Diễn đàn của người dân Quảng Ngãi
giới thiệu | liên lạc | lưu niệm

 April 21, 2025
Trang đầu Hình ảnh, sinh hoạt QN:Đất nước/con người Liên trường Quảng Ngãi Biên khảo Hải Quân HQ.VNCH HQ.Thế giới Kiến thức, tài liệu Y học & đời sống Phiếm luận Văn học Tạp văn, tùy bút Cổ văn thơ văn Kim văn thơ văn Giải trí Nhạc Trang Anh ngữ Trang thanh niên Linh tinh Tác giả Nhắn tin, tìm người

  Kiến thức, tài liệu
NĂM MƯƠI NĂM SAU: TRĂM HOA ĐUA NỞ Ở VIỆT NAM 1954-1960 (Phần II)
Webmaster
Các bài liên quan:
    NĂM MƯƠI NĂM SAU: TRĂM HOA ĐUA NỞ Ở VIỆT NAM 1954-1960 (Phần I)

 

NĂM MƯƠI NĂM SAU: TRĂM HOA ĐUA NỞ Ở VIỆT NAM 1954-1960

(Fünfzig Jahre danach: Hundert Blumen in Vietnam 1954-1960)

Chuyên mục: Hồ sơ Nhân văn - Giai phẩm

By Heinz Schütte 

Bản dịch của talawas

 

Tác phẩm “Năm mươi năm sau: Trăm hoa đua nở ở Việt Nam 1954-1960”  (Fünfzig Jahre danach: Hundert Blumen in Vietnam 1954-1960) của nhà nghiên cứu Heinz Schütte do Khoa Đông Nam Á, Đại học Hamburg xuất bản ở dạng tạp chí nghiên cứu (Hamburger Südostasienstudien, Band 3) năm 2009, ngày 15/3/2010 này sẽ được nhà xuất bản Regiospectra ở Berlin tái bản. Bản dịch tiếng Việt được thực hiện với sự cộng tác nhiệt tình của tác giả. Chúng tôi trân trọng cảm ơn tác giả đã dành cho talawas bản quyền tiếng Việt của tác phẩm này.

 

Nhà sử học Heinz Schütte hiện sống tại Paris. Tác phẩm đã xuất bản: Giữa hai chiến tuyến: Những người lính Đức và Áo chạy sang phía Việt Minh (Zwischen den Fronten: Deutsche und österreichische Überläufer zum Vietminh), Logos Verlag, Berlin 2006. Bài đã đăng trên talawas: “Vài lời về Brecht, nhìn từ Việt Nam” (Thuyết trình tại Viện Goethe Hà Nội ngày 6/12/2006). Talawas.

 

 

Hình bìa cuốn sách

 

*  *  *

 

Xem Phần I: click vào đây

 

PHẦN II

 

10. Bản án

 

Tháng 1 năm 1960 diễn ra phiên tòa chống lại những người bị cáo buộc làm gián điệp. Trần Duy, Hoàng Cầm, Trần Dần, Lê Đạt không thuộc số những người bị khởi tố, mà, như Hoàng Cầm nhớ lại, họ chỉ xuất hiện như những nhân chứng. Họ phải có mặt ở phiên tòa 5 ngày liền để phục vụ yêu cầu của tòa án. Phan Khôi, như đã nói ở trên, bị báo chí năm 1958 quy kết là “một phần tử hoạt động nguy hiểm” cho Pháp, đã qua đời đầu năm 1960, chỉ vài ngày trước khi phiên tòa diễn ra.

