ dàng và không tốn kém chống lại Hồng quân. Lựa chọn này không tồn tại trong chiến tranh hạt nhân.
Phần 2
Dân Đức ở hai vùng phân chia bởi bức tường ô nhục Bá Linh do Cộng sản xây nên.
Dự đoán tương lai: Sự Balkan hóa Châu Âu?
Trật tự mới nào sẽ nổi lên ở Châu Âu nếu Liên Xô và Mỹ rút về nước và Chiến tranh Lạnh kết thúc? Nó sẽ có những đặc điểm nào? Và nó sẽ nguy hiểm ra sao?
Chắc chắn là trật tự hai cực sẽ biến mất và hệ thống đa cực sẽ nổi lên trong trật tự mới tại Châu Âu. Hai khía cạnh khác của trật tự mới – sự phân chia quyền lực giữa các nước lớn và sự phân bổ vũ khí hạt nhân giữa họ – không được xác định trước, và một số dàn xếp có thể xảy ra. Có sự khác biệt rõ rệt trong tính ổn định của những dàn xếp này. Phần này sẽ xem xét phạm vi những mối nguy hiểm mà mỗi dàn xếp sẽ mang lại và khả năng chúng trở thành hiện thực.
Những mô hình phân bổ và triển khai vũ khí hạt nhân trong một Châu Âu mới là yếu tố ít chắc chắn nhất, nhưng có lẽ là quan trọng nhất, trong trật tự mới. Theo đó, phần này sẽ tiếp tục tìm hiểu đặc điểm của bốn thế giới hạt nhân chính có thể xuất hiện: một Châu Âu không có vũ khí hạt nhân, sự tiếp tục những mô hình hiện tại trong việc sở hữu vũ khí hạt nhân, và sự phổ biến vũ khí hạt nhân ở cả hai khía cạnh được kiểm soát hiệu quả và không được kiểm soát hiệu quả.
Trật tự mới tốt nhất sẽ bao gồm sự phổ biến vũ khí hạt nhân hạn chế và trong tầm kiểm soát. Điều này sẽ nguy hiểm hơn trật tự hiện tại, nhưng an toàn hơn nhiều so với giai đoạn 1900 – 1945. Trật tự tệ nhất sẽ là một Châu Âu không vũ khí hạt nhân mà ở đó, sự mất cân bằng quyền lực sẽ xuất hiện giữa những cực quyền lực chính. Trật tự này sẽ nguy hiểm hơn thế giới hiện tại, và có lẽ sẽ nguy hiểm gần như thế giới trước năm 1945. Sự tiếp nối mô hình hiện tại, hay sự phổ biến vũ khí hạt nhân không được kiểm soát, sẽ tồi tệ hơn thế giới ngày nay, nhưng an toàn hơn thế giới trước 1945.
Một Châu Âu phi hạt nhân
Một số người Châu Âu và Mỹ tìm cách loại bỏ vũ khí hạt nhân khỏi Châu Âu và thay thế trật tự Chiến tranh Lạnh bằng một trật tự hoàn toàn phi hạt nhân. Việc xây dựng một Châu Âu không có vũ khí hạt nhân sẽ đòi hỏi Anh, Pháp và Liên Xô phải tự mình loại bỏ vũ khí hạt nhân. Những người ủng hộ quan điểm này tin rằng một Châu Âu không có vũ khí hạt nhân sẽ là trật tự hòa bình nhất có thể xảy ra; tuy nhiên trên thực tế, một Châu Âu phi hạt nhân sẽ là điều nguy hiểm nhất trong số những trật tự hậu Chiến tranh Lạnh có khả năng xảy ra. Những hiệu ứng ổn định của vũ khí hạt nhân – an ninh mà chúng mang lại, sự cẩn trọng mà chúng tạo, sự cân bằng tương đối mà chúng áp đặt, và tính rõ ràng của sức mạnh tương đối do chúng tạo ra – sẽ không còn nữa. Hòa bình sẽ tùy thuộc vào những khía cạnh khác của trật tự mới – số lượng các cực và sự phân bổ quyền lực giữa chúng. Tuy nhiên, trật tự mới chắc chắn sẽ là trật tự đa cực, và có lẽ là không cân bằng; do vậy hệ thống này rất có xu hướng thiên về bạo lực. Cơ cấu quyền lực ở Châu Âu sẽ rất giống như giữa các cuộc chiến tranh thế giới, và rất có thể gây ra kết quả tương tự.
Hai nước mạnh nhất ở Châu Âu hậu Chiến tranh Lạnh có thể là Đức và Liên Xô. Hai nước này sẽ được phân cách về mặt địa lý bởi một loạt các quốc gia nhỏ và độc lập ở Đông Âu . Không có nhiều thay đổi ở Tây Âu, mặc dù các nước trong vùng sẽ phải lo lắng về sự đe dọa tiềm tàng của Đức ở phía đông.
Khả năng xảy ra xung đột trong hệ thống này rất lớn. Có nhiều cặp xung đột tiềm năng khiến chiến tranh có thể sẽ nổ ra. Sự mất cân bằng quyền lực sẽ trở nên phổ biến do những cơ hội mà hệ thống tạo ra cho việc bắt nạt và kết bè phái. Khả năng xảy ra tính toán sai lầm là rất cao. Rắc rối trong việc kiềm chế sức mạnh của Đức sẽ lại nổi lên một lần nữa, nhưng sự phân bổ quyền lực tại Châu Âu sẽ khiến việc xây dựng một liên minh đối trọng hiệu quả trở nên khó khăn, cũng vì lý do này mà không thể xây dựng được một liên minh đối trọng hiệu quả vào thập niên 1930. Đến một lúc nào đó vấn đề kiềm chế sức mạnh Liên Xô cũng sẽ lại nổi lên. Cuối cùng, xung đột sẽ bùng nổ ở Đông Âu, tạo ra vòng xoáy cuốn cả các nước khác vào một cuộc đối đầu quy mô hơn.
Một nước Đức thống nhất sẽ bị bao quanh bởi những nước nhỏ hơn, những nước khó có thể chống lại sự xâm lược của Đức. Không có các lực lượng đồn trú tại các nước tiếp giáp Đức, cả Liên Xô và Mỹ đều không có vị thế tốt để giúp các nước này kiềm chế sức mạnh của Đức. Hơn nữa, những nước nhỏ nằm giữa Đức và Liên Xô có thể sẽ sợ Liên Xô ngang với Đức, và do đó không sẵn lòng hợp tác với Liên Xô để ngăn cản sự xâm lược của Đức. Vấn đề này thực tế đã nổi lên từ thập niên 1930, và 45 năm chiếm đóng của Liên Xô trong giai đoạn chuyển tiếp đã không giúp xoa dịu nỗi sợ hãi của Đông Âu đối với sự hiện diện của quân đội Liên Xô. Như thế, các kịch bản Đức dùng lực lượng quân sự tấn công Ba Lan, Tiệp Khắc và thậm chí cả Áo là điều hoàn toàn có thể xảy ra.
Liên Xô rốt cuộc cũng có thể đe dọa hiện trạng này. Việc Liên Xô rút quân khỏi Đông Âu không có nghĩa là họ sẽ không bao giờ cảm thấy cần phải quay lại đó. Lịch sử cho thấy rất nhiều trường hợp Nga hay Liên Xô can dự vào Đông Âu. Thật vậy, sự hiện diện của Nga ở Đông Âu lúc nhiều lúc ít lặp đi lặp lại trong suốt vài thế kỷ qua. [1] Do đó, sự rút quân của Liên Xô hiện tại khó có thể đảm bảo một sự ra đi vĩnh viễn.
Xung đột giữa các quốc gia Đông Âu cũng có khả năng gây ra bất ổn ở một Châu Âu đa cực. Không có chiến tranh giữa các nước ở khu vực này trong suốt Chiến tranh Lạnh là vì Liên Xô đã kiểm soát họ rất chặt chẽ. Quan điểm này được minh chứng bởi những căng thẳng nghiêm trọng hiện đang tồn tại giữa Hungary và Rumani về sự đối xử của Rumani đối với những người thiểu số Hungary tại Transylvania, vùng đất trước đây thuộc về Hungary và vẫn có khoảng 2 triệu người Hungary đang sinh sống tại đây. Nếu không phải vì sự có mặt của Liên Xô ở Đông Âu, xung đột này đã có thể đưa Rumani và Hungary tới chiến tranh, và có thể đưa họ đến chiến tranh trong tương lai. [2] Điều này sẽ không phải là mối nguy hiểm duy nhất ở Đông Âu nếu đế chế Liên Xô sụp đổ. [3]
Chiến tranh ở Đông Âu sẽ gây ra những đau khổ khủng khiếp cho người dân Đông Âu. Cuộc chiến này có thể lan rộng ra các nước lớn vì họ sẽ bị lôi kéo vào cuộc tranh giành ảnh hưởng tại khu vực này, đặc biệt nếu sự rối loạn tạo ra một nền chính trị dễ thay đổi mang lại cơ hội cho các nước bên ngoài gây ảnh hưởng, hoặc đe dọa khuất phục những quốc gia thân thiện. Trong suốt Chiến tranh Lạnh, cả hai siêu cường đều bị kéo vào những xung đột ở các nước Thế giới thứ ba trên toàn cầu, thường là ở những vùng xa xôi có tầm quan trọng chiến lược không cao. Đông Âu nằm kề cả Liên Xô và Đức và có tầm quan trọng chiến lược và kinh tế đáng kể; do đó, những bất ổn ở Đông Âu thậm chí có thể gây ra sự cám dỗ đối với các cường quốc này lớn hơn là những cuộc xung đột trước đây ở Thế giới thứ ba đã gây ra cho các siêu cường. Hơn nữa, do kết quả của những xung đột tại khu vực này phần lớn được quyết định bởi thành công tương đối của mỗi bên trong việc tìm kiếm đồng minh bên ngoài, các quốc gia Đông Âu sẽ có động cơ mạnh mẽ để kéo các nước lớn vào những cuộc xung đột của họ tại khu vực này. [4] Vậy nên sẽ có cả lực kéo và lực đẩy đối với sự can dự của các cường quốc bên ngoài vào các cuộc chiến ở Đông Âu.
Tính toán sai lầm cũng có khả năng trở thành vấn đề của một Châu Âu đa cực. Ví dụ, trật tự mới có thể chứng kiến rõ những mô hình xung đột đang thay đổi, khiến cho các nước đối địch không có đủ thời gian để thống nhất về sự phân chia quyền lợi và các quy tắc tương tác, hoặc liên tục buộc họ tái thiết lập những thỏa thuận và quy tắc mới vì sự thù địch cũ dần biến mất và cái mới sẽ nổi lên. Hoàn cảnh mới sẽ khó cho phép xây dựng một loạt thỏa thuận hiệu quả giống như những thỏa thuận giúp mang lại ổn định cho Chiến tranh Lạnh từ năm 1963. Thay vào đó, tình hình Châu Âu sẽ trở nên giống như thời kỳ đầu của Chiến tranh Lạnh, khi mà việc không có luật lệ đã dẫn tới những cuộc khủng hoảng lặp đi lặp lại liên tục. Thêm vào đó, đặc điểm đa cực của hệ thống có thể sẽ gây ra những tính toán sai lầm liên quan đến sức mạnh của những liên minh đối lập.
Rất khó để dự đoán chính xác về sự cân bằng sức mạnh quân sự phi hạt nhân sẽ nổi lên giữa hai cường quốc lớn nhất ở Châu Âu hậu Chiến tranh Lạnh, đặc biệt là khi tương lai sức mạnh của Liên Xô hiện rất khó dự đoán. Liên Xô có thể phục hồi sức mạnh của mình ngay sau khi rút quân khỏi Trung Âu; nếu thế, sức mạnh Liên Xô có thể vượt sức mạnh Đức. Hoặc các lực lượng dân tộc ly khai sẽ làm tan rã Liên Xô, không để lại một nước nào sánh ngang được với nước Đức thống nhất. [5] Kịch bản nhiều khả năng xảy ra nhất là Đức và Liên Xô nổi lên như những cường quốc gần như cân bằng về sức mạnh. Hai kịch bản đầu tiên, với sự bất bình đẳng rõ ràng giữa hai cường quốc đứng đầu, sẽ đặc biệt đáng lo ngại, mặc dù kịch bản sức mạnh Liên Xô và Đức ngang bằng nhau cũng rất đáng quan tâm.
