CÁC KHÍA CẠNH TOÀN CẦU CỦA CUỘC ĐỐI ĐẦU MỚI NGA – MỸ
By Tạp chí Russia in global Affairs (Nga)
Tháng 12/2014
CVĐQT số 3/2015
Hầu hết mọi người cho rằng cuộc đối đầu Nga – Mỹ được kích động bởi cuộc khủng hoảng Ukraine chỉ đơn thuần là một hiện tượng khu vực. Tuy nhiên, nguồn gốc của nó sâu xa hơn nhiều so với các vấn đề mà Ukraine phải đối mặt; bản chất của nó phức tạp hơn nhiều so với cuộc đọ sức địa chính trị đang diễn ra vì quốc gia này; và những hậu quả của nó tác động đến các mối quan hệ của Mỹ với các trung tâm quyền lực khác và sự quản trị toàn cầu nói chung. Hậu quả của cuộc xung đột Ukraine có thể sẽ quyết định các quy tắc quan hệ giữa các nước lớn trong nhiều thập kỷ tới.
Sự xung đột của các trật tự thế giới
Kể từ khi Liên Xô sụp đổ, chưa bao giờ có một sự đồng thuận giữa các nước lớn về bất kỳ vấn đề then chốt nào của trật tự thế giới: sự phân bổ quyền lực được công nhận, các quy tắc và chuẩn mực về cách ứng xử quốc tế, và các cơ chế vạch quyết định. Hố sâu ngăn cách giữa Mỹ và các trung tâm phi phương Tây đã xuất hiện ngay sau khi cuộc đối đầu lưỡng cực chấm dứt. Washington đã tuyên bố chiến thắng trong cuộc Chiến tranh Lạnh và bắt đầu xem “khả năng lãnh đạo toàn cầu” của mình là một điều kiện thiết yếu và thậm chí là nền tảng của trật tự thế giới. Nga, TQ, Ấn, Brazil, Iran và các nước khác đã bác bỏ lập trường này của Mỹ.
Moscow đã ở tuyến đầu bắt đồng quan điểm suốt thời gian đó. Thậm chí trong những năm 1990, Nga đã có những động thái nguy hiểm khi nước này tin rằng các lợi ích mang tính sống còn của mình bị đe dọa. Sự phân bổ lại quyền lực từ phương Tây cũ sang các trung tâm mới và sự xâm phạm ngày càng tăng của Mỹ đến các lợi ích sống còn của Nga và các nguyên tắc của nước này đối với trật tự thế giới đã khiến điện Kremlin ngày càng kiên quyết.
Tất cả các vấn đề về các mối quan hệ Nga – Mỹ sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc bắt nguồn từ các câu hỏi mà ở đó Moscow và Washington đã đưa ra những câu trả lời trái ngược nhau trong hơn 20 năm. Phải chăng Nga, là một trung tâm độc lập của thế giới đa cực, có quyền thực hiện một kế hoạch hợp nhất của riêng mình ở khu vực Á – Âu? Phải chăng các nước lớn có quyền đối với một khu vực láng giềng thân thiện, và quyền được thiết lập cấu trúc an ninh của riêng minh ở dọc biên giới của họ và trở thành trung tâm của cấu trúc an ninh đó? Liệu trật tự quốc tế ở châu Âu và ở khu châu Âu – Đại Tây Dương có nên được dựa trên sự mở rộng của các thể chế phương Tây đến biên giới của Nga nếu Nga bị loại ra khỏi trật tự đó, hay liệu trật tự đó có nên được Nga và phương Tây cùng nhau xây dựng? Cuối cùng, tại soa Mỹ lại có quyền tuyên bố một số nhà nước và chế độ là có chủ quyền và hợp pháp còn một số khác thì không, và có quyền lật đổ các chế độ không mong muốn?
Các vấn đề tương tự tồn tại trong các mối quan hệ của Mỹ với tất cả các trung tâm quyền lực phi phương Tây, gồm cả các nước dân chủ. Ấn Độ và Brazil chỉ trích chính sách can thiệp, cách tiếp cận có chọn lọc đối với chủ quyền quốc gia, và các thực tiễn thay đổi chế độ của nước này cũng nhiều như Nga và TQ. Chính sách của Nga trong Cộng đồng các quốc gia độc lập (SNG) phù hợp với quan ngại của New Delhi về sự hiện diện quân sự của Mỹ ở Ấn Độ Dương, với các nỗ lực của Brazil nhằm làm suy yếu ảnh hưởng của Washington ở khu vực Mỹ Latinh, và với khát vọng của TQ muốn kiềm chế quyết tâm của Mỹ triển khai sức mạnh quân sự đến các khu vực lân cận.
Vòng đấu mang tính quyết định
Không giống như các cuộc xung đột năm 1999, 2004 và 2008, cuộc khủng hoảng Ukraine năm 2014 không chỉ trở thành một cuộc chiến khác giữa Moscow và Washington về các quy tắc quan hệ giữa các nước lớn, mà về cơ bản còn nâng nó lên một tầm cao mới.
Thứ nhất, cuộc chiến này đã trở nên ác liệt hơn. Đây là sự hỗn loạn quốc tế trầm trọng nhất trong vòng 25 năm chuyển tiếp vừa qua. Mức độ vi phạm của mỗi bên xung đột với các quy tắc mà bên kia xem là mang tính sống còn đã lên đến đỉnh điểm. Vụ sáp nhập Crimea và sự trợ giúp của Nga cho cuộc nổi dậy ở Donbass đã cho thấy rằng không chỉ Mỹ mà cả các nước khác bây giờ cũng có thể vi phạm các chuẩn mực cơ bản của luật pháp quốc tế.
