Diễn đàn của người dân Quảng Ngãi
giới thiệu | liên lạc | lưu niệm

 April 16, 2025
Trang đầu Hình ảnh, sinh hoạt QN:Đất nước/con người Liên trường Quảng Ngãi Biên khảo Hải Quân HQ.VNCH HQ.Thế giới Kiến thức, tài liệu Y học & đời sống Phiếm luận Văn học Tạp văn, tùy bút Cổ văn thơ văn Kim văn thơ văn Giải trí Nhạc Trang Anh ngữ Trang thanh niên Linh tinh Tác giả Nhắn tin, tìm người

  Biên khảo
HỮU LOAN VỚI BÀI THƠ “MÀU TÍM HOA SIM”, TÁC GIẢ VÀ TÁC PHẨM
Thế Đại NGUYỄN THÁI ĐỆ


Vào khoảng năm 1961, 1962, người dân miền Nam lần đầu tiên khi nghe nhạc bản NHỮNG ĐỒI HOA SIM qua tiếng hát của “con nhạn trắng Gò Công” Phương Dung hết thảy đều hâm mộ và ngợi khen:

Những đồi hoa sim, ôi những đồi hoa sim
Tím chiều hoang biền biệt.
. . . . . .

Đến ngồi bên mộ nàng!
. . . . . .

Đồi sim vẫn còn trong lối cũ
Giờ thiếu người xưa ấy, đồi hoang mới tiêu điều!
”.

Với âm điệu du dương mang một màu sắc đau buồn và xót xa đến cực độ, kéo lê dài trong những da diết và thiết tha đến bất tận, đã một thời xoáy sâu vào tim não, gây xúc động không nhỏ cho hầu hết người nghe nhạc lúc bấy giờ!

Đúng vậy, nhạc bản “Những đồi hoa sim” của nhạc sĩ Dzũng Chinh mà nữ ca sĩ Phương Dung, người hát lần đầu (nói bên trên), đã thu đạt một kỷ lục là tiêu biểu được cho dòng nhạc Bolero trữ tình, một đặc sản văn hóa của miền Nam trước đây!

Âm điệu và lời ca của bài nhạc này do nhạc sĩ Dzũng Chinh đã cảm tác viết nên, rất là thành công như nhiều người đã nghĩ: chính là dựa vào giá trị đích thực của bài thơ bất hủ MÀU TÍM HOA SIM của thi sĩ HỮU LOAN.

Và có lẽ cũng chính nhờ vào sự thành công của bài nhạc “Những Đồi Hoa Sim” này của Dũng Chinh, mà tiếng tăm của bài thơ “Màu Tím Hoa Sim” lại được tăng phồng lên và lan truyền ngày càng rộng rãi thêm nhiều hơn!

A. Thi sĩ Hữu Loan và bài thơ “Màu Tím Hoa Sim”

1. Thời đi học:

Hữu Loan tên thật là Nguyễn Hữu Loan sinh ngày 2 tháng 4 năm 1916 (còn có thông tin là ông sinh năm 1914), tại làng Vân Hoàn, xã Nga Lĩnh, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa.

- Sau khi đậu bằng Tiểu học ở trường huyện, ông tiếp tục ra tỉnh để theo học Trung học.

- Năm 1936: Hữu Loan có tham gia Mặt trận Bình dân và phong trào Việt Minh của tỉnh Thanh Hóa.

- Năm 1938 (năm 22 tuổi), ông ra Hà Nội thi đậu bằng Tú tài, rồi trở về lại Thanh Hóa để dạy học tại một trường tư thục.

- Tại Thị xã Thanh Hóa, lúc bấy giờ có 2 hiệu sách: (1) Hà Thành, hiệu sách của ông Trương Khâm, (2) Hòa Yên, địa chỉ số 48 phố Lớn, hiệu sách của bà tham Kỳ, tức là bà Đái Thị Ngọc Chất, vợ của ông Lê Đỗ Kỳ, kỹ sư Canh nông, Tổng Thanh tra Canh nông của Đông Dương.



Chân dung Hữu Loan lúc thiếu thời

Hữu Loan thường hay ghé đến nhà sách Hòa Yên để xem và mua sách. Bà Chất là người rất yêu văn chương, giàu lòng nhân ái, thấy Hữu Loan nhà nghèo lại ham học, nên rất quí mến. Thế là hai ông bà quyết định nhận Hữu Loan làm con, nuôi ăn học ở trong nhà, đồng thời tiện thể cũng là gia sư kèm dạy cho các con của mình luôn:

- Người con trai cả là Lê Hữu Khôi sau này tham gia kháng chiến chống Pháp, tử trận năm 1954.

- Người con trai thứ hai là Lê Đỗ Nguyên, sau này chính là Trung tướng Phạm Hồng Cư, nguyên Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội Cọng sản VN.



Lê Đỗ Nguyên (Trung Tương Phạm Hồng Cư)
(Anh thứ hai của Lê Đỗ Thị Ninh)

- Người con trai thứ ba là Lê Đỗ An, sau này lấy tên là Nguyễn Tiên Phong, đã từng giữ chức vụ Bí thư Trung ương Đoàn.

- Người con gái kế tiếp, Lê Đỗ Thị Ninh, nhỏ hơn Hữu Loan đến những 16 tuổi.

(Tự thuật của nhà thơ Hữu Loan):

“Tôi sinh ra trong một gia đình nghèo, hồi nhỏ không có cơ may cắp sách đến trường như bọn trẻ cùng trang lứa, chỉ được cha dạy cho dăm chữ, bữa có bữa không ở nhà! Cha tôi, tuy là tá điền, nhưng tư chất lại thông minh hơn người. Lên Trung học, theo ban Thành chung, tôi cũng học tại Thanh Hóa, không có tiền ra Huế hoặc Hà Nội học.

Đến năm 1938, lúc đó tôi cũng đã 22 tuổi, tôi ra Hà Nội thi Tú tài, để chứng tỏ rằng con nhà nghèo cũng thi đổ đạt như ai. Tuyệt nhiên tôi không có ý định dấn thân vào chốn quan trường. Ai cũng biết thi Tú tài Pháp rất khó khăn. Số người đậu trong kỳ thi đó rất hiếm, hiếm đến nỗi năm, sáu chục năm sau, những người cùng thời còn nhớ tên những người đậu khóa ấy, trong đó có Nguyễn Đình Thi, Hồ Trọng Gin, Trịnh Văn Xuấn, và... tôi, Nguyễn Hữu Loan.”

Với mảnh bằng Tú tài Tây trong tay, tôi rời quê nhà lên Thanh Hóa để dạy học. Nhãn mác con nhà nghèo học giỏi của tôi được bà tham Kỳ chú ý, mời về nhà dạy cho ba cậu con trai. Tên thật của bà tham Kỳ là Đái Thị Ngọc Chất. Bà là vợ của ông Lê Đỗ Kỳ, Tổng Thanh tra Canh nông Đông Dương, sau này đắc cử Dân biểu Quốc hội khóa đầu tiên.

Ở Thanh Hóa, bà tham Kỳ có một cửa hàng bán vải và sách, báo. Tôi thường ghé lại xem và mua sách, nhờ vậy, mới được bà để mắt tới.



Chân dung Hữu Loan lúc tuổi bát thập

Bà Tham Kỳ là một người hiền lành, tốt bụng, đối xử với tôi rất tốt, coi tôi chẳng khác gì như người nhà. Nhớ ngày đầu tiên tôi khoác áo gia sư, bà gọi mãi đứa con gái – lúc đó mới 6 tuổi – mới chịu lỏn lẻn bước ra khoanh tay, miệng lí nhí: “Em chào thầy ạ!”. Chào xong, cô bé bất ngờ mở to đôi mắt nhìn thẳng vào tôi. Đôi mắt to, đen láy, tròn xoe như có ánh chớp ấy đã hằn sâu vào tâm trí tôi, theo tôi suốt cả cuộc đời.

(Lời kể lại của Nhạc sĩ Trịnh Hưng (1):

“Khi đi học, Hữu Loan thường nghe thầy cô dạy rằng ”Có chí thì nên”, do đó mà anh rất chăm học và năm nào cũng đứng nhất lớp. Học ở trường huyện thi đậu bằng Tiểu học Pháp, mà lúc bấy giờ là rất hiếm người đạt được. Anh quyết chí đi học tiếp Trung học. Nhưng muốn vậy thì phải ra tỉnh mới có trường. Nhà nghèo ham học nên anh mong muốn ra tỉnh vừa tìm việc làm, vừa đi học. Một hôm, tình cờ anh may mắn xin được dạy kèm cho các con ông Lê Đỗ Hữu Kỳ, Kỹ sư Canh Nông ở Pháp về, hiện làm Thanh tra cho Bộ Canh Nông của Pháp. Nhà ông có 500 mẫu ruộng. Gia nhân làm việc năm, sáu chục người. Ông có nuôi thêm một miệng ăn thì cũng chẳng thấm vào đâu. Bà Kỳ là một người rộng lượng và tốt bụng, thường hay giúp đỡ người nghèo, nên bà sẵn lòng cho anh ăn ở, dạy kèm cho các con. Nhờ vậy, Hữu Loan đã an tâm đi học. Thấy anh hiền lành, lễ phép, nên bà Kỳ rất mến và nhận anh làm con nuôi cho ăn học thành đạt. Khi anh bước chân vào nhà ông bà Kỳ ở, thì bà Kỳ sinh cô Ninh ở nhà hộ sinh. Hai ngày sau, anh xin phép vào thăm. Thấy cô bé bụ bẩm xinh đẹp, nên Hữu Loan bế lên, nâng niu trên tay. Cô bé mới sinh có 2 ngày mà cứ nhìn anh cười. Anh vội nói với bà Kỳ:

- Má à! Em mới có 2 ngày mà đã biết cười. Không hiểu sao em cứ nhìn con cười.

- Mấy bà đỡ đẻ cũng nói là con nít sinh ra là khóc, còn con bé này thì không khóc một tiếng nào, mà nó lại biết cười ngay. Đó là một điều lạ.