Chủ nghĩa dân tộc quá khích trỗi dậy sẽ tạo ra ít nguy hiểm hơn những vấn đề đã nêu trên, nhưng một số hình thức chủ nghĩa dân tộc có thể lại nổi lên khi không có Chiến tranh Lạnh và tạo thêm động lực dẫn đến chiến tranh. Một Châu Âu phi hạt nhân sẽ gặp rắc rối đặc biệt với chủ nghĩa dân tộc vì an ninh trong một trật tự như vậy phần lớn là nhờ có lực lượng quân đội đông đảo, và những quân đội này thường không thể duy trì nếu không kích động chủ nghĩa dân tộc quá khích trong xã hội. Vấn đề có thể trở nên nghiêm trọng nhất ở Đông Âu, nhưng cũng có khả năng gây nên rắc rối tại Đức. Người Đức nhìn chung đã đạt được kết quả rất đáng ngưỡng mộ trong việc đấu tranh chống lại chủ nghĩa dân tộc trong hơn 45 năm qua và luôn ghi nhớ về giai đoạn đen tối trong quá khứ của mình. Tuy nhiên, những điềm báo đáng lo ngại đang trở nên rõ ràng; nhưng điều đáng lo nhất là vài người Đức có ảnh hưởng gần đây đã khuyên nên tăng cường việc dạy chủ nghĩa dân tộc trong giáo dục lịch sử. [6] Hơn nữa, chủ nghĩa dân tộc sẽ tăng lên do những tranh chấp biên giới chưa được giải quyết nổi lên một khi Mỹ và Liên Xô rút quân. Đặc biệt đáng chú ý là tranh chấp biên giới giữa Đức và Ba Lan mà người Đức sẽ làm thay đổi theo hướng có lợi cho mình.
Tuy vậy, rất khó có khả năng Châu Âu sẽ trở nên phi hạt nhân, bất chấp sự phản đối vũ khí hạt nhân hiện đang rất mạnh mẽ ở đây. Ví dụ, không có khả năng người Pháp, khi không còn sự che chở của Mỹ và phải đối mặt với một nước Đức mới thống nhất, sẽ từ bỏ vũ khí hạt nhân của mình. Và Liên Xô chắc chắn vẫn lo ngại về việc cân bằng khả năng răn đe hạt nhân của Mỹ, và do đó sẽ duy trì khả năng răn đe của chính mình.
Mô hình sở hữu vũ khí hạt nhân hiện tại sẽ tiếp diễn
Một trật tự hợp lý hơn cho Châu Âu hậu Chiến tranh Lạnh là trật tự trong đó Anh, Pháp và Liên Xô vẫn giữ vũ khí hạt nhân, nhưng sẽ không có thêm cường quốc hạt nhân nào khác xuất hiện ở Châu Âu. Kịch bản này cho thấy một khu vực phi hạt nhân ở Trung Âu, nhưng vẫn để lại vũ khí hạt nhân bên sườn Châu Âu.
Kịch bản này cũng có vẻ khó xảy ra, bởi vì những nước không sở hữu vũ khí hạt nhân sẽ có động lực quan trọng để phát triển vũ khí hạt nhân cho chính mình. Đức có thể không cần vũ khí hạt nhân để ngăn chặn một cuộc tấn công thông thường của các nước láng giềng, vì cả Pháp hay các nước Đông Âu đều không có khả năng đánh bại một nước Đức thống nhất trong một cuộc chiến tranh thông thường. Liên Xô sẽ là mối đe dọa phi hạt nhân chính đáng duy nhất của Đức, nhưng miễn là các nước Đông Âu vẫn độc lập, lục quân Liên Xô sẽ không thể thực hiện một cuộc tấn công trực tiếp. Tuy nhiên người Đức sẽ không sẵn lòng dựa vào người Ba Lan hay Tiệp Khắc để tạo rào chắn và thay vào đó có thể nhận thấy vũ khí hạt nhân là cách tốt nhất để ngăn chặn một cuộc tấn công thông thường của Liên Xô vào Trung Âu. Người Đức có thể chọn sở hữu vũ khí hạt nhân nhằm bảo vệ chính mình khỏi bị đe dọa bởi những cường quốc hạt nhân khác. Cuối cùng, do Đức có sức mạnh kinh tế lớn hơn cả Anh hoặc Pháp, họ sẽ tìm kiếm vũ khí hạt nhân để nâng cao vị thế quân sự cho tương xứng với vị thế kinh tế.
Các nước nhỏ ở Đông Âu sẽ có động lực mạnh mẽ để có được vũ khí hạt nhân. Không có vũ khí hạt nhân, những nước Đông Âu này sẽ dễ dàng bị đe dọa hạt nhân bởi Liên Xô và Đức, nếu nước này có được vũ khí hạt nhân. Không quốc gia Đông Âu nào có thể sở hữu sức mạnh phi hạt nhân sánh được với Đức hay Liên Xô, và điều này sẽ tạo động lực mạnh mẽ cho những nước nhỏ tìm cách có được khả năng ngăn chặn hạt nhân, ngay cả khi các cường quốc không có. Tóm lại, dường như khó có khả năng hình thức sở hữu hiện tại vẫn tiếp diễn mà không có sự phổ biến vũ khí hạt nhân.
Trật tự này ổn định như thế nào? Sự tiếp tục hiện diện của vũ khí hạt nhân tại Châu Âu sẽ có tác dụng bình ổn. Vũ khí hạt nhân sẽ khiến cho chính các nước sở hữu chúng phải cẩn trọng hơn, đảm bảo an ninh lớn hơn cho các cường quốc hạt nhân, có xu hướng cân bằng sức mạnh tương đối của các nước sở hữu chúng, và làm giảm nguy cơ tính toán sai lầm. Tuy nhiên, những lợi ích này sẽ bị hạn chế nếu vũ khí hạt nhân không được phổ biến ngoài những quốc gia hiện đang sở hữu, vì bốn nguyên nhân chính sau.
Đầu tiên, vùng trung tâm rộng lớn của Châu Âu sẽ không có được sự cẩn trọng và an ninh mà vũ khí hạt nhân mang lại. Cả khu vực giữa Pháp và Liên Xô, trải dài từ Bắc Cực ở phía Bắc tới Địa Trung Hải ở phía Nam, và bao gồm khoảng mười tám nước quan trọng, sẽ trở thành một vùng rộng lớn “thuận lợi” đối với chiến tranh thông thường. Thứ hai, mối quan hệ quyền lực không cân xứng sẽ buộc phải phát triển giữa những quốc gia hạt nhân và phi hạt nhân cũng như giữa những quốc gia phi hạt nhân, làm gia tăng các mối đe dọa kèm theo sự bất đối xứng. Thứ ba, nguy cơ tính toán sai lầm sẽ tăng lên, phản ánh tính chất đa cực của hệ thống này và sự thiếu vắng vũ khí hạt nhân ở một phần lớn của hệ thống. Sẽ rất khó xây dựng một trật tự chính trị bền vững được được thừa nhận chung vì các liên minh chính trị có xu hướng thay đổi theo thời gian, gây nên những tính toán sai lầm về quyết tâm của các đối thủ. Sức mạnh tương đối của các liên minh chiến tranh tiềm năng sẽ rất khó tính toán vì sức mạnh của liên minh sẽ phụ thuộc rất lớn vào những thay đổi thất thường của ngoại giao. Những bất định về khả năng tương đối như vậy sẽ giảm bớt trong những xung đột nảy sinh giữa các cường quốc hạt nhân: vũ khí hạt nhân có xu hướng cân bằng sức mạnh giữa các quốc gia hay liên minh có sự chênh lệch lớn về nguồn lực, và do vậy làm mất đi tầm quan trọng của việc gia nhập hay ly khai khỏi mỗi liên minh. Tuy nhiên, sự bất định sẽ sâu sắc hơn giữa những nước vẫn còn trong tình trạng phi hạt nhân. Thứ tư, an ninh của các quốc gia vũ trang phi hạt nhân ở Trung Âu sẽ phụ thuộc vào quân đội đại chúng, tạo động lực cho các quốc gia này tuyên truyền chủ nghĩa dân tộc nguy hiểm cho xã hội để duy trì sự ủng hộ của quần chúng đối với các nỗ lực phòng vệ.
Sự phổ biến vũ khí hạt nhân được kiểm soát tốt hoặc không.
Viễn cảnh có khả năng xảy ra nhất sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc là sự phổ biến vũ khí hạt nhân rộng hơn ở Châu Âu. Kết quả này mang đầy rủi ro, nhưng cũng có thể mang lại hy vọng lớn nhất để duy trì sự ổn định ở Lục địa. Những tác động của việc này phụ thuộc rất nhiều vào việc nó được kiểm soát thế nào. Sự phổ biến vũ khí hạt nhân không được kiểm soát có thể gây ra thảm họa, trong khi nếu được kiểm soát tốt có thể tạo nên một trật tự ổn định gần như trật tự hiện tại. Thật đáng tiếc, bất cứ sự phổ biến vũ khí hạt nhân nào cũng có thể không được kiểm soát tốt.
Bốn mối nguy chính có thể nảy sinh nếu sự phổ biến vũ khí hạt nhân không được kiểm soát phù hợp. Đầu tiên, quá trình phổ biến vũ khí hạt nhân tự nó có thể tạo động lực mạnh mẽ cho các cường quốc hiện tại sử dụng sức mạnh ngăn cản các nước láng giềng phi hạt nhân của mình có được vũ khí hạt nhân, giống như Israel từng làm với Iraq.
Thứ hai, thậm chí sau khi quá trình phổ biến hạt nhân kết thúc, một sự cạnh tranh hạt nhân ổn định cũng không thể diễn ra giữa các quốc gia hạt nhân mới. Các nước nhỏ hơn ở Châu Âu có thể thiếu các nguồn lực cần thiết để duy trì sức mạnh hạt nhân của mình; sức mạnh hạt nhân mới còn non yếu có thể tạo ra cho đối thủ động cơ tấn công trước và những bất ổn kèm theo khủng hoảng. Vì nền kinh tế của những nước này khá nhỏ, họ không thể phát triển kho vũ khí lớn như của những cường quốc; kho vũ khí với quy mô nhỏ do đó rất dễ bị tấn công. Hơn nữa, việc không thể bành trướng lãnh thổ khiến cho các nước này không có được các căn cứ khả thi, như căn cứ tên lửa di động giúp bảo đảm các biện pháp răn đe của họ.
Một số nước nằm hoàn toàn trong đất liền, do đó không thể đặt căn cứ vũ khí hạt nhân trên biển, phương thức thiết lập căn cứ an toàn nhất được các siêu cường sử dụng. Hơn nữa, sự gần gũi với một quốc gia khác khiến họ không có thời gian cảnh báo, và do đó không thể giúp tận dụng hiệu quả sự cảnh báo hiệu quả để ngăn ngừa các cuộc tấn công, ví dụ như nhanh chóng khởi động các máy bay ném bom báo động. Cuối cùng, những cường quốc hạt nhân mới nổi cũng có thể thiếu nguồn lực cần thiết để xây dựng hệ thống chỉ huy và kiểm soát an toàn cũng như đầy đủ các thủ tục an toàn trong quản lý hạt nhân, do vậy làm gia tăng nguy cơ khởi động hệ thống không mong muốn, hoặc bị khủng bố chiếm và sử dụng vũ khí hạt nhân.
Thứ ba, giới cầm quyền và quần chúng ở các quốc gia hạt nhân mới nổi ở Châu Âu có thể không kịp xây dựng các học thuyết và quan điểm phản ánh sự thấu hiểu những hậu quả tàn khốc và khả năng không thể thắng căn bản của chiến tranh hạt nhân. Sẽ có những ý kiến ở Châu Âu hậu Chiến tranh Lạnh cho rằng chiến tranh hạt nhân hạn chế là khả thi, và những cuộc chiến tranh hạt nhân có thể được tiến hành và chiến thắng. Những luận điệu này có thể được chấp nhận một cách nghiêm túc tại những quốc gia chưa từng có nhiều kinh nghiệm trực tiếp trong cuộc cách mạng hạt nhân.
Thứ tư, sự phổ biến vũ khí hạt nhân rộng rãi sẽ gia tăng khả năng khai ngòi chiến tranh hạt nhân, và đến lượt nó làm gia tăng khả năng vũ khí hạt nhân sẽ bị khai hỏa do tai nạn, sử dụng trái phép, bị khủng bố cướp, hoặc do việc đưa ra quyết định thiếu lý trí.