Thứ hai, lần này Nga và Mỹ đã không cho nhau cơ hội để thu hẹp quy mô đối đầu và nỗ lực để cải thiện các mối quan hệ của hai nước một lần nữa mà không đạt được một thỏa thuận về các nguyên tắc của cuộc chơi. Hơn một năm kể từ khi bắt đầu phong trào Euromaidan, Moscow và Washington đã cho thấy rằng hoặc là họ chưa sẵn sàng cho việc thỏa hiệp hoặc chưa sẵn sàng cho một mô hình mà ở đó họ “chấp nhận bất đồng” về Ukraine nhưng lại tìm cách hợp tác về các vấn đề khác (như tình hình sau cuộc khủng hoảng năm 2008). Ngược lại, cả hai coi sự đầu hàng của bên kia và việc thiết lập các nguyên tắc của riêng mình trong cuộc chơi là lối thoát duy nhất của cuộc xung đột.
Sáp nhập Crimea, ngăn chặn một sự thất bại của quân nổi dậy đòi ly khai Donbass, và thực hiện các biện pháp trả đũa để đáp lại các biện pháp trừng phạt của phương Tây, Nga đã cắt đứt đường lui của mình một cách có chủ đích. Nga đã chứng tỏ rằng nước này sẵn sàng tiến xa để giữ Ukraine nằm ngoài quỹ đạo của phương Tây và ngăn không cho nước này trở thành một phần của một “vành đai an toàn” mới.
Bắt đầu tiến trình ngăn chặn chính trị – ngoại giao và thậm chí là quân sự – chính trị (mềm) đối với Nga, làm suy yếu kinh tế nước này và ngừng hợp tác với Nga ở tất cả các lĩnh vực trên thực tế, Mỹ cũng đã tuyên bố rõ ràng rằng nước này chưa sẵn sàng thỏa hiệp. Washington coi Nga là một quốc gia thù địch và là mối đe dọa đối với các lợi ích của mình và trật tự quốc tế. Washington đã đặt điều kiện cho việc cải thiện các mối quan hệ với Nga bằng một sự thay đổi chế độ chính trị của Nga (hoặc, đúng hơn là, một sự thay đổi cơ bản trong chính sách đối ngoại của nước này, điều hoàn toàn bất khả thi dưới thời hạn ban lãnh đạo đương nhiệm). Bản chất đường hướng của Mỹ đã được truyền tải kỹ lưỡng bởi Barack Obama, người đã miêu tả Nga là một trong những mối đe dọa chính đối với an ninh quốc tế, cùng với tổ chức Nhà nước Hồi giáo (IS) cấp tiến và virút Ebola.
Lý do cho lập trường rõ ràng như vậy là bối cảnh toàn cầu. Cả Nga lẫn Mỹ đều đánh giá các hành động của nhau trong bối cảnh các xu hướng và nhân tố rộng lớn hơn, không liên quan trực tiếp đến Ukraine, và cả hai cường quốc này đã đi đến kết luận rằng hiện giờ là thời điểm tốt nhất cho một “trận chiến quyết định”.
Nga hiểu được các hành động của Mỹ đối với Ukraine trong bối cảnh sự bực tức được che đậy vụng về của Washington trước việc Putin quay trở lại chức vụ Tổng thống. Moscow đã vấp phải một sự phản đối ngày càng tăng đối với các chính sách đối ngoại và đối nội của mình, một thái độ miễn cưỡng thể hiện nỗ lực tìm kiếm một mô hình khả quan cho các mối quan hệ song phương “sau khi điều chỉnh lại” (việc hủy bỏ một hội nghị thượng đỉnh vào tháng 9/2013), và một chiến dịch thông tin chưa từng có tiền lệ (kể từ những năm 1980) trước thế vận hội Sochi. Kết quả là, thậm chí trước khi Viktor Yanukovych bị lật đổ vào tháng 2/2014, Moscow tin rằng Washington đã đưa ra một sự lựa chọn có ý thức ủng hộ việc đối đầu.
Không lấy làm ngạc nhiên, Nga coi sự ủng hộ kiên quyết của Mỹ đối với cuộc đảo chính ở Ukraine chẳng gì hơn là một cuộc chiến chính trị và kinh tế chống lại Nga. Hơn nữa, khát vọng của Washington muốn hợp pháp hóa các kết quả của cuộc đảo chính này bằng mọi giá (gồm cả sự ủng hộ đối với chiến dịch quân sự của Chính quyền Kiev mới) trong giống như một nỗ lực nhằm biến Ukraine thành một phần của “vành đai an toàn” mới chống Nga và tước đoạt của Moscow các thành tựu chính sách đối ngoại chính trong những năm gần đây (một vai trò độc lập trong nền chính trị thế giới, và việc dần dần tăng cường hội nhập trong không gian hậu Xô viết). Điều đó ít nhất phần nào đã bù đắp cho những thất bại của Washington trong thập kỷ qua. Nhiều người thực sự tin rằng sau sự thay đổi chế độ ở Kiev, một quyết định về việc Ukraine xin gia nhập NATO và lập một căn cứ quân sự của Mỹ ở Crimea sẽ chỉ mất vài tháng. Đồng thời, ban lãnh đạo của Nga rõ ràng đã xuất phát từ giả định rằng Nga đã đạt đến đỉnh của ảnh hưởng chính sách đối ngoại vào năm 2013 và trong tương lai gần, cán cân sức mạnh sẽ thay đổi theo chiều hướng có lợi cho Mỹ (tình trạng trì trệ kinh tế ở Nga và sự phục hồi kinh tế ở Mỹ).
