Diễn đàn của người dân Quảng Ngãi
giới thiệu | liên lạc | lưu niệm

 April 06, 2025
Trang đầu Hình ảnh, sinh hoạt QN:Đất nước/con người Liên trường Quảng Ngãi Biên khảo Hải Quân HQ.VNCH HQ.Thế giới Kiến thức, tài liệu Y học & đời sống Phiếm luận Văn học Tạp văn, tùy bút Cổ văn thơ văn Kim văn thơ văn Giải trí Nhạc Trang Anh ngữ Trang thanh niên Linh tinh Tác giả Nhắn tin, tìm người

  Tạp văn, tùy bút
30 NĂM LẺ MẤY LẦN HỌA THƠ
PHƯƠNG-ĐÌNH
Ngày về (Họa Mi)

Mùa Xuân năm Ất-Tỵ (1965) tôi từ miền Trung theo bước quân-hành vào đóng đô ở Quận-lỵ Đức-hòa. Vào một buổi chiều hè oi-ả, xa gia-đình tôi chợt buồn nhớ mông-lung. Nhìn từng làn mây trắng mỏng bay chầm chậm lướt-thướt trên bầu trời xanh thẳm, tôi ngâm khe-khẻ hai câu thơ trong bài “Hoàng-hạc lâu” của Thôi-Hiệu:

. . .Hoàng-hạc nhất khứ bất phục phản
Bạch vân thiên tải không du du!

Hạc vàng đi đã về chưa?
Nghìn năm mây trắng lững lờ còn bay!
(Phương-Đình dịch)

Tình mang mang gợi tứ mang mang... Tôi chợt hứng “ngẫu đề” luôn bốn câu để gởi về cô em gái hậu-phương: Bạch-Vân, bài thơ

“Mây trắng”:

Chưa gặp nhau mà thương nhớ nhau,
Nghìn năm mây trắng biết về đâu?
Hương ngùi ý nhạc nhòe cung bậc
Dị mộng ghì tâm sự nát nhầu!

... Rồi cũng vào một buổi chiều Thu năm ấy, cũng là một dịp rất tình cờ, một buổi chiều Chúa-nhật. Vẫn từng đợt mây Thu lướt-thướt bay bay trên khung trời Đức-hòa (Hậu-nghĩa). Từ Bộ Tư-lệnh KBC 4131, tôi lơ-đểnh cầm tờ báo Tiền-Tuyến lên xem trang “Thơ hậu-phương”, thấy có bài thơ: ”Không bao giờ quên anh”, tác-giả là Phương-Thảo Lệ-Mai thuộc nhóm “Tình-thương Hóc-môn”. Sau đây là nguyên-tác:

Nhớ thương mấy lượt trao tay,
Nghe thời-gian chuyển đắng cay vào hồn.
Môi cười không ấm cô-đơn,
Đêm thao-thức nhớ lạnh hồn mưa Ngâu.
Trăng sao vuốt mớ tóc sầu,
Khói giăng kỷ-niệm chìm sâu đáy lòng.
Bộ hành đứng vẫy tay trông,
Suối cao dốc đổ nghe lòng đá đau.
Nằm trên dĩ-vãng mòn hao,
Bảy năm duyên lửa chưa sao quên người.
Bãi hoang sóng vỗ từng hồi,
Bù trừ thương nhớ thiệt thòi riêng em.

Phương Thảo Lệ-Mai.
(Nhóm Tình Thương Hóc-môn)

Lòng buồn vời-vợi vì nỗi xa quê, tôi đọc kỹ bài thơ thấy có một chút gì dễ thương, nhè nhẹ, thiết-tha của một tâm-hồn còn rất trẻ. Tôi liền phóng bút họa bài thơ trên, tạm lấy tên là “Chưa hề quên nhau“.

Biên đình từ buổi chia tay
Tháng năm ghì vạn đắng cay vào hồn.
Em về: phong kín cô-đơn
Anh đi: sương khói ngút hồn sao Ngâu.
Nghiêng nghiêng rừng xế trăng sầu
Rưng rưng kỷ-niệm hằn sâu vào lòng.
Dù cho chín nhớ mười trông
Em ơi, đừng để cho lòng quặn đau.
Bảy năm rồi, vắng âm hao
Đêm đêm anh vẫn nhìn sao nhớ người.
Biên khu gió lộng từng hồi
Yêu nhau, đâu chỉ thiệt-thòi riêng em?
Phương Đình.
Đức-hòa, Mạnh Thu Ất-Tỵ 1965.
(Đăng báo Tiền-Tuyến số 85)

Từ sau lần họa thơ đó, tôi không thấy có thư của Phương-Thảo Lệ-Mai đăng báo nữa (hoặc có mà tôi không được đọc). Thế rồi, ngày tháng phôi-pha. Chẳng biết hiện giờ nàng thiếu nữ đa tình của một thời lắm mộng nhiều mơ ấy đang phiêu-linh ở một góc trời nào?
* * *
Đến mùa Xuân Ât-Hợi 1995: ba mươi năm rồi nhỉ! Ba mươi năm biết mấy thăng trầm!