Nếu những vấn đề này không được giải quyết, sự phổ biến hạt nhân sẽ mang lại những nguy hiểm trầm trọng. Tuy nhiên, các cường quốc hạt nhân hiện tại có thể tiến hành các biện pháp giúp giảm những nguy cơ này. Họ có thể giúp ngăn chặn các cuộc tấn công dự phòng vào những quốc gia hạt nhân mới nổi bằng cách gia tăng sự đảm bảo an ninh. Họ có thể hỗ trợ kỹ thuật để giúp những cường quốc mới được trang bị hạt nhân bảo vệ hệ thống của mình. Và họ có thể giúp các xã hội hạt nhân mới này hiểu bản chất của sức mạnh mình đang nắm giữ. Sự phổ biến hạt nhân được kiểm soát theo cách này có thể giúp củng cố nền hòa bình.
Vũ khí hạt nhân nên được phép phổ biến tới mức nào? Tốt nhất là sự phổ biến hạt nhân chỉ nên được giới hạn tại Đức chứ không đi xa hơn nữa. [7] Đức có một cơ sở kinh tế lớn mạnh, và do đó có thể duy trì sức mạnh hạt nhân an toàn. Hơn nữa, Đức sẽ cảm thấy không an toàn nếu không có vũ khí hạt nhân; và sức mạnh phi hạt nhân lớn của Đức giúp họ gây ảnh hưởng quan trọng đến Châu Âu nếu cảm thấy bất an. Những nước khác – đặc biệt là Đông Âu – có lẽ cũng muốn sở hữu hạt nhân, nhưng tốt nhất nên tránh sự phổ biến hạt nhân rộng rãi thêm này. Lý do, như đã được nêu trên, là các nước này có thể không đảm bảo được an toàn cho hệ thống hạt nhân của mình, và sự phổ biến không giới hạn sẽ làm tăng nguy cơ vũ khí hạt nhân rơi vào tay khủng bố hoặc các lãnh đạo quốc gia thiếu lý trí. Tuy nhiên, nếu sự phổ biến vũ khí hạt nhân rộng rãi hơn được chứng tỏ là không thể tránh khỏi mà không có các biện pháp cực đoan, những cường quốc hạt nhân hiện tại nên để nó xảy ra, trong khi đó cố hết sức hướng nó theo chiều hướng an toàn.
Tuy nhiên, ngay cả khi sự phổ biến hạt nhân được kiểm soát tốt, những mối nguy đáng kể vẫn tồn tại. Nếu tất cả cường quốc ở Châu Âu đều sở hữu vũ khí hạt nhân, lịch sử cho thấy rằng họ vẫn đấu tranh giành ảnh hưởng ở các nước nhỏ hơn và sẽ bị kéo vào các xung đột của những nước nhỏ. Các cường quốc, dù được đảm bảo an ninh nhờ kho vũ khí hạt nhân, vẫn cạnh tranh giành ảnh hưởng dữ dội tại các khu vực xa xôi, không quan trọng về mặt chiến lược như Nam Á, Đông Nam Á, và Trung Mỹ. Các cường quốc Châu Âu có thể sẽ tiếp tục cạnh tranh, đặc biệt là ở Đông Âu, ngay cả khi họ đã sở hữu khả năng răn đe hạt nhân an toàn.
Khả năng kết bè phái vẫn còn: vài quốc gia hạt nhân có thể liên kết với nhau chống lại một quốc gia hạt nhân đơn độc, có lẽ là để tập hợp đủ sức mạnh để áp đảo hệ thống hạt nhân của quốc gia mục tiêu. Các quốc gia hạt nhân cũng có thể đe dọa những nước láng giềng phi hạt nhân. Vấn đề này sẽ được giảm nhẹ nếu quá trình phổ biến hạt nhân không giới hạn diễn ra, khi đó sẽ chỉ còn vài nước phi hạt nhân trở thành đối tượng bị các nước hạt nhân khác đe dọa, nhưng sự phổ biến hạt nhân rộng rãi này cũng mang theo nó nhiều nguy cơ, như đã nói ở trên.
Sự phổ biến hạt nhân được kiểm soát tốt sẽ giảm nguy cơ các quốc gia tính toán sai lầm về sức mạnh tương đối của các liên minh, vì vũ khí hạt nhân giúp làm rõ sức mạnh tương đối của các nước, và làm mất đi tầm quan trọng của sự gia nhập và rút lui không lường trước khỏi các liên minh. Tuy nhiên, vẫn còn nguy cơ là ý chí quyết tâm của các nước sẽ bị tính toán sai, vì hình mẫu xung đột có khả năng trở nên dễ thay đổi trong một Châu Âu đa cực, do vậy làm cản trở sự hình thành phạm vi quyền lợi và hành vi ứng xử một cách rõ ràng.
Sự phổ biến hạt nhân không giới hạn, ngay cả khi được kiểm soát hiệu quả, sẽ làm gia tăng những nguy cơ xuất hiện khi có quá nhiều khả năng khai ngòi chiến tranh hạt nhân – tai nạn, sử dụng trái phép hay thiếu lý trí, hoặc bị khủng bố chiếm đoạt.
Trong bất cứ trường hợp nào, sự phổ biến vũ khí hạt nhân khó có thể được kiểm soát tốt. Các cường quốc hạt nhân không thể dễ dàng kiểm soát sự phổ biến hạt nhân trong khi cùng lúc đó lại phản đối nó; có một sức ép tự nhiên giữa hai mục tiêu này. Nhưng các nước có lý do để phản đối sự phổ biến này. Các cường quốc hạt nhân hiện tại sẽ miễn cưỡng giúp đỡ kỹ thuật cho các cường quốc hạt nhân mới trong việc xây dựng hệ thống hạt nhân an toàn, vì nó đi ngược lại với bản chất của ứng xử quốc gia khi chuyển giao sức mạnh quân sự cho các nước khác, và vì sợ rằng công nghệ quân sự nhạy cảm có thể trở ngược chống lại những quốc gia hỗ trợ nếu công nghệ đó được chuyển giao cho các đối thủ của những nước này. Các cường quốc hạt nhân cũng sẽ miễn cưỡng làm suy yếu tính hợp pháp của Hiệp ước Cấm phổ biến Vũ khí hạt nhân (NPT) năm 1968 bằng cách cho phép các nước ký kết có được vũ khí hạt nhân, vì điều này có thể mở lối cho sự phổ biến hạt nhân rộng rãi mà họ tìm cách tránh, ngay cả khi các nước này ủng hộ sự phổ biến hạt nhân rất hạn chế. Vì những lý do này mà các cường quốc hạt nhân sẽ dồn sức vào việc ngăn cản quá trình phổ biến vũ khí hạt nhân hơn là kiểm soát nó.
Sự phổ biến hạt nhân có thể được kiểm soát dễ dàng nếu diễn ra trong thời kỳ thế giới tương đối yên bình. Sự phổ biến hạt nhân diễn ra trong thời kỳ khủng hoảng sẽ đặc biệt nguy hiểm vì các nước đang có xung đột với những cường quốc hạt nhân mới nổi sẽ có động lực mạnh mẽ để dùng vũ lực ngăn cản quá trình này. Tuy nhiên, sự phổ biến hạt nhân sẽ khó có thể bắt đầu cho tới khi bùng nổ khủng hoảng, vì giữa các cường quốc hạt nhân tiềm năng sẽ có sự phản đối trong nước đối với sự phổ biến này, cũng như sẽ có sự kháng cự mạnh mẽ từ những cường quốc hạt nhân bên ngoài. Do đó có thể phải cần tới một cuộc khủng hoảng để thúc đẩy các cường quốc hạt nhân tiềm năng chi trả chi phí di chuyển trong nước và quốc tế để xây dựng sức mạnh hạt nhân. Do đó, sự phổ biến vụ khí hạt nhân có khả năng xảy ra dưới những điều kiện quốc tế bất lợi hơn là trong thời bình.
Cuối cùng, có những giới hạn về khả năng các cường quốc hạt nhân hiện có giúp đỡ những quốc gia hạt nhân mới nổi nhỏ hơn xây dựng hệ thống phòng ngừa an toàn. Ví dụ, những quốc gia nhỏ không giáp biển không thể sử dụng hệ thống hạt nhân đặt trên biển hoặc những hệ thống tên lửa di động trên mặt đất đòi hỏi phải có diện tích đất rộng lớn; có những vấn đề địa lý mà công nghệ không thể vượt qua. Do đó ngay cả khi các quốc gia hạt nhân hiện tại chuyển sang kiểm soát quá trình phổ biến hạt nhân sớm và khôn ngoan, quá trình này vẫn có thể làm gia tăng những hiểm nguy không thể kiểm soát.
Những lý thuyết khác dự đoán hòa bình
Nhiều nhà nghiên cứu chính trị Châu Âu sẽ phản đối phân tích bi quan của tôi về Châu Âu hậu Chiến tranh Lạnh và phản biện rằng một Châu Âu đa cực có khả năng ít nhất là cũng yên bình như trật tự hiện nay. Ba kịch bản cụ thể cho tương lai hòa bình được đưa ra. Mỗi kịch bản đều dựa trên một lý thuyết nổi tiếng về quan hệ quốc tế. Tuy nhiên, mỗi lý thuyết này đều có vấn đề và do đó không thể dùng làm cơ sở cho những dự đoán đáng tin cậy về trật tự hòa bình ở Châu Âu đa cực; cho nên những viễn cảnh đầy hy vọng mà họ ủng hộ đều thiếu hợp lý.
Trong kịch bản lạc quan đầu tiên, một Châu Âu phi hạt nhân vẫn hòa bình vì người dân Châu Âu nhận ra rằng thậm chí chỉ một cuộc chiến tranh thông thường thôi cũng rất tồi tệ. Các nhà lãnh đạo quốc gia, được lịch sử làm cho sáng mắt, sẽ chú tâm rất nhiều đến việc tránh xảy ra chiến tranh. Kịch bản này dựa trên lý thuyết về “sự lỗi thời của chiến tranh”.
Mặc dù chiến tranh thông thường hiện đại chắc chắn có thể rất tốn kém, lập luận này vẫn còn nhiều thiếu sót. Không có bất kỳ bằng chứng có hệ thống nào cho thấy Châu Âu tin rằng chiến tranh đã trở nên lỗi thời. Tuy nhiên, ngay cả khi khắp Châu Âu đều tin rằng chiến tranh là điều không còn có thể tưởng tượng ra nữa thì quan điểm vẫn có thể thay đổi. Ý kiến của dân chúng về những vấn đề an ninh quốc gia nổi tiếng là không kiên định và dễ bị ảnh hưởng bởi sự vận động của giới lãnh đạo và các sự kiện trên thế giới. Hơn nữa, chỉ cần một quốc gia cho rằng chiến tranh là điều đáng nghĩ đến đã đủ khiến chiến tranh có khả năng xảy ra lần nữa. Cuối cùng, có thể một cuộc chiến thông thường sẽ nổ ra và có chiến thắng mà không kèm theo thiệt hại nghiêm trọng, và những nhà lãnh đạo thấy được khả năng này sẽ cho rằng chiến tranh là một lựa chọn khả thi.
Ở viễn cảnh lạc quan thứ hai, Công đồng Châu Âu (EC) hiện tại sẽ lớn mạnh theo thời gian, một sự phát triển được báo trước bởi Đạo luật chung Châu Âu, vốn được xây dựng nhằm tạo nên một thị trường Tây Âu thống nhất vào năm 1992. Một EC lớn mạnh sẽ đảm bảo rằng trật tự kinh tế này vẫn luôn rộng mở và phát triển, và tính chất mở và phát triển của nền kinh tế Châu Âu sẽ giúp các nước Tây Âu hợp tác với nhau. Theo quan điểm này, cơ cấu EC hiện tại sẽ mạnh hơn, chứ không lớn hơn. Do đó, trong khi xung đột có thể xảy ra ở Đông Âu, nguy cơ từ một nước Đức hung hăng sẽ được gỡ bỏ bằng cách khiến nước Đức mới thống nhất can dự nhiều hơn vào EC. Lý thuyết làm nền tảng cho kịch bản này là “chủ nghĩa tự do kinh tế”.
Một biến thể của kịch bản thứ hai này cho rằng EC sẽ mở rộng và bao gồm cả Đông Âu, có thể là cả Liên Xô, mang lại sự giàu có và hòa bình cho các khu vực này.[8] Vài ý kiến cũng cho rằng trong thập kỷ tới, EC sẽ thành công đến mức nó sẽ phát triển thành một bộ máy nhà nước: một siêu quốc gia Tây Âu thống nhất sẽ nổi lên và Đức cũng nằm trong đó. Ở một thời điểm nào đó trong tương lai, phần còn lại của Châu Âu cũng sẽ được tích hợp vào siêu quốc gia đó. Dù bằng cách nào thì theo những người ủng hộ kịch bản thứ hai này và những biến thể của nó, nền hòa bình đều được củng cố.
