QUI MÔ PHÁT TRIỂN CỦA NỀN GIÁO DỤC VIỆT NAM CỘNG HÒA TẠI TỈNH QUẢNG NGÃI
Trọng Trương Quang
Nước Việt-Nam Cọng-Hòa (VNCH) tồn tại 21 năm, đã thiết lập nền móng giáo dục phổ quát và tiến bộ vào hàng đầu toàn cõi Đông Nam Á, đào tạo nên những thế hệ có tài năng và đức hạnh, hiện đã và đang góp công vào tiến bộ xã hội ở hải ngoại và một phần còn trong quốc nội. Từ thời Chiến quốc, Tể-tướng Quản Trọng đề ra quốc sách kinh bang tế thế: “Nhất niên chi kế tại ư thụ cốc, thập niên chi kế tại ư thụ mộc, bách niên chi kế mạc ư thụ nhân” (Kế hoạch 1 năm thì trồng lúa, kế hoạch 10 năm thì trồng cây, kế hoạch 100 năm không gì bằng trồng người). Hai vế đầu nói về kinh tế, vế cuối quan trọng nhất: TRỒNG NGƯỜI, là giáo dục và đào tạo nên “con người”.
Việt Cộng sách động học sinh biểu tình đòi hủy bỏ
sách báo ngoại ngữ & giáo dục VNCH, tháng 5/75
Sau 39 năm Cộng Sản (CS) Bắc Việt xâm chiếm và thiêu hủy tất cả sách báo văn hóa VNCH, rồi họ áp đặt chế độ “Giáo dục tam vô” nhằm uốn nắn con dân thành công cụ của đảng CS độc tài; nên đã dẫn đến suy thoái phong hóa, băng hoại cả về học vấn (24,300 tiến-sĩ và 101,000 thạc sĩ hầu hết là “bằng dỏm” như tất cả 16 Ủy viên Bộ Chính trị và 12 Bộ trưởng đều là Tiến sĩ, nửa triệu cán bộ cỏn con học bổ túc văn hóa mua được bằng Cử-nhân), đồi bại cả về phẩm cách (như Hiệu trưởng Sầm Đức Xương, tỉnh Hà-Giang mua dâm học sinh bằng điểm học rồi hiến dâm học sinh cho lãnh đạo tỉnh để được lên chức, hoặc ngay giữa lớp 11 trường trung học phổ thông Nguyễn Huệ ở huyện Tây Sơn tỉnh Bình-Định, thầy giáo bạt tai một học sinh vô kỷ luật thì bị mấy học sinh nhảy lên đánh đấm thầy như côn đồ ẩu đả nơi chợ búa).
Hiện nay, toàn dân Việt-Nam - đến cả thức giả còn chút lương tâm của Bắc bộ phủ - đều vô cùng luyến tiếc nền Giáo dục chân chính đạt hiệu quả ưu việt của nước VNCH phía Nam vĩ tuyến 17. Thoáng nhìn lại nền Giáo dục đã vinh dự đi vào lịch sử, tôi tự biết không thể nào viết đầy đủ được trong khuôn khổ giới hạn của một bài viết, xin bạn đọc thông cảm.
Nền tảng và Lý luận Giáo dục VNCH:
Từ năm 1917, chính quyền Pháp thuộc đã có hệ thống Giáo dục thống nhất trên toàn cõi Đông-Dương bao gồm 3 miền VN, Lào, Cambodia (nên lãnh tụ của 2 nước sau đều xuất thân từ Đại học Hà-Nội), đã dùng Pháp ngữ trong học đường. Vua Bảo-Đại tuyên bố độc lập tháng 3/1945 (ngay khi quân Nhật đầu hàng Hoa-Kỳ) và thành lập Chính phủ do Thủ-tướng Trần Trọng Kim với Bộ trưởng Giáo dục là Gs Bác học Hoàng Xuân Hãn đã hoạch định chương trình Giáo dục Quốc qia VN. Sau đó vì quân Pháp quay lại VN nên Pháp ngữ còn tiếp tục là ngôn ngữ chính cho đến năm 1950 (riêng vùng Việt minh quản trị chỉ dùng Việt ngữ).
École Normale Supérieure, Paris. Thạc sĩ Phạm Duy Khiêm
(có dấu*) là người Việt đầu tiên đạt học vị nầy. Hiện diện là
Tổng thống Pháp Pompidoux (có dấu X).
Sau năm 1954, Tổ quốc bị chia cắt, nước VNCH phía Nam vĩ tuyến 17 đã thiết lập nền Giáo dục độc lập, hội tụ được cả 2 triết thuyết giáo dục thiên về lý thuyết quảng văn của Pháp với mô hình giáo dục khoa học thực dụng của Hoa-Kỳ. Năm 1958, Chính phủ thời đệ nhất Cọng-hòa đã tổ chức Đại hội Giáo dục (GD) dưới quyền Bộ trưởng Giáo dục Trần Hữu Thế, qui tụ đông đảo trí thức, học giả, giáo sư, chính quyền và phụ huynh học sinh, đề ra chính sách Giáo dục Tiểu học là cưỡng bách và miễn phí, Giáo dục Đại học tự trị. Triết lý giáo dục là Nhân bản, Dân tộc, Khai phóng. Sách chép những nguyên tắc căn bản ấy được Bộ GD ấn hành năm 1959 và ghi trong Hiến pháp VNCH năm 1967 ở điều 11.1. Đại hội Giáo dục năm 1964 (đệ nhị Cọng-hòa) để kiểm điểm và xác định triết lý giáo dục nêu trên là tiến bộ, ích quốc lợi dân, xã hội dân chủ trên nền tảng của Tuyên ngôn quốc tế Nhân quyền.
- Giáo dục NHÂN BẢN lấy con người làm bản vị, cứu cánh là con người (không thể là phương tiện hay công cụ cho ai hay đảng phái nào). Triết lý Nhân bản tôn trọng nhân cách và giá trị mỗi học sinh, thừa nhận sự khác biệt giữa cá nhân. Không chấp nhận kỳ thị tôn giáo, chủng tộc, địa phương. Mọi người được hưởng đồng đều về qui chế giáo dục, bất luận chính kiến.
- Giáo dục DÂN TỘC tôn trọng truyền thống dân tộc trong mọi sinh hoạt xã hội. Phát huy và bảo tồn tinh hoa Văn hóa dân tộc, trên hết là bảo vệ nòi giống Lạc Việt trường tồn trên Tổ quốc VN toàn vẹn.