Từ đó anh an tâm học hành, các con ông bà Kỳ rất mến anh. Anh hay dẫn các con ông bà Kỳ đi chơi và ẳm bồng cô bé Ninh.

Đến kỳ thi Trung học, anh đậu hạng tối ưu. Ông bà Kỳ rất mừng và khuyến khích ông học tiếp.

Năm 1941, đến kỳ thi Tú tài ở Hà Nội, anh đậu hạng ưu. Sau đó, người Pháp xem bài thấy anh thông minh, nên họ mời anh vào làm tại Phủ Toàn quyền, với lương bổng cao. Hữu Loan lúc đó ghét Tây, nên đã khước từ và về Thanh Hóa sống với cha mẹ nuôi và đi dạy học tư.

Hữu Loan gặp được cụ Trần Trọng Kim, lúc đó cụ đang thành lập Hội Thanh niên toàn tỉnh. Cụ thấy anh nhanh nhẹn, thông minh, nên giao nhiệm vụ làm Tổng đoàn trưởng Thanh niên của cụ).

(1) Nguồn: (Trịnh Hưng “Paris, 15-6-2002” Lời kể lại của nhạc sĩ T.H. sau chuyến đi thăm nhà thơ Hữu Loan năm 2002. Trong dịp hai người bạn cũ gặp lại nhau sau gần 50 năm xa cách, họ đã hàn huyên, tâm sự với nhau biết bao nhiêu là chuyện của quá khứ). Nhạc sĩ Trịnh Hưng tên thật là Nguyễn Văn Hưng, sinh năm 1930 tại Hà Nội. 1945-1953, theo kháng chiến chống Pháp, Đội phó Văn công Trung đoàn Thăng Long. Năm 1952 bỏ kháng chiến, theo ông Trần Chánh Thành về Hà Nội, và 1954 di cư vào Nam.

 

Qua “Tự Thuật” của nhà thơ Hữu Loan và “Lời kể lại” của nhạc sĩ Trịnh Hưng, có 2 thông tin không phù hợp với nhau, đó là:

* “Thời điểm Hữu Loan nhận làm gia sư cho ông bà tham Kỳ”: theo Hữu Loan, lúc ấy cô Ninh đã lên 6 tuổi rồi, nhưng theo Trịnh Hưng thì lúc ấy cô Ninh chưa sinh ra đời.

* “Năm Hữu Loan đi thi Tú tài”: theo H.L. đó là năm 1938 lúc H.L. 22 tuổi, nhưng theo T.H. là năm 1941.

 

Không dám quyết đoán thông tin nào là chính xác, chúng tôi đưa ra ở đây 2 thông tin không phù hợp nhau bên trên, để quí độc giả tùy nghi truy tìm, phân giải và suy nghĩ!

2) Tham gia cách mạng

* Năm 1936: Hữu Loan có tham gia Mặt trận Bình dân và phong trào Việt Minh của tỉnh Thanh Hóa.

Ngoài việc dạy học, Hữu Loan còn tham gia trước và sau cách mạng 1945, như là:

* Năm 1943, ông về gây dựng phong trào Việt Minh ở quê nhà. Ông cũng đã từng là cộng tác viên của các tạp chí Văn học, xuất bản tại Hà Nội.

* Năm 1945, khi cách mạng tháng Tám nổ ra, ông giữ chức Phó Chủ tịch Ủy ban Khởi nghĩa huyện Nga Sơn.

Ông được cử làm Ủy viên Văn hóa trong Ủy ban Hành chánh Lâm thời tỉnh Thanh Hóa, phụ trách các Ty: Giáo dục, Thông tin, Thương chính và Công chính. Sau đó, ông được bầu giữ chức Chủ tịch Ủy ban Nhân dân Lâm thời tỉnh Thanh Hóa.

Năm cô Ninh học lớp Năm thì Nhật ném bom, nên cô đành phải nghỉ học. Bố Kỳ lại phải đổi ra Hà Nội làm việc tại Bộ Canh Nông. Ba người anh trai lớn đều cũng ra Hà Nội để học, rồi sau đó tham gia cách mạng.

Mẹ Ninh, Ninh và các em thì về ấp Thị Long (Nông Cống, Thanh Hóa), nơi mà bà Kỳ có mấy mẫu ruộng để sinh sống, đồng thời cũng là để nuôi bà ngoại đang bị ốm nằm liệt giường. Vì bà Kỳ phải túc trực bên bà ngoại, nên mọi chuyện làm ruộng, nuôi gà, chăn vịt... đều dồn hết lên vai em Ninh.

Do bởi khoảng cách tuổi tác giữa Hữu Loan và em Ninh quá lớn (lớn hơn 16 tuổi), nên Hữu Loan lúc nào cũng xem Ninh như là em gái của mình.

* Năm 1947, khi cuộc Kháng chiến chống Pháp bắt đầu, ông gia nhập Quân đội nhân dân, phục vụ trong Sư đoàn 304 mà Tướng Nguyễn Sơn là Thủ trưởng, với chức vụ là Trưởng phòng Tuyên huấn Sư đoàn. Ông còn làm Chủ bút cho tờ báo ”Chiến sĩ” và rất được Tướng Nguyễn Sơn quí mến. Dưới quyền ông có Vũ Cao, một nhà thơ nổi tiếng với bài “Núi đôi” và Nguyễn Đình Tiên là cậu họ của Đỗ Thị Ninh.

(Tự thuật của nhà thơ Hữu Loan):

“Cuối mùa Đông năm ấy, bất chấp những lời can ngăn, hứa hẹn can thiệp của ông bà tham Kỳ, tôi lên đường theo kháng chiến. Hôm tiễn tôi, em theo mãi ra tận đầu làng và lặng lẽ đứng nhìn theo. Tôi đi... lên tới bờ đê, nhìn xuống đầu làng, em vẫn đứng đó, nhỏ bé và mong manh. Em giơ bàn tay nhỏ xíu như chiếc lá sim ra vẫy trả và lầm lũi đi... Tôi lại đi và nhìn lại cho đến khi không còn nhìn thấy em nữa...

Những năm tháng ở chiến khu, thỉnh thoảng tôi vẫn được tin tức từ quê lên, cho biết em vẫn khỏe và đã khôn lớn. Sau này, nghe bạn bè kể lại, khi em mới 15 tuổi, đã có nhiều chàng trai đến ngỏ lời cầu hôn, nhưng em cứ trốn trong buồng, không chịu ra tiếp ai bao giờ...

Chín năm sau, tôi trở lại nhà... Về Nông Cống tìm em. Hôm gặp em ở đầu làng, tôi hỏi em, hỏi rất nhiều, nhưng em không nói gì, chỉ bẽn lẽn lắc hoặc gật đầu. Em giờ đây không còn là cô học trò Ninh bướng bỉnh nữa rồi. Em đã gần 17 tuổi, đã là một cô gái xinh đẹp... Yêu nhau lắm, nhưng tôi vẫn lo sợ, vì hai gia đình không môn đăng hộ đối chút nào. Mãi sau này mới biết việc hợp hôn của chúng tôi thành công là do bố mẹ em ngấm ngầm “soạn kịch bản”.

(Lời kể lại của Nhạc sĩ Trịnh Hưng):

“Anh vẫn ở trong nhà ông bà Kỳ, và cô Ninh vẫn đối đãi với anh như xưa. Hàng ngày, anh vẫn học thêm và đi hoạt động với anh em trong đoàn Thanh niên. Ngày 19-8-1945, cuộc cách mạng của VN đã thành công ở Hà Nội, các tỉnh đã thành lập chính quyền, anh và các anh chị em trong đoàn Thanh niên rất vui mừng. Anh hô hào dân chúng đi cướp chính quyền một cách dễ dàng và được bầu làm Chủ tịch Ủy ban Nhân dân Lâm thời tại tỉnh Thanh Hóa.

Đến tuần lễ Vàng, cô Ninh cũng hăng hái tham gia cổ động dân chúng đóng góp vàng ủng hộ. Hữu Loan lúc đó là một thanh niên yêu nước nhiệt thành, nên rất hăng hái làm việc không biết mệt. Năm 1946, chiến tranh Việt - Pháp bùng nổ. Anh không thích làm Chủ tịch tỉnh, nên đã xin từ chức và nhường cho người khác, để lên đường ra mặt trận.

Hữu Loan tham gia vào Sư đoàn 304 do Tướng Nguyễn Sơn chỉ huy. Anh được giao cho nhiệm vụ làm Trưởng phòng Tuyên Huấn Sư đoàn với cấp Chính trị viên Tiểu đoàn. Nguyễn Sơn là một vị tướng trẻ, nhưng rất giỏi. Ông lại là người mê văn nghệ và hiểu biết tất cả mọi bộ môn Thơ, Văn, Nhạc, nên Hữu Loan rất quí mến anh. Ngược lại, Nguyễn Sơn xem Hữu Loan như một người bạn hơn là một thuộc cấp.

Trong quân ngũ rất bận, nhưng Hữu Loan vẫn thường xuyên về thăm nhà. Gia đình ông bà Kỳ vẫn thương yêu anh như xưa. Cô Ninh thì đã lớn, cô quấn quít bên anh như hồi nào. Thế rồi tình yêu giữa Hữu Loan và cô Ninh đã đến lúc nào cũng không biết. Hai ông bà Kỳ thì càng vun xới tình yêu cho hai trẻ. Hữu Loan thú thật với bà Kỳ và xin cưới cô Ninh làm vợ. Thế là ông bà Kỳ lại chuẩn bị mọi chuyện để lo tổ chức đám cưới cho đôi trẻ.”

3) Mối duyên tình “Màu tím hoa sim”.

Thời kỳ này gần như cùng song hành với thời kỳ mà nhà thơ tham gia cách mạng.

Ở trong nhà ông bà tham Kỳ làm gia sư một thời gian thì Hữu Loan lại dọn ra ngoài ở, lý do là ông bà tham Kỳ không chịu lấy tiền nhà. Nhưng khi ông gia sư ngã ốm thì lạiđược ông bà cho đưa về lại nhà, để trông nom. Ngay kể từ khi Hữu Loan làm gia sư trong nhà ông bà tham Kỳ, thì ông bà này đã có ý muốn gán ghép con gái mình cho Hữu Loan rồi!