Trong kịch bản thứ ba, có thể tránh khỏi chiến tranh vì nhiều nước Châu Âu đã trở nên dân chủ hơn từ đầu thế kỷ 20, và các nước dân chủ tự do đơn giản là không gây chiến với nhau. Ít nhất, sự hiện diện của chế độ dân chủ tự do ở Tây Âu khiến cho một nửa Châu Âu tránh được xung đột vũ trang. Ở mức tối đa, khi nền dân chủ trải rộng ra toàn Đông Âu và Liên Xô, nó sẽ củng cố nền hòa bình giữa những nước này với nhau, và giữa những nước này với Tây Âu. Kịch bản này dựa trên một lý thuyết có thể đặt tên là “các nền dân chủ yêu hòa bình”.
Chủ nghĩa tự do kinh tế
TÍNH LOGIC CỦA LÝ THUYẾT NÀY. Chủ nghĩa tự do kinh tế bác bỏ quan điểm cho rằng triển vọng hòa bình gắn chặt với những tính toán về sức mạnh quân sự, và thay vào đó khẳng định rằng sự ổn định chủ yếu là một tác dụng của những cân nhắc kinh tế quốc tế. Nó giả định rằng những quốc gia hiện đại phần lớn bị thúc đẩy bởi ước muốn đạt được sự giàu có, và rằng lãnh đạo quốc gia luôn đặt phúc lợi vật chất của người dân lên trên những ưu tiên khác, kể cả an ninh. Điều này đặc biệt đúng với các nước tự do dân chủ, ở đó các nhà hoạch định chính sách đang phải chịu áp lực đặc biệt là đảm bảo phúc lợi kinh tế cho người dân. [9] Do vậy, chìa khóa để đạt được hòa bình là thiết lập một hệ thống kinh tế quốc tế nuôi dưỡng sự phồn thịnh cho tất cả các nước.
Gốc rễ của sự ổn định, theo lý thuyết này, là sự hình thành và duy trì một trật tự kinh tế tự do cho phép trao đổi kinh tế không ràng buộc giữa các quốc gia. Một trật tự như thế sẽ làm giảm xung đột và tăng hợp tác chính trị theo ba cách. [10]
Đầu tiên, nó khiến quốc gia thịnh vượng hơn; điều này củng cố hòa bình vì những quốc gia giàu có hài lòng hơn về mặt kinh tế, và những quốc gia hài lòng thường yên bình hơn. Nhiều cuộc chiến được tiến hành để giành lấy hay bảo vệ tài sản, nhưng các quốc gia ít có động lực tiến hành các cuộc chiến tranh như thế nếu họ đã giàu có rồi. Những xã hội giàu có cũng có thể mất nhiều hơn nếu bị chiến tranh tàn phá. Vì những lý do này, họ sẽ tránh chiến tranh.
Hơn nữa, sự phồn thịnh do chủ nghĩa tự do kinh tế sản sinh ra sẽ tự nuôi chính nó, bằng cách khuyến khích những thể chế quốc tế nuôi dưỡng chủ nghĩa tự do lớn mạnh hơn, và sau đó tới lượt nó thúc đẩy sự thịnh vượng. Để vận hành trơn tru, một trật tự kinh tế tự do đòi hỏi phải có các hệ thống và thể chế quốc tế, như Công đồng Châu Âu EC, Hiệp ước chung về Thuế quan và Mậu dịch (GATT), và Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF). Những thể chế này thực hiện hai chức năng quan trọng nhưng có giới hạn. Thứ nhất, chúng giúp các quốc gia thẩm tra xem những đồng minh của mình có giữ cam kết hợp tác hay không. Thứ hai, chúng cung cấp nguồn lực giúp các chính phủ đang phải giải quyết các vấn đề ngắn hạn phát sinh từ việc tham gia vào thị trường quốc tế, và bằng cách đó cho phép các quốc gia tránh được chính sách làm nghèo hàng xóm có thể phá hoại trật tự kinh tế hiện tại. Một khi được thiết lập, những thể chế và tổ chức này sẽ thúc đẩy hợp tác kinh tế, do đó củng cố sự thịnh vượng. Chúng cũng tự củng cố cho chính mình: một khi còn hiện hữu, chúng sẽ mở rộng quy mô và ảnh hưởng bằng cách chứng minh giá trị của mình và thuyết phục các quốc gia cũng như người dân. Và khi quyền lực lớn mạnh hơn, các thể chế này sẽ thúc đẩy sự hợp tác tốt hơn, điều này sẽ củng cố thêm sự phồn thịnh, nhờ đó củng cố uy tín và ảnh hưởng của chúng. Về bản chất, một mối quan hệ tốt đẹp phát triển theo đường xoắn ốc được thiết lập giữa các cơ chế thúc đẩy hợp tác và thịnh vượng, ở đó mỗi cơ chế làm cơ sở cho sự phát triển của cơ chế khác.
Thứ hai, một trật tự kinh tế tự do thúc đẩy sự phụ thuộc kinh tế lẫn nhau giữa các nước. Sự phụ thuộc lẫn nhau được định nghĩa là một tình huống trong đó hai nước cùng dễ bị tổn hại; mỗi nước là con tin của nước kia trong lĩnh vực kinh tế. [11] Lý thuyết này cho rằng khi sự phụ thuộc lẫn nhau ở mức cao sẽ có ít cám dỗ khiến các nước lừa dối hay cư xử hung hăng với nước khác vì tất cả các nước đều có thể trả đũa. Sự phụ thuộc lẫn nhau cho phép các nước buộc nước khác phải hợp tác trong những vấn đề kinh tế, cũng giống như sự đảm bảo tiêu diệt lẫn nhau cho phép các cường quốc hạt nhân buộc những nước khác phải tôn trọng nền an ninh của mình. Tất cả quốc gia đều bị buộc phải ứng xử như đối tác của nhau trong việc cung cấp những tiện nghi vật chất cho người dân.
Thứ ba, một số lý thuyết gia cho rằng với sự hợp tác chính trị ngày càng tăng, các thể chế quốc tế sẽ trở nên mạnh đến nỗi mà chúng ngày càng độc lập hơn, và cuối cùng sẽ phát triển thành một siêu quốc gia. Đây là quan điểm của thiểu số; hầu hết những người theo chủ nghĩa tự do kinh tế không cho rằng các thể chế sẽ trở nên mạnh đến mức chúng có thể buộc các quốc gia hành xử đi ngược lại những lợi ích hẹp hòi của chính mình. Thay vào đó phần lớn giữ quan điểm rằng những thể chế này về bản chất sẽ phản ánh lợi ích của các quốc gia sáng lập và duy trì chúng, và vẫn phục vụ cho những lợi ích khác của các quốc gia này. Tuy nhiên, quan điểm “phát triển thành siêu quốc gia” phản ánh một nhánh quan trọng trong suy nghĩ của những người theo chủ nghĩa tự do kinh tế.
Thiếu sót chính trong lý thuyết này là sai lầm trong giả thiết nền tảng của nó – cho rằng các quốc gia chủ yếu bị thúc đẩy bởi mong muốn có được sự thịnh vượng. Những quốc gia này chắc chắn quan tâm đến sự thịnh vượng, và do vậy những tính toán kinh tế không thể nói là không quan trọng đối với họ. Tuy nhiên, các quốc gia vận hành trong cả môi trường chính trị quốc tế và kinh tế quốc tế, và cái đầu sẽ chi phối cái sau trong trường hợp hai hệ thống này có xung đột. Nguyên do rất dễ hiểu: hệ thống chính trị quốc tế là vô chính phủ, điều này có nghĩa là mỗi quốc gia phải luôn luôn lưu tâm đến việc đảm bảo sự sống còn của mình. Vì một quốc gia không có bất kỳ mục tiêu nào cao hơn là sự sống còn, khi tình thế xô đẩy, những cân nhắc chính trị quốc tế sẽ trở thành điều tối quan trọng trong tâm trí những người đưa ra quyết định.
Những người ủng hộ chủ nghĩa tự do kinh tế phần lớn đều bỏ qua tác động của tình trạng vô chính phủ đối với hành vi của quốc gia và thay vào đó, họ tập trung nhiều vào những cân nhắc kinh tế. Tuy vậy, khi thiếu sót này được sửa chữa, những lập luận của họ đều sụp đổ vì hai lý do.
Đầu tiên, sự cạnh tranh an ninh gây nhiều khó khăn cho việc hợp tác giữa các nước. Khi an ninh không cao, các quốc gia sẽ quan tâm đến lợi ích tương đối hơn là lợi ích tuyệt đối. [12] Họ không quan tâm đến sự trao đổi, “liệu cả hai chúng ta có được lợi không”, mà thay vào đó sẽ hỏi “ai có lợi nhiều hơn?” [13] Khi an ninh không cao, họ từ chối ngay cả sự hợp tác mang lại lợi ích kinh tế tuyệt đối, nếu quốc gia khác đạt được nhiều lợi ích hơn, vì lo sợ những nước khác có thể chuyển lợi ích này thành sức mạnh quân sự, và sau đó dùng chính sức mạnh này để chiến thắng bằng vũ lực. [14] Hợp tác sẽ dễ dàng hơn nhiều nếu các quốc gia chỉ quan tâm đến lợi ích tuyệt đối, và điều này dễ xảy ra hơn khi an ninh được đảm bảo. Khi đó, mục tiêu chỉ đơn giản là đảm bảo rằng toàn bộ chiếc bánh kinh tế đang ngày càng lớn hơn và mỗi quốc gia sẽ có ít nhất phần nào lợi ích trong đó. Tuy nhiên, tình trạng vô chính phủ chắc chắn khiến an ninh hiếm khi được đảm bảo; điều này sẽ làm gia tăng những lo ngại của các nước về lợi ích tương đối, khiến cho hợp tác khó khăn trừ khi lợi ích có thể được chia đều để phản ánh, và nhờ thế sẽ không gây nhiễu loạn, sự cân bằng quyền lực hiện tại.
Ngược lại với quan điểm này, những người theo chủ nghĩa tự do kinh tế nhìn chung giả định rằng các quốc gia ít lo ngại về lợi ích tương đối khi xây dựng nên những thỏa thuận hợp tác, nhưng thay vào đó sẽ chủ yếu quan tâm đến lợi ích tuyệt đối. Giả định này là cơ sở cho sự lạc quan của họ về viễn cảnh hợp tác quốc tế. Tuy vậy, giả định này không chắc chắn: tình trạng vô chính phủ buộc các quốc gia phải từ chối những thỏa thuận dẫn đến kết quả bất tương xứng sẽ hướng sự cân bằng quyền lực chống lại những quốc gia này.
Thứ hai, sự phụ thuộc lẫn nhau cũng có khả năng dẫn đến xung đột như sự hợp tác, vì các quốc gia sẽ đấu tranh để thoát khỏi tình trạng dễ bị tổn thương do sự lệ thuộc này gây ra, nhằm củng cố cho an ninh quốc gia của mình. Các nước phụ thuộc vào nước khác như là nguồn cung kinh tế chủ chốt sẽ sợ bị cắt bỏ hoặc đe dọa khi xảy ra khủng hoảng hoặc chiến tranh; họ có thể cố mở rộng khả năng kiểm soát chính trị tới các nguồn cung, khiến cho mâu thuẫn với nguồn cung hoặc với những khách hàng khác gia tăng. Sự phụ thuộc lẫn nhau, nói cách khác, có thể rất dễ đưa đến tình trạng cạnh tranh nhiều hơn nữa, chứ không phải là hợp tác. 15
Một số lưu ý khác, không liên quan đến hậu quả của tình trạng vô chính phủ, cũng làm dấy lên nghi ngờ về lập luận của những người ủng hộ chủ nghĩa tự do kinh tế.