- Giáo dục KHAI PHÓNG từ chối ý hướng dân tộc cực đoan, bảo thủ, bế môn. Tiêu chí Khai phóng là mở rộng tư tưởng, tiếp nhận kiến thức, khoa học và kỹ thuật tân tiến khắp nơi. Đón nhận có chọn lọc Văn hóa nhân loại.
Từ ba nguyên tắc căn bản kể trên, chính quyền VNCH đề ra những mục tiêu cho nền Giáo dục là: a) Phát triển toàn diện mỗi cá nhân; b) Phát triển tinh thần quốc gia; c) Phát triển tinh thần khoa học và ý thức dân chủ.
Năm 1973, nước VNCH có 20% dân số là học sinh, bao gồm 3,101,560 học sinh Tiểu học + 1,091,779 học sinh Trung học + 101,454 sinh viên Đại học. Người biết đọc biết viết Việt-ngữ hơn 87% dân số, là chỉ số đáng khâm phục về dân trí của quốc gia VN đang phát triển. Mặc dù suốt 20 năm trong cuộc chiến khốc liệt chống CS Bắc Việt xâm lược (kể cả 4 năm xáo trộn chính trị), nền Giáo dục VNCH vẫn phát triển theo qui mô rộng lớn: một quốc sách đạt đến thành quả rực rỡ nhất, là nhờ vào các nhà lãnh đạo giáo dục có sáng kiến, hàng ngũ giáo chức có lương tâm nghiệp vụ và dân chúng rất hiếu học để nắm giữ cho được chìa khóa lập thân trong đời.
Những vị lãnh đạo Giáo dục VN đem tài năng và công sức tuần tự bồi đắp nền tảng vững chắc và tiến bộ cho Văn hóa VN là Chí sĩ Phan Huy Quát (chết trong tù “cải tạo” của VC), Ts Nguyễn Thanh Giung, Ts Trần Hữu Thế, Gs Nguyễn Văn Trường, Bs Trần Ngọc Ninh, Bs Lê Minh Trí (CS thành đoàn ném lựu đạn vào xe ám sát 6-1-1969), Bs Nguyễn Lưu Viên, DS Ngô Khắc Tĩnh (bị tù “cải tạo” của VC, khi sang Hòa-Kỳ thì chết năm 2005), TS Đỗ Bá Khê, TS Nguyễn Thanh Liêm, và các Bộ trưởng Giáo Dục Vương Quang Nhường, Nguyễn Dương Đôn, Nguyễn Quang Trình.
Bản đồ miền Nam Việt Nam
Ngân sách quốc gia vốn eo hẹp, đã dành phần lớn cho quốc phòng hết 40%, cho nội vụ 13%, chỉ 7,5% cho giáo dục. Hệ thống Giáo dục được điều hành thống nhất từ Bộ Quốc gia Giáo dục với các Nha Sở chuyên môn tại thủ đô Sài-Gòn, xuống Ty Tiểu học và Trường Trung học Công lập lớn ở tỉnh lỵ, đến tận các Trường học ở quận và xã. Từ năm 1958, các Trường Trung học phát triển rầm rộ ở khắp các tỉnh, nên Nha Trung học ủy nhiệm cho Hiệu trưởng trường Trung học công lập ở tỉnh lỵ chăm nom các trường Trung học Bán công và Tư thục trong tỉnh. Năm 1972 Bộ Văn hóa - Giáo dục - Thanh niên thiết lập 4 Khu Học chánh ở 4 Vùng chiến thuật (quân khu) đại diện cho Bộ, đã hoạt động rất hữu hiệu, nhưng vì ngân sách hạn hẹp nên năm sau cải biến thành Sở Học chánh ở mỗi tỉnh quản trị cả Ty Tiểu hoc và các Trung học công tư trong tỉnh. Bấy giờ nước VNCH có 50 Sở Học chánh tại 48 tỉnh và 2 thành phố (xem bản đồ). Các Viện Đại học hoàn toàn tự trị cả về chuyên môn và quản trị, nên chỉ cần một Thứ trưởng Bộ GD chuyên trách điều hợp và yểm trợ ngân sách cho các Viện Đại học. Nhìn vào các cấp học và cơ sở giáo dục đa năng sau đây, không một ai có thể phủ nhận “Trường học là lò đúc nhân tài”.
A. Giáo dục bậc TIỂU HỌC:
Kể từ năm 1954 về trước, ở 6 huyện (danh từ VC dùng) trung châu của tỉnh Quảng-Ngãi mỗi huyện có một trường tiểu học gồm đủ 6 lớp từ lớp năm (cours Enfantin), lớp tư (cours Préparatoire), lớp ba (cours Élémentaire) cuối năm thi lấy bằng Sơ học Yếu lược (Certificat d’étude élémentaire), nếu tiếp tục thi đậu qua kỳ thi tuyển (concours) thì được vào trường công lập, lên lớp Nhì nhất niên (cours Moyen 1ère année) đến lớp Nhì nhị niên (cours Moyen 2ème année) và lớp Nhất (cours Supérieur) cuối niên khóa thi lấy bằng Tiểu học (C.É Primaire supérieur). Việc học trước đấy còn hạn hẹp, phân nửa dân số còn mù chữ.
Theo Hiến pháp VNCH qui định Giáo dục Tiểu học phải được Phổ cập (bắt buộc) và Miễn phí. Từ năm 1955, bậc Tiểu học còn 5 năm học từ lớp Một đến lớp Năm (lúc đầu còn gọi tên lớp như cũ, nhưng chỉ 1 lớp Nhì). Mỗi năm học sinh (Hs) phải học qua 1 lớp, có đủ điểm mới được lên lớp, nếu thiếu điểm phải lưu ban (tức học double). Nam nữ Hs học chung trong một trường, chỉ ở thành phố có riêng trường Nam, trường Nữ Tiểu học. Hs đến trường 5 ngày mỗi tuần, nghỉ học thứ Năm, Chúa Nhật và 10 ngày lễ & Tết trong niên khóa, mỗi năm được nghỉ học 3 tháng mùa Hè. Ngày học 2 buổi sáng và chiều. Có địa phương sĩ số tăng nhanh phòng học chưa đáp ứng kịp, nên phải học theo ca sáng, ca chiều, vẫn phải giữ đủ 25 giờ học mỗi tuần.