Cô Ninh tuy còn bé nhỏ, nhưng đã có cá tính. Cô không thích lụa là, mà chỉ thích mặc áo vải. Cho dù trong nhà có nhiều người giúp việc, nhưng cô lại thường hay tự tay giặt đồ cho ông gia sư của mình. Hữu Loan thương quí cô Ninh như em gái của mình vậy. Tình yêu giữa hai người cứ tiệm tiến trong vô hình một cách tự nhiên, người bên ngoài và cả người trong cuộc cũng không hề nhận rõ được được.

(Tự thuật của nhà thơ Hữu Loan):

“Với mảnh bằng Tú tài Tây trong tay, tôi rời quê nhà lên Thanh Hóa để dạy học. Nhãn mác con nhà nghèo học giỏi của tôi được bà Tham Kỳ chú ý, mời về nhà dạy cho ba cậu con trai. Tên thật của bà Tham Kỳ là Đái Thị Ngọc Chất. Bà là vợ của ông Lê Đỗ Kỳ, Tổng Thanh tra Canh nông Đông Dương, sau này đắc cử Dân biểu Quốc hội khóa đầu tiên.

Ở Thanh Hóa, bà Tham Kỳ có một cửa hàng bán vải và sách, báo. Tôi thường ghé lại xem và mua sách, nhờ vậy, mới được bà để mắt tới.

Bà Tham Kỳ là một người hiền lành, tốt bụng, đối xử với tôi rất tốt, coi tôi chẳng khác gì như người nhà. Nhớ ngày đầu tiên tôi khoát áo gia sư, bà gọi mãi đứa con gái – lúc đó đã 6 tuổi – mới chịu lỏn lẻn bước ra khoanh tay, miệng lí nhí: “Em chào thầy ạ!” Chào xong, cô bé bất ngờ mở to đôi mắt nhìn thẳng vào tôi. Đôi mắt to, đen láy, tròn xoe như có ánh chớp ấy đã hằn sâu vào tâm trí tôi, theo tôi suốt cả cuộc đời.

Thế là tôi dạy em đọc, dạy viết. Tên em là Lê Đỗ Thị Ninh, cha làm Thanh tra Nông Lâm ở Sài Gòn, nên sinh em trong ấy, quen gọi mẹ bằng má. Em thật thông minh, dạy đâu hiểu đấy, nhưng ít nói và mỗi khi mở miệng thì cứ y như một “bà cụ non”. Đặc biệt, em chăm sóc tôi hàng ngày một cách kín đáo: em đặt vào góc mâm cơm chỗ tôi ngồi ăn cơm, lúc thì vài quả ớt đỏ au, lúc thì quả chanh mọng nước, em vừa hái ở vườn. Những buổi trưa hè, nhằm lúc tôi ngủ trưa, em len lén lấy áo sơ mi trắng của tôi treo ở góc nhà đem ra giếng giặt...

Có lần tôi kể chuyện “bà cụ non” ít nói cho ba người anh của em Ninh nghe, không ngờ chuyện đến tai em, thế là em giận! Suốt một tuần liền, em nằm lì trong buồng trong, không chịu học hành... Một hôm bà tham Kỳ dẫn tôi vào phòng nơi em đang nằm thiếp đi. Hôm ấy tôi đã nói gì, tôi không nhớ nữa. Chỉ nhớ là tôi đã nói rất nhiều, đã kể chuyện em nghe, rồi tôi đọc thơ...

Trưa hôm ấy, em ngồi dậy, ăn một bát to cháo gà và bước ra khỏi căn buồng. Chiều hôm sau, em nằng nặc đòi tôi đưa em lên khu rừng thông. Cả nhà không ai đồng ý: “Mới ốm dậy, còn yếu lắm, không đi được đâu!”. Em không chịu nghe, nhất định đòi đi cho bằng được. Sợ em lại dỗi, nên tôi đánh bạo xin phép ông bà tham Kỳ đưa em lên núi chơi...



Rừng thông, đồi hoa sim tím



Hoa sim tím


Xe kéo chừng 1 giờ mới tới được chân đồi. Em leo đồi nhanh như một con sóc, tôi đuổi theo muốn đứt hơi. Lên đến đỉnh đồi, em ngồi xuống và bảo tôi ngồi xuống bên em. Chúng tôi ngồi thế một hồi lâu, chẳng nói gì. Bất chợt em nhìn tôi, rồi ngước mắt nhìn ra tận chân trời, Không biết lúc đó em nghĩ gì. Bất chợt em hỏi tôi:

- Thầy có thích ăn sim không?



Hoa sim.

Tôi nhìn xuống sườn đồi: tím ngắt một màu sim. Em đứng lên đi xuống sườn đồi, còn tôi vì mệt quá nên nằm thiếp đi trên thảm cỏ... Lúc tôi tỉnh dậy, em đã ngồi bên tôi với chiếc nón đầy ắp sim. Những quả sim đen láy chín mọng.

- Thầy ăn đi.

Tôi cầm quả sim từ tay em đưa lên miệng trằm trồ:

- Ngọt quá!

Như đã nói, tôi sinh ra trong một gia đình nông dân, quả sim đối với tôi chẳng lạ lẩm gì. Nhưng thú thật tôi chưa bao giờ ăn được những quả sim ngọt đến như thế! Cứ thế, chúng tôi ăn hết quả này đến quả khác. Tôi nhìn em, em cười. Hai hàm răng em đỏ tím, đôi môi em cũng đỏ tím, hai bên má thì... tím đỏ một màu sim. Tôi cười phá lên, em cũng cười theo!”

(Lời kể lại của Nhạc sĩ Trịnh Hưng):

Khi đi học, Hữu Loan thường nghe thầy cô dạy rằng ”Có chí thì nên”, do đó mà anh rất chăm học và năm nào cũng đứng nhất lớp. Học ở trường huyện thi đậu bằng Tiểu học Pháp, mà lúc bấy giờ là rất hiếm người đạt được. Anh quyết chí đi học tiếp Trung học. Nhưng muốn vậy thì phải ra tỉnh mới có trường. Nhà nghèo ham học nên anh mong muốn ra tỉnh vừa tìm việc làm, vừa đi học. Một hôm, tình cờ anh may mắn xin được dạy kèm cho các con ông Lê Đỗ Hữu Kỳ, Kỹ sư Canh Nông ở Pháp về, hiện làm Thanh tra cho Bộ Canh Nông của Pháp. Nhà ông có 500 mẫu ruộng. Gia nhân làm việc năm, sáu chục người. Ông có nuôi thêm một miệng ăn thì cũng chẳng thấm vào đâu. Bà Kỳ là một người rộng lượng và tốt bụng, thường hay giúp đỡ người nghèo, nên bà sẵn lòng cho anh ăn ở trong nhà để dạy kèm các con của ông bà. Nhờ vậy, Hữu Loan mới dễ dàng tiếp tục việc học của mình. Thấy anh hiền lành, lễ phép nên bà Kỳ rất mến và nhận anh làm con nuôi cho ăn học thành đạt.

Khi anh bước chân vào nhà ông bà Kỳ ở, thì bà Kỳ sinh cô Ninh ở nhà hộ sinh. Hai ngày sau, anh xin phép vào thăm. Thấy cô bé bụ bẩm xinh đẹp nên Hữu Loan bế lên nâng niu trên tay. Cô bé mới sinh có 2 ngày mà cứ nhìn anh cười. Anh vội nói với bà Kỳ:

- Má à! Em mới có 2 ngày mà đã biết cười. Không hiểu sao em cứ nhìn con cười.

- Mấy bà đỡ đẻ cũng nói là con nít sinh ra là khóc, còn con bé này thì không khóc một tiếng nào, mà nó lại biết cười ngay. Đó là một điều lạ.

Từ đó anh an tâm học hành, các con ông bà Kỳ rất mến anh. Anh hay dẫn các con ông bà Kỳ đi chơi và ẳm bồng cô bé Ninh. Đến kỳ thi Trung học, anh đậu hạng tối ưu. Ông bà Kỳ rất mừng và khuyến khích anh học tiếp. Năm 1941, đến kỳ thi Tú Tài ở Hà Nội, anh đậu hạng ưu. Sau đó, người Pháp xem bài thấy anh thông minh, nên họ mời anh vào làm tại Phủ Toàn quyền có lương cao. Hữu Loan lúc đó ghét Tây nên đã khước từ và về Thanh Hóa sống với gia đình cha mẹ nuôi để đi dạy học.

 

Hữu Loan có gặp được cụ Trần Trọng Kim, lúc đó cụ đang thành lập Hội Thanh niên toàn tỉnh. Cụ thấy anh nhanh nhẹn, thông minh, nên giao cho nhiệm vụ làm Tổng đoàn trưởng Thanh niên của cụ.

Cô Ninh mỗi ngày một lớn và xinh đẹp, phúc hậu. Cô rất thương mến và giúp đỡ người ăn, kẻ ở trong nhà. Hữu Loan thương yêu cô như em gái và Chủ Nhật nào cô cũng đòi anh dẫn cô ra phố chơi. Một hôm anh dẫn cô đi ngang rạp hát, thấy quảng cáo phim, anh muốn vào xem, nhưng cô không chịu, mà đòi về nhà ngay để học chữ. Từ đó, cô không cho gia nhân phục vụ cho anh nữa. Mỗi ngày, quần áo của anh cô tự giặt lấy, ủi thẳng tắp và xếp gọn gàng vào ngăn kéo cho anh. Cô còn chăm sóc cho anh những chuyện lặt vặt khác.