Đầu tiên, những tương tác kinh tế giữa các quốc gia thường gây ra va chạm nghiêm trọng, ngay cả khi kết quả chung là tích cực. Lúc nào cũng sẽ có người thắng kẻ bại trong mỗi quốc gia, và kẻ bại hiếm khi nào dễ dàng chấp nhận thất bại. Trong các quốc gia hiện đại, lãnh đạo phải quan tâm đến những người bỏ phiếu cho họ, và kẻ thua thường gây ra rắc rối lớn. Thậm chí trong những trường hợp chỉ có kẻ thắng, thỉnh thoảng vẫn xảy ra tranh cãi quanh việc phân chia chiến lợi phẩm. Theo nghĩa nào đó, việc mở rộng quan hệ giữa các nước sau đó sẽ làm tăng phạm vi những bất đồng quốc tế giữa họ. Họ sẽ có thêm nhiều vấn đề để tranh cãi.
Thứ hai, sẽ có khả năng dẫn đến đe dọa hoặc chính sách “bên miệng hố chiến tranh” trong hệ thống kinh tế cực kỳ năng động, nơi các quốc gia đều phụ thuộc lẫn nhau. Ví dụ, dù các quốc gia đều dễ bị tổn thương nhưng mức độ lệ thuộc thực tế sẽ không đồng đều. Những nước ít khả năng bị tổn thương hơn hơn sẽ có ưu thế trong thương lượng so với các nước bị phụ thuộc nhiều và có thể ép buộc các nước này nhượng bộ quá mức. Hơn nữa, không đề cập đến cá nhân lãnh đạo, các hệ thống chính trị khác nhau sẽ có khả năng tham gia những tình huống đàm phán khó khăn khác nhau.
HỒ SƠ LỊCH SỬ.
Trong suốt hai giai đoạn của thế kỷ 20, Châu Âu đã chứng kiến một trật tự kinh tế tự do với mức độ phụ thuộc lẫn nhau cao. Đáng ra theo chủ nghĩa tự do kinh tế thì những giai đoạn này phải ổn định.
Trường hợp đầu tiên rõ ràng là mâu thuẫn với lý thuyết này. Những năm từ 1890 đến 1914 có lẽ là giai đoạn có mức độ phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế cao nhất trong lịch sử Châu Âu. Song Chiến tranh thế giới thứ nhất đã nổ ra trong giai đoạn này. 16
Trường hợp thứ hai xảy ra trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh. Trong suốt giai đoạn này, các nước trong Cộng đồng Châu Âu phụ thuộc lẫn nhau rất nhiều, trong khi mối quan hệ giữa họ lại rất hòa bình. Không ngạc nhiên gì khi trường hợp này được lấy làm nền tảng của những lập luận của chủ nghĩa tự do kinh tế.
Tuy nhiên, mối tương quan trong trường hợp thứ hai không có nghĩa là sự phụ thuộc lẫn nhau đã tạo nên quan hệ hợp tác giữa các nền dân chủ phương Tây. Có thể nguyên nhân quan trọng nhất chính là Chiến tranh Lạnh, và đó cũng là lý do chính khiến quan hệ giữa các nước trong Cộng đồng Châu Âu phát triển. 17 Chiến tranh Lạnh mang lại các kết quả này theo hai cách thức khác nhau nhưng lại củng cố cho nhau.
Cách thứ nhất là logic cân bằng quyền lực kiểu cũ đã tạo ra sự hợp tác giữa các nước dân chủ phương Tây. Một Liên Xô mạnh mẽ và tiềm ẩn nguy hiểm đã buộc những nước dân chủ phương Tây liên kết với nhau để đối phó với mối hiểm họa chung. Anh, Đức và Pháp không còn lo ngại nhau nữa vì tất cả phải đối mặt với mối đe dọa lớn hơn từ Liên Xô. Mối đe dọa này đã dập tắt những lo ngại về lợi ích tương đối phát sinh từ sự hợp tác kinh tế giữa các nước trong Cộng đồng Châu Âu bằng việc cho mỗi quốc gia dân chủ phương Tây thấy lợi ích từ sự phát triển lớn mạnh hơn của các đồng minh, vì sức mạnh tăng thêm này có thể giúp răn đe Liên Xô. Mối đe dọa từ Liên Xô cũng dập tắt những nỗi lo sợ về lợi ích tương đối giữa các quốc gia Tây Âu bằng cách tạo cho họ động lực mạnh mẽ để tránh xung đột lẫn nhau trong khi Liên Xô dần tiến về phía đông, sẵn sàng thu nhặt lợi ích từ những tranh cãi của các nước Tây Âu. Điều này tạo niềm tin to lớn cho các nước phương Tây rằng những đồng minh Tây Âu của họ sẽ không dùng lợi ích chống lại họ, miễn là các nước đồng minh này còn hành xử lý trí.
Thứ hai, vị trí bá chủ của Mỹ trong NATO, phiên bản quân sự của Cộng đồng Châu Âu, đã giúp giàm đi những ảnh hưởng của tình trạng vô chính phủ tại các nước dân chủ phương Tây, tạo điều kiện cho sự hợp tác giữa các nước này.18 Như đã nhấn mạnh, trong tình trạng vô chính phủ, các nước không tin tưởng lẫn nhau và họ có động cơ để gây hấn với nhau. Tuy nhiên Mỹ không chỉ bảo vệ các nước trước mối đe dọa của Liên Xô mà còn đảm bảo rằng không một quốc gia thuộc EC nào sẽ xâm lược nước khác. Ví dụ, Pháp không phải sợ Đức khi nước này tái vũ trang vì sự hiện diện của Mỹ ở Đức có nghĩa là người Đức sẽ không được tự do tấn công bất kỳ ai. Vì Mỹ thể hiện vai trò như một người gác đêm, những lo ngại về lợi ích tương đối giữa các quốc gia Tây Âu sẽ được giảm bớt, hơn nữa, những nước này sẵn lòng cho phép nền kinh tế của mình lệ thuộc lẫn nhau chặt chẽ.
Trên thực tế, mối quan hệ giữa các nước trong EC không cần đến tác động của tình trạng vô chính phủ -nỗi sợ về lợi ích tương đối và nỗi ám ảnh về quyền tự trị -vì Mỹ đóng vai trò của người phân xử cuối cùng trong phe Đồng Minh.
Nếu mối đe dọa hiện tại từ Liên Xô đối với Tây Âu được dỡ bỏ và Mỹ rút quân về thì mối quan hệ giữa các quốc gia trong EC về cơ bản sẽ thay đổi. Không có mối đe dọa chung từ Liên Xô và vai trò người gác đêm của Mỹ, các quốc gia Tây Âu sẽ nhìn nhau với thái độ e sợ và nghi ngờ, như họ đã làm thế từ bao thế kỷ nay trước khi Chiến tranh Lạnh bắt đầu. Hậu quả là họ sẽ lo ngại về sự mất cân bằng lợi ích cũng như mất quyền tự trị do sự hợp tác giữa các nước gây ra.19 Sự hợp tác trong trật tự mới này sẽ khó khăn hơn so với trong thời Chiến tranh Lạnh. Xung đột cũng có khả năng như thế.
Tóm lại, có nhiều lý do có cơ sở để hoài nghi lập luận cho rằng hòa bình có thể được duy trì ở một Châu Âu đa cực trên cơ sở một Cộng đồng Châu Âu mạnh hơn.
Các nền dân chủ yêu hòa bình
Lý thuyết về các nền dân chủ yêu chuộng hòa bình cho rằng những yếu tố chính trị trong nước, chứ không phải là những tính toán về sức mạnh quân sự hay hệ thống kinh tế quốc tế, là yếu tố chính quyết định nền hòa bình. Cụ thể, lập luận này cho rằng sự hiện diện của những nước dân chủ tự do trong hệ thống quốc tế sẽ giúp tạo ra một trật tự ổn định. 20 Lập luận này không cho rằng các nền dân chủ ít khi tham chiến hơn các quốc gia độc tài. Trên thực tế, những ghi chép lịch sử đã chỉ rõ rằng không phải như vậy. 21 Thay vào đó, lập luận này cho rằng các nước dân chủ sẽ không gây chiến chống lại các nước dân chủ khác. Do vậy, dân chủ phải được phổ biến khắp Đông Âu và Liên Xô để đảm bảo cho hòa bình ở Châu Âu thời hậu Chiến tranh Lạnh.
Không chắc rằng chế độ dân chủ sẽ bén rễ ở các quốc gia Đông Âu hay ở Liên Xô. Các nước này thiếu một truyền thống dân chủ mạnh mẽ; và những thể chế có thể thích nghi với sự phát triển của nền dân chủ sẽ phải được xây dựng từ con số không. Nhiệm vụ này có thể sẽ rất khó khăn, đặc biệt là ở một Châu Âu bất ổn. Nhưng việc chế độ dân chủ bén rễ ở phương Đông không quan trọng lắm đối với nền sự ổn dịnh ở Châu Âu, vì lý thuyết các nền dân chủ yêu chuộng hòa bình là vô căn cứ.
LOGIC CỦA LÝ THUYẾT NÀY.
Hai lý giải dưới đây được dùng để giải thích cho lập luận rằng các nước dân chủ không gây chiến với nhau.
Đầu tiên, một số ý kiến cho rằng các lãnh đạo độc tài có xu hướng hiếu chiến hơn các nhà lãnh đạo dân chủ, vì lãnh đạo độc tài không phải chịu trách nhiệm trước người dân, điều này sẽ trở thành gánh nặng chính trong chiến tranh. Ngược lại, trong chế độ dân chủ, công dân phải trả giá cho chiến tranh nên họ sẽ có tiếng nói lớn hơn trong quá trình đưa ra quyết định. Người dân, theo như lập luận này, sẽ do dự hơn khi quyết định tham chiến vì diều đó có nghĩa là họ phải trả giá bằng máu của mình; do đó quyền lực của họ càng lớn, chiến tranh càng ít xảy ra.
Lý lẽ thứ hai dựa trên lập luận cho rằng công dân của những nước tự do dân chủ tôn trọng các quyền dân chủ phổ biến – các quyền của những người đồng hương của họ, và các quyền của những cá nhân tại các nước khác. Kết quả là họ không sẵn lòng tiến hành chiến tranh chống lại những nước dân chủ khác, vì họ nhìn chính quyền dân chủ như một thể chế chính đáng hơn so với những chính quyền khác và miễn cưỡng dùng vũ lực để áp đặt một chế độ nước ngoài lên một quốc gia dân chủ. Điều này sẽ vi phạm những nguyên tắc và giá trị dân chủ của chính họ. Do vậy việc ngăn chặn chiến tranh luôn được đưa ra khi hai quốc gia dân chủ đối đầu với nhau, điều này đang dần biến mất trong những mối quan hệ quốc tế khác.
Lập luận đầu tiên không hoàn thiện vì không thể lập luận rằng người dân ở một nước dân chủ đặc biệt nhạy cảm với chi phí chiến tranh và do đó sẽ ít sẵn lòng chiến đấu hơn so với các nhà độc tài. Thực sự là những ghi chép lịch sử cho thấy các nước dân chủ sẵn sàng tham chiến không kém gì các quốc gia độc tài.
Hơn nữa, quảng đại quần chúng, dù cho có thuộc nhà nước dân chủ hay không, có thể bị ảnh hưởng sâu sắc bởi tôn giáo hoặc chủ nghĩa dân tộc, khiến họ thiên về ủng hộ xâm lược, bất kể cái giá phải trả. Sự ủng hộ của toàn dân trong thời kỳ hậu Cách mạng Pháp đối với những cuộc chiếm xâm lược của Napoleon chỉ là một ví dụ cho hiện tượng này. Mặt khác, các nhà độc tài cũng sợ chiến tranh như công chúng các nước dân chủ vì chiến tranh có xu hướng giải phóng các lực lượng dân chủ có thể làm suy yếu chế độ. 22 Chiến tranh có thể buộc các nhà độc tài gánh chịu chi phí cao cũng như toàn thể công dân của họ.
Lập luận thứ hai nhấn mạnh vào sự tôn trọng xuyên quốc gia đối với những quyền lợi dân chủ ở các nước dân chủ. Lập luận này dựa trên một nhân tố yếu hơn thường bị che khuất bởi các nhân tố khác như chủ nghĩa dân tộc và trào lưu tôn giáo chính thống. Cũng có một vấn đề khác đối với lập luận này. Luôn tồn tại khả năng là một nước dân chủ sẽ trở lại là một nhà nước độc tài. Nguy cơ thụt lùi này có nghĩa là một nước dân chủ có thể không bao giờ chắc chắn được rằng một nước dân chủ khác sẽ không thay đổi và quay sang tấn công mình trong tương lai. Các nước tự do dân chủ do đó phải lo lắng về sức mạnh tương đối giữa chính họ, điều này giống như nói rằng mỗi nước đều có động cơ xem xét đến việc tấn công chống lại nước khác nhằm ngăn chặn vấn đề trong tương lai. Đáng thương hơn, nền tự do dân chủ thậm chí không thể vượt trội hơn tình trạng vô chính phủ.