Vào đầu năm 1970, VNCH có 2,5 triệu Hs tiểu học, chiếm 82% thiếu niên từ 8 đến 12 tuổi, với 5.300 trường tiểu học (chưa kể số trường sơ cấp nhiều gấp đôi). Hs lớp 1 và 2 dành nhiều thì giờ cho tập đọc, tập viết, tập tính và luân lý. Từ lớp 3 trở lên, môn luân lý đổi tên là Đức dục và Công dân Giáo dục, có thêm giờ Thể dục ở cuối ngày. Các môn Quốc văn, Tập làm văn, Toán đố, Sử ký, Địa lý, Khoa học thường thức, Pháp ngữ (trước 1962) dạy luân phiên trong mỗi buổi học. Trong thập niên 1950 có kỳ thi lấy bằng Tiểu học vào đầu mùa Hạ cuối năm lớp Nhất. Từ năm 1961 về sau Hs được cấp bằng miễn thi Tiểu học căn cứ vào phiếu điểm học lực ở 2 lớp Nhì Và Nhất.
Nền móng Giáo dục VNCH ở bậc tiểu học sau 9 năm phát triển vượt bực đã đạt đến các tiêu chuẩn: phổ cập, miễn phí, bình đẳng và tiến hóa. Có thể khảo sát tiến trình giáo dục tại 48 tỉnh trên toàn quốc vào thời điểm 1963, sự thực hiện và thành quả đều đồng nhất. Đơn cử như ở tỉnh Quảng-Ngãi do Ty Tiểu học Quảng-Ngãi điều hành hàng trăm trường tiểu học công lập (THCL) bao gồm: tại Thị xã Quảng Ngãi có Trường Nam THCL 20 lớp và Trường Nữ THCL 15 lớp. Tại 6 quận trung châu là Đức-Phổ, Mộ-Đức, Tư Nghĩa, Nghĩa-Hành, Sơn-Tịnh, Bình-Sơn: mỗi quận đều có trường THCL từ 10 đến 15 lớp, ngay tại quận lỵ. Tại mỗi Xã (thường từ 5 đến 10 xã họp thành một quận) có 1 hoặc 2 trường THCL từ 5 đến10 lớp. Tại mỗi thôn ấp (thường từ 4 đến 8 thôn ấp họp thành một xã) có vài ba trường sơ cấp CL Ấp tân sinh (riêng lớp Mẫu giáo do ngân sách Xã đài thọ). Tại 4 quận miền núi là Ba-Tơ, Minh-Long, Sơn-Hà và Trà-Bồng: mỗi quận đều có trường THCL 10 lớp dạy chữ Việt và tiếng dân tộc thiểu số. Ở mỗi bản làng giữa núi rừng heo hút cũng có trường Tiểu học hoặc Sơ cấp Công lập.
Qui mô phát triển của sự nghiệp Giáo dục VNCH đã nâng dân trí lên cao, trẻ em đồng phục lũ lượt đến trường mang đến sức sống cho đất nước.
B. Giáo dục bậc TRUNG HỌC:
Sách giáo khoa Trung học
Tính đến năm 1970, nước VNCH có 550,000 Hs Trung học, chiếm 21% thanh thiếu niên từ 12 đến 18 tuổi tòng học tại 534 trường trung học (chưa kể ở 2 tỉnh Vĩnh-Long và Sa-Đéc). Đến năm 1975, trường trung học công lập đều khắp ở tỉnh và quận, đã dung nạp 900,000 Hs. Các trường trung học công lập nổi tiếng của VNCH có: Pétrus Ký, Chu Văn An, Lê Quí Đôn, Võ Trường Toản, Nữ Gia-Long, Nữ Trưng Vương, Nữ Lê Văn Duyệt ở Sài-Gòn; Quốc học, Nữ Đồng-Khánh ở Huế; Phan Chu Trinh ở Đà-Nẵng; Trần Quốc Tuấn ở Quảng-Ngãi; Cường-Để ở Qui-Nhơn; Võ Tánh ở Nha-Trang; Nguyễn Đình Chiểu, Nữ Lê Ngọc Hân ở Mỹ-Tho; Phan Thanh Giản, Nữ Đoàn Thị Điểm ở Cần-Thơ; Trần Hưng Đạo, Nữ Bùi Thị Xuân ở Đà-Lạt v.v...
Lớp 12 Trung học Công lập Bình-Sơn, Quảng-Ngãi chăm chú
làm bài thi Lục cá nguyệt (Photo 1974, Trương Quang).
Kể riêng tỉnh Quảng-Ngãi có 12 trường Trung học Công lập (TRHCL): Trường TrHCL Trần Quốc Tuấn và Nữ TrHCL Quảng Ngãi (tại Thị Xã), Trường TrHCL Đức Phổ (tại quận Đức-Phổ), Trường TrHCL Nguyễn Công Trứ (tại quận Mộ-Đức), các Trường TrHCL Thu-Xà , 2 Trường TrHCL đệ nhất cấp Tư-Lương và Yên-Thế (tại Quận Tư-Nghĩa), Trường TrHCL Sơn-Tịnh (tại quận Sơn-Tịnh), TrTHCL Nghĩa-Hành (tại quận Nghĩa-Hành) TrTHCL Bình-Sơn (tại thị trấn Châu-Ổ), 2 Trường TrHCL đệ nhất cấp là Phan Đình Phùng (tại quận miền núi Trà-Bồng) và Lý-Sơn (tại hải đảo Lý-Sơn) .
