TỤC NGỮ, CA DAO MIỀN NÚI ẤN SÔNG TRÀ II.
Đào Đức Nhuận.
Phần thứ hai.
(Tiếp theo và hết).
Lượng tục ngữ ca dao chuyên chở những nội dung kể trên được xem là ít so với lượng ca dao tình cảm khá phong phú và đa dạng.
Phong cách giáo dục trong gia đình của cha ông ta ngày xưa rất nghiêm khắc. “Yêu cho roi cho vọt” được xem là quan niệm chính thống trong việc giáo dục con em. Ông bà, cha mẹ dùng roi vọt để dạy dỗ, răn đe con cháu. Thầy giáo dùng roi vọt để răn đe học trò. Không ai phàn nàn, không ai cho đây là một hành vi ngược đãi. Có nhiều bậc trưởng thượng đôi khi quá nặng tay trong việc răn đe. Dẫu vậy, con cái cũng vẫn một lòng vâng lời, thương yêu và kính trong cha mẹ:
Mẹ cha là biển là trời,
Phận con đâu dám cãi lời mẹ cha.
Con cái có dám can gián cũng chỉ là những lòi can gián nhẹ nhàng với lòng tôn kính, thương yêu nồng nàn:
Mẹ ơi, đừng đánh con đau,
Để con bắt ốc, hái rau mẹ nhờ.
Mẹ ơi, đừng đánh con khờ,
Để con đan lờ thả cá mẹ ăn!
Cái nhìn của người con đối với cha mẹ thật là mặn nồng, chân chất. Không là những hứa hẹn cao xa, mà chỉ là những hứa hẹn đơn giản “để con bắt ốc, hái rau mẹ nhờ” hay “để con đan lờ thả cá mẹ ăn”.
Hay như:
Đói lòng ăn trái chà là,
Để con nuôi mẹ, mẹ già yếu răng!
Hình ảnh người mẹ trong tâm khảm người con lúc nào cũng là hình ảnh cao quý của đức hy sinh vô bờ bến:
Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa,
Miệng nhai cơm búng, lưỡi lừa cá xương!
Cha mẹ được xem là nơi nương tựa của con cái - ngay cả khi người con đã lập gia đình:
Có cha, có mẹ thì hơn,
Không cha, không mẹ như đờn đứt dây!
Thế nên con cái vẫn thường xuyên bảo nhau phải luôn luôn nghĩ đến cha mẹ như một nghĩa vụ thiêng liêng:
Sớm mai gánh nước bờ ao
Dặn anh buôn bán làm sao cũng về
Anh đừng trò chuyện say mê,
Bỏ cha già, mẹ yếu ba bốn bề cực em!
Hoặc như:
Ăn chanh chíp miệng chua chua,
Em đưa anh đến Chợ Chùa xa xa.
Mảng lo cha yếu mẹ già,
Đặt chân xuống đất con nhạn đà trở canh!
Hoặc như:
Đèo nào cao bằng đèo Sơn Cốc,
Dốc nào ngược bằng dốc Mỹ Trang.
Một tiếng em than hai hàng lụy nhỏ,
Phụ mẫu già rồi biết bỏ cho ai?
Ngay trong tình yêu, họ đòi hỏi người tình phải biết kính nhường cha mẹ:
Em không phải người tham đào phụ liễu,
Em không phải người tham nhiễu phụ lương,
Em không thương anh lắm ruộng nhiều vườn,
Thương vì ý anh ăn ở kính nhường mẹ cha!
Và ơn cha nghĩa mẹ lúc nào cũng canh cánh bên lòng:
Ơn cha, nghĩa mẹ trìu trìu,
Mưa mai lòng sợ, nắng chiều dạ lo.
Ơn cha núi đất trời Tây,
Lai láng nghĩa mẹ nước đầy biển Đông!
Ơn cha trọng lắm ai ơi!
Nghĩa mẹ bằng trời, mang nặng đẻ đau!
Lượng ca dao tình cảm thật phong phú, đa dạng... Ngoài những tình yêu dành cho quê hương, dành cho cha mẹ, lượng ca dao nói về tình cảm trai gái đã chiếm một phần lớn.
Với bản chất nông dân thật thà, chất phác, con trai con gái khi tỏ tình cũng thật chất phác, thật thà. Họ luôn luôn biểu lộ một thái độ hết sức trung thực “nói gần nói xa chẳng qua nói thiệt!”.
Trồng cây cũng muốn cây xanh,
Gá duyên với bạn biết có thành phu thê?
Ngó lên hòn núi Chóp Vung,
Ngó xuống cánh đồng lúa trĩu những bông.
Ước gì em chửa có chồng,
Anh về thưa cha mẹ đem rượu hồng đón em!
Không khách sáo, không đẩy đưa, tình tứ mà bộc trực:
Trời mưa không quán, không nhà,
Bờ tre bến Đục đôi ta cùng ngồi.
Chờ cho ráo giọt mồ hôi,
Cầm tay tỏ thiệt rằng “Tôi yêu mình!”.