HỒ SƠ LỊCH SỬ.
Ngoài những vấn đề với logic suy diễn, những ghi chép lịch sử dường như thể hiện sự ủng hộ mạnh mẽ đối với lý thuyết các nền dân chủ yêu hòa bình. Dường như không có những trường hợp trong đó các nước tự do dân chủ đấu tranh chống lại nhau. Dù bằng chứng này nhìn qua rất ấn tượng, nhưng xem xét kỹ hơn sẽ thấy nó không rõ ràng cho lắm. Thực tế là lịch sử không có những thử nghiệm rõ ràng cho lý thuyết này. Bốn vấn đề dựa trên bằng chứng khiến lý thuyết này bị nghi ngờ.
Đầu tiên, những nước dân chủ chỉ chiếm số ít trong hơn hai thế kỷ qua, và như thế sẽ có ít trường hợp trong đó hai nước bị đặt vào tình trạng chiến tranh với nhau. Chỉ có ba trường hợp nổi bật thường được trích dẫn: Anh và Mỹ (1832 – nay); Anh và Pháp (1832 – 1849, 1871 – 1940); và những quốc gia dân chủ phương Tây từ 1945.
Thứ hai, có vài lý giải thuyết phục khác cho thấy vì sao chiến tranh không xảy ra ở những trường hợp này, và những lý giải cạnh tranh này phải bị loại trừ trước khi lý thuyết các nền dân chủ yêu hòa bình có thể được chấp nhận. Trong khi mối quan hệ giữa Anh và Mỹ trong suốt thế kỷ 19 hiếm khi không có xung đột,23 quan hệ của họ trong thế kỷ 20 khá hòa thuận, do đó điều này phù hợp chặt chẽ với cách mà lý thuyết này kỳ vọng hai nước dân chủ sẽ ứng xử với nhau. Tuy nhiên, sự hòa thuận này có thể được dễ dàng lý giải bởi sự hiện diện của một mối đe dọa chung buộc Anh và Mỹ phải hợp tác chặt chẽ với nhau.24 Cả hai đều phải đối mặt với mối đe dọa từ Đức trong thời gian đầu của thế kỷ, và sau đó là Liên Xô. Lập luận căn bản tương tự cũng được ứng dụng cho Pháp và Anh. Trong khi quan hệ Pháp – Anh không trong tình trạng tốt nhất gần suốt thế kỷ 19,25 nó cũng được cải thiện đáng kể vào thời điểm chuyển giao sang thế kỷ mới vì sự nổi lên của mối đe dọa chung: nước Đức.26 Cuối cùng, như đã nói ở trên, mối đe dọa từ Liên Xô có thể giải thích cho sự vắng mặt của chiến tranh ở các nước dân chủ phương Tây từ năm 1945.
Thứ ba, cần nhớ rằng vài quốc gia dân chủ đã tiến gần đến giới hạn chiến tranh với nhau, điều này ám chỉ rằng sự vắng mặt của chiến tranh có thể chỉ đơn giản là do may rủi. Giữa Pháp và Anh đã gần xảy ra chiến tranh trong suốt cuộc khủng hoảng Fashoda năm 1898. Rất có thể đã xảy ra chiến tranh giữa Pháp và Đức dưới thời Công hòa Weimar để giành lấy Rhineland trong suốt những năm 1920 nếu như nước Đức sở hữu sức mạnh quân sự đủ để thách thức Pháp. Mỹ đã đụng độ với nhiều chính phủ được bầu ra ở Thế giới thứ ba trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh, bao gồm cả chế độ Allende ở Chile và chế độ Arbenz ở Guatemala.
Cuối cùng, vài học giả xếp nước Đức dưới thời Wilhem là một nước dân chủ, hoặc ít nhất là bán dân chủ; nếu vậy thì Chiến tranh thế giới thứ nhất sẽ trở thành một cuộc chiến giữa các quốc gia dân chủ. 27
Kết luận
Bài viết này chứng minh rằng hệ thống hai cực, sự cân bằng quân sự và vũ khí hạt nhân đã thúc đẩy nền hòa bình ở Châu Âu trong hơn 45 năm qua. Cuộc đối đầu trong Chiến tranh Lạnh đã gây nên hiện tượng này; do vậy, Chiến tranh Lạnh có vai trò chính trong việc chuyển đổi một khu vực với lịch sử bạo động thành một nơi rất hòa bình.
Không nghi ngờ gì chi phí của Chiến tranh Lạnh là rất lớn. Nó áp đặt chế độ chính trị áp bức lên người dân Đông Âu, những con người bị từ chối nhân quyền cơ bản do tư cách thành viên bắt buộc trong đế chế Xô viết. Điều này làm hao mòn tài sản quốc gia, bằng cách gia tăng cơ sở quốc phòng quy mô hơn và tốn kém hơn ở cả phía Đông và phía Tây. Nó sinh ra những cuộc xung đột đẫm máu ở Thế giới thứ ba, gây ra số lượng thương vong khiêm tốn cho các siêu cường, nhưng lại rất lớn đối với các nước Thế giới thứ ba. Tuy nhiên, chi phí kinh tế và nhân lực ròng của trật tự Chiến tranh Lạnh thấp hơn nhiều so với chi phí của trật tự Châu Âu trong những năm 1900 – 1945, với những đau khổ và bạo lực mức độ cao.
Trật tự Chiến tranh Lạnh không có đối đầu được ưa thích hơn trật tự đã phát triển trên thực tế; khi đó hòa bình do trật tự Chiến tranh Lạnh sinh ra sẽ tồn tại mà không cần những chi phí kèm theo nó. Tuy nhiên, chính sự thù địch giữa Đông và Tây đã sản sinh ra trật tự Chiến tranh Lạnh; sẽ không có trật tự hai cực, không có sự cân bằng, không có lực lượng hạt nhân lớn của Mỹ và Liên Xô ở Châu Âu nếu không có điều này. Chi phí của Chiến tranh Lạnh phát sinh từ nguyên nhân tương tự -sự đối đầu Đông - Tây - cũng như những lợi ích của chúng. Mặt tốt và mặt xấu luôn luôn song hành.
Thêm nữa, bài viết này chứng tỏ sự sụp đổ của trật tự Chiến tranh Lạnh có thể tạo thêm cơ hội cho chiến tranh và những cuộc khủng hoảng nghiêm trọng xảy ra ở Châu Âu. Nhiều nhà quan sát hiện nay cho rằng kỷ nguyên hòa bình mới đang hé rạng; thực tế thì điều ngược lại mới thật sự xảy ra.
Những ẩn ý trong phân tích của tôi rất đơn giản, nhưng lại nghịch lý. Phương Tây quan tâm đến việc gìn giữ hòa bình ở Châu Âu. Do đó họ có lợi ích trong việc duy trì trật tự Chiến tranh Lạnh, và như vậy cũng có lợi ích trong việc duy trì tình trạng đối đầu trong Chiến tranh Lạnh; những tiến triển đe dọa kết thúc tình trạng này là điều nguy hiểm. Sự thù địch trong Chiến tranh Lạnh sẽ có thể được tiếp tục duy trì ở mức độ căng thẳng Đông – Tây thấp hơn so với chính nó trong quá khứ; cho nên phương Tây sẽ không bị ảnh hưởng bởi sự căng thằng Đông – Tây giảm đi, nhưng một kết thúc hoàn toàn cho Chiến tranh Lạnh sẽ gây nên nhiều vấn đề hơn là giải quyết chúng.
Tuy nhiên, số phận của Chiến tranh Lạnh chủ yếu nằm trong tay Liên Xô. Liên Xô là siêu cường duy nhất có thể đe dọa tàn phá Châu Âu; chính mối đe dọa Liên Xô này là chất keo dính gắn kết NATO lại với nhau. Khi mối đe dọa tấn công này được loại bỏ, có khả năng Mỹ sẽ bỏ rơi Lục địa, và sau đó liên minh phòng thủ mà Mỹ đứng đầu trong gần 40 năm có thể tan rã. Điều này sẽ chấm dứt trật tự hai cực vốn là đặc trưng của Châu Âu trong suốt 45 năm qua.
Phân tích trên đã chỉ ra phương Tây, rất ngược đời, lại quan tâm đến sự tiếp tục tồn tại của Liên bang Xô viết hùng mạnh với lực lượng quân sự đáng kể tại Đông Âu. Những lợi ích của Tây Âu đã hoàn toàn thay đổi từ những gì mà các lãnh đạo phương Tây nhìn thấy vào cuối thập niên 40: thay vì khiến sức mạnh của Liên Xô phải co lại, như họ đã làm trước đây, phương Tây hiện nên hy vọng rằng Liên Xô duy trì ít nhất là vài lực lượng quân sự tại Đông Âu.
Mỹ hay Tây Âu không thể làm gì nhiều và sẽ không làm gì nhiều để duy trì Chiến tranh Lạnh, vì ba lý do.
Đầu tiên, những cân nhắc chính trị trong nước sẽ ngăn cản cách tiếp cận đó. Các nhà lãnh đạo phương Tây rõ ràng không thể đặt nền tảng của chính sách an ninh quốc gia dựa trên nhu cầu duy trì lực lượng ở Trung Âu chỉ đơn giản vì mục đích giữ chân Liên Xô ở đó. Ý tưởng triển khai lực lượng hùng hậu để buộc Liên Xô tham gia vào cuộc cạnh tranh duy trì trật tự này sẽ bị coi là kỳ quặc và trái ngược với niềm tin chung cho rằng việc kết thúc Chiến tranh Lạnh và xóa bỏ gông xiềng của Liên Xô khỏi Đông Âu sẽ khiến thế giới an toàn và tốt đẹp hơn. 28
Thứ hai, ý tưởng chống đỡ cho một đối thủ đang tuột dốc đi ngược lại với hành vi căn bản của một quốc gia. Các quốc gia chủ yếu lưu tâm nhiều đến vị trí quyền lực tương đối của mình trong hệ thống; do đó, họ tìm kiếm cơ hội lợi dụng lẫn nhau. Nếu bất cứ điều gì xảy ra, họ thích nhìn thấy kẻ thù của mình sụp đổ hơn, và do vậy sẽ làm bất cứ điều gì có thể nhằm đẩy nhanh quá trình đó và tối đa hóa khoảng cách của sự tuột dốc đó. Nói cách khác, các quốc gia không hỏi rằng sự phân chia quyền lực nào sẽ tạo điều kiện thuận lợi nhất cho ổn định và sau đó làm mọi điều có thể để xây dựng hoặc duy trì trật tự đó. Thay vào đó, mỗi quốc gia có xu hướng theo đuổi mục tiêu hạn hẹp hơn là tối đa hóa lợi thế quyền lực của mình so với những đối thủ tiềm năng. Trật tự thế giới chỉ đơn giản là sản phẩm phụ của cuộc cạnh tranh đó, điều này được minh họa bằng nguồn gốc của trật tự Chiến tranh Lạnh tại Châu Âu. Không quốc gia nào có chủ ý tạo ra nó. Thực tế là cả Mỹ và Liên Xô đều nỗ lực rất nhiều trong những năm đầu Chiến tranh Lạnh để làm suy yếu vị trí của nhau ở Châu Âu, điều này sẽ có thể kết thúc hệ thống hai cực ở Lục địa này. Hệ thống cân bằng rõ rệt nổi lên ở Châu Âu từ cuối thập niên 40 là hệ quả không dự tính trước của cuộc cạnh tranh căng thẳng giữa các siêu cường.
Thứ ba, ngay cả khi Mỹ và Tây Âu muốn giúp Liên Xô duy trì vị thế siêu cường, không chắc là họ có thể làm được điều đó. Liên Xô đang rời khỏi Đông Âu và cắt giảm phần lớn lực lượng quân sự của mình vì nền kinh tế của nước này đang bị sa lầy. Không rõ Liên Xô có biết cách ổn định lại nền kinh tế của mình không, và các chính phủ phương Tây khó có thể làm được điều gì để giúp Liên Xô giải quyết những vấn đề kinh tế của chính mình. Phương Tây nên tránh làm những việc tổn hại đến nền kinh tế Liên Xô, nhưng trong tình hình này, khó mà thấy được làm thế nào phương Tây có được ảnh hưởng tích cực quan trọng. 29
Thực tế phương Tây không thể duy trì Chiến tranh Lạnh không có nghĩa là Mỹ nên từ bỏ mọi nỗ lực nhằm bảo vệ trật tự hiện tại. Mỹ nên làm những gì có thể để định hướng các sự kiện theo hướng ngăn chặn việc các siêu cường rút quân hoàn toàn khỏi Châu Âu. Ví dụ, vị trí thương thảo của Mỹ ở những cuộc đàm phán kiểm soát vũ khí thông thường nên hướng đến việc cùng cắt giảm ở mức độ lớn, nhưng không nên hướng đến đến việc rút quân hoàn toàn. Liên Xô có thể lựa chọn đơn phương rút toàn bộ quân đội; Mỹ không thể làm gì nhiều để ngăn chặn việc này.