Đồng thời, Mỹ cũng coi các hành động của Nga là một khuôn mẫu mới của chính sách đối ngoại của Nga trong không gian hậu Xô viết. Dường như cơn ác mộng địa chính trị kéo dài của Washington đã trở thành thực sự: Nga “độc tài” đã bắt đầu tái lập “đế chế”. Viễn cảnh này đe dọa tước đi của Mỹ một phần lớn di sản “chiến thắng” của nước này trong Chiến tranh Lạnh – một trong các trụ cột mà tầm nhìn của Mỹ về khả năng lãnh đạo toàn cầu dựa vào đó. Ngoài ra, ta nên ghi nhớ sự nhạy cảm quá mức của Mỹ đối với “chủ nghĩa xét lại” của Nga trong bối cảnh những thất bại của Mỹ vào những năm 2000 và 2010, điều đã đánh dấu sự kết thúc của “thời khắc đơn cực” được tuyên bố vào đầu những năm 1990. Hứng chịu những thất bại ở Iraq, Afghanistan và ở Trung Đông nói chung, Mỹ cần xử lý mọi việc theo cách của mình ít nhất là ở khu vực mà sự chia tách của nó vẫn là một biểu tượng quan trọng cho thắng lợi gần đây của nước này.
Ít nhất là kể từ mùa Thu 2011, Mỹ đã ngày càng tức tối về “nước Nga của Putin”. Các chính sách đối ngoại và đối nội của nước này dường như đã xác nhận mọi định kiến. Một năm trước cuộc khủng hoảng Ukraine, Mỹ đã bắt đầu coi các hành động của Moscow trong thời kỳ Liên Xô trước đây là các nỗ lực nhằm khôi phục đế chế. Vào cuối năm 2012, Ngoại trưởng Mỹ khi đó là bà Hillary Clinton đã cáo buộc Nga cố gắng “tái Xô viết hóa” không gian hậu Xô viết.
Theo quan điểm của Washington, các hành động của Moscow đã tạo ra một tiền lệ nguy hiểm khi chúng thể hiện sự bất lực của Mỹ, với tư cách một nhà lãnh đạo tự xưng và người đảm bảo an ninh quốc tế, trong việc ngăn chặn hoặc đảo ngược một sự vi phạm trắng trợn các quy tắc được thiết lập bởi một “cường quốc khu vực”. Nhân tố này làm dấy lên sự ngờ vực về khả năng của Washington không chỉ đóng vai trò là một nhà lãnh đạo toàn cầu mà thậm chí còn về khả năng khẳng định vai trò này: nếu không thể ngăn cản một cường quốc đang khẳng định quyền lãnh đạo khu vực xâm phạm chủ quyền của quốc gia lớn nhất châu Âu và là một “đối tác chiến lược” quan trọng của Mỹ, làm thế nào mà Mỹ có thể bảo đảm an ninh cho các đồng minh của mình? Sẽ thế nào nếu các nước khác bắt đầu hành xử theo cách này? Điều này, trên hết, ám chỉ đến Trung Quốc, quốc gia khẳng định vai trò lãnh đạo khu vực, quốc gia can dự vào các tranh chấp lãnh thổ với hầu hết các nước ở Đông Á và Đông Nam Á, quốc gia có khả năng răn đe hạt nhân, và cũng là quốc gia đang ở trong tình trạng phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế với Mỹ. Nền tảng cho vị thế dẫn đầu của Mỹ trong hệ thống quốc tế – hệ thống liên minh toàn cầu của nước này, đang bị đe dọa.
Hai nhân tố nữa cũng nên được tính đến.
Thứ nhất, vào mùa Thu 2013, Chính quyền Obama đã thất bại trong nỗ lực cuối cùng của mình nhằm xây dựng các mối quan hệ không thù địch với Moscow. Việc Nga từ chối khởi động một vòng đàm phán mới về cắt giảm vũ khí hạt nhân, bất chấp một sự nhượng bộ của Mỹ về hệ thống phòng thủ hỏa tiễn, tình hình Syria ngày càng trầm trọng, và vụ Edward Snowden cuối cùng đã khiến Bạch Cung nhận ra sự vô ích của các nỗ lực nhằm thiết lập các mối quan hệ mang tính xây dựng với “nước Nga của Putin”.
Thứ hai, chính sự thay đổi chế độ là cách thức mà Mỹ xem là tốt nhất, và quan trọng nhất, là hoàn toàn có thể đạt được để đáp lại thách thức “nước Nga của Putin”. Mỹ có khuynh hướng giải thích nhiều đặc điểm “khó chịu” trong chính sách đối ngoại của Nga bằng các nhân tố chính trị trong nước của mình. Các động thái ở Crimea và Donbass được miêu tả là khát vọng của chế độ này muốn bù đắp cho sự yếu kém và tình trạng trì trệ kinh tế của chính mình bằng một chính sách “thu gom đất đai” hiếu chiến, nhằm tái thiết lập “đế chế” và năng không cho “những ý tưởng tự do” bắt nguồn từ Ukraine đi vào Nga. Ý kiến rằng các hành động của Moscow là một sự đáp trả nỗ lực nhằm biến Ukraine thành một phần của “vành đai an toàn” chống Nga và rằng chúng trên thực tế có tính chất phòng thủ thay vì gây chiến được thiểu số chia sẻ không phải là một phần của xu hướng chủ đạo của chính sách đối ngoại.