Nơi hẹn hò của một cặp tình nhân cũng thật đơn giản. Chỉ là một “bờ tre” bên dòng suối có bóng mát để ngồi tình tự, hoặc như:
Anh nguyện cùng em tại cầu Bến Ván,
Em nguyện cùng anh tại quán Cây Da.
Hẹn nhau ở nơi đầu cầu có bóng mát. Hẹn nhau ở một quán nước bên đường dưới gốc một cây da để tự tình, đơn giản thật đấy, nhưng cũng tình tứ biết bao!
Cầu Bến Ván ở An Tân thuộc tỉnh Quảng Tín, Cây Da thuộc quận Sơn Tịnh.
Trong tình yêu, để tỏ tình, người thiếu nữ cũng bộc trực thật thà không kém:
Đèo nào cao bằng đèo Đồng Ngổ,
Bộ nào rộng bằng bộ An Ba.
Thấy anh ăn nói thiệt thà,
Muốn vô gầy dựng cửa nhà cùng anh!
Nếu có những cô gái lựa chọn người bạn tình vì ý “ở biết kính nhường mẹ cha” thì ở đây ta lại thấy các cô đòi hỏi một tiêu chuẩn khác nữa: “ăn nói thiệt thà”.
Hay nữa như:
Anh về đào lỗ trồng cau
Cho em giâm ké giây trầu một bên.
Mai sau cau nọ lớn lên,
Trầu kia ra lá đền ơn cho chàng.
Cau lên chín lỗ, trầu mọc chín hàng,
Cau bao nhiêu lóng thương chàng bây nhiêu!
Có những cô gái chỉ biết yêu thầm, nhớ trộm, gặp người mình thương mà chẳng dám nhìn thẳng mà chỉ dám “ngó nghiêng con mắt”:
Em gặp anh giữa bến đò đông,
Giữa đường quan lộ em không dám chào.
Hai bên họ đứng lao xao,
Ngó nghiêng con mắt như chào người thương!
Trong buổi ban đầu của tình yêu, nàng tỏ ra dè dặt, e lệ thì chàng nào có hơn gì:
Anh thương em nào ai biểu, ai bày,
Thâm thâm dịu dịu mỗi ngày mỗi thương
Nước mía trong họ nấu lọc thành đường,
Anh thương em anh biết, chớ thói thường biết đâu?!
Khi đã vào cuộc yêu rồi thì “tất cả cho người yêu”, biểu lộ một đức hy sinh cao cả chân chất:
Trời mưa ướt lá trầu hương,
Ướt anh anh chịu, ướt người thương anh buồn.
Trời mưa ướt lá trầu vàng,
Ướt em em chịu, ướt chàng em thương.
Khi họ đã yêu nhau rồi thì không có trở lực nào, không có khó khăn nào có thể lay chuyển được họ:
Vái ông Tơ một chồng bánh tráng,
Vái bà Nguyệt một tán đường đinh.
Đôi ta gá nghĩa chung tình,
Dẫu ăn cơm quán, ngủ đình cũng ưng.
Hay như:
Đi qua lò mía thơm đường,
Muốn vô kết nghĩa cang thường với ai.
Muốn cho trúc nọ kề mai,
Núi cao cũng vượt, truông dài cũng qua.
Tình yêu có một ma lực kỳ lạ. Đã yêu nhau rồi thì không có một thử thách nào có thể ngăn cản được bước chân đi tới của người tình:
Quế càng già càng tốt,
Mía dài đốt càng ngon,
Anh thương em đặng nghĩa vuông tròn,
Mấy sông cũng lội, mấy hòn cũng leo.
Đối với người con trai, chỉ cần nàng chấp thuận tình yêu thì với bất cứ giá nào chàng cũng phải tỏ ra xứng đáng với tấm tình của nàng dù có phải tốn bao nhiêu công sức:
Miễn cho mở miệng em ừ,
Anh chẳng từ lao khổ,
Dẫu lên non tróc hổ,
Hay xuống biển nã rồng,
Anh đây cũng chẳng tiếc công,
Mong sao cho đặng tấm lòng em thương!
Và khi đã “đặng tấm lòng em thương” rồi, thì không có gì có thể lay chuyển được tình yêu của chàng dù cho có bị thiên hạ gièm pha cách này hay cách khác:
Quý gì một nải chuối xanh,
Năm bảy người giành cho mủ dính tay!
- Mủ dính tay anh chùi đọt cỏ,
Đã thương nàng rồi không bỏ được đâu.
Người con trai thường tỏ ra cương quyết, đã yêu nhau là đi đến cùng để đạt cho được ước vọng. Tuy nhiên, đôi khi vì hoàn cảnh nghèo khổ cũng phải khiến cho chàng như muốn chùn bước:
Sáng mai anh thức dậy,
Anh xách cái rựa quéo,
Anh lên hòn núi Quẹo,
Anh đốn cây củi còng queo,
Anh than với em cha mẹ anh nghèo,
Đũa tre yếu ớt không dám quèo con mắm nhum!