Khuyến nghị chính sách
Nếu việc Liên Xô rút quân hoàn toàn khỏi Đông Âu là không thể tránh khỏi thì phương Tây sẽ phải đối diện với câu hỏi làm thế nào duy trì hòa bình ở một Châu Âu đa cực. Tôi đề xuất ba khuyến nghị chính sách như sau.
Đầu tiên, Mỹ nên ủng hộ quá trình phổ biến vũ khí hạt nhân hạn chế và được kiểm soát cẩn thận ở Châu Âu. Hy vọng lớn nhất tránh chiến tranh ở Châu Âu thời hậu Chiến tranh Lạnh là sự răn đe hạt nhân; do đó phổ biến vũ khí hạt nhân là cần thiết để bù đắp cho việc các kho vũ khí hạt nhân của Liên Xô và Mỹ được rút khỏi Trung Âu. Lý tưởng là, như tôi đã lập luận, vũ khí hạt nhân nên được phổ biến tới Đức, chứ không đến những nước nào khác.
Thứ hai, Mỹ và Anh, cũng như các quốc gia Lục địa, sẽ phải cân bằng một cách tích cực và hiệu quả với bất kỳ kẻ hiếu chiến nào nổi lên để giảm thiểu những vấn đề đe dọa và liên kết bè phái chắc chắn sẽ nổi lên ở Châu Âu trong thời hậu Chiến tranh Lạnh. Tuy nhiên, cân bằng trong một hệ thống đa cực luôn là một việc kéo theo nhiều vấn đề, do địa lý hoặc những rắc rối lớn trong phối hợp. Tuy nhiên, có thể tiến hành hai bước để tối đa hóa triển vọng cân bằng hiệu quả.
Biện pháp ban đầu liên quan đến Anh và Mỹ, hai quốc gia cân bằng triển vọng được tách rời Lục địa về mặt địa lý, nên có thể kết luận rằng họ ít có lợi ích đối với những gì đang xảy ra ở đó. Khi đó họ sẽ từ bỏ quên trách nhiệm của mình và quan trọng hơn là những lợi ích của họ với tư cách các nhân tố cân bằng từ bên ngoài. Thất bại của Anh và Mỹ trong việc cân bằng Đức trước hai cuộc Thế chiến đã khiến khả năng xảy ra chiến tranh cao hơn trong cả hai trường hợp. Vì hòa bình ở Châu Âu, họ nhất thiết không được lặp lại sai lầm cũ, mà thay vào đó phải tiếp tục tham gia tích cực vào việc duy trì sự cân bằng quyền lực ở Châu Âu.
Đặc biệt, cả hai nước phải duy trì lực lượng quân sự có thể triển khai ở Châu Âu nhằm cân bằng với những quốc gia đe dọa khai chiến. Để làm điều này, họ phải làm cho dân chúng ủng hộ chính sách duy trì cam kết với Lục địa. Việc huy động sự ủng hộ cho một cam kết như thế sẽ khó khăn hơn so với trong quá khứ, vì mục tiêu chính của nó sẽ là giữ gìn hòa bình hơn là ngăn chặn một nước bá quyền đang nổi lên, và mục tiêu sau sẽ dễ dàng giải thích công khai hơn. Hơn nữa, bản chất cơ bản của các quốc gia là tập trung tối đa hóa quyền lực tương đối, chứ không phải là củng cố ổn định, vì thế khuyến nghị này yêu cầu các nước phải đảm nhiệm một nhiệm vụ bất thường. Tuy nhiên những lợi ích của Anh và Mỹ trong việc duy trì hòa bình là thật, đặc biệt bởi nguy cơ chiến tranh Châu Âu có thể liên quan đến việc sử dụng vũ khí hạt nhân quy mô lớn là chắc chắn. Do vậy nên có thể các nước sẽ hướng người dân thừa nhận lợi ích này và ủng hộ những chính sách bảo vệ nó. 30
Biện pháp thứ hai liên quan đến thái độ và hành động của Mỹ đối với Liên Xô. Liên Xô suy cho cùng có thể trở lại với chủ nghĩa bành trướng như trong quá khứ và đe dọa phá vỡ hiện trạng. Nếu vậy, chúng ta sẽ trở lại thời Chiến tranh Lạnh; phương Tây cần đáp trả nhanh chóng và hiệu quả như họ đã làm lần đầu tiên. Tuy nhiên, nếu Liên Xô theo đuổi các chính sách giữ nguyên hiện trạng thì sức mạnh của họ có thể đóng vai trò quan trọng trong việc cân bằng Đức và duy trì trật tự ở Đông Âu. Quan trọng là trong những trường hợp Liên Xô thực hiện hành động cân bằng, Mỹ nhận cần thấy điều đó, hợp tác với đối thủ trước đây của mình, và không để cho tàn dư của việc mất lòng tin từ thời Chiến tranh Lạnh can thiệp vào quá trình cân bằng lực lượng này.
Thứ ba, cần có một nỗ lực phối hợp để kiểm soát chủ nghĩa dân tộc quá khích, đặc biệt là ở Đông Âu. Lực lượng hùng mạnh này đã cắm rễ sâu ở Châu Âu và đã góp phần gây bùng nổ những xung đột ở Châu Âu trong quá khứ. Chủ nghĩa dân tộc đã bị kiềm chế trong suốt Chiến tranh Lạnh, nhưng có khả năng trỗi dậy nữa một khi các lực lượng Liên Xô và Mỹ rời khỏi trung tâm Châu Âu.31 Nó sẽ là lực lượng tạo nên rắc rối trừ khi được kiềm chế. Việc giáo dục lịch sử quốc gia một cách trung thực là đặc biệt quan trọng, vì việc dạy sử dưới cái nhìn của chủ nghĩa Sô vanh sai lầm là phương tiện chính để phổ biến chủ nghĩa dân tộc nguy hiểm. Những quốc gia dạy lịch sử mang tư tưởng tự bào chữa hay tự ca ngợi mình một cách không trung thực nên bị phê bình và xử phạt công khai.32
Về điểm này, cần xử lý mối quan hệ giữa Đức và các nước láng giềng cần một cách đặc biệt cẩn trọng. Nhiều người Đức cảm thấy một cách chính đáng rằng Đức đã hành động rất trách nhiệm trong 45 năm, và đã thật sự nỗ lực ghi nhớ và bù đắp cho giai đoạn đen tối trong lịch sử nước mình. Do đó, người Đức nhanh chóng chán nản việc người nước ngoài yêu cầu họ xin lỗi lại vì những lỗi lầm phạm phải từ trước khi phần lớn người dân Đức hiện nay ra đời. Mặt khác, những người đã chịu đau khổ dưới bàn tay người Đức cũng không thể quên nỗi đau khủng khiếp này, và chắc chắn sẽ đòi đảm bảo một lần nữa là quá khứ sẽ không lặp lại. Bài đối thoại này có khả năng tăng lên thành những lời buộc tội lẫn nhau có thể khơi dậy cảm giác bị chèn ép của người Đức, và cùng với nó là sự hồi sinh của chủ nghĩa dân tộc Đức. Do đó nhiệm vụ của tất cả các bên trong vấn đề này là tiếp tục hiểu và tôn trọng cảm nhận cũng như trải nghiệm của những người khác. Đặc biệt, những nước khác không nên yêu cầu những người Đức ngày nay xin lỗi những tội ác mà họ không tham gia, nhưng người Đức phải hiểu rằng những yêu cầu tái đảm bảo không ngừng của những nước khác có nền tảng lịch sử hợp pháp, và nên xem xét những yêu cầu này với sự kiên nhẫn và thấu hiểu.
Không có nhiệm vụ nào dễ hoàn thành. Thực tế là tôi mong muốn phần lớn những khuyến nghị của mình sẽ không được làm theo; hầu hết đầu trái ngược với những quan điểm chủ đạo tại Mỹ và châu Âu; cũng như bản chất cơ bản của hành vi quốc gia. Hơn nữa, thậm chí nếu các khuyến nghị này được thực hiện thì chúng cũng sẽ không đảm bảo cho hòa bình ở Châu Âu. Nếu Chiến tranh Lạnh thật sự trở thành quá khứ thì những thập niên tiếp theo sẽ khó có được sự ổn định như trong 45 năm qua.
John J. Mearsheimer
Mạch Nguyễn Phương-Uyên dịch
Ngô Thị Thu-Hương hiệu đính
Chú thích:
[1] Xem: Ivo J. Lederer, ed., Russian Foreign Policy: Essays in Historical Perspective (New Haven: Yale University Press, 1962); Andrei Lobanov-Rostovsky, Russia and Europe, 1825-1878 (Ann Arbor, Mich.: George Wahr Publishing, 1954); và Marc Raeff, Imperial Russia, 1682-1825: The Coming of Age of Modern Russia (New York: Knopf, 1971), chap. 2.
[2] Để hiểu rõ hơn về mối ác cảm giữa Hungary và Rumani đối với vấn đề này, xem Witnesses to Cultural Genocide: First-Hand Reports on Romania’s Minority Policies Today (New York: American Transylvanian Federation and the Committee for Human Rights in Romania, 1979). Những cuộc đụng độ vào tháng 3 năm 1990 giữa người Hungary và Rumani ở Tirgu Mures (Rumani Transylvania) cho thấy khả năng xảy ra bạo lực man rợ tiềm ẩn trong những cuộc xung đột sắc tộc này.
[3] Xem Zbigniew Brzezinski, “Post-Communist Nationalism,” Foreign Affairs, Vol. 68, No. 5 (Winter 198911990), pp. 1-13; và Mark Kramer, “Beyond the Brezhnev Doctrine: A New Era in Soviet-East European Relations?” International Security, Vol. 14, No. 3 (Winter 1989190), trang 51- 54.
[4] Thủ tướng mới của Hungary, Jozsef Antall, đã phát biểu về sự cần thiết phải có một “giải pháp Châu Âu” cho vấn đề đối xử của Rumani với những người Hungary ở Transylvania. Celestine Bohlen, “Victor in Hungary Sees ’45 as the Best of Times,” New York Times, April 10, 1990, trang A8.
[5] Bài viết này tập trung vào ảnh hưởng của những thay đổi trong sức mạnh của Liên Xô và sự co cụm lại của đế chế Liên Xô lên triển vọng ổn định ở Châu Âu. Tuy nhiên, sự tan rã của Liên Xô, một kịch bản không được phân tích chi tiết ở đây, ngoài những mối nguy hiểm được đề cập ở đây, sẽ còn mang lại những mối nguy hiểm khác.
[6] Các khía cạnh của câu chuyện này đã được đềcập trong tác phẩm của Richard J. Evans, In Hitler’s Shadow: West German Historians and the Attempt to Escape from the Nazi Past (New York: Pantheon, 1989). Một nghiên cứu về những nỗ lực của người Đức trong quá khứ nhằm bóp méo lịch sử là Holger H. Herwig, “Clio Deceived: Patriotic Self-censorship in Germany After the Great War,” International Security, Vol. 12, No. 2 (Fall 1987), trang 5-44.
[7] Xem David Garnham, “Extending Deterrence with German Nuclear weapons,” International Security, Vol. 10, No. 1 (Summer 1985), trang 96-110.
[8] Jack Snyder, “Averting Anarchy in the New Europe,” International Security, Vol. 14, No. 4 (Spring 1990), trang 5-41.
[9] Quan điểm về những nước tự do dân chủ làm nổi bật thực tế rằng chủ nghĩa tự do dân chủ và lý thuyết về nên dân chủ chuộng hòa bình thường gắn với nhau trong những tác phẩm của các học giả quan hệ quốc tế. Cơ sở của sự liên kết này là những gì mà mỗi lý thuyết nói về động cơ của con người. Lập luận rằng phần lớn các cá nhân đều mong muốn sự giàu có, điểm quan trọng của chủ nghĩa tự do kinh tế, khớp hoàn toàn với niềm tin cho rằng quần chúng là một lực lượng chống chiến tranh mạnh mẽ, điều này, như đề cập dưới đây, là điểm quan trọng của lý thuyết các nền dân chủ yêu hòa bình.