HS trường Trung học Công lập VNCH không trả học phí mà cũng không phải đóng góp một lệ phí nào, HS giỏi được cấp Học bổng. Bậc Trung học gồm 2 cấp:
a) Trung học đệ nhất cấp:
Có 4 năm học từ Đệ-Thất lên đến Đệ-Tứ (sau 1971 gọi theo tiệm tiến là lớp 6 lên đến lớp 9). Có bằng Tiểu học mới nộp đơn thi vào lớp Đệ Thất trung học công lập. Kỳ thi tuyển sinh nầy có tính chọn lựa khá cao, tỷ số trúng tuyển toàn quốc lối 50%, thi vào trường danh tiếng đậu dưới 10%. Những Hs hỏng thi tuyển, có thể xin nhập học các trường Trung học Tư thục mở cửa ở thành phố và thị trấn, Hs chấp nhận trả học phí. Bước vào Đệ-Thất (lớp 6), HS chọn học một ngoại ngữ Anh hay Pháp văn. Hai môn Toán học và Quốc văn chiếm nhiều giờ học, sau đến Lý, Hóa, Vạn vật và Khoa học xã hội như Sử, Địa, Công dân giáo dục. Học xong lớp Đệ-Tứ (tức lớp 9) HS dự thi bằng Trung học đệ nhất cấp (F: Diplôme d’étude primaires supérieures), đậu thi viết xong mới được vào thi vấn đáp. Từ năm 1959 bỏ phần thi vấn đáp, đến niên khóa 1966 – 67 thì Bộ GD quyết định bỏ hắn thi Trung học đệ nhất cấp.
Đội ngũ giáo sư trẻ nhiệt tình vừa tốt nghiệp Đại Học Sư Phạm Sài Gòn
b) Trung học đệ nhị cấp:
Có 3 năm học là Đệ-tam, Đệ-nhị và Đệ-nhất (sau 1971 gọi là lớp 10, 11 và 12). Hs tư thục có bằng Trung học đệ nhất cấp muốn học tiếp phải qua kỳ thi tuyển sinh vào trường công lập, tỷ lệ trúng tuyển thường dưới 40%. Học trình Trh đệ nhị cấp có thêm môn Sinh ngữ thứ 2 (nếu Anh đã là chính thì Pháp là phụ, hay ngược lại), Hs được tự chọn theo học 1 trong 4 ban: ban A (khoa học thực nghiệm tức Vạn vật), ban B (toán lý hóa), ban C (văn chương sinh ngữ), ban D (văn chương cổ ngữ: Hán tự hay cổ La-tinh). Sách giáo khoa rất dồi dào do các Gs giỏi biên soạn như Dương Quảng Hàm, TrầnTrọng San, Phạm Thế Ngũ về Quốc Văn; Trần Bích Lan, Phạm Công Thiện về Triết; Đặng Kế Viêm, Đào Văn Dương về Toán, soạn giả Lê Bá Kông, Lê Bá Khanh và bộ sách English for today về Anh; Phạm Tất Đắc và bộ sách Langue et Civilisation Francais về Pháp… Cuối năm Đệ-nhị (lớp 11), Hs dự thi Chứng chỉ Tú-tài I (F: Bac 1), thi đậu mới được lên lớp đệ-nhất (lớp 12), giờ Triết học thay cho giờ Văn học, cuối năm dự thi tất cả các môn toán, lý, hóa, khoa học thực nghiệm, khoa học nhân văn, văn nghị luận và sinh ngữ; đậu thi viết mới được vào vấn đáp để lấy bằng Tú tài 2 (F: Baccalauréat). Thể lệ nầy được sửa đổi, từ niên khóa 1972 - 73 chỉ thi Tú tài phổ thông sau 3 năm học đệ nhị cấp. Từ niên khóa 1965 - 66 về sau đề thi trắc nghiệm được áp dụng cho Sử, Địa, Công dân giáo dục, đến năm 1974 bỏ lối viết bài (essay) về Toán, Lý, Hóa, Anh ngữ, Pháp ngữ và Việt văn để thi trắc nghiệm, chấm thi bằng máy IBM khách quan hơn, tầm khảo sát trình độ học Hs cũng sâu rộng hơn. Mỗi năm có 2 kỳ thi Tú tài được tổ chức kỳ 1 vào tháng 6, nếu hỏng được thi lại vào kỳ 2 vào tháng 8. Tỷ lệ thi đậu Tú tài thường ở mức thấp từ 15% đến 30%, do đó Hs phải chuyên chú học tập thật thông suốt, cho nên bằng cấp của VNCH có giá trị đúng thật. Thi đậu Tú tài được xếp hạng: Tối ưu 18/20 điểm trở lên, rất hiếm nhiều khoa thi không có, Ưu (16/20), Bình (14/20), Bình thứ (12/20) và Thứ (10/20). Tỷ số Hs thi đậu của trường công lập bao giờ cũng cao hơn Hs trường tư thục, bởi vì Hs trường công đã qua tuyển chọn khi nhận vào lớp Đệ thất hay lớp Đệ tam.
Về trang phục, Hs trung học đến trường đều mặc đồng phục có bảng tên trường trước ngực áo: nam sinh sơ-mi trắng quần xanh biển, nữ sinh áo dài trắng quần trắng hay đen. Cái ngoại diện khả ái ấy tạo nên tầng lớp Hs được xã hội quí mến.
Trung học công lập Trần Quốc Tuấn (Quảng-Ngãi). Một số ít GS
trước bức tượng Trần Quốc Tuấn cạnh kỳ đài giữa sân trường
* Trường trung học tổng hợp (E: comprehensive High school):
Là chương trình giáo dục thực dụng và hướng nghiệp (theo quan điểm triết gia John Dewey và nhà giáo dục James B. Connant, Hoa-Kỳ) chú trọng đến thực tiển kinh tế, kinh doanh, công kỹ nghệ…, trang bị cho Hs kiến thức mưu sinh khi ra trường. Ở mỗi địa phương, phụ huynh học sinh và nhà giáo có thể đề nghị những môn học đặc thù vào học trình, để Hs có thể ứng dụng ngay vào nơi mình sinh sống. Mô hình trung học tổng hợp được áp dụng đầu tiên tại trường trung học kiểu mẫu Thủ-Đức, sau đó đến các trường trung học Nguyễn An Ninh, Sương Nguyệt Ánh ở Sài-Gòn, Chưởng-binh Lễ ở Long-xuyên. Trường trung học công lập Trần Quốc Tuấn ở Quảng-Ngãi sắp chuyển thành trung học tổng hợp thì cơ xưởng, phòng thí nghiệm bị quân CS cướp đi và phá sập trong Tết Mậu Thân (1968).