Thế nhưng, dối với người con gái, khi đã yêu thì chỉ có tình yêu là trên hết.. Không một trở lực nào có thể ngăn cản được con tim cháy bỏng yêu đương của nàng. Quả thật, đối với nàng, tình yêu không có sự so đo, tính toán. Bản chất của người dân quê chất phác là như vậy đó. Có thể là mù quáng nhưng rất đỗi chung tình:
Em thương anh trầu hết lá lươn,
Cau hết nửa vườn cha mẹ nào hay.
Dẫu mà cha mẹ có hay,
Nhứt đánh, nhì đày hai lẽ mà thôi.
Gươm vàng để đó anh ơi,
Chết thà chịu chết, lìa đôi không lìa!
Dùng trầu cau để đãi khách chung tình “trầu hết lá lươn... cau hết nửa vườn”. Nàng có nói ngoa lắm không? Không ngoa đâu! Chỉ là một cách nói khoa đại. Nói cho quá đi để cho người ta thấy rằng “chàng và nàng” đã gặp nhau biết bao nhiêu lần và đã bao nhiêu lần thề non hẹn biển. Và mối tình đó không thể nào tan vỡ được bởi vì nàng đã quyết hy sinh cho tình yêu “chết thà chịu chết, lìa đôi không lìa!”
Và đối với nàng, chỉ có một người tình duy nhất, đã một lần hò hẹn là như nhất thủy chung:
Trăm năm tượng rách còn thờ,
Lỡ duyên chịu lỡ, quyết chờ đợi anh.
Hay như:
Dẫu mà đan giỏ trôi sông,
Trôi lên, trôi xuống em cũng không bỏ chàng!
Dẫu mà tội bắt lên quan,
Tội em em chịu, tội chàng em xin.
Khi người con gái đã yêu, nàng tỏ ra có đức chịu đựng phi thường, cả về vật chất lẫn tinh thần:
Bởi vì con heo nên phải đèo khúc chuối,
Bởi vì con muỗi nên phải thả màn loan.
Bởi vì chàng nên thiếp phải chịu đòn oan,
Phụ mẫu nhà đay nghiến, miệng thế gian chê cười!
Trong tình yêu, người con gái - nhất nữa lại là người con gái của một vùng quê hương nghèo nàn - lúc nào cũng mang một tình yêu thủy chung như nhất. Khi họ đã yêu là yêu cho đến kỳ cùng, không ai được quyền nghi ngờ tình yêu của họ:
Con chim chà chiện,
Bay thấp liệng cao,
Nó kêu làm sao lăng nhăng líu nhíu.
Em thấy chàng bận bịu,
Không nỡ dứt tình,
Phải chi em có thuốc hồi sinh,
Mổ gan trao lại kẻo tình anh nghi!
Hoặc như:
Chim khôn kêu tiếng rảnh rang,
Người khôn nói tiếng dịu dàng dễ nghe.
Bóng trăng ngã lộn bóng tre,
Chàng ơi đứng lại mà nghe em thề.
Vườn đào, vườn lựu, vườn lê,
Con ong vô hút mật, con bướm xê ra ngoài.
Chàng về nghĩ lại mà coi,
Tấm tình em ở gương nào soi cho bằng!
Khi yêu nhau, họ muốn có một tình yêu gắn bó thủy chung:
Thuốc ngon chợ Huyện,
Giấy quyến Sa Huỳnh,
Nẫu xa mược nẫu,
Chớ đôi đứa mình đừng xa!
Họ ao ước giữ mãi được lời thề non hẹn biển:
Tay chém tay sao nỡ,
Ruột cắt ruột sao đành.
Lời thề nước biếc, non xanh,
Ở sao cho trọn đạo sanh thành mới nên!
Họ thề nguyền không bao giờ thay lòng đổi dạ:
Con chim chích chòe nó đứng hè bà chủ,
Con chim đội mũ nó đứng đám củ ông Hương,
Đôi ta mới ngộ tình thương,
Dẫu ai đem nhiễu đổi lương cũng đừng!
Yêu nhau rồi phải xa nhau! Xa nhau để mà nhớ nhau. Nhớ da diết! Nhớ điên cuồng! Quên tất cả mọi sự trên đời để chỉ còn lại một đường là nhớ:
Cũng bởi vì ai đêm nằm không ngủ,
Cũng bởi vì ai mặt ủ, chân mày hường!
Cũng bởi vì ai dật dựa ngoài đường,
Cha mẹ la đánh, thói thường cười chê!
Hay như:
Anh về Mỹ Á chi lâu,
Để em ôm chiếc thuyền câu một mình.
Đối với người con gái, để làm vơi đi nỗi nhớ nhung chất ngất, nàng chỉ còn biết khóc - khóc cho vơi nỗi buồn tưởng nhớ:
Biết nhau chi cho thiếp thương, chàng nhớ,
Hay chi hồi xưa thiếp chớ, chàng đừng.
Điệu chung tình thảm lắm chàng ôi,
Về nhà cơm dọn còn ngồi khoanh tay.
Không ăn thì cha đánh mẹ rầy,
Ăn thì nước mắt nhỏ đầy bát cơm!
Hay như:
Anh về sao đặng mà về,
Non nước lời thề bỏ lại cho ai.
Anh về há dễ về luôn,
Bỏ khăn xéo lại lệ tuôn em chùi!
