1- HỘI XUÂN DÂN TỘC:
Khi đề cập đến hội xuân dân tộc, chúng ta phải trở lại thời xa xưa, trước năm Ất Dậu 1945. Vào thời xưa, những việc hay, vẻ đẹp của dân tộc tính Việt Nam đã được thể hiện trung thực, qua những tập tục, sinh hoạt cổ truyền, trong một xã hội căn bản nông nghiệp của tiền nhân.
Hàng năm, trong những tháng đầu xuân, dân làng thường mở hội xuân, ngoài mục đích để nghỉ ngơi và giải trí, sau một năm làm lụng cực nhọc. Nhân dịp nầy, người ta còn muốn thể hiện những ý niệm thiêng liêng như: lòng biết ơn sâu đậm đến các vị anh hùng liệt nữ dân tộc, lòng tôn kính thờ phượng tín ngưỡng, qua các nghi thức tế lễ cổ truyền. Cũng như, đề cao tinh thần đoàn kết, tương thân tương trợ của dân làng, trong mùa tươi mát của tiết xuân. Do đó, ca dao Việt Nam có câu:
“Tháng Giêng ăn tết ở nhà
Tháng Hai cờ bạc, tháng Ba hội hè”.
Trong những ngày hội xuân, dân làng có tổ chức những trò vui cho người dự hội, mà các cụ thường gọi là “Trò Bách Hí”. Tùy theo từng địa phương, “Trò Bách Hí” được thay đổi khác nhau. Có những trò vui tao nhã, dành cho người trí thức. Có những trò vui thú vị, dành cho người bình dân.
Ngoài ra, còn có nhiều thú vui khác nhau, để thích hợp cho mọi lứa tuổi, từ tuổi già như các trò chơi tổ tôm, đánh bài chọi, xem hát chèo, hát bộ,... Xuống đến tuổi trẻ thanh niên, họ hăng hái tham dự vào các trò chơi như: hát quan họ, hát ví, đò đưa, ném còn, hát lượn, trai gái từng cặp đánh đu,... Cũng như, còn có những trò vui để khuyến khích tinh thần đoàn kết như: thi bơi thuyền, kéo co, đánh phết,... Và tinh thần thượng võ như: các cuộc đấu vật, đấu trung bình tiên, cờ lau tập trận, diễn trận đánh giặc Ân,...
Về tinh thần thượng võ, dân tộc Việt Nam đã minh chứng trong Việt sử. Từ ngày lập quốc Hùng Vương đến thời cận đại, Việt sử là cả một lịch sử tranh đấu không ngừng của dân tộc. Người dân Việt tranh đấu để sống còn, đối với phương Bắc, lẫn ngoại bang và tranh đấu để mở rộng bờ cõi về phương Nam. Do đó, tổ tiên Việt Nam đã có nhiều kinh nghiệm chiến đấu, trong việc bảo vệ đất nước.
Thuở xưa, trong thời bình, ngoài việc cần thiết phát triển kinh tế nông nghiệp, người Việt không bao giờ lãng quên đến sự rèn luyện võ dũng. Cũng như, tinh thần thượng võ luôn luôn được đề cao trong quảng đại quần chúng, để nuôi dưỡng sức mạnh chiến đấu tiềm tàng, và phát huy ý chí quật cường, bất khuất của dân tộc.
Vì vậy, những tục lệ cổ truyền đề cao tinh thần thượng võ đã được tiền nhân thể hiện qua những trò chơi xuân như đấu trung bình tiên, đấu vật,...trong những ngày hội xuân dân tộc. Trong các trò chơi chiến đấu của hội xuân, chỉ có đấu trung bình tiên, và đấu vật là hai môn chơi đòi hỏi người tham dự, phải tốn rất nhiều ngày giờ chuẩn bị công phu luyện tập. Do đó, người tập luyện hai môn nầy có dịp ứng dụng tài võ nghệ của mình, để chống bắt trộm cướp, bảo vệ xóm làng. Hơn nữa, họ còn được xem là những tài nguyên quân lực tiềm tàng để chống giặc, bảo vệ đất nước, trong thời loạn.
2- ĐẤU VẬT LÀ GÌ?
Thuở xưa, tại việt Nam, môn “Đấu Vật“ còn được gọi bằng những danh từ khác như: Đánh Vật, Chọi Vật, Đô Vật. Đây là một môn chơi thể thao cá nhân, có tính chất chiến đấu, áp dụng sức mạnh, lẫn sự nhanh nhẹn, khéo léo, được phối hợp với những kỹ thuật thăng bằng, nhằm mục đích làm cho đối phương bị té nhào, ngã ngửa, lưng tựa xuống đất. Cho nên, đấu vật còn được xếp vào một trong những môn võ thuật cổ truyền Việt Nam, mà người bình dân thường gọi là nghề võ hay võ nghệ.