*Trường trung học kỹ thuật:
Nằm trong hệ thống Giáo dục Kỹ thuật kết hợp với Giáo dục Phổ thông. Hs trúng tuyển vào Trh Kỹ thuật được cấp học bổng toàn phần hay bán phần, học 42 giờ mỗi tuần với 2 sinh ngữ Anh và Pháp. Các trường Trh Kỹ thuật mọc lên ở nhiều tỉnh và thành phố, nổi tiếng có trường Trh kỹ thuật Cao Thắng ở Sài Gòn (tiền thân là trường Cơ khí Á châu từ năm 1906), trường Trh Nông Lâm Súc Bảo-Lộc, trường Trh kỹ thuật Nguyễn Trường Tộ, Trường Trh kỹ thuật Quảng-Ngãi (tọa lạc bên núi Thiên-Bút). Tư thục có trường Trh kỹ thuật Don Bonco (tên của vị tu sĩ) ở Gia-Định
*Trường trung học kiểu mẫu:
Là trắc nghiệm về giáo trình với sinh hoạt học đường: Trung học Kiểu mẫu HUẾ là sáng kiến của Đại học Sư phạm Huế, được khai giảng khóa đầu tiên năm 1964 có 8 lớp học, 320 học sinh với 31 thầy cô & nhân viên. Trung học kiểu mẫu CẦN-THƠ được thành lập thuộc Phân khoa Sư phạm của Viện Đại học Cần-Thơ.
* Các trường trung học Bán công và Tư thục:
- Trường sở Trung học Bán công:
Do tỉnh thiết lập, lương bổng Giáo sư do học sinh trả học phí đài thọ. Nhiều tỉnh lập nên trường Bán công khi số con em cầu học vượt quá sức thâu nhận vào trường công lập. Từ buổi sơ khai nước VNCH tại tỉnh Quảng-Ngãi dựng lên 4 trường Trung học bán công là: Lê Văn Duyệt ở quận Đức-Phổ, Nguyễn Công Trứ ở quận Mộ-Đức, Huỳnh Thúc Kháng ở quận Bình-Sơn và Nguyễn Huệ ở quận Nghĩa-Hành.
- Trường trung học tư thục:
Do tư nhân thiết lập trường sở và mời Giáo sư giảng dạy, Hs phải trả học phí (như các Trh Tư thục Chấn Hưng, Hùng Vương, Văn Hiến, Hàn Thuyên, Hưng Đạo, Tự Lực, Bình Minh trong tỉnh Quảng-Ngãi), nổi tiếng có Trh tư thục Bác Ái (Collège Fraternité) ở Chợ-Quán Sài-Gòn, đa số là Hs người Việt gốc Hoa; Trh tư thục do Chính phủ Pháp tài trợ như Marie Curie, Collete và Saint Exépury đều có dạy Việt văn và Việt sử theo qui định chung. Vào năm 1964 các trường tư thục thu nhận 28% trẻ em tiểu học, 62% Hs trung học; đến niên khóa 1970 - 1971 tỷ lệ nhập học tư thục là 17% trẻ em tiểu học và Hs trung học lên đến 77,6%. Đầu năm 1975 có 1,2 triệu Hs nhập học ở hơn 1,000 trường tư thục trung và tiểu học trên toàn quốc. Đáng kể nhất là các cơ sở giáo dục tư thục do các Giáo hội quản trị:
- Giáo hội Phật giáo mở trường tư thục BỒ ĐỀ ở khắp các tỉnh thành. Tính đến năm 1970, VNCH có 140 trường tư thục Bồ Đề, trong đó có 65 trường Trh đệ nhị cấp với sĩ số 58,500 Hs. Tỉnh Quảng-Ngãi có 3 trường Trh tư thục Bồ Đề (1 Trh đệ nhị cấp ở tỉnh lỵ, 2 Trh đệ nhất cấp ở Mộ-Đức và Bình-Sơn).
- Giáo hội Công giáo mở nhiều trường tư thục trung tiểu học trên toàn quốc, nổi tiếng nhất là Lasan Taberd dành cho nam sinh, Couvet des oiseaux, Nữ vương hòa bình (Regina pacis) và Nữ vương thế giới (Regina mundi) dành cho nữ sinh. Tỉnh Quảng-Ngãi có 3 trường Trh tư thục của Thiên chúa giáo: 1 Trh đệ nhị cấp Kim Thông ớ thị xã Quảng-Ngãi, 2 Trh đệ nhất cấp là Phụng Sự ở Châu-Ổ và Đăng Khoa ở Trà-Câu (Đức Phổ).
- Trường Quảng-Ngãi Nghĩa-thục dựng lên năm 1971 do ông Nguyễn Liệu sáng lập và làm Hiệu-trưởng, đã tồn tại 4 năm với chừng 1,800 Hs nghèo miễn học phí, là nhờ vào nhiều thầy giáo từ các trường công lập nhận dạy thêm không lương. Sân trường QNNT có dựng tượng Lương Văn Can (Hiệu trưởng Đông-kinh Nghĩa thục) đã bị VC phá bỏ năm 1975.
Nữ Gia Long
* Các trường cuả Quân đội là trường Trung Tiểu học Công lập do Quân lực VNCH quản lý, chỉ thu nhận con em quân nhân (như trường Trh Lữ Đình Sơn ở Long đầu hý thủy, quận Sơn Tịnh, Quảng-Ngãi). Trường Quốc gia Nghĩa tử đón nhận con em tử sĩ và thương phế binh VNCH, là đặc ân của Chính phủ nuôi dưỡng, đào tạo, huấn nghệ cho Hs nầy (không huấn luyện Quân sự). Các trường Quốc gia Nghĩa tử do Bộ Cựu chiến binh quản lý, khởi đầu tại Sài-Gòn sau đến Đà-Nẵng, Huế, Cần-Thơ, Biên-Hòa…(7 trường Trh quốc gia nghĩa tử có 10,000 Hs) Trường Thiếu sinh quân ở Vũng-Tàu do Bộ Tổng Tham-Mưu trực tiếp điều hành, ngoài học trình phổ thông do Nha Trung học như qui định thống nhất, Trường TSQ còn có huấn luyện quân sự.