Hay như:
Con chim tra trả, ai vay mà trả!!
Ngọn gai sưng, ai vả mà sưng?!
Đây người dưng, đó cũng người dưng,
Cớ sao nước mắt rưng rưng nhỏ hoài!
Hai tay ôm vạt áo dài,
Chặm lên con mắt, chặm hoài không khô.
Nếu nàng Kiều của Nguyễn Du vì nhớ Kim Trọng nên đã “vì hoa nên phải đánh đường tìm hoa”, thì nàng con gái chân quê của chúng ta đã vì nhớ mà đi tìm người yêu. Nếu nàng Kiều chỉ “xăm xăm băng lối vườn khuya một mình”, thì nàng con gái chân quê của chúng ta phải “leo dốc, băng sông” để đến với người yêu và khi đã gặp người yêu rồi, nàng không còn muốn xa người yêu nữa:
Ra đi mẹ có dặn dò:
Ruộng rộc thì cấy, ruộng gò thì gieo.
Đường đi khuất nẻo quanh queo,
Khúc leo lên dốc, khúc trèo xuống sông.
Không đi bạn nhắc, bạn trông,
Đi rồi châu lụy lại không muốn về.
Nỗi nhớ nhung tha thiết đó nhiều khi khiến cho người yêu đâm ra ngờ vực:
Ăn chanh nhớ tỏi ngùi ngùi,
Ngồi trong đám hẹ nhớ mùi rau răm.
Hỡi người bạn cũ trăm năm,
Quay tơ có nhớ mối tằm ta xưa?
Hay như:
Dao vàng rọc lá trầu vàng,
Mắt thiếp thiếp liếc, mắt chng chàng luân.
Trai xuân gặp gái cũng xuân,
Như bông lúa trổ giữa chừng gặp mưa.
Anh thương em cha mẹ hay chưa,
Hay là thương đón, thương đưa ngoài đường?
Phải cách xa nhau là một nỗi đoạn trường. Cái hình ảnh “cầm dao cắt ruột” đã nói lên nỗi nhớ nhung quặn thắt, nỗi nhớ nhung buốt nhói con tim. Nỗi đoạn trường xa cách đó đã làm đổ bao nhiêu là nước mắt vơi đầy:
Xưa rày xa cách nghĩa nhau,
Cầm dao cắt ruột, ruột đau quá chùng.
Lụy rơi khăn chặm không ngừng,
Trách ai ngăn gió gió đừng rung cây.
Vì ai duyên nợ chừng này,
Tay bưng, nước mắt chảy đầy chén cơm!
Họ trách cứ nhưng biết trách cứ ai? Kẻ nào gây ra sự chia lìa? Kẻ nào gây nên điều ngăn cấm? Nào ai biết được:
Qua chùa núi Hó thắp bó nhang vàng,
Xin cho bạn cũ lai hoàn như xưa,
Trông trời chẳng thấy trời mưa,
Rồng đi lấy nước rồng chưa trở về.
Lựu tìm đào, đào chẳng tìm lê,
Đi lên tìm quế, quế về rừng xanh.
Trách ai treo ngọn, thắt ngành,
Cho chàng xa thiếp, cho anh xa nàng!
Nhớ nhung và đợi chờ là hai hình thái của một tình yêu chung thủy. Đôi khi nàng phải đợi chờ trong cô đơn, đợi chờ trong tuyệt vọng. Biết vậy nhưng nàng vẫn đợi chờ:
Chờ anh đã mãn sức chờ,
Chờ cho rau muống lên bờ trổ bông.
Chị em ai nấy có chồng,
Mình em thủ tiết, thu đông chờ chàng!
Ngày xưa con gái đến tuổi cập kệ là tuổi có chồng “chị em ai nấy có chồng!”. Vậy mà nàng phải “mình em thủ tiết, thu đông chờ chàng”. Ôi, có thế mới thấy hết sự hy sinh vô bờ bến của nàng cho Tình Yêu!
Đã yêu nhau rồi, họ vẫn hoài lo sợ. Nhiều trở lực có thể ngăn cản tình yêu của họ, có thể làm cho họ phân lìa:
Hòn đá đóng rong vì dòng nước chảy,
Hòn đá bạc đầu là bởi sương sa.
Anh thương anh không dám nói ra,
Sợ mẹ bằng biển, sợ cha bằng trời.
Em với anh cũng muốn kết đôi,
Sợ vầng mây bạc trên trời mau tan!
Trong tình yêu, họ muốn người yêu là của riêng mình:
Trăm năm ai chớ phụ ai,
Chỉ thêu nên gấm, sắt mài nên kim.
Trên trời biết mấy thứ chim,
Đã loan với phụng đừng tìm chìa vôi.
Trồng trúc xin chớ xén chồi,
Thương anh thì chớ đứng ngồi với ai!
Yêu nhau rồi thì phải tiến đến hôn nhân. Đó là ước vọng duy nhất của những kẻ yêu nhau. Và để tiến đến hôn nhân, trong thực tế, họ đã phải vượt qua bao nhiêu là trở lực và có những trở lực họ không thể nào vượt qua được, đó là lễ giáo:
Tay cầm ống chỉ xe lần,
Nơi xa trùng họ, nơi gần bà con.