Hữu Loan cũng được biết bà Kỳ rất thương anh, nên định gả em gái của bà cho anh, nhưng cô ấy đẹp mà lại không ham chuyện trần duyên, mà rất say mê học đạo, nên đã xin vào tu viện. Bà Kỳ không gả em gái cho anh được, nên muốn gả cô Ninh cho anh. Năm cô Ninh 13 tuổi (1945), một hôm tôi ngồi học ở trong, nghe bà Kỳ nói với cô Ninh:

- Con à! Mai này má gả con cho anh Loan, con có bằng lòng không?

Tôi không nghe cô nói gì cả. Thế rồi một tuần sau, tôi đang học, cô Ninh đang ủi quần áo cho tôi bên ngoài, bà Kỳ đến bên tôi dịu dàng nói:

- Má thương con lắm! Má có ý định là vài năm nữa, em Ninh lớn hơn một chút, má gả em Ninh cho con làm vợ, con có bằng lòng không?

Anh bị hỏi đột ngột nên bất ngờ quá, lúng túng không biết trả lời ra sao. Bà Kỳ lại tiếp:

- Sao con có bằng lòng không?

- Dạ thưa, con cám ơn má vô cùng. Con thú thật là con rất thương yêu em Ninh, nhưng lấy em thì ngượng làm sao ấy, con không dám đâu, vì em Ninh là em nuôi của con. Con được ba má nuôi trong nhà, bây giờ lấy em Ninh, con sợ người ta nói con là thằng bất nghĩa!

Bà Kỳ cười rồi bỏ đi, làm anh nghĩ ngợi cả đêm. Không ngờ cô Ninh nghe được câu chuyện, nên nói với anh:

- Anh không yêu tôi, không muốn lấy tôi. Điều đó tôi không cần. Tôi chỉ biết tôi yêu anh là đủ rồi!

Nói xong, cô bỏ đi.”

4) Lễ Hợp Hôn

* Đầu năm 1948, Hữu Loan nhận được thư của bà tham Kỳ gửi vào, đưa quyết định làm lễ thành hôn cho Hữu Loan và cô Ninh.

Thế là ngày 6 tháng 2 âm lịch (1948) đám cưới của Hữu Loan và cô Lê Đỗ thị Ninh được tổ chức tại ấp Thị Long.

Trong thời gian nghỉ phép đám cưới, vợ chồng Hữu Loan có ghé về thăm nơi quê của ông là Vân Hoàn, Nga Lĩnh, Nga Sơn, Thanh Hóa.

(Tự thuật của nhà thơ Hữu Loan):

“Yêu nhau lắm, nhưng tôi vẫn lo sợ, vì hai gia đình không môn đăng hộ đối một chút nào. Mãi sau này mới biết việc hợp hôn của chúng tôi thành công là do bố mẹ em ngấm ngầm “soạn kịch bản”.

Một tuần sau đó chúng tôi kết hôn. Tôi bàn việc may áo mới thì em gạt đi, không đòi may áo mới trong ngày hợp hôn, bảo rằng là “yêu nhau, thương nhau cốt là cái tâm và cái tình bền chặt là hơn cả”. Tôi cao ráo, học giỏi, làm thơ hay... lại đẹp trai, nên em thường gọi đùa là anh chồng độc đáo. Đám cưới được tổ chức ở ấp Thị Long, huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa của gia đình em, nơi ông Lê Đỗ Kỳ có hàng trăm mẫu ruộng. Đám cưới rất đơn sơ, nhưng khỏi nói, hai chúng tôi hạnh phúc hơn bao giờ hết!

Hai tuần phép của tôi trôi qua thật nhanh, tôi phải tức tốc lên đường hành quân theo sư đoàn 304, làm Chủ bút tờ Chiến sĩ. Hôm tiễn tôi lên đường, em vẫn đứng ở đầu làng, nơi chín năm trước em đã đứng. Chỉ có là giờ em không còn là cô bé Ninh nữa, mà là người bạn đời yêu quí của tôi. Tôi bước đi, rồi quay đầu nhìn lại... Nếu như chín năm về trước, nhìn lại chỉ thấy một nỗi buồn man mác, thì lần này tôi thật sự đau buồn. Đôi chân tôi như muốn khụy xuống.”

5) Được tin vợ mất

Sau “Tuần trăng mật”, Hữu Loan từ giả người vợ trẻ trở lại đơn vị lúc ấy đang đóng quân ở Thọ Xuân (Thanh Hóa), cách nhà chừng 100 cây số. Thỉnh thoảng, ngày Chủ Nhật, Hữu Loan tranh thủ về thăm vợ. Hạnh phúc của họ thật quá là ngắn ngủi. Gần 4 tháng sau ngày cưới, một ngày cuối Hạ, gió sớm Thu về, con sông dữ vùng núi Nưa, nước cuồn cuộn đổ về. Nàng ra bờ sông Chuồng giặt áo, trượt chân ngã xuống sông, bị nước cuốn trôi đi. Ngày đó là ngày 25 tháng 5 âm lịch (1948). Cô Ninh lúc làm lễ hợp hôn lấy chồng, ba người anh ở chiến trường nên không biết. Cho đến lúc nàng qua đời, người anh cả nghe tin qua Võ Trí Sơn (một người bạn của Hữu Loan), thì mới biết em mình là vợ của Hữu Loan sau khi biết em đã qua đời!

(Tự thuật của nhà thơ Hữu Loan):

“Ba tháng sau, tôi nhận được tin dữ: vợ tôi qua đời! Em chết thật thảm thương. Hôm đó là ngày 25 tháng 5 âm lịch (1948). Em đưa quần áo ra giặt ngoài sông Chuồng (thuộc ấp Thị Long, Nông Cống), vì muốn chụp lại tấm áo bị nước cuốn trôi đi, nên trượt chân chết đuối! Con nước lớn đã cuốn em vào lòng nó, cướp đi của tôi người bạn lòng tri kỷ, để lại cho tôi nỗi đau không gì bù đắp nỗi. Nỗi đau ấy, gần 60 năm qua, vẫn nằm sâu thẳm trong trái tim tôi.”

(Lời kể lại của Nhạc sĩ Trịnh Hưng):

“Quá đau đớn với cái tin bất ngờ, anh vội vàng đạp xe về nhà và thấy bà Kỳ đang ngồi khóc bên mộ người con gái mà bà yêu thương nhất. Hữu Loan nhìn thấy trên mộ là chiếc bình hoa nhỏ ngày cưới nay đã thành bình hương trên mộ chí! Anh quá đau đớn nên phủ phục bên nấm mộ vô tri và than khóc!
Rồi sau đó, anh trở về đơn vị, cả ngày như người mất hồn.”

6) Bài thơ “Màu Tím Hoa Sim”.

Hữu Loan viết “Màu Tím Hoa Sim” năm 1949, khi đang dự lớp Chỉnh huấn ở Nghệ An. Ông viết liền một mạch, xong trong vòng hai tiếng đồng hồ, gần như hoàn chỉnh luôn. Sau này, ông chỉ sửa lại đôi chỗ mà thôi. Nó là một phần cuộc đời của Hữu Loan, phần đẹp nhất và cũng là phần buồn nhất! Cho nên, dù ông viết rất thật, rất mộc mạc, nói như Vũ Bằng là “không có gọt rũa, không có văn chương gì cả”, hay như Vũ Cao “không có chữ nghĩa gì cả”, nhưng lại có sức lay động tột cùng và có sức sống mãnh liệt ngay cả trong giai đoạn mà tác giả và tác phẩm không được thừa nhận!

Bài thơ “Màu Tím Hoa Sim” được trở thành là một tác phẩm lãng mạn nhất trong những tác phẩm lãng mạn thuộc thời kháng chiến. Bài thơ này ông viết là để khóc thương cho người vợ trẻ vắn số, mà lại bị coi là mang tính “tình cảm tiểu tư sản” của giới trí thức, nên bị cấm, nhưng vẫn được ngấm ngầm chuyền tay truyền tụng hết sức mạnh mẽ chẳng những trong hàng quân bộ đội mà cả trong mọi giới văn nghệ sĩ và dân gian nữa. Cho đến khi phong trào “NHÂN VĂN GIAI PHẨM” xuất hiện, Nguyễn Bính cho đăng bài này lần đầu tiên trên báo “Trăm Hoa”.

Những người không biết Hữu Loan thì “Màu Tím Hoa Sim” là cái cầu nối dẫn họ đến với ông. Với người biết ông thì bài thơ này chưa phải là đáng nói, so với nhân cách của ông, một nhân cách trung thực đến cứng cỏi, đáng là tấm gương sáng soi rọi cho giới trí thức trong nhiều giai đoạn.

Hữu Loan sống và đồng hành với cách mạng từ lúc thành công cho đến khi chính cách mạng tiêu diệt niềm tin, tính tự trọng và nhân cách con người. Và đau đớn nhất là cách mạng đã làm cho nhiều người trở thành vô cảm trước các nỗi đau của xã hội!

(Tự thuật của nhà thơ Hữu Loan):

“Tôi phải dấu kín nỗi đau trong lòng, không được cho đồng đội biết để tránh ảnh hưởng đến tinh thần chiến đấu của họ.Tôi như một cái xác không hồn... Dường như càng kèm nén, thì nỗi đau càng dữ dội hơn. May sao, sau đó có đợt chỉnh huấn, cấp trên bảo có tâm sự gì thì cứ nói ra, nói cho hết. Chỉ chờ có thế, cơn đau trong lòng tôi được bung ra. Khi ấy, chúng tôi đang đóng quân ở Nghệ An, tôi ngồi lặng đi ở đầu làng, hai mắt tôi đẫm nước, tôi lấy bút ra ghi chép. Chẳng cần phải suy nghĩ gì, những câu, những chữ mộc mạc cứ trào ra:

Nhà nàng có ba người anh đi bộ đội
Những em nàng có em chưa biết nói
Khi tóc nàng đang xanh. . .
Tôi về không gặp nàng. . .


Về viếng mộ nàng, tôi dùng chiếc bình hoa ngày cưới làm bình hương, viết lại bài thơ vào cái quạt giấy để lại cho người bạn ở Thanh Hóa... Anh bạn này đã chép lại và chuyền tay nhau trong suốt những năm chiến tranh. Đó là bài thơ “Màu Tím Hoa Sim”.