C. Giáo dục bậc ĐẠI HỌC:
Hs đậu Tú tài II có thể đệ đơn nhập học vào các Viện Đại học, Trường Đại học hoặc Học viện trong nước VNCH. Một số trường Đại học thâu nhận theo giới hạn nên Hs phải qua kỳ thi tuyển có tính chọn lựa cao như các Đại học Y Khoa, Dược Khoa, Nha Khoa, Kỹ thuật, Sư phạm, Quốc gia Hành chánh. Việc tuyển sinh căn cứ vào khả năng của thí sinh, hoàn toàn không xét đến lý lịch gia đình và xu hướng chính trị. Sinh viên (Sv) trong các cơ sở Giáo dục công lập không đóng một khoản tiền nào, kể cả chi phí ký túc xá (chỉ ở vài phân khoa Sv đóng lệ phí thi vào cuối năm học). Chính phủ có những chương trình cấp HỌC BỔNG cho SV. Chương trình Gd Đại học có 3 cấp:
- Cấp 1:
Học 4 năm, nếu theo các ngành khoa học, nhân văn…, khi đạt đủ 4 hay 5 chứng chỉ (certificate) thì đậu bằng Cử nhân (E: Bachelor) như Cử nhân Toán, Cử nhân Triết, Cử nhân Luật (F: licencié en droit)… Nếu theo hướng chuyên nghiệp thì lấy bằng Tốt nghiệp (E: graduate) như Tốt nghiệp Đh Sư phạm, Tốt nghiệp Quốc gia Hành chánh… hay bằng Kỹ-sư (E: engineer) như Kỹ-sư Điện, Kỹ-sư Công chánh…
- Cấp 2: học thêm 1 đến 2 năm thì lấy bằng Cao học (như Master ở Mỹ) hay Tiến sĩ đệ tam cấp (F: Docteur de troisième cycle của Pháp, quen gọi lẫn lộn là Thạc-sĩ).
- Cấp 3: học thêm vài ba năm và làm luận án (F: thèse de doctorat) thì lấy bằng Tiến sĩ (là Ph.D. của Mỹ, hay Doctorat d’État của Pháp). Riêng ngành Y, sau khi học xong chương trình dự bị Y khoa, phải có thêm 6 năm học và thực tập ở bệnh viện mới thành Bác-sĩ y khoa.
{Đáng lưu ý về Học vị:
- Theo học chế Pháp trước đây có Cử-nhân (Licencié), lên Cao học (E: Master’s degree) có Tiến sĩ đệ tam cấp (Doctorat de 3è cycle), đến Tiến sĩ quốc gia (Doctorat d’ État).
- Theo học chế Mỹ có Cử nhân (Bachelor), Cao học (Master), Tiến sĩ (Doctor of Philosophy, viết gọn là Ph.D.).
Khó có thể so sánh Master của Mỹ với Tiến sĩ Đệ tam cấp của Pháp vì học trình 2 bên khác nhau. Từ Thạc sĩ trước đây để chỉ người đậu Agrégé qua kỳ thi Concours d’Agrégation rất khó; nước ta có Thạc sĩ Phạm Duy Khiêm (con nhà văn Phạm Duy Tốn, anh Ns Phạm Duy).
Phương thức học tập ở bậc Đh buộc Sv chú trọng vào khảo cứu nhiều tài liệu chuyên ngành xuất bản từ Hoa-Kỳ, Đài-Loan, Pháp. Một số Giáo sư Việt có xuất bản sách tham khảo về Luật như Vũ Quốc Thúc, Nguyễn Văn Bông (Viện trưởng QG Hành chánh, bi VC nằm vùng ám sát 10-11-1971 bằng chất nổ); về Triết Đông như Nguyễn Đăng Thục, Nguyễn Duy Cần, Kim Định, Nghiêm Toản; về Triết Tây như Lê Tôn Nghiêm, Nguyễn Văn Trung… Giáo sư Mỹ, Pháp, Đức và Việt giảng dạy Sv tại giảng đường hoặc cơ xưởng, tài liệu giáo khoa được in thành tập (cours) và Sv phải trực tiếp ghi chép (notes) bài giảng.
Mô hình Giáo dục Đại học:
Phần lớn cơ sở Gd Đh VNCH tổ chức theo mô hình VIỆN ĐẠI HỌC, tương tự như University của Hoa-Kỳ và Tây Âu, đào tạo theo Chứng chỉ hay Tín-chỉ (E: credit). Mỗi Viện Đh bao gồm nhiều Phân khoa (E: Faculty) như Phân khoa Khoa học, Văn khoa, Y khoa... hoặc Trường đại học (E: College) như Trường Đh Nông Nghiệp, Trường Đh Sư Phạm… Trong mỗi Phân khoa Đh hay Trường Đh có những Ngành chuyên biệt (như ngành Công Chánh, ngành Điện Tử v.v…). Về mặt tổ chức mỗi ngành tương ứng với một ban (E: department, tương đương như Khoa hiện nay).
Các Viện Đh VNCH là tổ chức giáo dục tự trị và phi chính trị cho nên quí vị Viện trưởng, Khoa trưởng không do Bộ QGGD bổ nhiệm mà do các Giáo sư của Hội đồng Khoa bầu lên. Từ đầu năm 1970, lúc hòa đàm Paris đang diễn tiến để mang lại hòa bình thì Chính phủ VNCH gấp rút lên kế hoạch tái thiết sau nội chiến để người lính đôi bên trở về tái hòa nhập vào xã hội. Từ đó một mô hình mới về Giáo dục được hình thành là Trường Đại học cộng đồng và Viện Đại học Bách khoa nhằm đào tạo Sv học nghề để ra làm việc và mở mang kiến thức hiện đại để tiếp tục lên bậc Đh cao hơn.
- Khởi điểm mô hình Đại học cộng đồng của ông Đỗ Bá Khê trong luận án Tiến sĩ ở Viện Đh Southern California vào năm 1970 với tựa đề “The Community College concept: a study of its Relevance to Postwar Reconstruction in Vietnam”. Trường Đh Cộng đồng được thành lập với sự tham gia xây dựng và quản trị của địa phương nhằm đáp ứng nhu cầu và phát triển của địa phương về kinh tế, xã hội và văn hóa. Năm 1971 thành lập Trường Đh Cộng đồng Tiền-Giang ở Mỹ-Tho hướng về Nông nghiệp. Tiếp đến Trường Đh Cộng đồng Duyên Hải ở Nha-Trang hướng về Ngư nghiệp, năm 1974 khai trương Đh Cộng đồng Quảng Đà ở Đà-Nẵng. Đh Cộng đồng Long-Hồ ở Vĩnh-long xây dựng dang dở thì nước VNCH bị Cs chiếm đoạt. Trường Đh Nữ vương Hòa bình (Regina Pacis College) do Công giáo thành lập năm 1973 dành cho nữ sinh viên, theo triết lý Đại học cộng đồng.