3- NGUỒN GỐC ĐẤU VẬT VIỆT NAM:
Theo Toan Ánh, tác giả “Nếp Cũ Hội Hè Đình Đám”, tại các tỉnh miền Bắc Việt, thuở xưa, hàng năm, vào tháng Giêng âm lịch, đều có tổ chức đấu vật, trong các hội xuân dân tộc. Những tay đấu vật nổi tiếng nhất thường xuất phát từ những làng như: Chùng Mậu, tỉnh Bắc Ninh; Hồi Hộp và Vị Thanh, tỉnh Vĩnh Yên; Mai Động, tỉnh Hà Đông; Thục Vụ và Lương Xá, tỉnh Nam Định; làng Sình, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên.
Riêng tại làng Mai Động, tỉnh Hà Đông, một địa phương nổi danh về đấu vật lâu đời nhất. Theo lời truyền khẩu, Bà Lê Chân, một nữ tướng tiên phuông của Hai Bà Trưng, đã dùng môn đấu vật là môn chánh trong những cuộc tuyển chọn các quân sĩ. Về sau, Bà Lê Chân bị tử chiến tại làng Mai Động, tỉnh Hà Đông; sau khi thua trận, tại Bạch Đằng Giang, với quân Hán do Mã Viện cầm đầu, bà phải rút quân về Hồ Lăng Bạc, để anh dũng chống cự. Sau cùng, vì binh ít thế cô, nên Bà Lê Chân phải tử thủ, tại Mai Động, tỉnh Hà Đông.
Để tỏ lòng kính mến một liệt nữ dân tộc, dân làng Mai Động đã lập đền thờ Bà Lê Chân. Về sau, người đời phong tặng Bà Lê Chân với tước hiệu là “Thượng Đẳng Phúc Thần Công Chúa“. Ngoài ra, đền thờ của bà còn được dựng lên tại nhiều tỉnh khác nhau như: làng An Biện, huyện Đồng Triều, tỉnh Hải Dương; Ngõ Nghề tỉnh Hải Phòng... Cho nên, hàng năm, vào dịp đầu Xuân, để kỷ niệm Bà Lê Chân, tại làng Mai Động và các làng có đền thờ của bà đều có tổ chức môn vui xuân đấu vật. Có lẽ, môn đấu vật đã được phổ thông đại chúng kể từ thời đó, do công khởi xướng của Bà Lê Chân, trong việc dùng đấu vật để tuyển chọn quân sĩ chăng?
4- HUẤN LUYỆN ĐẤU VẬT:
Thông thường, khoảng chừng một hai tháng trước ngày hội xuân, phần đông các lực sĩ dự đấu vật phải tập hợp, tại nhà của ông thầy võ trong làng của mình, để tập dượt. Thuở xưa, vì bảo vệ xóm làng khỏi bị ăn cướp, mỗi làng đều có một ông thầy dạy võ cho dân làng. Nếu làng nào không có thầy dạy võ, người đại diện làng phải nhờ đến ông thầy võ ở làng bên cạnh, về dạy võ cho dân làng của mình.
Khi tập dượt, cũng như lúc dự đấu tranh giải, lực sĩ đấu vật không có mặc quần áo, thân hình để trần, phía dưới, phần hạ bộ được che kín bởi một cái khố (giống như quần xì líp ngày nay) bằng vải lụa, hoặc nhiễu có màu trắng, đen, xanh, đỏ, hoặc nâu tùy ý. Tuy nhiên, không được dùng màu vàng, vì màu vàng dành riêng cho vua chúa, người dân thường không được phép dùng đến màu nầy.
Phần đông, các lực sĩ tham dự đấu vật, không nhiều thì ít, đều có học qua căn bản của quyền võ cổ truyền. Cho nên, khi tham dự học tập đấu vật, họ không lấy chi làm khó khăn. Khái lược kỹ thuật căn bản của môn đấu vật Việt Nam gồm có những thế miếng, được xếp vào ba loại chính yếu như sau:
- Miếng NGÁNG hoặc ĐỆM: là những thế miếng dùng chân của mình để chận, cản, hoặc đá quét vào chân đối thủ; mục đích làm mất thăng bằng của đối thủ, khiến cho đối thủ phải té ngửa, lưng chạm xuống đất.
- Miếng ĐỘI hoặc BỐC: mục đích để nhấc bổng thân hình và hai chân của đối thủ hổng lên khỏi mặt đất, bằng đôi tay của mình, hoặc bằng đầu đội, hay dùng lưng cõng, vai vác đối thủ lên.
- Miếng HẠ THỔ hoặc NẰM BÒ: những miếng nầy chỉ áp dụng khi đấu thủ bị sơ hở ở tư thế té nằm sấp, úp mặt xuống đất. Trong những lúc như thế, đấu thủ chỉ có cách nằm sấp thủ thế, để chịu cho đối phương tấn công mình (bằng những phương cách đẩy, xô, bứng, cốt để lật cho nằm ngửa bụng lên). Rồi bất ngờ, trong những lúc sơ hở của đối phương, người ta thường dùng những miếng Đội hoặc Bốc để thủ thắng, hoặc người ta, lập tức, đứng hẳn lên để tiếp tục cuộc đấu.