Các cuộc biểu tình của dân chúng ở các thành phố lớn của Nga vào năm 2011 – 2012, sự phụ thuộc của nền kinh tế Nga vào giá dầu mỏ, và tình trạng trì trệ kinh tế bắt đầu vào năm 2012 – 2013 đã khiến nhiều nhà phân tích ở Washington nhận ra rằng chế độ của Putin thực sự yếu kém và sự ủng hộ mà ông có được nhờ phần đông người dân là dựa trên “sự thịnh vượng dầu mỏ”, điều thực chất là rất mong manh. Do đó, Mỹ đã nỗ lực để gây anh hưởng đến các thành viên của giới tinh hoa Nga thông qua các biện pháp trừng phạt cá nhân và kích động họ chống lại tổng thống, và đã thông qua các biện pháp kinh tế mà sẽ không buộc Moscow phải thay đổi chính sách của mình đối với Ukraine nhưng điều đó có thể làm tồi tệ đáng kể tình hình kinh tế của Nga trong trung hạn và dài hạn.
Do vậy, “sự đối đầu mang tính hệ thống có giới hạn” giữa Nga và Mỹ là một công cuộc khó khăn dai dẳng. Nó sẽ kéo dài ít nhất là cho đến khi kết thúc nhiệm kỳ tổng thống tiếp theo ở Mỹ (cho đến giữa thập kỷ tới) và sẽ kết thúc với một sự suy yếu đáng kể của một trong số các bên và với việc thiết lập các quy tắc mới cho các mối quan hệ chung giữa họ. Như chuyên gia nổi tiếng về các mối quan hệ quốc tế Thomas Graham đã viết: “Thậm chí nếu Nga có làm việc một cách cần mẫn để có một giải pháp chính trị tôn trọng chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Ukraine, Washington sẽ tiếp tục tìm cách để trừng phạt, kiềm chế, và làm suy yếu Nga, hiện được xem là một kẻ thù”.
Các tác động toàn cầu
Từ lúc bắt đầu cuộc khủng hoảng Ukraine, Mỹ đã phải đối mặt với sự cần thiết phải thuyết phục các đồng minh của mình rằng những sự đảm bảo an ninh của Mỹ là đáng tin cậy và rằng Mỹ sẽ không cho phép tái diễn kịch bản Ukraine ở các nước khác. Có lẽ Mỹ cần phải lên tiếng thậm chí thuyết phục hơn với các đối tác châu Á của nước này so với các thành viên NATO. Các đồng minh của Mỹ ở châu Á ngay lập tức xem các hành động của Nga là một mô hình khả thi cho hành vi của TQ ở Đông Á và, đặc biệt là Đông Nam Á. Nhật là một trong số những nước phản ứng đầu tiên: vào ngày 1/7/2014, nước này đã dỡ bỏ một phần lệnh cấm kéo dài nửa thế kỷ về việc sử dụng các lực lượng vũ trang của nước này ở nước ngoài. Sách Trắng hàng năm của Bộ Quốc phòng Nhật, được xuất bản vào ngày 5/8/2014, lập tức liên kết động thái này với các hành động của Nga ở Crimea.
Mỹ đã có các bước đi theo hai chiều hướng. Thứ nhất, nước này đã đưa ra cho các đồng minh và đối tác của mình những sự đảm bảo vững chắc hơn. Đặc biệt, Mỹ đã mở rộng sự hiện diện quân sự của mình trên các vùng lãnh thổ của họ và thông qua các kế hoạch hành động cụ thể và tham vọng hơn trong khủng hoảng. Thứ hai, nước này đã tăng cường chính sách ngăn chặn, và không chỉ đối với Moscow mà còn cả với Bắc Kinh.
Người ta thường cho rằng trong khi tập trung vào cuộc đối đầu mới với Nga, Mỹ sẽ giảm bớt sức ép đối với TQ và ít chú ý hơn đến khu vực châu Á – TBD nói chung. Thực tế, mọi chuyện chẳng hề thay đổi. Cuộc đối đầu Nga – Mỹ thực chất không làm thay đổi cán cân sức mạnh trên thế giới. TQ vẫn là đối thủ chính của Mỹ, trong khi khu vực châu Á – TBD vẫn là ưu tiên chính sách đối ngoại và kinh tế chính của Washington. Chính sự ưu tiên châu Á khiến cho Mỹ phải dành thậm chí nhiều sự chú ý cho nguy cơ về một sự tái diễn kịch bản Ukraine hơn là đối phó với nó ở châu Âu. Việc ngăn chặn một chính sách hiếu chiến hơn của Bắc Kinh ở khu vực châu Á – TBD cũng không kém phần quan trọng đối với Washington so với việc “trừng phạt” Moscow và hất cẳng Nga ra khỏi Ukraine.
Chuyến công du châu Á của Obama và tháng 4/2014 (Nhật Bản, Hàn Quốc, Philippines và Malaysia) nhằm mục đích thuyết phục các đồng minh của Mỹ rằng Washington sẽ không cho phép tái diễn kịch bản Ukraine ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Kết quả là, Mỹ đã gia tăng đáng kể chính sách ngăn chặn Trung Quốc của mình. Trong thời gian trước chuyến thăm của ông đến Nhật Bản, Obama đã nói rằng thỏa thuận hợp tác và an ninh Mỹ – Nhật, theo đó Mỹ đã đảm nhận trách nhiệm bảo vệ đồng minh của mình, cũng được áp dụng cho quần đảo Senkaku có tranh chấp. Nói cách khác, một nỗ lực của Trung Quốc nhằm thách thức tuyên bố chủ quyền của Nhật Bản đối với quần đảo này về mặt quân sự có thể dẫn đến một sự can thiệp quân sự của Mỹ. Kết quả chính của chuyến công du là việc ký kết một Thỏa thuận Hợp tác Quốc phòng Tăng cường với Philippines, thỏa thuận cho phép Mỹ lần đầu tiên kể từ năm 1991 được tạm thời đóng quân trên lãnh thổ của Philippines. Cũng đáng chú ý là các kế hoạch được công bố của Mỹ nhằm tăng cường sự hiện diện quân sự của nước này ở Đông Nam Á bốn tháng trước các kế hoạch tương tự cho châu Âu, đã được thông qua vào đầu tháng 9/2014 tại hội nghị thượng đỉnh của NATO ở Wales.