Gs Phạm Biểu Tâm với Sinh viên Y
- Vào năm 1973 Viện Đại học Bách khoa Thủ-Đức (E: Thu-duc Polytechnic University) được tập thành, là cơ sở Đh đa lãnh vực, nhiều chuyên ngành chú trọng vào thực tiễn. Ngay từ đầu, viện Đh bách khoa Thủ-Đức bao gồm các Trường Đh chuyên về Nông nghiệp, Kỹ thuật, Giáo dục, Khoa học & Nhân văn, Kinh tế, Quản trị & Thiết kế đô thị và cả Trường đào tạo Hậu-đại-học. Năm 1974 thực hiện kế hoạch gom chung các cơ sở Gd Đh vào một khu vực rộng lớn tại “Làng Đại học Thủ-Đức”, tạo môi trường cho trí thức suy luận, cảnh trí thiết kế thuận lợi cho óc sáng tạo, quản lý hành chánh tập trung để nâng cao hiệu quả và giảm bớt chi phí.
Các Viện Đại học Công lập:
- Viện Đại học Sài-Gòn:
Tiền thân là Viện đại học Đông-Dương (1906), rồi Viện Đh Quốc gia Việt-Nam (1955), năm 1957 đổi tên là Viện Đh Sài-Gòn, viện Đh lớn nhất VNCH; vào năm 1970 thu nhận 70% Sv toàn quốc. Trước năm 1964 tiếng Pháp và tiếng Việt được dùng giảng dạy ở bậc Đh (riêng Đh Y khoa dùng cả tiếng Anh), dần dà Giáo sư dùng tiếng Việt làm chuyển ngữ.
- Viện Đại học Huế:
Thành lập tháng 3 năm 1957 với 5 phân khoa: Khoa học, Luật khoa, Văn khoa, Y khoa và Sư phạm.
- Viện Đại học Cần-Thơ:
Thành lập năm 1966 với 4 phân khoa: Khoa học, Luật khoa & Khoa học xã hội, Văn khoa, Sư phạm.
- Viện Đại học Bách khoa Thủ-Đức:
Thành lập năm 1974, tiền thân là Trung tâm Quốc gia Kỹ thuật (1957), Học viện Quốc gia Kỹ thuật (1972) … như trên.
Các Viện Đại học tư thục:
Viện Đại học Đà-Lạt có logo cây thông và chữ “Thụ Nhân”
- Viện Đại học Đà-Lạt:
Thành lập năm 1957 có 4 phân khoa Đh: Chính trị Kinh doanh, Khoa học, Sư phạm, Văn khoa & Thần học. Một phần cơ sở Viện Đh Đà-Lạt nguyên là Chủng-viện của Giáo hội Công giáo. Viện Đh Đà-Lạt đã đào tạo ước khoảng 26,600 Sv.
- Viện Đại học Vạn Hạnh:
Thuộc khối Phật giáo Ấn Quang, thành lập năm 1964 tại số 222 đường Trương Minh Giảng, quận 3 Sài-Gòn, có 5 phân khoa Đh: Giáo dục, Phật học, Khoa học xã hội, Khoa học ứng dụng, Văn học & Khoa học nhân văn. Vào năm 1970, Viện Đh Vạn Hạnh có hơn 3,000 Sv.
- Viện Đại học Phương Nam:
Thuộc khối Phật giáo Việt-Nam Quốc Tự, được cấp giấy phép năm 1967, tọa lạc tại số 16 đường Trần Quốc Toản, quận 10 Sài-Gòn, Gs Lê Kim Ngân làm Viện trưởng. Viện Đh Phương Nam có 3 phân khoa: Kinh tế Thương mãi, Ngoại ngữ, Văn khoa. Đầu năm 1970 Viện Đh nầy có khoảng 750 Sv.
- Viện Đại học An-Giang:
Thuộc Giáo hội Phật giáo Hòa Hảo, thành lập năm 1970 ở Long-Xuyên, có 5 Phân khoa Đh: Văn khoa, Thương mãi & Ngân hàng, Bang giao quốc tế, Khoa học Quản trị, Sư phạm.
- Viện Đại học Cao Đài:
Trực thuộc Giáo hội Cao Đài, thành lập năm 1971 trên đường Ca-bảo-đạo ở Tây-Ninh, có 3 phân khoa Đh: Thần học Cao đài, Nông Lâm Mục, Sư phạm.
- Viện Đại học Minh Đức:
Do Giáo hội Công giáo quản trị, được cấp giấy phép năm 1972, Trụ sở Viện tại Sài-Gòn, có 5 phân khoa Đh: Kỹ thuật Canh nông, Khoa học Kỹ thuật, Kinh tế Thương mại, Nhân văn Nghệ thuật,Y khoa
Các Học viện Chuyên chuyên biệt, Viện nghiên cứu:
Viện Pasteur Nha Trang
- Học viện Quốc qia Hành chánh:
Cơ sở Gd nầy được thành lập do văn bản ký ngày 29-5-1950 của Chính phủ Quốc gia VN để đào tạo Công chức công quyền, ngoại giao và thuế vụ. Ban đầu trường sở tại Đà-Lạt, năm 1956 dời về đường Alexandre de Rhodes Sài-Gòn, năm 1958 chuyển đến số 100 đường Trần Quốc Toản quận 10 Sài-Gòn. Học viên theo chương trình 2 năm Cao học được chia thành 3 ban: Cao học, Đốc sự, Tham sự.
- Học viện Quốc gia Nông nghiệp (1972-1974):
Tiền thân là Trường Cao đẳng Nông Lâm Súc (1962-1968), Trung tâm Quốc gia Nông nghiệp (1969-1973), năm 1974 nhập vào Viện Đh bách khoa Thủ-Đức.