Đến đây, chắc các bạn biết tôi là Hữu Loan, Nguyễn Hữu Loan, sinh ngày 2-4-1916, hiện tại đang “Ở nhà trông vườn” ở làng Nguyên Hoàn – nơi tôi gọi là chỗ “Quê đẻ của tôi” đấy, thuộc xã Mai Lĩnh, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa.

Em Ninh rất ưa mặc áo màu tím hoa sim. Lạ thay, nơi em bị nước cuốn trôi dưới chân núi Nưa cũng thường nở đầy những bông hoa sim tím. Cho nên tôi mới viết nổi những câu:

Chiều hành quân qua những đồi sim
Những đồi sim, những đồi hoa sim
Những đồi hoa sim dài trong chiều không hết
Màu tím hoa sim
Tím chiều hoang biền biệt!”


Bài thơ “MÀU TÍM HOA SIM

Nàng có ba người anh đi bộ đội
Những em nàng
Có em chưa biết nói
Khi tóc nàng đang xanh
Tôi người vệ quốc quân xa gia đình
Yêu nàng như yêu người em gái
Ngày hợp hôn nàng không đòi may áo mới
Tôi mặc đồ quân nhân
Đôi giày đinh bết bùn đất hành quân
Nàng cười xinh xinh
Bên anh chồng độc đáo
Tôi ở đơn vị về, cưới nhau xong là đi.

Từ chiến khu xa nhớ về ái ngại
Lấy chồng người chiến binh
Mấy người đi, trở lại
Lỡ khi mình không về
Thì thương người vợ chờ bé bỏng chiều quê.
Nhưng không chết người trai khói lửa
Mà chết người gái nhỏ hậu phương!

Tôi về không gặp nàng
Má ngồi bên mộ con đầy bóng tối
Chiếc bình hoa ngày cưới
Thành bình hương tàn lạnh vây quanh
Tóc nàng xanh xanh ngắn chưa đầy búi
Em ơi giây phút cuối
Không được nghe nhau nói

Không được nhìn nhau một lần
Ngày xưa, nàng yêu hoa sim tím
Áo nàng màu tím hoa sim
Ngày xưa một mình đèn khuya bóng nhỏ
Nàng vá cho chồng tấm áo ngày xưa...



Một chiều rừng mưa
Ba người anh trên chiến trường Đông Bắc
Biết tin em gái mất
Trước tin em lấy chồng
Gió sớm Thu về rờn rợn nước sông
Đứa em nhỏ lớn lên
Ngỡ ngàng nhìn ảnh chị
Khi gió sớm Thu về cỏ vàng chân mộ chí.

Chiều hành quân qua những đồi hoa sim
Những đồi sim dài trong chiều không hết
Màu tím hoa sim
Tím chiều hoang biền biệt
Có ai ví như từ chiều ca dao nào xưa xa:
“áo anh sứt chỉ đường tà
Vợ anh chưa có, mẹ già chưa khâu”.
Ai hát vô tình hay ác ý với nhau
Chiều hoang tím có chiều hoang biết
Chiều hoang tim tím thêm màu da diết
Nhìn áo rách vai, tôi hát trong màu hoa
(Áo anh sứt chỉ đường tà
Vợ anh mất sớm, mẹ già chưa khâu. . .)

Màu tím hoa sim, tím tình trang lệ rớm
Tím tình ơi lệ ứa
Ráng vàng ma
Và sừng rúc điệu quân hành
Vang vọng chập chờn
Theo bóng những binh đoàn
Biền biệt hành binh vào thăm thẳm chiều hoang màu tím
Tôi ví vọng về đâu?
Tôi với vọng về đâu?
Áo anh nát chỉ dù lâu...

(1949, khóc vợ Lê Đỗ Thị Ninh)
HỮU LOAN

(Bài thơ bên trên do chính nhà thơ Hữu Loan đọc tại nhà ông, Vũ Toàn ghi lại ngày 12-12-2004. Nguồn: http//www.nxckimdong.com.vn?page).

Bài thơ ghi bên trên dài hơn 16 câu so với bài thơ đã được phổ biến trước giờ (trước 1975, xin đọc bài thơ có hình ở trang trước).

B. Thi sĩ Hữu Loan và Phong Trào “Nhân Văn Giai Phẩm”.

* Trong khoảng thời gian 1956-1957, Hữu Loan tham gia phong trào Nhân Văn Giai Phẩm (NVGP) cùng với Phan Khôi, Lê Đạt, Trần Dần, Phùng Quán, Hoàng Cầm... Ông sáng tác những tác phẩm lên án thẳng thắn và quyết liệt đến những tiêu cực của các cán bộ nịnh hót, đố kỵ, tham nhũng hay ám hại lẫn nhau, để được thăng quan tiến chức. Sau khi phong trào NVGP bị dập tắt vào năm 1958, nhà thơ Hữu Loan bị đưa đi cải tạo vài năm. Tiếp theo ông bị giam lõng tại địa phương suốt nhiều chục năm, không được góp tiếng nói và tác phẩm với đời!

Trước tiên, ông bị xúc phạm đến tình cảm thiêng liêng của mình đối với người vợ mà ông hằng yêu quí, cho nên ông bỏ đảng, bỏ cơ quan, về nhà để đi cày. Họ không cho ông bỏ, buộc ông phải làm đơn xin. Ông chẳng đếm xỉa gì đến họ, tự ý làm theo ý của mình thôi. Thêm nữa, bài thơ “Màu Tím Hoa Sim” đã đem lại tiếng tăm cho Hữu Loan, nhưng cũng đồng thời kéo theo nhiều hệ lụy. Tài làm thơ, học thức cùng với vóc dáng cường tráng của ông đã khiến cho ông bị ganh ghét!

Là Chính trị viên của Tiểu đoàn, thấy tận mắt những cảnh đấu tố, mạ lỵ và giết chóc những địa chủ, ông cảm thấy bất bình và hết sức chán nản! Đây cũng là lý do chính thứ hai để ông chống đối lại cách mạng mà trước đây ông đã mù quáng, lầm lẫn để tham gia một cách nhiệt tình!

* Trong cuộc phỏng vấn nhà thơ Hữu Loan của HƯƠNG LY, ban Việt ngữ đài BBC phát thanh ngày 12-10-2002, trả lời tại sao ông bị trù dập vì bài thơ “Màu Tím Hoa Sim”, ông trả lời:

-“Bởi vì người ta làm thơ lúc bấy giờ là phải làm về đảng, ca tụng đảng, ca tụng Cọng sản, ca tụng cái buôn bán chiến tranh. Bởi vì cái đánh nhau là cái dễ kiếm chác lắm. Mà kiếm chác ở cái chiến tranh ấy thì khó kiểm tra lắm, cho nên cái bọn ăn bẩn ấy là bao giờ cũng chủ trương chiến tranh, buôn bán chiến tranh. Mà tôi thấy cái đấy là cái khổ dân nhất, nên tôi chống cái ấy hết sức. Cũng vì vậy nên tôi làm cái bài thơ ấy, lúc mà người ta đang một tí là đề cao Hồ Chí Minh, hai tí là đề cao Hồ Chí Minh, buộc làm thơ là phải có Hồ Chí Minh, phải có đảng Cọng sản... Còn tôi, làm thơ khóc vợ, nó cho là tôi khóc cho cái tình cảm riêng...“

* Sáng tác của Hữu Loan trong Phong trào Nhân Văn Giai Phẩm, đặc biệt có 2 tác phẩm đáng được để ý, đó là:

1) Bài thơ “CŨNG NHỮNG THẰNG NỊNH HÓT” (Sau khi đọc bài “Những thằng nịnh hót” của Maiakopski), bài thơ trên đăng trong “Giai phẩm mùa Thu, tập II”. Nội dung bài thơ này là để biểu dương ý chí bất khuất của tác giả trước những sự bất công và thối nát của chế độ. Năm 1971, ông Kim Nhật cho đăng lại bài này trên Tạp chí VĂN HỌC ở miền Nam, có đề ghi thêm “Để tặng những thằng nịnh hót ở Sài Gòn”.

2) Truyện ngắn “LỘN SÒNG” đăng trong “Giai phẩm mùa Đông tập I”. Truyện kể lại ký ức của ông trong thời gian ông dạy học tại Thanh Hóa. Nhân vật giáo sư Tuất là một kẻ dốt nát, không có trình độ, lợi dụng vai trò đảng trong chi bộ của trường để có những hành động như: * man khai, nâng cấp trình độ học vấn và thành tích công tác của mình để thủ lợi. * Nịnh hót cấp trên. * Bới móc những yếu điểm và đời tư cũng như chụp mũ những cái xấu cho đồng nghiệp, để dìm đạp và hại người..., để mình được đề cao lên và được trọng dụng...

(Tự thuật của nhà thơ Hữu Loan):

“Mất nàng, mất tất cả. Tôi chán đời, chán kháng chiến, bỏ đồng đội, từ giã văn đàn, về quê làm ruộng. Một phần, cũng vì tính tôi “hay cãi, thích chống đối, không thể làm gì trái với suy nghĩ của tôi”. Bọn họ chê tôi ủy mị, hoạch họe đủ điều, không chấp nhận sự tự ý từ bỏ kháng chiến của tôi. Mặc kệ! Tôi thương tôi, tôi nhớ hoa sim của tôi quá! Với lại tôi cũng chán ngấy bọn họ quá rồi!

Đó là thời năm 1955-1956, khi phong trào văn nghệ sĩ bùng lên với sự xuất hiện của nhóm Nhân Văn Giai Phẩm chống chính sách độc tài, đồng thời chống những kẻ bồi bút đan tâm lừa thầy phản bạn, dốc tâm ca ngợi cái này cái nọ, để kiếm chút cơm thừa canh cặn.

Làm thơ thì phải có cái tâm thật thiêng liêng, thì thơ mới hay. Thơ hay thì sống mãi. Làm thơ mà không có tình, có tâm thì chả ra gì! Làm thơ lúc bấy giờ theo họ là phải ca tụng, trong khi đó tôi lại đề cao tình yêu, tôi khóc người vợ tử tế của mình, người bạn đời hiếm có của mình. Lúc đó tôi khóc như vậy, họ cho là khóc cái tình cảm riêng...