Trong bài phát biểu chính của mình tại Học viện Quân sự West Point vào ngày 28/5/2014, Obama đã miêu tả TQ là một đối thủ đang đặt ra mối nguy cho các đồng minh của Mỹ và trật tự thế giới. Việc Trung Quốc tăng cường xây dựng lực lượng quân đội và động thái của nước này đối với các vùng lãnh thổ tranh chấp đã được đề cập cùng với các hành động chống Ukraine của Nga. Như một bằng chứng rõ ràng về chính sách ngăn chặn của Mỹ, Obama đã cảnh báo rằng: “Sự gây hấn ở khu vực nếu không được kiềm chế – dù là ở miền Nam Ukraine hay ở biển Nam Trung Hoa (Biển Đông), hoặc bất kỳ nơi nào khác trên thế giới – cuối cùng sẽ ảnh hưởng đến các đồng minh của chúng ta và có thể lôi kéo quân đội của chúng ta vào đó”.
Sự gia tăng hiện diện quân sự của Mỹ ở khu vực châu Á – TBD, sự củng cố hệ thống liên minh của Mỹ, và các nỗ lực tích cực hơn nhằm kiềm chế Trung Quốc sẽ dẫn đến một sự phân cực địa chính trị của khu vực này, điều là trung tâm của các mối quan hệ quốc tế trong thế kỷ 21.
Cuộc đối đầu Nga Mỹ còn có một tác động nữa dẫn đến cùng một kết quả: nó phủ nhận khả năng Moscow đóng vai trò là một bên cân bằng, trung tâm quyền lực thứ ba ở khu vực châu Á – TBD, mà chính sự tồn tại của nó sẽ giữ cho khu vực này không bị phân cực. Cho đến gần đây, Nga là quốc gia duy nhất về mặt lý thuyết có thể thực hiện chức năng này nếu trước đó Nga thiết lập một cuộc đối thoại chiến lược với Mỹ về khu vực châu Á – TBD và nếu Nga xây dựng các mối quan hệ đối tác với các đồng minh của Mỹ ở khu vực này, gồm cả Nhật Bản. Nước này là quốc gia duy nhất trong số các nước lớn ở châu Á – TBD duy trì các mối quan hệ không thù địch với các trung tâm chính ở khu vực – Mỹ và TQ. Các nước khác, và đặc biệt là Ấn Độ, không thể đóng vai trò này vì rất nghi ngại TQ và xem nước này là một địch thủ. Không có bên thứ ba, khu vực châu Á – TBD sẽ phân chia thành hai trung tâm, tuy nhiên các nước trung bình và nhỏ có lập trường cứng rắn sẽ nỗ lực để làm chậm lại quá trình này.
Nga cũng sẽ tìm cách ngăn cản quá trình này vì Nga không có ý định từ bỏ tăng cường hợp tác chính trị và kinh tế với các đồng minh và đối tác của Mỹ ở châu Á. Nếu Nga thành công (nhiều nước châu Á cũng muốn như vậy: không nước nào trong số họ, ngoại trừ Nhật, tham gia vào các biện pháp trừng phạt của Mỹ), sự phân cực ở khu vực châu Á – TBD sẽ giảm bớt. Tuy nhiên, Mỹ sẽ phản đối những diễn biến như vậy, và TQ cũng vậy, nước vốn không hài lòng về việc Nga tìm cách tăng cường quan hệ với các đồng minh của Mỹ ở châu Á – TBD và trong hoàn cảnh hiện tại sẽ kỳ vọng sự trung thành lớn hơn từ Moscow.
Ngoài sự phân cực của khu vực châu Á – TBD, cuộc đối đầu Nga – Mỹ đang khuếch đại một xu hướng thậm chí còn lớn hơn trong sự phát triển của toàn cầu: nguy cơ phân chia thế giới thành “Đại phương Tây” – Mỹ và các đồng minh của mình ở châu Âu và châu Á – và “phi phương Tây Á – Âu”, bao gồm Nga, TQ, Ấn và Iran (có khả năng cùng với Pakistan, Afghanistan và Trung Á). Có cảm tưởng rằng yếu tố địa lý của sự phân chia này giống với ranh giới phân chia giữa các quốc gia “lục địa” và “đảo” trong địa chính trị cổ điển.