Trong phòng thí nghiệm ở Viện Pasteur Sài-Gòn
- Các Viện Nghiên cứu:
Viện Pasteur Sài-gòn, Viện Pasteur Đà-Lạt, Viện Pasteur Nha-Trang để nghiên cứu y dược và khoa học. Viện Hải dương học Nha-Trang để nghiên cứu về biển. Các Viện Khảo cổ. Viện Nguyên tử Đà-Lạt
* Các trường Cao đẳng Kỹ thuật, Huấn nghệ:
Bên cạnh bậc Đại học còn có hệ thống trường Cao-đẳng, sang thập niên 1970 một số trường nầy được nâng lên tương đương bậc Đại-hoc:
- Trường Quốc gia Nông Lâm Súc:
Tiền thân là Nha khảo cứu Đông-Dương thành lập năm 1930 ở B’lao, đến năm 1955 nâng lên thành Trường Quốc gia Nông Lâm Súc với học trình 4 năm. Diện tích vườn thực nghiệm rộng 200 ha, chia thành nhiều khu: chăn nuôi gia súc, vườn cây công nghiệp, ruộng rẫy lúa bắp. Trường liên tục đổi tên, cuối cùng sáp nhập vào Viện Đh Bách khoa Thủ-Đức, có trụ sở riêng ở số 45 đường Cường Để, quận 1 Sài-Gòn. Trường Qg Nông Lâm Súc còn có chi nhánh ở Huế, Cần-Thơ, Bình-Dương.
- Trung tâm Kỹ thuật Phú-Thọ:
Thành lập năm 1957 gồm 4 trường là Trường Cao đẳng Công chánh, Trường Cao đẳng Điện học, Trường Quốc gia kỹ sư Công nghệ, Trường Việt-Nam Hàng Hải, đến năm 1968 thêm Trường Cao đẳng Hóa học. Năm 1974 có tên là Học viện Quốc gia Kỹ Thuật, họp với Trường Đh Nông Nghiệp để lập thành Viện Đh Bách khoa Thủ-Đức.
- Học viện Cảnh sát Quốc gia:
Thành lập năm 1966 để đào tạo nhân viên giữ an ninh cho dân chúng và thi hành luật pháp.
* Các trường Nghệ thuật:
Các Giáo sư trường quốc gia Âm nhac và Kịch nghệ đồng tấu; từ trái sang:
Trần Thanh Tâm (đờn kìm), Phan Văn Nghị (đờn nhị tức đờn cò) Trương Văn Đệ
(đờn tam), Vũ văn Hòa (sáo), Nguyễn Vĩnh Bảo (đờn tranh)
- Trường Quốc gia Âm nhạc và Kịch nghệ: thành lập ngày 12-4-1956; chương trình học bao gồm Ca, Vũ, Kịch nghệ, Âm nhạc cổ điển Tây-phương và nhạc truyền thống VN.
- Trường quốc gia Âm nhạc Huế: thành lập năm 1962 ở cố đô Huế chuyên dạy nhạc cung đình, nhạc cổ truyền VN, dùng nhà hát Duyệt thị đường trong kinh thành Huế làm trường sở giảng dạy.
- Trường quốc gia Trang trí Mỹ thuật: thành lập năm 1971 trên cơ sở được nâng cấp từ trường Trung học Trang trí Mỹ thuật Gia-Định (tiền thân là trường Mỹ nghệ Gia-Định thành lập từ năm 1940).
- Trường Quốc gia Cao đẳng Mỹ thuật Sài-Gòn: thành lập năm 1954, đào tạo Sv về nghệ thuật tạo hình với học trình 3 năm và 7 năm. Vị Giám đốc đầu tiên (từ 1954 đến 1966) là họa sĩ Lê Văn Bé.
* Bộ Quốc gia Giáo dục còn điều hành Viện Bảo tàng Quốc gia VN ở Sài-Gòn, Viện Bảo tàng Huế và Viện Bảo tàng Chàm ở Đà-Nẵng. Các Thư viện cấp Quốc gia được Bộ QGGD thiết lập ở nhiều thành phố có lưu trữ sách báo cổ đại và hiện đại của VN và các nước trên thế giới.
Hàng đầu bên trái ông Nguyễn Đăng Trình Bộ trưởng Bộ QG Giáo dục,
Viện trưởng Viện Đại học Huế đầu tiên (tháng 3/1957-> 7/1957),
Giữa TT.VNCH Ngô Đình Diệm, bên phải Linh mục Giáo sư Cao Văn Luận
Viện trưởng Viện Đại học Huế từ 8/1957 đến 1965
Nền Giáo dục VNCH được thế giới hổ trợ từ:
* UNESCO giúp thiết lập nhiều trường Tiểu học Cộng Đồng.
* UNDP cung cấp trang thiết bị cho Trung tâm Kỹ thuật Phú-Thọ.
* New Zealand xây dựng các tòa nhà cho Đại học Khoa học (VĐH Sài-Gòn)
* Pháp cung cấp Giáo sư, giúp tài khoản và nhân sự cho Toán học hiện đại.
* Tây Đức xây dựng và trang bị cho Trường Đại học Y khoa thuộc Viện Đại học Huế và một Trường trung học Kỹ thuật.
* Sự yểm trợ nhiều nhất đến từ Hoa-Kỳ như: ấn loát sách Giáo khoa, xây dựng các Trường Đại học Sư phạm Sài-Gòn và Trường Sư phạm các tỉnh, một Trung tâm Y khoa cho Viện Đại học Sài-Gòn, 18 Trường Trung học Kỹ thuật, nhiều Trường Trung học Kiểu mẫu, hổ trợ cho các Trường Đại học Nông nghiệp, Đại học Kỹ thuật…thông qua nhóm Chuyên gia, nhà Quản trị, Giáo sư & Sinh viên của các Đại học Hoa-Kỳ.
* Đặc biệt Quân đội Hoa-Kỳ tham chiến tại VN đã khẩn cấp tái thiết hàng trăm trường Trung & Tiểu học miền Trung và Nam VN bị bão lụt tàn phá.
* Một số Học sinh và Sinh viên Đh được cấp giấy phép du học nước ngoài (năm 1964 đến Pháp 1,522 Sv, đến Hoa-Kỳ 399 Sv; càng về sau du học sinh đến Hoa-Kỳ ngày càng tăng - năm 2012 có hơn 15,000 du học sinh VN tại Hoa-kỳ, số ít được học bổng Hoa-Kỳ, số đông là du học tự túc của con em cán bộ Cs và đại gia).
* Chương trình cấp học bổng William Fulbright và Plan Marshall của Hoa-Kỳ đã giúp hàng ngàn Sv VNCH ưu tú có cơ hội theo học và thành đạt tại hải ngoại như hiện nay.
Connecticut, Oct-2014
Trọng Trương Quang
* * *
Xem các bài cùng tác giả: click vào đây
Xem trang Kiến thức tài liệu: click tại đây
Trở về trang chính: www.nuiansongtra.com