Giậm chân xuống đất cái bon,
Nay em ở vậy, chồng con đâu nà!
Tuy biết mình phải sống trong một tình yêu tuyệt vọng, người con gái vẫn một lòng chung thủy “nay em ở vậy, chồng con đâu nà!”.
Đã yêu nhau ai cũng muốn tiến đến hôn nhân. Không tiến được đến hôn nhân là một nỗi buồn phiền khôn nguôi:
Bùn xa bèo, bùn khô bèo héo,
Lựu xa đào, lựu ngả đào nghiêng!
Vàng trên tay rớt xuống không phiền,
Phiền vì một nỗi nợ với duyên không thành!
Hay như:
Sớm mai ra đứng sân sau,
Hai tay xụi xuống như tàu chuối te.
Tiếc công vun quén cây mè,
Mè không ra trái, chim hòe đậu lên!
Tiếc công lên xuống, xuống lên,
Mòn đàng chết cỏ không nên tự trời !
Tưởng rằng kèo cột ở đời,
Ai hay cột ngã, kèo rời một phương !
Đã yêu nhau ai cũng muốn tiến đến hôn nhân, và tiến đến hôn nhân càng sớm càng tốt. Bởi lẽ, thế gian thường tình vẫn hay ưa xoi mói đến những cuộc tình của kẻ khác:
Anh có thương em thì đừng có luân con mắt,
Đừng có quẹt ngón tay,
Người ta đông như hội, ngó ngay mà nhìn.
Thuốc của anh anh hút,
Trầu của anh anh đừng mời.
Miệng thế gian họ đồn lắm anh ơi,
Giả lơ làm lảng như hồi chưa quen!
Vả lại, lời bình phẩm của thế gian dễ gây đổ vỡ cho hôn nhân của họ:
Hỏi vợ thì cưới liền tay,
Chớ để lâu ngày thiên hạ gièm pha!
Để tiến đến hôn nhân, người con gái đã khuyên người bạn tình làm một công việc vô cùng cần thiết theo đúng lễ giáo:
Anh thương em thì trầu rượu đến nhà,
Trước cha mẹ biết, sau bà con hay!
Và trong hôn nhân, đối với người dân quê, nhất nữa là người dân quê của một vùng đất sỏi cây cằn - họ không đòi hỏi những sính lễ cao sang như bạc vàng, châu báu. Sính lễ của họ thật đơn giản:
Tiếng đồn chị Bốn có duyên,
Anh Bốn đi cưới một thiên cá mòi.
Chẳng tin giở quả ra coi,
Mít non ở dưới, cá mòi ở trên!
Theo lễ giáo xưa, cha mẹ có toàn quyền quyết định về hôn nhân cho con cái: “cha mẹ đặt đâu con ngồi đó”. Do đó, có những cuộc hôn nhân không bắt đầu bằng tình yêu. Con cái hầu như hoàn toàn tùy thuộc vào quyết đinh của cha mẹ. Các bậc cha mẹ lại tin tưởng hoàn toàn vào sự môi giới của các người làm mai dong. Thế nên, có nhiều cuộc hôn nhân không đem đến hạnh phúc, kẻ trong cuộc chỉ biết đau đớn và hờn trách. Kẻ bị trách trước tiên là người mai dong:
Con gà trống tía cái lông cũng tía,
Bụi lang giâm, bụi mía cũng giâm.
Oâng mai ngọt miệng em lầm,
Bây giờ nghĩ lại giận thầm ông mai!
Tuy nhiên cũng có những kẻ yêu nhau thực sự nhưng vì ông mai vụng về nên họ không được gần nhau:
Xấu tre uốn chẳng nên cần,
Xấu mai nên chẳng được gần với em!
Nếu có những cuộc hôn nhân suôn sẻ, ngay cả giàu sang cũng không màng:
Chim xanh ăn trái ổi tàu,
Xứng đôi mẹ gả, ham giàu làm chi!
thì cũng có nhiều cuộc hôn nhân không trọn vẹn. Sự chia lìa vĩnh viễn tạo nên những đau đớn khôn cùng. Tuy nhiên, ở đây ta vẫn thấy người phụ nữ tỏ ra chịu đựng:
Chàng xa, thiếp cách tội đách gì rầu,
Thác như Lã Vọng té xuống lầu non tiên.
Ngửa tay em trao một đồng tiền,
Phận sao chịu vậy, đừng phiền mà hư!
“Phận sao chịu vậy” đó chỉ là một quan niệm về duyên số nhằm an ủi những kẻ bị thất bại trong tình yêu:
Chiều chiều ra đứng ngõ sau,
Sông sâu nước chảy ruột đau từng hồi!
Tội tình thiếp lắm chàng ôi!
Trầu ăn không đỏ vì vôi quệt già.
Đêm nằm tủi phận trách ra,
Trách vì duyên số nên xa nghĩa chàng!
Bấy lâu tưởng lấp suối vàng,
Suối vàng không lấp, lấp đàng nghĩa nhân!