Một mặt, cuộc đối đầu này đem lại một động cơ mạnh mẽ cho Nga để phát triển hợp tác toàn diện với TQ và các trung tâm quyền lực phi phương Tây nói chung. Trong vài năm tới, họ sẽ là các đối tác chiến lược chính, và duy nhất trên thực tế, của Moscow, với việc Bắc Kinh giữ một vị trí đặc biệt giữa các nước này. Hiện tại Bắc Kinh là trung tâm quyền lực thân thiết nhất trên thế giới đối với Nga, và ngược lại. Do cuộc đối đầu Nga – Mỹ, các mối quan hệ này sẽ tiến đến một liên minh không chính thức. Ngoài ra, khi cuộc đối đầu giữa Nga và Mỹ đi kèm với sự cứng rắn trong chính sách kiềm chế TQ của Mỹ, việc nối lại quan hệ hữu nghị giữa Moscow và Bắc Kinh sẽ là công việc chung. Nhân tố này củng cố vị thế của Trung Quốc ở khu vực Á – Âu, và cuộc đối đầu giữa Moscow và Washington càng kéo dài, Bắc Kinh sẽ càng có cơ hội hơn để xây dựng tiềm lực quân sự của mình (sử dụng các công nghệ của Nga) và phát triển nền kinh tế của mình (thông qua việc tiếp cận các nguồn tài nguyên và thị trường tiêu dùng của Nga). Lần đầu tiên kể từ những năm 1950, “trung tâm” của khu vực Á – Âu thống nhất trên nền tảng của chủ nghĩa bài Mỹ, và lần này TQ là người lãnh đạo.
Hơn nữa, sự củng cố này có nhiều hơn một khía cạnh. Nó đi kèm với sự hợp tác ngày càng tăng giữa Nga, TQ, Ấn Độ, Pakistan, và Iran, điều này được tạo điều kiện thuận lợi bởi cuộc đối đầu Nga – Mỹ và sự đối địch gia tăng giữa Mỹ và TQ. Cả Nga lẫn TQ đều đang tăng cường mối quan hệ đối tác của mình với các trung tâm quyền lực phi phương Tây, và các nỗ lực đa phương có thể xua tan những nỗi lo sợ của mỗi trung tâm này rằng sự tăng cường đó có thể hướng vào chống lại họ. Kết quả là, đã có những khuynh hướng nổi lên hướng tới việc tăng cường này và khả năng mở rộng có thể xảy ra của Tổ chức Hợp tác Thượng Hải (SCO), tổ chức hiện nay là thể chế chính của khu vực không chỉ đối với TQ mà còn cả đối với Nga. Nếu Ấn Độ, Iran và Pakistan gia nhập tổ chức này với tư cách là thành viên đầy đủ, điều có vẻ không thực tế hiện nay, sự hợp tác đa phương giữa các trung tâm quyền lực phi phương Tây ở khu vực Á – Âu sẽ được nâng lên một cấp độ mới. Cuộc đối đầu giữa Mỹ và Nga, và sự đối địch ngày càng trầm trọng giữa Mỹ và TQ sẽ hợp nhất khu vực Á – Âu trên một nền tảng không thiện chí đối với Washington.
Mặt khác, khuynh hướng này đang diễn ra trong bối cảnh các mối quan hệ đang được củng cố giữa Mỹ và các đồng minh của nước này ở châu Âu và châu Á, bối cảnh cũng được tạo điều kiện thuận lợi bởi cuộc đối đầu với Nga và sự đối địch đang gia tăng với TQ. Chúng ta đang chứng kiến sự củng cố của NATO và các liên minh quân sự của Mỹ ở châu Á, mà đang ngày càng tập trung vào việc kiềm chế Nga. Rất có thể rằng việc củng cố các liên minh quân sự sẽ đi kèm với việc thiết lập được đẩy nhanh trong cộng đồng kinh tế hướng về Mỹ ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương và khu vực châu Âu – Đại Tây Dương, mà sẽ đóng cửa đối với Nga, TQ và các trung tâm quyền lực khác ở khu vực Á – Âu. Cho đến nay, các dự án Khu vực Thương mại Tự do xuyên Đại Tây Dương (TFTA) và Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) được Mỹ ủng hộ đã bị đình trệ. Tuy nhiên, cuộc đối đầu Nga – Mỹ, sự đối địch ngày càng trầm trọng giữa Mỹ – TQ, và việc mở rộng hợp tác trong khuôn khổ của SCO có thể đem lại một động lực mới cho các dự án này.
Trong một nỗ lực nhằm làm suy yếu nền kinh tế Nga, Mỹ đã bắt đầu công khai sử dụng khả năng lãnh đạo của mình trong việc quản trị kinh tế toàn cầu, đặc biệt là trong lĩnh vực tài chính, để ngăn khả năng Nga sử dụng những gì mà nhiều người trong thế giới toàn cầu hóa đã quen với việc xem đó là những điều bình thường – các thị trường và công cụ tài chính, các hệ thống thanh toán… Đó là một vấn đề khi các biện pháp trừng phạt như vậy được sử dụng để chống lại một quốc gia như Iran, và đó lại là vấn đề hoàn toàn khác khi chúng được sử dụng để chống lại nền kinh tế lớn thứ 6 của thế giới và đồng thời là một thành viên của G-20. Điều này xảy đến như là một lời nhắc nhở quan trọng đối với tất cả các trung tâm quyền lực mới rằng họ dễ bị tổn thương như thế nào chừng nào mà Mỹ vẫn là người điều khiển trật tự kinh tế thế giới, và rằng Mỹ có thể bắt đầu sử dụng vị thế của mình nhanh chóng như thế nào cho các mục đích chính trị chống lại quốc gia này hay quốc gia kia.