Trước khi học những thế miếng, người học phải thực tập cách đứng thủ thế; với hai tay đưa vòng ra phía trước (tưởng tượng như đang ôm bấu vào thân hình đối phương), giống như hai càng cua, mắt nhìn chăm chú vào phía trước mặt, đồng thời, hai chân bước tiến lui, vòng qua lại hai bên, một cách chậm chạp, vững chắc.
Tiếp theo, ông thầy mới dạy thêm phương cách thực tập những thế té sấp, té ngửa và té qua một bên, để khỏi bị tai nạn gãy xương. Sau đó, học lần lượt những kỹ thuật căn bản, để áp dụng những miếng Ngáng hoặc Đệm, miếng Đội hoặc Bốc, và những miếng cần thiết khi Hạ Thổ hoặc Nằm Bò.
Tất cả các miếng thế đều được ông thầy giảng giải, phân rành để áp dụng vào những trường hợp tự vệ, và thủ thắng trước một đối thủ. Đến khi học thành thuộc, những người cùng học mới bắt đầu thực tập với nhau, người nầy nhường người kia.? Dần dần, họ quen với trận đấu, và áp dụng tập đấu thực sự, với sức mạnh, sự lanh lẹ, khôn ngoan của riêng mình.
5- LUẬT LỆ ĐẤU VẬT:
Lần lượt, từng cặp đấu thủ được gọi lên thượng đài. Sau khi họ làm lễ bái, cuộc đấu bắt đầu, trong vài phút chăm chú gườm nhau, họ xông vào, với hai tay ôm choàng, bấu chặt vào thân hình đối thủ, để lừa thế miếng vật ngã đối thủ. Trong lúc đó, có hai người trọng tài. Một người tay cầm chiếc trống đánh ba tiếng liên hồi, nhằm kích thích tinh thần chiến đấu. Còn người kia tay cầm cờ cán dài để phất, và ngăn giữ không cho người xem tiến sát gần sân đấu; cũng như, chỉ phất cờ theo nhịp trống, khi có người thắng cuộc.
Khi tham dự đấu vật, các đấu thủ phải tuân theo qui tắc, luật lệ đấu vật. Để thủ thắng, đấu thủ phải áp dụng những thế miếng, để vật cho đối phương của mình bị té nằm ngã ngửa lưng chạm xuống đất, mà danh từ đấu vật gọi là “Vật Ngã Trắng Bụng“. Hoặc áp dụng các miếng Đội (Bốc), để nhấc bổng đối thủ lên cao, với hai chân đối thủ phải hổng lên khỏi mặt đất. Khi ở tư thế Hạ Thổ (Nằm Bò) đấu thủ chỉ được phép dùng hai cách Ngáng và Đội để đối phó. Trái lại, tay chân không được đấm đá, hay dùng những hành động xấu xa khác.
Ngoài ra, trong khi đấu, các đấu thủ không được phép nắm tóc, móc mắt, chọt lét làm cho nhột, cắn, ngắt véo, đâm, bóp hạ bộ, hoặc phun nước bọt vào mặt, vào người đối thủ. Cũng như, không được dùng lời thô tục chửi bới, hoặc xé khố (quần xì líp) của đối thủ.
Đấu thủ thắng trận sẽ được lãnh thưởng “Giải Vật“; gồm có ba giải vật chính như: giải nhất, nhì, ba, và nhiều giải phụ. Giải phụ còn gọi là Giải Hàng. Mỗi ba đấu thủ vật nhau, người nào thắng sẽ được Giải Hàng. Giải nhất phải thắng được sáu đấu thủ. Giải nhì phải thắng được năm đấu thủ. Giải ba phải thắng được bốn đấu thủ.
Ngoài ra, còn có lệ phá giải, tức là người phá giải sau khi đã vật thắng được người đang giữ giải, không phải là được giải ngay, mà còn phải vật ngã thêm một số đấu thủ khác. Phá giải nhất phải thắng thêm bốn người. Phá giải nhì phải thắng thêm ba người. Phá giải ba phải thắng thêm hai người. Đối với ba giải chính, người giữ giải đã vật thắng đủ số người theo lệ định, hoặc do người phá giải đã toàn thắng; sau đó, dân làng thường đốt một dây pháo toàn hồng, để mừng người thắng giải.
Thuở xưa, hàng năm, việc tổ chức các giải đấu vật trong các hội xuân dân tộc, rất được dân làng xem trọng, và rất ngưỡng mộ, không ngoài mục đích đề cao tinh thần thượng võ, và nuôi dưỡng sức mạnh chiến đấu tiềm tàng, để bảo vệ an ninh xóm làng, quốc gia, dân tộc.
VŨ ĐỨC Âu Vĩnh Hiền.