Y như trong thơ nói ấy, tôi lấy vợ rồi ra mặt trận, mới lấy nhau chưa được bốn tháng, ở nhà, vợ tôi đi giặt áo, rồi chết đuối ở sông... Tôi thấy đau xót, tôi làm bài thơ ấy tôi khóc, vậy mà họ cho tôi là phản động. Tôi phản động ở chỗ nào? Cái đau khổ của con người, tại sao lại không được khóc?

Bọn họ xúc phạm đến tình cảm thiêng liêng của tôi đối với người vợ mà tôi hằng yêu quí, cho nên vào năm 1956, tôi bỏ đảng, bỏ cơ quan, về nhà để đi cày. Họ không cho bỏ, bắt tôi phải làm đơn xin. Tôi không xin, tôi muốn bỏ là bỏ, không ai bắt được! Tôi bỏ tôi về, tôi phải đi cày đi bừa, đi đốn củi, đi xe đá để bán. Bọn họ bắt giữ xe tôi, đến nỗi tôi phải đi xe cút kít, loại xe đóng bằng gỗ, có một bánh xe cũng bằng gỗ ở phía trước, có hai cái càng ở phía sau, để đùn hay kéo. Xe cút kít họ cũng không cho, tôi phải gánh bộ. Gánh bằng vai, tôi cũng cứ gánh, không bao giờ tôi bị khuất phục. Họ theo dõi, ngăn cản, đi đến đâu cũng có công an theo dõi, cho người hại tôi...

Nhưng lúc nào cũng có người cứu tôi! Có một cái lạ là thơ của tôi đã có lần cứu sống tôi! Lần đó tên công an mật nói thật với tôi là nó được giao lệnh giết tôi, nhưng nó sinh ở Yên Mô, thường đem bài “YÊN MÔ” của tôi (viết về tỉnh Yên Bình của nó) ra đọc cho đỡ nhớ. Nhờ vậy mà nó không nỡ giết tôi!

Ngoài bài “YÊN MÔ”, tôi cũng có một vài bài thơ khác được mến chuộng. Sau năm 1956, khi tôi về, rồi thấy cán bộ khổ quá, tôi đã làm bài “Chiếc chiếu”, kể chuyện cán bộ khổ đến độ không có chiếc chiếu để nằm!

C. Lấy Vợ Lần 2 và “Ở Nhà Trông Vườn”

* Thời Hữu Loan còn làm Trưởng phòng Tuyên huấn Sư đoàn (SĐ), ông có biết tại một xã thuộc huyện Nga Sơn, Thanh Hóa, cách nơi đóng quân của ông 15 cây số, có một ông địa chủ giàu có với gần 500 mẫu điền sản. Là người giàu lòng nhân ái và rất yêu nước, thấy bộ đội của SĐ 304 thiếu ăn, ông thường cho tá điền gánh gạo đến tiếp tế cho SĐ. Hữu Loan đã đại diện cho SĐ để tiếp nhận và cám ơn lòng tốt của ông.

Trong chiến dịch Cải Cách Điền Địa, ông bà địa chủ này và gia đình bị lôi ra xử tử, sau khi cho dân chúng xỉ vả và mạt sát. Duy nhất cô con gái 17 tuổi tên Phạm Thị Nhu của ông bà địa chủ được tha chết và trở thành là một cô bé côi cút, đói rách, phải đi mót khoai để ăn, tối về ngủ nơi miếu đình!

Bất chấp lệnh cấm, nhà thơ Hữu Loan đã có quyết định mang cô gái này về làng mình, rồi lấy cô làm vợ (bà Phạm Thị Nhu nhỏ hơn nhà thơ Hữu Loan 20 tuổi).

Đôi vợ chồng chịu khó chịu khổ, đào đá núi đem đi bán để kiếm gạo, bữa đói bữa no! Hai người có với nhau 10 mặt con, 6 trai 4 gái và cháu nội ngoại 30 đứa.

Bà Phạm thị Nhu, vợ Hữu Loan kể:

“Chúng tôi nuôi 10 đứa con thật vô cùng vất vả, ông nhà tôi đi thồ đá, tôi làm 2 sào ruộng, lại xay bột làm bánh bán ở chợ. Hôm nào bán ế là gánh về một gánh nặng, cả nhà ăn trừ bữa. Tôi cứ xào một xoong to toàn các thứ rau, các con đi học về là nhào vào múc ăn thay cơm. Ba đứa trai lớn thì hàng ngày phải dậy từ 3 giờ sáng, kéo 3 chuyến xe cải tiến từ trên núi xuống hồ cách 2 cây số bán cho các thuyền, rồi mới ăn vội bát cơm độn, để chạy bộ 7 cây số đi học...



Cô Phạm Thị Nhu, tiểu thư của một gia đình địa chủ

* Các con của Hữu Loan gần như không có ai vào được Đại học, vì lý lịch của một kẻ “nhân văn”. Một người con đủ điểm đi học nước ngoài cũng không được cho đi học. Ông bị biết bao người thân trách cứ, nhưng Hữu Loan đã trả lời với vợ: “Thôi thì bà và các con chịu khổ, để cho tôi được sống lương thiện. Tôi mà chịu khó hót thì nhà lầu, xe hơi sung sướng đấy, nhưng tôi không làm được!”. Ông giải thích: “Làm nhà văn khó lắm. Viết vừa lòng nhà nước thì dân chửi, viết vừa lòng dân thì đi tù như chơi. Thôi tôi về đi cày!”.

* Ngày 19-12-2004, Công ty cổ phần Công nghệ Việt Vitekmua bản quyền tác phẩm “Màu Tím Hoa Sim” của nhà thơ Hữu Loan với giá 100 triệu đồng. Tác giả phân chia cho các con 60 triệu, còn giữ lại 30 trệu để lo cho tuổi già hai vợ chồng sau khi trích một ít để in ấn Tập “Thơ Hữu Loan” (khoảng 40 bài).

(Tự thuật của nhà thơ Hữu Loan):

“Định mệnh đưa đẩy, dắt tôi đến với một phụ nữ khác, sống cùng tôi đến tận bây giờ. Cô tên Phạm Thị Nhu, cũng là một phụ nữ có tâm hồn sâu sắc. Cô vốn là một nạn nhân của chiến dịch Cải Cách Ruộng Đất, đấu tố địa chủ năm 1954, 1955.

Lúc đó tôi còn là Chính trị viên của Tiểu đoàn. Tôi thấy tận mắt những chuyện đấu tố. Là người có học, lại có tâm hồn nghệ sĩ, nên tôi cảm thấy chán nản quá, không còn hăng hái nữa. Thú thật, lúc đó tôi thất vọng vô cùng. Trong một xã thuộc huyện Nga Sơn, Thanh Hóa, cách xa nơi tôi ở 15 cây số, có một gia đình địa chủ rất giàu, nắm trong tay gần năm trăm mẫu tư điền.

Trước đây, ông địa chủ đó giàu lòng nhân đạo và rất yêu nước. Ông thấy bộ đội Sư đoàn 304 thiếu ăn nên ông thường cho tá điền gánh gạo đến chỗ đóng quân để ủng hộ. Tôi là Trưởng phòng Tuyên huấn và Chính trị viên của Tiểu đoàn nên phải thay mặt anh em ra cám ơn tấm lòng tốt của ông, đồng thời đề nghị lên Sư đoàn trưởng trao tặng bằng khen ngợi để vinh danh ông.

Thế rồi, một hôm, tôi nghe tin gia đình ông đã bị đấu tố. Hai vợ chồng ông bị Đội Phóng tay Phát động quần chúng đem ra cho dân xỉ vả, rồi chôn xuống đất, chỉ để hở hai cái đầu lên. Xong họ cho trâu kéo bừa, đi qua đi lại hai cái đầu đó cho đến chết!

Gia đình ông bà địa chủ bị xử tử hết, chỉ có một cô gái 17 tuổi được tha chết, bị đuổi ra khỏi nhà với vài ba bộ quần áo cũ rách. Tàn nhẫn hơn nữa, chúng còn ra lệnh cấm không ai được liên hệ, nuôi nấng, hoặc thuê mướn cô ta làm công. Thời đó, cán bộ cấm đoán dân chúng cả việc lấy con cái địa chủ làm vợ, làm chồng.

Biết chuyện thảm thương của gia đình ông bà địa chủ mà tôi hằng nhớ ơn, tôi trở về xã đó, xem cô con gái họ sinh sống ra sao, vì trước kia tôi cũng biết mặt, vì cô bé cứ mỗi buổi chiều lại lén lút đứng núp bên ngoài cửa sổ nghe tôi giảng Kiều ở trường Mai Anh Tuấn.

Lúc gần tới xã, tôi gặp cô ta áo quần rách rưới, mặt mày lem luốc. Cô đang lom khom nhặt những củ khoai mà dân bỏ sót, nhét vào túi áo, chùi vội một củ rồi đưa lên miệng gặm, ăn khoai sống cho đỡ đói.

Quá xúc động, nước mắt muốn ứa ra, tôi đến gần hỏi thăm và được cô kể lại rành rọt hôm bị đấu tố, cha mẹ cô bị chết ra sao. Cô khóc rưng rức và nói rằng gặp ai cũng bị xua đuổi. Hằng ngày cô đi mót khoai ăn đỡ đói lòng, tối về ngủ trong miếu hoang. Cô rất lo lắng sợ bị làm bậy và không biết ngày mai còn sống hay bị chết đói!

Tôi suy nghĩ rất nhiều, bèn quyết định đem cô về làng tôi, và bất chấp lệnh cấm, lấy cô làm vợ. Sự quyết định của tôi không lầm. Quê tôi nghèo, lúc đó tôi còn ở trong bộ đội nên không có tiền, nhưng cô chịu thương chịu khó, bữa đói bữa no... Cho đến bây giờ, cô đã cho tôi 10 người con, 6 trai 4 gái, và cháu nội ngoại hơn 30 đứa!