Kết quả là, quá trình tạo ra các công cụ thay thế cho việc quản trị quốc tế, điều đã chậm lại cho đến gần đây, đã tăng tốc đáng kể. Đã xuất hiện các cơ chế mới trong khối BRICS. Tổ chức Hợp tác Thượng Hải có thể thúc đẩy tương tác kinh tế giữa các thành viên của mình. Sự hình thành của các thể chế, công cụ và hệ thống thay thế phi phương Tây nằm ngoài tầm kiểm soát của Washington (các ngân hàng phát triển, các hệ thống thanh toán, các cơ quan đánh giá tín dụng…) đã trở thành một đòi hỏi cấp thiết thực tế cho tất cả các trung tâm mới. Thời gian sẽ cho biết sự phân chia này sẽ gây ra tác động gì cho chất lượng quản trị nền kinh tế vốn vẫn mang tính toàn cầu.
Cuối cùng, cuộc đối đầu ảnh hưởng đến chất lượng của công cuộc chiến đấu chống lại các mối đe dọa an ninh toàn cầu mà phần lớn phụ thuộc vào sự tương tác Nga – Mỹ.
Sự kết thúc của cuộc đối đầu và trật tự quốc tế
Một tác động lớn hơn nhiều đối với hệ thống quốc tế sẽ được tạo ra bởi kết quả của cuộc đối đầu Nga – Mỹ hiện nay. Thực tế, nó sẽ là một nhân tố quan trọng trong việc quyết định trật tự quốc tế trong tương lai sẽ thay thế thời kỳ chuyển tiếp kéo dài hậu Chiến tranh Lạnh. Tuy nhiên, nếu cuộc đối đầu này kết thúc với một “thắng lợi” của Mỹ, thời kỳ chuyển tiếp này sẽ tiếp tục kéo dài và các mối quan hệ quốc tế sẽ phát triển mà không có trật tự trong một thời gian.
Vì cuộc đối đầu này khó có thể được giải quyết mà không có sự đầu hàng của một trong hai bên, có thể có hai kịch bản cơ bản để giải quyết.
Kịch bản thứ nhất, mà Washington tìm kiếm, là một sự thay đổi chế độ ở Nga và xa hơn nữa là sự sụp đổ quốc tế và chính trị của nước này. Mỹ sẽ ép Nga từ bỏ các kế hoạch xây dựng trật tự kinh tế (Liên minh Kinh tế Á – Âu) và khu vực an ninh của nước này (Tổ chức Hiệp ước An ninh Tập thể) ở Khu vực Á – Âu và đưa Ukraine can dự vào các tổ chức này. Và, tất nhiên, Washington sẽ yêu cầu Nga trao trả Crimea lại cho Ukraine, điều bất khả thi dưới chế độ chính trị hiện nay ở Moskva. Đối với Nga và không gian hậu Xôviết nói chung, điều này sẽ đồng nghĩa với “sự trở lại” của Pax Americana (nền hòa bình kiểu Mỹ) và “các quy tắc của những năm 1990” sẽ được thiết lập lại trong các mối quan hệ Nga – Mỹ trong một khoảng thời gian. Tất cả những cuộc thảo luận về Nga như là một trung tâm quyền lực độc lập, nhà lãnh đạo của một hệ thống phụ thuộc quốc tế của khu vực, và là một thành viên bình đẳng của một trật tự không bá quyền ở châu Âu và khu vực Á – Âu khi đó có thể bị lãng quên. Không loại trừ khả năng rằng sự suy yếu như vậy của Nga có thể khiến bùng lên các khuynh hướng đòi ly khai mới ở nước này và dẫn đến việc không chỉ đánh mất Crimea mà còn cả một số lãnh thổ khác.
Nếu được thực hiện, kịch bản này sẽ là một đòn giáng đau đớn cho tất cả các trung tâm quyền lực mới. Nga, với tư cách là một trong số các nhà lãnh đạo trong cuộc đấu tranh cho một thế giới đa cực, thực tế sẽ bị loại ra khỏi các trung tâm đang nổi. Nhân tố này sẽ làm thay đổi toàn bộ cán cân quyền lực thế giới giữa các nhà lãnh đạo cũ và mới, lẫn chiều hướng phát triển thế giới.
Sự luận bàn trong thập kỷ qua về một sự suy yếu tương đối của Mỹ và một sự phân bố lại quyền lực có lợi cho các trung tâm mới sẽ ít được ưa thích hơn, trong khi luận điểm về khả năng lãnh đạo của Mỹ sẽ hồi phục. Nó sẽ lại trở nên được ưa thích đối với những người theo chủ nghĩa quốc tế tự do của Mỹ, những người nói rằng các trung tâm phi phương Tây không có sự lựa chọn nào ngoài việc tham gia trật tự quốc tế mà Mỹ làm trung tâm với tư cách là các đối tác cấp thấp và rằng họ không thể tạo ra các hệ thống thay thế thành công cho việc quản trị khu vực, chứ chưa nói đến là toàn cầu. Cuộc thảo luận này sẽ đặc biệt ầm ĩ nếu “việc loại trừ” Nga xảy ra đồng thời với tiến triển trong việc thiết lập TPP và TFTA.
Các diễn biến này sẽ giáng một cú đòn đánh mạnh vào khối BRICS và nói chung là vào tất cả nỗ lực nhằm tạo ra các cơ chế quản trị toàn cầu và khu vực độc lập với phương Tây. BRICS có thể sụp đổ hoàn toàn. Hiện nay, Nga là nước duy nhất trong BRICS có các mối quan hệ thân thiết bền vững với tất cả các thành viên của khối này, và như vậy nước này đóng vai trò là một mắt xích quan trọng giữa các nước. Nếu mắt xích này mất đi, các mối quan hệ giữa các nước BRICS còn lại sẽ được đánh dấu bởi sự ngờ vực và các bất đồng địa chính trị hoặc kinh tế, hoặc, điều hầu như chẳng khá khẩm hơn, bởi sự thờ ơ. Nga là thành viên duy nhất của BRICS sẽ xây dựng chính sách đối ngoại của mình về mặt trật tự quốc tế và các nguyên tắc và quy chuẩn đa phương, thay vì chỉ đơn thuần thúc đẩy các lợi ích của chính nước này.