Có những cuộc tình duyên phân lìa không phải vì trở lực bên ngoài mà chính vì trở lực bên trong của hai kẻ yêu nhau.
Dứt tình là một điều chua xót, đắng cay, bởi vì khi yêu nhau họ đã trót thề thốt nặng lời “lời nguyền nước mắt chảy thành sông!”. Nhưng trong tình yêu lúc nào cũng mang tính ích kỷ. Em yêu anh, em chỉ yêu mình anh. Và ngược lại, anh là của em, không còn là của ai khác. Nếu có một ai khác nữa, thì chắc chắn là không có chuyện “thương bao đồng”:
Anh nguyện cùng em tại cầu Bến Ván,
Em nguyện cùng anh tại quán Cây Da,
Em biểu anh về có vợ,
Đây em ra có chồng.
Lòi nguyền nước mắt chảy thành sông,
Dứt nghĩa đi thêm tội, thương bao đồng thì khó thương!
Có những cuộc tình không đưa đến hôn nhân. Cả hai phía nam và nữ đều tỏ ra một thái độ vô cùng đứng đắn. Bởi lẽ, có thể họ đã hiểu nhau, đã hiểu rõ nguyên nhân nào khiến cho họ không nên vợ nên chồng ! Dù không lấy được nhau, họ vẫn để lại cho nhau những cảm tình tốt đẹp : Cô gái sắp sửa về nhà chồng đã mời người yêu cũ:
Anh quen em từ thuở đón bò,
Bẻ cây góp lá tại gò bên sông.
Ngày mai em sắp có chồng,
Mời anh uống chén rượu hồng mừng em!
Đúng là kỷ niệm của một cặp tình nhân miền thôn dã và lời mời của cô gái mới chân thật làm sao “Mời anh uống chén rượu hồng mừng em!”.
Hoặc vì một lý do bất khả kháng nào đó nàng phải dứt tình, nhưng đối với người xưa, nàng vẫn không thể nào quên được. “Tình” không trọn vẹn nhưng “nghĩa” vẫn còn:
Chim sẩy lồng còn trông trở lại,
Cám ơn cái lồng, trả ngãi người nuôi!
Em có chồng rồi không lẽ đi xuôi,
Ghé vô thăm bạn cho nguôi tấm lòng!
Có những cuộc tình duyên “xuôi chèo mát mái”, dù cuộc sống có cơ cực trăm chiều, nhưng thuận vợ, thuận chồng, đời sống hôn nhân vẫn tràn đầy hạnh phúc:
Củ lang Đồng Ngổ,
Đỗ phụng Đồng Dinh,
Chàng bòn, thiếp mót đổ chung một gùi!
Nếu có những người phụ nữ trọn đời chung thủy “gươm vàng để đó anh ơi, chết thà chịu chết lìa đôi không lìa!”, thì cũng có một số phụ nữ - dù rất ít - cũng đã có lần nhẹ dạ nghe theo lời đường mật của những gã đàn ông khéo buông lời ong bướm. Thế nhưng rồi, sớm muộn gì người đàn bà cũng tỉnh ngộ mà buông lời trách cứ:
Hai tay em bưng hộp thuốc, khay trầu
Miệng mời chú lái ăn trầu với tui
Bây giờ thuyền chạy, ghe lui,
Trai anh lui về vợ cũ, gái em lùi về chồng xưa.
Chớ anh đừng ngọt miệng đãi đưa,
Cầm duyên em lại buổi chợ trưa em phải ngồi.
Bị lừa dối là một điều cay đắng. Bị phụ tình lại bội phần cay đắng hơn. Bởi vì bị phụ tình là không còn lối thoát. Kẻ phụ tình còn có hướng đi, kẻ bị phụ tình đành chới với.
Trong tình yêu, người con gái thường đặt hết niềm tin vào người con trai. Tất cả cho chàng, vì chàng. Tất cả cho người thương:
Bên này con sông em bắc cái cầu năm mười tấm ván,
Bên kia sông em lập cái quán năm bảy tầng thương.
Cái quán năm bảy tầng thương
Là để người thương buôn bán.
Cái cầu năm mười tấm ván,
Là để người thương em đi...
Thế mà rồi phải đành:
Trách sao anh bạc nghĩa, vô nghì,
Bây giờ có đôi bạn không nói tiếng gì với e!
Có lẽ khi mới yêu nhau họ đã nặng lời thề thốt:
Cất bước lên non tìm hòn đá trắng,
Trách con chim phượng hoàng sao vắng tiếng kêu!
Trời mưa lâu hòn đá nọ đóng rêu,
Đứa nào ở bạc, con dế kêu thấu trời!
Vậy mà rồi đã có kẻ “ở bạc”. Con dế có kêu thấu trời hay chăng nào ai biết được. Chỉ biết rằng kẻ bị phụ tình chỉ biết khóc thầm:
Qua cầu cầu yếu phải nương,
Chầu rày bạn cũ thôi thương mình rồi.
Tai nghe bạn cũ có đôi,
Trong lòng nóng nảy như vôi mới hầm!