Tôi bây giờ đang mang chiếc thân lữ-thứ, nổi trôi theo dòng định-mệnh bọt-bèo, ngày tháng tiêu dao ở thành-phố Manchester miền Đông Bắc Hoa-kỳ này. Đã qua một mùa Đông, thành-phố với dòng Merrimack nhìn ra dãy Bạch-sơn (White Mountain) tuyết ngậm trắng núi đồi ...

Vào một buổi sáng Xuân đẹp trời, tôi tiếp được thư và thơ của một người bạn thơ “đồng-thanh đồng-khí“: anh Nguyễn Thế Lộc; quê ở Xã Hành-dũng (tức Nghĩa-lộc), Nghĩa-hành, Quảng-ngãi. Thật đúng là: Gia thư đề vạn câm! (Đổ Phủ): (bức thư nhà giá đắt bạc muôn).

Đọc bài thơ Nửa vòng trái đất anh gởi tặng vợ chồng tôi, tôi mừng mừng tủi tủi; ngùi nhớ lại những ngày nhục nhằn, tăm tối khi còn ở lại quê-hương.

Sau đây là nguyên-tác bài thơ “Nửa vòng trái đất”.

Nửa vòng trái đất thực bao la
Cánh nhạn thân thương bỗng đến nhà!
Mang cả trùng dương, mây đất khách
Chở đầy cựu nghĩa, gió quê ta.
Tương lai một sớm còn mong mõi,
Mộng ước bao ngày mãi thiết tha.
Vui ngắm tiền-đồ đang mở rộng,
Nửa vòng trái đất có bao xa?

Nguyễn Thế Lộc.
(Nghĩa-hành)

Nhớ bạn tri-âm, hứng thơ chợt dậy, tôi họa nguyên vận ngay bài thơ trên, tạm lấy nhan đề là :

VIỄN XỨ TÌNH.

Mang trọn hùng tâm vượt võng la,
Vui sao một sớm được thư nhà!
Bài thơ Hành-dũng thơm tình bạn,
Bức họa Châu-giang sáng nghĩa ta.
Việt-Tộc từng phen hưng lại phế,
Thiền-Vu đâu dễ bắt rồi tha ?
Dang tay thu cả trùng dương lại,
Còn đó, còn đây, mấy ngại xa!
Phương-Đình.

Thơ và thư vừa gởi về bên kia bờ Thái-bình dương cho anh Lộc, tôi sực nhớ đã dùng hai chữ Thiền-Vu trong câu 6 (cặp luận) của bài họa.

Từ đấy, lại thêm một chuyện dịch thơ, mà lại là dịch Tống thi : thơ Tô Đông Pha (1037-1101). Tô Đông Pha tức Tô Thức, con của Tô Tuân và là anh ruột của Tô Triệt- tức Tử-Do, từng nổi tiếng là Tam Tô: đệ nhất thi-gia đời Tống. Hai chữ Thiền-Vu trong bài họa tôi mượn ý bài “Tống Tử-Do sứ Khiết-Đan” của Tô Đông Pha làm để tiễn Tô Triệt (Tử Do) phụng chiếu đi sứ rợ Khiết-Đan vào năm 1089, Nguyên-hựu năm thứ tư.

Nguyên tác như sau:

Vân hải tương vương ký thử thân,
Na nhân viễn thích cánh triêm cân.
Bất từ dịch kỵ lăng phong tuyết,
Yếu sử thiên kiêu thức phụng lân.
Sa-mạc hồi khan Thanh-Cấm nguyệt,
Hồ-Sơn ứng mộng Vũ-Lâm xuân.
Thiền-Vu nhược vấn quân gia thế,
Mạc đạo:”Trung triều đệ nhất nhân!”.