Trong mấy chục năm dài, tôi về quê an phận thủ thường, chẳng màng đến thế sự, ngày ngày đào đá núi đem đi bán, túi dắt theo vài cuốn sách cũ tiếng Pháp, tiếng Việt, đọc cho giải sầu, lâu lâu nổi hứng làm bài thơ. Thế mà chúng vẫn trù dập, không chịu để cho tôi yên.

Tới hồi mới mở cửa, tôi được ve vản, mời gia nhập Hội Nhà Văn, tôi chẳng thèm gia nhập làm gì.

Năm 1988, tôi “tái xuất giang hồ” sau 30 năm tự chôn và bị chôn mình ở chốn quê nghèo, đèo heo hút gió. Tôi lang bạt gần một năm trời theo chuyến đi xuyên Việt do Hội Văn Nghệ Lâm Đồng và Tạp chí Langbian tổ chức để đòi tự do Sáng tác, tự do báo chí, xuất bản và Đổi Mới thực sự.

Vào tuổi gần đất xa trời, cuối năm 2004, công ty Cổ phần Công nghệ Viek VTB đột nhiên đề nghị mua bản quyền bài “MàuTím Hoa Sim” của tôi với giá 100 triệu, trừ thuế đi còn 90 triệu đồng. Họ bảo đó là một hình thức bảo tồn tài sản văn hóa. Thì cũng được đi. Khoản tiền 90 triệu, chia “lộc” cho 10 đứa con hết 60 triệu đồng, tôi giữ lại 30 triệu đồng, phòng đau ốm lúc tuổi già, sau khi trích một ít để in tập thơ khoảng 40 bài mang tên “Thơ Hữu Loan”.

Sau vụ này, cũng có một số công ty khác xin ký hợp đồng mua mấy bài thơ khác, nhưng tôi từ chối, thơ tôi làm ra không phải để bán.”



Vợ chồng ông bà Hữu Loan, Phạm Thị Nhu
(Nhà ở thôn Vân Hoàn, xã Nga Lĩnh, Nga Sơn, Thanh Hóa)

Tâm sự của Nhạc sĩ Trịnh Hưng (sau chuyến thăm bạn cũ Hữu Loan, năm 2002:

“Tôi nghe anh kể mà thương anh nhiều hơn, một trí thức đầy nghị lực, chí khí. Dù quảng đời còn lại của anh phải gánh chịu nhiều đau khổ, mất mát, nhưng tinh thần bất khuất nơi anh không bao giờ mất:

Thơ là anh
Là em gái anh
Là người vợ anh
Là đồng đội, bạn hữu anh!


Những người Vệ quốc quân đánh Pháp, bảo vệ tổ quốc hơn nửa thế kỷ trước, đã có bao nhiêu người có cuộc sống ấm no? Những người chiến sĩ cùng chung vai sát cánh với Việt minh đánh Pháp, có bao nhiêu người được đối xử xứng đáng với tấm lòng yêu nước và sự hy sinh của họ? Hay xác nhận họ chỉ là trâu ngựa, là chiếc đinh vít đã rỉ sét bị vùi dập trong đống gạch vụn của ngôi nhà Xã Hội Chủ Nghĩa mục nát. Và còn có biết bao nhân tài, bao văn nghệ sĩ bị chết tức tưởi vì chế độ bạo ngược của Cọng sản, cho đến chết không có một chén cơm độn no lòng! Tôi nghĩ đến QUANG DŨNG, TRẦN DẦN, TỬ PHÁT... và đến số phận nhà thơ HỮU LOAN, để nói với chế độ Cọng sản bất nhân, rằng chế độ đó không thể tồn tại mãi với thời gian, và tôi mong họ hảy trả lại cho nhân dân Việt Nam cuộc sống TỰ DO, NO ẤM!
(Trịnh Hưng “Paris, 15-6-2002”)

D. Giao tiếp với xã hội bên ngoài sau 30 năm bị chôn và tự chôn mình “Ở nhà trông vươn”




Trịnh Hưng và Hữu Loan gặp lại nhau (năm 2002 sau 50 năm xa cách)



Hữu Loan và Phạm Duy gặp lại nhau



Cuộc thăm viếng Hữu Loan của TS Cù Huy Hà Vũ


Sau gần 30 năm bị chôn và tự chôn mình “Ở nhà trông vườn” tại quê nhà của mình, nhà thơ Hữu Loan đã có những giao tiếp với xã hội bên ngoài, cụ thể và tiêu biểu qua một số sự kiện như sau:

1) Cuộc gặp mặt và phỏng vấn của VN Express.

2) Cuộc gặp mặt và phỏng vấn của Tuổi trẻ Online.

3) Cuộc gặp mặt và nói chuyện của Vũ Toàn, nxb Kim Đồng.

4) Cuộc gặp mặt và phỏng vấn của Việt Nam net.

5) Cuộc thăm viếng và trò chuyện của Tiêu Dao Bảo Cự, nxb Văn Nghệ, năm 1998.

6) Cuộc phỏng vấn của Hương Ly, ban Việt ngữ đài phát thanh BBC, năm 2002.

7) Cuộc thăm viếng và hàn huyên của nhạc sĩ Trịnh Hưng với bạn cũ Hữu Loan, năm 2002, sau khoảng 50 năm xa cách nhau.

8) Nhà văn Viên Linh, tạp chí Khởi hành trao giải Văn Chương Toàn Sự Nghiệp cho nhà thơ Hữu Loan.

9) Nhà phê bình Văn học Phạm Xuân Nguyên đã nhiều lần đến thăm viếng nhà thơ Hữu Loan.

10) Cuộc thăm viếng của nhạc sĩ Phạm Duy.

11) Cuộc thăm viếng của Tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ.

* Đặc biệt, nhà thơ Hữu Loan có 2 cuộc hành trình dài ngày về phương Nam:

1) Năm 1987, Hội Văn nghệ Lâm Đồng được thành lập, nhà thơ Bùi Minh Quốc giữ chức Chủ tịch, nhà văn Tiêu Dao Bảo Cự giữ chức Phó Chủ tịch. Đồng thời, hai người này cũng là Tổng và Phó Biên tập nhà xuất bản Langbian (tạpchí này ra mới được 3 số thì bị đình bản).

Hội Văn Nghệ Lâm Đồng đề xuất mở một cuộc hành trình Cuối Đông, kéo dài từ ngày 4-11-1988 đến 17-12-1988, do hai vị Chánh Phó Chủ tịch, nhà văn kiêm nhà báoTiêu Dao Bảo Cự, với khách mời là nhà thơ Hữu Loan cùng đi. Xuất phát từ Đà Lạt xuống Sài Gòn, qua các tỉnh miền Trung, ra Hà Nội..., với mục đích là vận động giới trí thức, văn nghệ sĩ đấu tranh với Trung ương đảng Cọng sản VN, để đòi được tự do báo chí, tự do xuất bản. Trong 1 tháng 14 ngày, họ đã đi hơn 6,000 cây số, thu được 118 chữ ký. Sau vụ này, tháng 6-1989, Bùi Minh Quốc và Tiêu Dao Bảo Cự bị cách chức, và bị khai trừ khỏi đảng.

2) Một số bạn nhà văn, nhà thơ mời thi sĩ Hữu Loan tham dự một chuyến hành trình về phương Nam, khởi đầu từ những ngày trước Tết Canh Ngọ 1990, thăm viếng khắp mọi nơi, đặc biệt như là:

- Trong thời gian ½ tháng dừng chân ở Quảng Ngãi, ông có dự lễ kỷ niệm 75 năm ngày sinh của thi sĩ Bích Khê, đi chơi và nói chuyện thơ ở một số nơi.

- Trong một đêm thơ nhạc từ thiện gây quỹ giúp đỡ cho học sinh nghèo trường PTTH huyện Tư Nghĩa, hàng nghìn người đã vỗ tay hoan nghênh khi nhà thơ xuất hiện với chòm râu bạc phơ và trong giọng nói chơn chất của xứ Thanh.

E. Tác giả và Tác Phẩm

“Tôi làm thơ không nhiều. Toàn bộ gia tài thơ có khoảng 40 bài, nhưng bài nào cũng được khen hay. Thơ tôi không giống ai, ngắt câu, lên xuống dòng tùy ý. Vậy mà,lại đọc nghe lúc nào cũng mới!”.

Lời bộc bạch bên trên của nhà thơ Hữu Loan nghe thật chơn chất làm sao ấy, Không nhún mà cũng không khoe!

Đúng như chúng ta cũng đã biết, ông có trích một ít tiền trong số tiền 30 triệu dành cho tuổi già của hai ông bà (tiền bán bản quyền bài thơ “Màu Tím Hoa Sim”) để in Tập Thơ Hữu Loan khoảng 40 bài, như ông đã nói.

- 1946, “Đèo Cả” Là bài thơ đầu tay của Hữu Loan.

Con đèo này dài 12 cây số, là ranh giới giữa hai tỉnh Phú Yên và Khánh Hòa. Quân Pháp bị cầm chân ở Nha Trang, nhưng lực lượng họ muốn chọc thủng Đèo Cả, đánh ra Tuy Hòa, để bắt tay với binh đội của họ ở phía Bắc. Tác giả được cấp chỉ huy của mình, Trung đoàn trưởng 79 cấp cho ông con ngựa – một con ngựa bất kham. Tác giả từ Tuy Hòa thúc ngựa ra đi.



“Đèo Cả” mang một màu sắc bi tráng của thời đại. Trong nỗi gian khổ của hiện thực là thế, nhưng vẫn không thiếu nét mơ mộng và lãng mạn. Núi rừng hoang dại, thú dữ, lam sơn, chướng khí, sốt rét và cái đói dày vò, râu tóc sạm nắng gió, nhưng hùng tâm không nao núng, chí khí vẫn can trường!