[10] Ba lý giải được bàn ở đây dựa trên ba lý thuyết nổi bật nhất trong các tài liệu kinh tế chính trị quốc tế (IPE). Chúng thường được xem xét như những lý thuyết riêng biệt và được gán cho những tên gọi khác nhau. Tuy nhiên, chúng có chung những yếu tố quan trọng. Do đó, để rõ ràng, tôi xem xét chúng như ba nhánh của một lý thuyết chung: chủ nghĩa tự do kinh tế. Cần phải làm rõ trước một điều. Những tài liệu IPE thường không thành công trong việc tuyên bố những lý thuyết của mình một cách rõ ràng, nên rất khó để đánh giá chúng. Thế nên, tôi đã phân tích những lý thuyết này từ các tác phẩm đôi khi không rõ ràng có thể gây ra những giải thích trái chiều. Những mô tả của tôi về chủ nghĩa tự do kinh tế được rút ra từ những nghiên cứu mà tôi cho là tốt nhất trong dòng IPE: Richard N. Cooper, “Economic Interdependence and Foreign Policies in the Seventies,” World Politics, Vol. 24, No. 2 (January 1972), trang 158-181; Ernst B. Haas, “Technology, Pluralism, and the New Europe,” in Joseph S. Nye, Jr., ed., International Regionalism (Boston: Little, Brown, 1968), trang 149-176; Robert O.Keohane and Joseph S. Nye, Jr., Power and Interdependence: World Politics in Transition (Boston: Little, Brown, 1977); Robert 0.Keohane, After Hegemony: Cooperation and Discord in the World Political Economy (Princeton: Princeton University Press, 1984); David Mitrany, A Working Peace System (Chicago: Quadrangle Press, 1966); Edward L. Morse, “The Transformation of Foreign Policies: Modernization, Interdependence, and Externalization,” World Politics, Vol. 22, No. 3 (April 1970), pp. 371-392; và Richard N. Rosecrance, The Rise of the Trading State: Commerce and Conquest in the Modern World (New York: Basic Books, 1986).
[11] Xem Kenneth N. Waltz, “The Myth of National Interdependence,” trong Charles P. Kindelberger, ed., The International Corporation (Cambridge: MIT Press, 1970), trang 205-223.
[12] Xem Joseph M. Grieco, “Anarchy and the Limits of Cooperation: A Realist Critique of the Newest Liberal Institutionalism,” International Organization, Vol. 42, No. 3 (Summer 1988), trang 485-507; và Grieco, Cooperation among Nations: Europe, America and Non-Tariff Barriers to Trade (Ithaca: Cornell University Press, 1990).
[13] Waltz, Theory of International Politics, trang 105.
[14] Cần nhấn mạnh rằng do một phần quan trọng của sức mạnh quân sự là chức năng của sức mạnh kinh tế, những hậu quả của mối quan hệ kinh tế giữa các quốc gia đôi khi có những ý nghĩa an ninh quan trọng.
15. Có nhiều ví dụ trong các ghi chép lịch sử về những quốc gia dễ bị tấn công luôn theo đuổi những chính sách quân sự hung hăng nhằm mục tiêu đạt được khả năng tự cung tự cấp. Ví dụ, mô hình hành vi này được thể hiện rõ nhất ở động thái của hai quốc gia Đức và Nhật trong suốt thời kỳ giữa hai cuộc chiến. Về Nhật, xem Michael A. Barnhart, Japan Prepares for Total War: The Search for Economic Security, 1919-1941 (Ithaca: Cornell University Press, 1987); và James B. Crowley, japan's Quest for Autonomy (Princeton: Princeton University Press, 1966). Về Đức, xem William Carr, Arms, Autarky and Aggression: A Study in German Foreign Policy, 1933-39 (New York: Norton, 1973). Cũng cần lưu ý rắng trong suốt thời kỳ cấm vận dầu mỏ Ả Rập ở đầu thập niên 70, khi rõ ràng là nước Mỹ trở nên yếu đuối trước sức ép tử OPEC, có rất nhiều cuộc đối thoại ở Mỹ về vấn đề sử dụng sức mạnh quân sự để chiếm giữ những mỏ dầu ở Ả Rập. Xem Robert W. Tucker, "Oil: The Issue of American Intervention," Commentary, January 1975, trang 21-31; Miles Ignotus [được biết đến là một bút danh của Edward Luttwak], "Seizing Arab Oil," Harpers, March 1975, trang 45-62; và U.S. Congress, House Committee on International Relations, Report on Oil Fields as Military Objectives: A Feasibility Study, được soạn bởi John M. Collins và Clyde R. Mark, 94th Cong., 1st sess. (Washington, D.C.: U.S. Government Printing Office [U.S. GPO], August 21, 1975).
16. Xem Richard N. Rosecrance, et al., "Whither Interdependence?" lnternational Organization, Vol. 31, No. 3 (Summer 1977), trang 432-434.
17. Chủ đề này được thể hiện trong Barry Buzan, "Economic Structure and International Security: The Limits of the Liberal Case," International Organization, Vol. 38, No. 4 (Autumn 1984), trang 597624; Robert Gilpin, U.S. Power and the Multinational Corporation: The Political Economy of Foreign Direct investment (New York: Basic Books, 1975); và Robert A. Pollard, Economic Security and the Origins of the Cold War, 1945-1950 (New York: Columbia University Press, 1985).
18. Xem Josef Joffe, "Europe's American Pacifier," Foreign Policy, No. 54 (Spring 1984), trang 64-82.
19. Ví dụ, hãy xem xét một tình huống trong đó Cộng đồng Châu Âu được mở rộng thành công, bao gồm các nước Đông Âu và Liên Xô, và trong suốt thời gian đó tất cả các nước đều có được sự thịnh vượng. Tuy nhiên, Đức phát triển hơn hẳn so với các nước khác. Do đó vị trí quyền lực tương đối của họ vốn dĩ đã khá mạnh, bắt đầu cải thiện rõ rệt. Có thể là Pháp và Liên Xô, ví dụ là vậy, sẽ lo ngại sâu sắc trước tình huống này.
20. Lý thuyết này vừa được trình bày trong ba bài viết của Michael Doyle: "Liberalism and World Politics," American Political Science Review, Vol. 80, No. 4 (December 1986), trang 1151-1169; "Kant, Liberal Legacies, and Foreign Affairs," Philosophy and Public Affairs, Vol. 12, No. 3 (Summer 1983), trang 205-235; và "Kant, Liberal Legacies, and Foreign Affairs, Part 2," Philosophy and Public Affairs, Vol. 12, No. 4 (Fall 1983), trang 323-353. Doyle chịu ảnh hường rất nhiều từ những tác phẩm kinh điển của Immanuel Hant về đề tài này. Lý thuyết này cũng là cơ sở của lập luận trọng tâm trong bài tiểu luận được phát hành rộng rãi của Francis Fukuyama tên là "The End of History?" in The National Interest, No. 16 (Summer 1989), trang 3-18. Xem bài phê bình xuất sắc về lý thuyết này của Samuel P. Huntington, "No Exit: The Errors of Endism," The National Interest, No. 17 (Fall 1989), trang 3-11.
21. Có một bộ phận nghiên cứu thực nghiệm rất hay về mối quan hệ giữa dân chủ và chiến tranh. Ví dụ có thể xem Steve Chan, "Mirror, Mirror on the Wall . . . Are the Freer Countries More Pacific?" Journal of Conflict Resolution, Vol. 28, No. 4 (December 1984), trang 617-648; Erich Weede, "Democracy and War Involvement," in ibid., trang 649-664; Bruce M. Russett and R. Joseph Monsen, "Bureaucracy and Polyarchy As Predictors of Performance," Comparative Political Studies, Vol. 8, No. 1 (April 1975), trang 5-31; và Melvin Small và J. David Singer, "The War-Proneness of Democratic Regimes, 1816-1965," The Jerusalem Journal of International Relations, Vol. 1, No. 4 (Summer 1976), trang 50-69.
22. Ví dụ xem thêm Stanislav Andieski, "On the Peaceful Disposition of Military Dictatorships," Journu1 of Strategic Studies, Vol. 3, No. 3 (December 1980), trang 3-10.
23. Về mối quan hệ thù địch tồn tại giữa Mỹ và Anh trong suốt thế kỷ 19, xem H.C. Allen, Great Britain and the United States: A History of Anglo-American Relations, 1783-1952 (London: Odhams, 1954).
24. Về về việc nối lại mối quan hệ hữu nghị này, xem Stephen R. Rock, Why Peace Breaks Out: Great Power Rapprochement in Historical Perspective (Chapel Hill: University of North Carolina Press, 1989), chap. 2.
25. Về quan hệ Pháp – Anh suốt thế kỷ 19, xem P.J.V. Rolo, Entente Cordiale: The Origins and Negotiation of the Anglo-French Agreements of 8 April 1904 (New York: St. Martins, 1969), trang. 16-109.
26. Stephen Rock đã nghiên cứu sự hòa giải của Anh và Pháp và cho rằng động lực chính đằng sau mối quan hệ tốt hơn của họ xuất phát từ những cân nhắc về mặt địa chính trị, chứ không phải niềm tin chính trị chung. Xem Rock, Why Peace Breaks Out, chap. 4.
27. Doyle nhận thức rõ về vấn đề này và do vậy có một chú thích dài thể hiện nỗ lực giải quyết vấn đề đó. Xem “Kant, Liberal Legacies, and Foreign Affairs [Part One]," pp. 216-217, n. 8. Ông chứng minh rằng “Đức đã là một nước tự do về mặty luật pháp công hòa để giải quyết các vấn đề đối nội,” nhưng “vai trò thiết thực của hoàng đế trong những vấn đề ngoại giao … khiến đế quốc Đức trở thành một quốc gia tách ra khỏi khả năng kiểm soát của dân chúng trong những vấn đề đối ngoại.” Tuy nhiên, nghiên cứu về quá trình đưa ra quyết định đi đến Chiến tranh thế giới thứ nhất tiết lộ rằng Hoàng đế (Wilhem II) không phải là động lực chính trong những vấn để đối ngoại và ông cũng không chiếu chiến hơn các thành viên khác trong giới lãnh đạo Đức, gồm cả quan chức dân sự hàng đầu, Thủ tướng Bethmann – Hollweg.
28. Quan điểm này được minh họa bởi cuộc tranh luận năm 1976 về cái gọi là “Học thuyết Sonnenfeldt”. Helmut Sonnenfeldt, cố vấn của Ngoại trưởng Mỹ Henry Kissinger, đã phát biểu vào cuối năm 1975 rằng nước Mỹ nên ủng hộ sự thống trị của Liên Xô ở Đông Âu. Trong cuộc tranh luận tiếp theo đó, rõ ràng là cho dù Sonnenfeldt có thực sự đã tuyên bố điều đó hay không thì cũng không chính quyền nào có thể công khai ủng hộ quan điểm đó. Xem U.S. Congress, House Committee on International Relations, Hearings on United States National Security Policy Vis-a-vis Eastern Europe (The "Sonnenfeldt Doctrine"), 94th Cong., 2nd sess. (Washington, D.C.: U.S. GPO, April 12, 1976)
29. Xem một đánh giá lạc quan về việc làm thế nào phương Tây gia tăng triển vọng thành công của Gorbachev trong Jack Snyder, "International Leverage on Soviet Domestic Change," World Politics, Vol. 42, No. 1 (October 1989), trang 130.
30. Người đề xuất lập luận này là Van Evera, "Why Europe Matters, Why the Third World Doesn't."
31. Về những tiến triển của việc dạy lịch sử mang màu sắc chủ nghĩa dân tộc, xem Kennedy, "The Decline of Nationalistic History," and Dance, History the Betrayer.
32. Suy nghĩ của tôi về vấn đề này bị ảnh hưởng bởi những cuộc nói chuyện với Stephen Van Evera.
Bài liên quan:
- Chủ nghĩa hiện thực cấu trúc sau Chiến tranh Lạnh: click vào đây
* * *
Xem bài bằng Anh ngữ: click vào đây
Xem trang Kiến thức, Tài liệu: click vào đây
Trở về trang chính: http://www.nuiansongtra.net