Dịch thơ:

Bài 1:

Mây bể hằng mong gửi chút thân,
Dõi từng bước chú, lệ đầm khăn.
Chẳng nề vó ngựa boong sương tuyết,
Cho bọn “thiên kiêu” rõ phụng lân.
Gió cát mắt vời Thanh-Cấm nguyệt,
Sông hồ mộng gửi Vũ-Lâm xuân
Thiền-Vu nếu hỏi em: ”gia thế?”
Đừng bảo: ”Trung triều Đệ nhất nhân!”

Bài 2 :

Mây bể nào lênh đênh thân lữ khách,
Ta dõi nhìn em lệ đẵm khăn thô.
Vó ngựa ký há sờn chi sương tuyết,
Tài phụng lân cho giặc khiếp mưu đồ.
Trăng Tử-Cấm vẫn theo em ngoài sa mạc,
Xuân Vũ-Lâm ta còn mãi mộng sông hồ.
Gia thế ta, giặc Thiền-Vu dù gạn hỏi,
Em nhớ bảo rằng: ”Đệ Nhất .Tam Tô!”
Phương Đình dịch.

Xuân Bính-Tý 1996 lại về trên miền đất lạnh của vùng Đông Bắc Hoa-kỳ. Xa xa, dãy núi Bạch-sơn vẫn phủ đầy tuyết trắng. Dòng Merrimack còn đông đặc những lớp băng... Càng xa quê-hương, cứ mỗi độ Xuân về lòng càng dâng lên nhiều nỗi nhớ. Tôi có làm bài thơ:

BÍNH-TÝ TÂN XUÂN KHAI BÚT

Bính-Tý Xuân này đến với ta,
Vui Xuân đất khách thiếu chi mà!
Bánh chưng, mứt dẽo, nem, giò chả,
Câu đối, vần thơ, nhạc, múa ca...
Việc nước loanh quanh trò mới, cũ,
Tình nhà líu ríu chuyện gần, xa.
Tha-hương lòng gửi về Quê Mẹ,
Dú cách trùng-dương vẫn đậm đà.

Dù cách trùng dương vẫn đậm đà,
Tấc lòng nhắn gửi bạn gần xa:
Ấn sơn, Bút lĩnh: non càng vững,
Vệ thủy, Trà giang sóng chửa nhòa.
Góp sức ta xây Tân vận-hội,
Dang tay mình dựng Cựu sơn hà.
Xuân đang về đó, chờ chi nữa,
Dậy, dậy, ngoài kia rộn tiếng gà.

Bài thơ được gởi về Việt-nam gọi là món quà Xuân gởi bạn bè tâm đắc. Và anh Nguyễn Thế Lộc lại gửi sang bài họa nguyên vận như sau:

Thế rồi Xuân vẫn đến cùng ta,
Bỉ, thái thay nhau chuyển dịch mà!
Thôi hãy chìm quên cơn gió bão,
Để cùng khơi dậy tiếng đàn ca.
Xin nhau ánh đuốc mười phương sáng,
Nối với tình người bốn biển xa.
Xóa hết đau buồn Đông rét cũ,
Đâu đây nghe pháo đón Xuân đà...

Đâu đây nghe pháo đón Xuân đà...
Đã thấy trời Đông rưng núi xa.
Cỏ cây vui mừng khoe lộc biếc,
Non sông tỏ rạng biến đêm nhòa.
Lung linh nắng sớm mây Hồng-Lĩnh,
Lấp lánh sao mai nước Nhị-Hà.
Đất nước đang khai mùa hội mới,
Đêm Xuân náo nức rộn canh gà.

Lại một mùa Xuân nữa nơi khung trời viễn-xứ. Kẻ tha-hương làm sao không chạnh mối cảm-hoài. Phương Đình nôm na có bài tạp bút HỌA THƠ, THƠ HỌA này gửi đến quý bạn đồng hương và thi-văn hữu bốn phương gọi là có chút quà Xuân để đền ơn tri-ngộ §

PHƯƠNG-ĐÌNH.
(Manchester, NH.)


Nếu độc giả, đồng hương, thân hữu muốn: 

* Liên-lạc với Ban Điều Hành hay webmaster 
* Gởi các sáng tác, tài liệu, hình-ảnh... để đăng 
* Cần bản copy tài liệu, hình, bài...trên trang web:

Xin gởi email về: quangngai@nuiansongtra.net 
hay: nuiansongtra1941@gmail.com

*  *  *

Copyright by authors & Website Nui An Song Tra - 2006


Created by Hiep Nguyen
log in | ghi danh