Hữu Loan gửi bài thơ về tặng cho cô học trò nhỏ bé Lê Đỗ thị Ninh người đã hằng yêu phục ông “gia sư tài hoa” của mình, nay lòng nàng lại càng thêm thổn thức không ít, khi nhận đọc được bài thơ này!

- 1947, “Yên Mô” bài thơ cứu mạng sống cho ông.

Có người phỏng vấn nhà thơ về điều tâm đắc của tác giả trong tác phẩm của mình, nhà thơ Hữu Loan trả lời: “Trong thơ, tôi có niềm khao khát cháy bỏng cho một đất nước được tự do, dân tộc được giải phóng khỏi ách đô hộ của thực dân Pháp, đó là nỗi niềm lớn nhất. Còn nhớ, ngày đó có một tên công an mật nói với tôi là nó được giao lệnh giết tôi. Nó sinh ở Yên Mô nên thường hay đọc bài thơ “Yên Mô” viết về quê nó để đỡ nhớ nhà. Do thế mà nó không nỡ giết tôi”.

Đêm nhúng sương trăng soi
Ngày phơi bông vàng nắng
Anh làm du kích Yên Mô
Nửa đêm trăng mọc đỏ như cháy đồn”


- 1949, “Màu Tím Hoa Sim”

- 1950, “Nếu Anh Không Đi”

- 1950, “Tình Thủ Đô”

- 1955, “Hoa Lúa” Bài thơ viết tặng cho người vợ thứ hai Phạm thị Nhu.

- 1956, “Chiếc Chiếu”

 

“Thấy cán bộ khổ quá, tôi mới làm cái bài thơ “Chiếc Chiếu” ấy. Lúc bấy giờ, nhà ai cũng vậy, chiếc chiếu cũng không có mà nằm. Cán bộ đói đến như thế đó vậy! Đọc bài thơ ấy, Trần Dần bảo tôi đấy cũng là chiếc chiếu của Văn nghệ sĩ đấy !

- 9-1956, “Cũng Những Thằng Nịnh Hót” Đăng trong “Giai Phẩm Mùa Đông, Tập I”, tháng 9-1956, phong trào Nhân Văn Giai Phẩm.

- 12-1956, “Lộng Sòng” Đăng trong “Giai Phẩm Mùa Thu, Tập II”, tháng 12-1956, phong trào Nhân Văn Giai Phẩm.

- 1957, “Ôm Tết Vào Lòng”

- 1957, “Tò He”

- 1988, “Cây Gỗ Vuông Chành Chạnh”

1988, năm nhà thơ Hữu Loan 73 tuổi, ông “tái xuất giang hồ”, rong ruổi về phương Nam, sau 30 năm bị chôn và tự chôn mình nơi quê nhà đèo heo hút gió, cày cuốc, đào đá đem bán, để kiếm sống. Hữu Loan làm bài thơ này ví mình như “cây gỗ vuông chành chạnh” đã làm thất bại âm mưu đẽo tròn cây gỗ vuông, để nó có thể tùy tiện lăn lóc đi đâu, thế nào cũng được.

Tôi là cây/ gỗ/ vuông/ chành/ chạnh/ suốt đời/ đã làm thất bại/ mọi âm mưu/ đẽo tròn/ để muốn tùy tiện/ lăn lóc thế nào/ thì lăn lóc. . . “

- 6-1988, “Chuyện Tôi Về” Một bài thơ dài, mới nhất của ông. Loại bút ký thơ này của ông kể lại thời gian qua:

Ba mươi năm không phải một chuyện
Một sớm, một chiều
Một ngày tù đã dài như thế kỷ
Ấy là tù giữa chợ..
.“

Rồi:

Tôi không làm nhà vì mắc làm Người

Và:

Đi ăn cắp và làm cán bộ là tôi không

- 1991, “Thánh Mẫu Hài Đồng”

F. Từ Thơ Lan Sang Nhạc

Bài thơ “Màu Tím Hoa Sim” đã gây được nhiều xúc động cho khắp mọi người, mọi giới. Riêng trong lĩnh vực âm nhạc, bài thơ này cũng là một đề tài hấp dẫn, gợi hứng nhiều cho các nhạc sĩ để cảm tác nên những ca khúc nổi danh, có lẽ sẽ sống mãi với thời gian trong lòng của người dân. Xin đan cử:

1) “Những Đồi Hoa Sim” của nhạc sĩ Dzũng Chinh

Năm 1960, Nguyễn Văn Chính (còn có thông tin ghi là Nguyễn Bá Chính) đang là Sinh viên Luật khoa Sài Gòn sáng tác bản nhạc Những Đồi Hoa Sim, dưới tên tác giả là Dzũng Chinh. Năm 1960, lần đầu tiên, qua tiếng hát của Phương Dung, bài nhạc này được nổi tiếng vang dậy khắp mọi nơi. Nhiều ca sĩ khác hát bài này cũng thành công và được ưa thích, có thể ghi nhận thêm như: Hoàng Oanh, Như Quỳnh, Hương Lan, Duy Quang, Tuấn Vũ...

2) “Chuyện Hoa Sim” nhạc sĩ Anh Bằng
Ca sĩ : Đan Nguyên, Như Quỳnh. . .

3) “Tím Cả Chiều Hoang” nhạc sĩ Anh Bằng
Ca sĩ: Bảo Tuấn, Tư Râu.

4) “Tím Cả Rừng Chiều” nhạc sĩ Thu Hồ (tức Hồ Thu (1919-2000), thân phụ của ca sĩ Mỹ Huyền (con út). Ca sĩ nổi tiếng với bài hát này có Phương Dung.

5) “Màu Tím Hoa Sim” nhạc sĩ Duy Khánh. Bài này có lời theo sát với nguyên tác bài thơ “Màu Tím Hoa Sim” của Hữu Loan.

6) “Màu Tím Hoa Sim” của Hữu Loan” (phổ nhạc) nhạc sĩ Song Ngọc

7) “Áo Anh Sứt Chỉ Đường Tà” của nhạc sĩ Phạm Duy.

“Áo anh sứt chỉ đường tà” một bi hùng ca của nhạc sĩ Phạm Duy được mọi người cho là bài nhạc thành công nhất, hay nhất, trong tất cả những ca khúc được viết dựa theo bài thơ “Màu Tím Hoa Sim” của nhà thơ Hữu Loan. Phạm Duy bắt đầu viết bài này từ năm 1949 và hoàn thành năm 1971. Ông chia bài nhạc thành 4 phần, mỗi phần là một âm giai khác nhau và nhịp điệu cũng khác nhau gồm: (1) Nhịp 4/4, Đô thứ, (2) Nhịp 2/4, Đô trưởng, (3) Nhịp 4/4, La thứ, (4) Nhịp 3/4, Đô trưởng.

Bài hát này được nhiều ca sĩ hát, nhưng thành công, được nhiều người khen tặng nhất là: Thái Thanh, Elvis Phương.

G. Thi Sĩ Hữu Loan Lìa Đời.

Thi sĩ Hữu Loan đã ra đi, về với cõi vĩnh hằng vào lúc 19 giờ ngày 18 tháng 3 năm 2010, tại nhà của ông, thôn Vân Hoàn, xã Nga Lĩnh, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa, hưởng thọ 95 tuổi.



Thi sĩ Hữu Loan năm 95 tuổi (1916-2010)

Chúng ta hãy kính cẩn nghiêng mình trước vong linh của cụ, để tưởng niệm một nhà thơ tài hoa, một chiến sĩ yêu nước, một văn nghệ sĩ bất khuất, không hề cúi đầu, không chịu lùi bước trước bạo lực, cường quyền vô nhân của chế độ Cọng sản Việt Nam, trải dài trong suốt 61 năm, từ ngày bài thơ “Màu Tím Hoa Sim” ra đời (1949) cho đến lúc cụ lìa đời (2010).



Đám tang thi sĩ Hữu Loan



Mộ thi sĩ Hữu Loan


H. Bà Phạm Thị Nhu qua đời.

Người vợ thứ hai của nhà thơ Hữu Loan, bà Phạm Thị Nhu “Cô con gái đồng xanh, tóc dài vương hoa lúa” mà nhà thơ muôn vàn thương yêu “Anh yêu em muôn vàn như quê ta bất diệt” đã qua đời lúc 9.05 ngày 18 tháng 5 năm 2013, hưởng thọ 78 tuổi.

Thế Đại NGUYỄN THÁI ĐỆ
(Những ngày Đông, đầu năm 2015)

* * *

Nhạc liên hệ:

Những Đồi Hoa Sim. Sáng tác: Dzũng Chinh – Ca sĩ: Phương Dung; click vào đây.
Chuyện Hoa Sim. Sáng tác: Anh Bằng – Ca sĩ: Như Quỳnh; click vào đây.
Tím Cả Chiều Hoang. Sáng tác: Anh Bằng – Ca sĩ: Bảo Tuấn; click vào đây.
Tím Cả Rừng Chiều. Sáng tác: Thu Hồ – Ca sĩ: Phương Dung (pre 1975); click vào đây.
Màu Tím Hoa Sim. Sáng tác: Duy Khánh – Ca sĩ: Duy Khánh; click vào đây.
Màu Tím Hoa Sim. Sáng tác: Song Ngọc – Ca sĩ: Minh Hiếu (pre 1975); click vào đây.
Áo Anh Sứt Chỉ Đường Tà. Sáng tác: Phạm Duy – Ca sĩ: Quốc Khanh; click vào đây.

* * *

Xem bài cùng tác giả: click vào đây
Xem bài trên trang Biên khảo: click vào đây
Về trang chính: http://www.nuiansongtra.net

 


Nếu độc giả, đồng hương, thân hữu muốn: 

* Liên-lạc với Ban Điều Hành hay webmaster 
* Gởi các sáng tác, tài liệu, hình-ảnh... để đăng 
* Cần bản copy tài liệu, hình, bài...trên trang web:

Xin gởi email về: quangngai@nuiansongtra.net 
hay: nuiansongtra1941@gmail.com

*  *  *

Copyright by authors & Website Nui An Song Tra - 2006


Created by Hiep Nguyen
log in | ghi danh