Các tổ chức do Mỹ kiểm soát sẽ nhận được nhiều sự ủng hộ. Các thể chế của Bretton Woods và nhóm G-7 sẽ hồi phục. NATO sẽ nóng lòng khẳng định mình là thể chế an ninh chủ đạo đối với toàn bộ khu vực châu Âu – Đại Tây Dương, và sức ảnh hưởng của nó sẽ mở rộng đến biên giới của Trung Quốc, điều sẽ gia tăng những nỗi lo sợ của Bắc Kinh về sự bao vây chiến lược.
TQ sẽ là kẻ thua cuộc lớn thứ hai sau Nga. Nước này sẽ đánh mất láng giềng thân thiết duy nhất của mình (không kể Mông Cổ và Triều Tiên) và đối tác thân thiết đích thực duy nhất trong số các trung tâm quyền lực mới. TQ cũng sẽ đánh mất một “hậu phương đáng tin cậy và an toàn” ở khu vực Á – Âu, được đảm bảo bằng mối quan hệ đối tác chiến lược với Nga và là điều mà TQ hết sức cần đến để ngăn chặn một sự bao vây thù địch và thực hiện một chiến lược liều lĩnh ở châu Á – TBD.
Kịch bản thứ hai, mà Moskva hiện đang tìm cách thực hiện, là việc Mỹ thông qua các nguyên tắc mới của cuộc chơi, dựa trên sự thừa nhận rằng Nga là một trung tâm độc lập trong một thế giới đa cực và tôn trọng các lợi ích của nước này, gồm cả quyền đối với các dự án hợp nhất và an ninh khu vực và sự tham gia đầy đủ của nước này vào các quy tắc quốc tế. Theo lựa chọn này, Nga sẽ vẫn giữ Crimea, trong khi Ukraine nên xây dựng một hệ thống nhà nước mà sẽ loại bỏ khả năng nó trở thành một nhà nước chống Nga và hội nhập với các tổ chức của phương Tây, điều sẽ đảm bảo địa vị trung lập của nước này và đảm bảo các mối quan hệ mật thiết của nước này với Nga.
Nếu được thực hiện, kịch bản này sẽ đánh dấu sự hoàn thành công cuộc chuyển đổi của hệ thống quốc tế sang một sự đa cực mới. Những tàn tích của sự lãnh đạo toàn cầu của Mỹ, theo cách hiểu của Wilson, sẽ bị loại bỏ không chỉ trong các mối quan hệ với Nga và các quốc gia hậu Xô viết khác, mà còn cả trên toàn cầu.
Việc thiết lập các quy tắc mới trong các mối quan hệ Nga – Mỹ sẽ tạo ra một tiền lệ cho các nước khác không chấp nhận sự lãnh đạo của Mỹ. Mỹ trên thực tế sẽ phải công nhận quyền trở thành bá quyền khu vực của các trung tâm này trong một thế giới đa cực, điều là một quy chuẩn cho trật tự quốc tế này. Mặc dù nhân tố này sẽ xoa dịu các vấn đề và bất đồng trong các mối quan hệ của Mỹ với các trung tâm quyền lực khác và sẽ cho phép nước này cuối cùng xây dựng các mối quan hệ đối tác bền vững và hầu như là bình đẳng với họ, hệ thống liên minh toàn cầu của Mỹ sẽ bị giáng một cú đòn.
Hiện giờ, kịch bản này dường như là truyện khoa học viễn tưởng. Washington đang đi theo hướng ngược lại, điều được chứng minh rõ ràng bằng sự thay đổi toàn bộ chính sách của Mỹ dưới thời Obama từ việc xây dựng các mối quan hệ đối tác chiến lược với tất cả các trung tâm quyền lực chính trên thế giới cho đến việc củng cố các liên minh châu Âu và châu Á xung quanh đó, trong khi thắt chặt chính sách đối với Nga và TQ.
Sự thay đổi này cho thấy Mỹ đang trải qua những khó khăn to lớn trong việc cố gắng thích nghi với sự đa cực. Sự thích nghi này mâu thuẫn với lịch sử và hệ tư tưởng của Mỹ và khó có thể chấp nhận 20 năm sau khi Mỹ dường như đã đi đến hồi kết của lịch sử. Cũng tương đối khó khăn để thừa nhận rằng truyền thống chủ nghĩa quốc tế tự do của Wilson, theo đó Mỹ tích cực tham gia các mối quan hệ quốc tế với tư cách là một nhà lãnh đạo với ý định thay đổi thế giới, kông có hiệu quả trong sự đa cực.
Sớm hay muộn, quy chuẩn lịch sử của sự đa cực, cân bằng, bá quyền khu vực, và sự đa dạng về hệ tư tưởng sẽ chiếm ưu thế trong các mối quan hệ quốc tế, và Mỹ sẽ phải thừa nhận nó như nước này đã làm dưới thời Woodrow Wilson, mặc dù ông đã rất phản đối điều đó.
Nguồn: Tạp chí Russia in global Affairs (Nga) – 12/2014
CVĐQT số 3/2015
* * *
Xem bài liên hệ với chủ đề: click vào đây
Xem bài trang Kiến thức, tài liệu: click vào đây
Trở về trang chính: http://www.nuiansongtra.net