Kề tai bạn cũ khóc thầm,
Chầu rày quế đã phụ trầm, trầm ơi!
Hay như:
Bước xuống ghe nan chèo sang Bến Thóc,
Vừa chèo vừa khóc, kêu “bớ anh ơi!
Bây giờ duyên mãn, tình ôi,
Để cho kẻ khác đứng ngồi với anh!”
Nếu có những phụ nữ khi bị phụ tình chỉ biết khóc thầm, thì cũng có những cô con gái có thừa can đảm, dám đón đường “người cũ” để mà “chất vấn”:
Con chim chà chiện
Nó liệng trên cao
Nó kêu làm sao
Tằng lăng tíu lịu
Em còn lịu địu
Không nỡ dứt tình
Chờ khi thanh vắng một mình,
Đón anh em hỏi: Phụ tình tại ai?!
Khi yêu, gnười con gái luôn tin tưởng vào lòng chung thủy của người mình yêu. Nàng tin vào mối tình “xứng đôi vừa lứa”, nhưng nàng đâu có ngờ:
Đấy lạ thì đây cũng lạ,
Anh kêu em dạ thiên hạ đều khen!
Tưởng rằng đó nhóm đây nhen,
Hai bên họp lại như đèn mới xinh .
Ai ngờ anh lại phỉnh mình,
Qua cầu rút ván để mình bơ vơ!
Tội nghiệp cho người con gái bị tình phụ biết bao nhiêu! Tin vào chàng, ngỡ rằng tình yêu là chung thủy, ngỡ rằng “bạn vàng” thủy chung, có ngờ đâu:
Đã lâu không gặp bạn vàng,
Nay gặp bạn vàng lòng càng thêm tủi.
Nghĩ đến ân tình gió thổi mây bay.
Kể từ ngày xa cách đến nay,
Lòng em ngơ ngẩn đắng cay muôn phần.
Còn gì mà đợi, mà trông,
Còn gì qua lại ân cần anh ơi!
Anh có vợ rồi như đũa có đôi,
Để em lơ lửng mồ côi một mình!
Nàng bị phụ tình như một kẻ không hồn “mình em lơ lửng”. Và tình yêu đã chết cũng coi như người tình đã chết “mồ côi một mình”. Làm một kẻ “mồ côi” của tình yêu, ôi! chua xót biết bao nhiêu!
Bị phụ tình đã là một điều chua xót. Bị phụ tình rồi mà còn bị người tình và cả thân quyến của người tình buông lời “bình phẩm” thì chao ôi, còn chua xót nào hơn:
Bạn phỉnh ta, ta đợi ta chờ,
Lênh đênh vườn hạnh, dật dờ vườn lê.
Một than em còn mê ăn, mê ngủ,
Hai than em chưa thức đủ năm canh,
Ba than em không biết tấm rách, tấm lành,
Em gởi lời về trước mẹ, sau anh,
Có thương em thì dạy bảo, đừng nói hành họ chê!
Mang chung đặc tính hài hước của nền văn chương Việt Nam, người dân Quảng Ngãi cũng có đầu óc hài hước khá cao.
Dân ta xưa thường tin rằng chuyện vợ chồng là do duyên số; duyên số lại do ông Tơ, bà Nguyệt xe cho. Vậy mà ở đây, dưới cái nhìn của một chàng trai độc thân, có lẽ là một chàng trai con nhà nghèo, ông Tơ bà Nguyệt đã trở thành những nhân vật mang nhân tính bình thường, bị đem ra hài tội:
Bắt ông Tơ đánh sơ vài chục,
Bắt bà Nguyệt nếm mấy mươi hèo.
Người ta năm bảy vợ theo,
Còn tôi đơn chiếc như mèo cụt đuôi!
Trong hôn nhân thường đòi hỏi phải có sính lễ. Đây là lễ vật của họ nhà trai đem đến họ nhà gái để xin cô gái về làm dâu nhà mình. Đối với nhà giàu, sính lễ thường có vòng vàng, xuyến bạc. Đối với nhà nghèo, chí ít cũng phải có mâm trầu, buồng cau. Để đả phá tục thách cưới, trong một câu hát đối đáp, ta thấy biểu lộ tính hài hước của người dân quê xứ Quảng:
- Anh về thắt rế kim cang,
Bán đôi đũa bếp cưới nàng còn dư!
- Anh về bán ruộng Cây Da,
Bán cặp trâu già chẳng cưới đặng em!
Và đây nữa, có thể cũng là phần còn lại của một bài hò đối đáp nào đó của người dân Ba La, Vạn Tượng:
Ba La đất tốt trồng hành,
Đã xinh con gái, lại lành con trai!
Vạn Tượng những chông cùng gai,
Con gái mốc thích, con trai đen sì!
Họ cũng có những cách so sánh, ví von đặc sệt tính chất nông dân:
Gái Tú Sơn đầu trơn như mỡ,
Gạo trì trì nứt nở như ươi
Anh nói với em
Như rìu chém xuống đá,
Như rựa chém xuống đất,
Như mật rót vào tai.
Bây giờ anh đã nghe ai,
Bỏ em giữa chốn non Đoài, khổ chưa!
Hay như:
Trai xuân gặp gái cũng xuân
Như bông lúa trổ nửa chừng gặp mưa!
Đôi khi họ cũng thích lối chơi chữ - một đặc tính của ngôn ngữ Việt Nam:
Gái Thanh Khiết chuyên nghề cải giá,
Trai Sung Tích chuyên nghề kén dâu.
Thanh Khiết thuộc xã Tư Nguyên (Tư Nghĩa). Dân ở đây xưa làm nghề trồng các loại rau cải và làm giá. Sung Tích thuộc xã Sơn Hội (Sơn Tịnh). Dân Sung Tích xưa làm nghề trồng dâu nuôi tằm, lấy tơ kén dệt lụa. “cải giá” vừa có nghĩa là cây cải, rau giá, vừa có nghĩa là “lấy chồng lần nữa”. “Kén dâu” vừa có nghĩa là con kén, cây dâu vừa có nghĩa là kén chọn cô dâu!
Và đôi khi họ dùng những từ thật lắt léo như trong bài:
Sáng mai anh thức dậy,
Anh xách cái rựa quéo,
Anh lên hòn núi Quẹo,
Anh đốn cây củi còng queo,
Anh than vói em cha mẹ anh nghèo,
Đũa tre yếu ớt không dám quèo con mắm nhum!
Quéo, quẹo, queo, quèo! Quả là những vần thơ lắt léo tài tình!
Cũng như tục ngữ ca dao của cả nước, tục ngữ ca dao miền núi Ấn sông Trà đã được lưu truyền trong dân gian bằng nhiều hình thức khác nhau.
Tục ngữ thường đi liền với ngôn ngữ hàng ngày nên dễ lưu truyền và có khả năng truyền đi xa và nhanh. Trong lúc đó ca dao thường được lưu truyền dưới hình thức hát hò. Mỗi địa phương lại có một số hình thức hát hò khác nhau, giọng điệu khác nhau nên sự lưu truyền của ca dao có phần hạn chế hơn.
Vậy thì, ca dao của miền núi Aán sông Trà cũng đã được lưu truyền dưới hình thức hát ru, các điệu hò trên sông nước như hò giật chì, hò bá trạo của ngư dân các vùng ven biển, các điệu hò chèo đò như hò mái nhất, hò mái nhì, hò ba lý... qua các điệu hò ở vùng nông thôn như hò đi cấy, hò giã gạo, hò tát nước, hò đẩy che mía, hò đạp xe nước, hò hụi... Có lẽ vào một thời xa xưa, các điệu hò kể trên đều có những phân biệt rõ rệt, nhưng càng về sau, do hoàn cảnh lao động có thay đổi, hình thức sinh hoạt về hát hò chịu một phần ảnh hưởng của sinh hoạt văn nghệ đô thị, nên các điệu hò trên đây đã dần dần thay đổi, ảnh hưởng hỗ tương và về sau chúng ta chỉ còn lại vài điệu hò như hát hố, hát ba ý, hát bài chòi và điệu hát ru cố hữu của người dân Quảng Ngãi.
Trong những đám cấy, tát nước, hay giã gao, bửa cau, chà đường trong những đêm trăng người ta thường chia phe để hát. Có thể cả hai phe đều là nữ như trong các đám thợ cấy, hoặc một bên nam, một bên nữ như trong các đám giã gao, tát nước...
Mở lời chào gió, chào trăng
Chào qua núi Chúa, chào băng sông Trà.
Mở lời chào chị em ta,
Bên hữu đàn bà, bên tả đàn ông.
Mở lời chào gái nữ công,
Chào trai trung hiếu giữa đám đông hội này...
Hát hố quả đã có một sức quyến rũ kỳ lạ đối với người dân quê xứ Quảng, và chính điều này cũng đã nói lên đời sống tình cảm dồi dào nhưng chân chất của người dân Quảng Ngãi:
Tai nghe tiếng hố vọng đồng,
Ai có con cũng bỏ, ai có chồng cũng vong!
Hay như:
Em đang so đũa dọn cơm,
Tai nghe hát hố đầu hôm trên này.
Ra đi cha đánh, mẹ rầy,
Không đi bạn ở trên này bạn trông.
Ra đi lội suối, băng sông,
Tới đây mến bạn lòng không muốn về!
Những lơì hát ru, những điệu hò sông nước, giọng hát hố thiết tha của nông dân xứ Quảng như mãi mãi còn âm vang trong tâm tưởng mọi người, chuyên chở, bảo tồn và lưu truyền bao nhiêu lời ca dao đậm đà sắc thái quê hương, chan chứa tình người. Và những lời ca dao đó sẽ còn vang vọng mãi mãi trong tâm khảm những người con xứ Quảng đang lưu lạc khắp bốn phương trời nhưng lúc nào cũng hướng về Quê Mẹ: Núi Ấn Sông Trà.
ĐÀO ĐỨC NHUẬN.
(Trích Đặc San QUẢNG NGÃI xuân Kỷ Mão - 1999 của Liên Hội Đồng Hương Quảng Ngãi New England).
Hết.