 

Nguyễn Hữu Đang không bị khởi tố với tư cách là lãnh tụ chính trị của Nhân văn, mà, một mặt ông bị cáo buộc làm gián điệp, mặt khác ông bị kết tội vì tổ chức trốn chạy khỏi miền Bắc thông qua sự trợ giúp của một “tổ chức”. Trong bài “Nguyễn Hữu Đang – Tên phản động đầu sỏ” trên báo Nhân dân ngày 15.4.1958, tác giả Mạnh Phú Tư đã chuẩn bị cho việc kết tội Nguyễn Hữu Đang như sau: “Hòa bình lập lại, Nguyễn Hữu Đang trở về Hà Nội cùng bọn phản cách mạng khoác áo ‘kháng chiến’. Tại đây hắn đã câu kết với các phần tử tư sản phản động và bọn gián điệp do đế quốc để lại. Cùng tên Trần Thiếu Bảo tức Minh Đức, một tên tờ-rốt-kít chuyên xuất bản các tài liệu phản quốc để kiếm lời đút túi, Nguyễn Hữu Đang đã dụ dỗ mua chuộc những văn nghệ sĩ bằng tiền của bọn tư sản. Chúng đã liên tục cho ra những tập Giai phẩm…”. [232] Tuy nhiên, lại có rất ít thông tin về diễn biến của phiên tòa cũng như về số phận của các bị cáo. Các kho lưu trữ của Cộng hòa Dân chủ Đức, vốn có rất nhiều tài liệu giá trị về hầu hết các lĩnh vực nội chính của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, lại không cung cấp bất kì câu trả lời nào cho sự kiện quan trọng này. [233] Bởi vậy, với hiện trạng thông tin hiện nay, chúng tôi đành phải dựa phần lớn vào những lời kể của nhân chứng và những đồn đoán (thường không phải khi nào cũng có nhiều thông tin), mà trong đó sự thật nhiều khi bị trộn lẫn cùng giai thoại.

 

 

Phiên tòa ngày 19/1/1956 tại Toà Án Nhân Dân Hà Nội.
Từ trái sang phải: Lê Nguyên Chí, Phan Tại, Lưu Thị Yến (Thụy An),
Trần Thiếu Bảo (Minh Đức) và Nguyễn Hữu Đang

 

Còn những bị cáo khác là ai? Thực ra, họ đều không thuộc nhóm những người thân cận nhất của các văn nghệ sĩ Nhân văn – Giai phẩm, mà chỉ là những người ủng hộ hoặc các cộng tác viên bên lề.

 

Đứng đầu bảng là Thụy An tức Lưu Thị Yến. Thụy An sinh năm 1916 trong một gia đình đại tư sản ở Hà Nội. Năm 1930, Võ Nguyên Giáp đã tới làm thầy giáo tư dạy sử địa cho Thụy An, và ông được cho là mối tình đầu của bà. Thụy An được kể lại như một phụ nữ đặc biệt quả cảm, vượt lên trên các khuôn phép thông thường của của một xã hội Khổng giáo - tiểu thị dân. [234] Đời sống cá nhân và các hoạt động chính trị của bà bị bao phủ bởi một màn sương mù bí ẩn, tuy nhiên, không nghi ngờ gì, bà là một trong những nhà văn nữ quyền đầu tiên và là nhà báo tiên phong của Việt Nam. Bà là người chủ trương tờ Đàn bà mới tại Sài Gòn năm 1934 và Đàn bà ở Hà Nội năm 1937, những tờ báo dành cho phụ nữ đầu tiên ở Việt Nam. Tiểu thuyết Một linh hồnxuất bản năm 1942, tác phẩm duy nhất của một tác giả nữ được Vũ Ngọc Phan đưa vào cuốn Nhà văn hiện đại, có thể coi là cuốn tiểu thuyết hiện đại đầu tiên của một nhà văn nữ Việt Nam. Bên cạnh đó, bà còn viết những bài thơ yêu nước, chống thực dân Pháp. Trong kháng chiến, Thụy An ở Hà Nội và làm việc cho Radio Vietnam, trong đó không ít lần bà làm công việc của một phóng viên chiến trường. Năm 1954, bà được phong chức Quyền Giám đốc của Agence France Presse ở Hà Nội. Về chính trị, bà ủng hộ Việt Nam Quốc dân Đảng. Hình dung của bà về con đường đấu tranh giành độc lập cũng như tương lai của Việt Nam hậu thuộc địa chịu ảnh hưởng bởi chủ trương chính trị của phe Quốc gia. Sau khi chia tay với chồng, ông Bùi Nhung, [235]giám đốc Radio Hà Nội, một người xuất thân trong một gia đình Quốc dân Đảng nổi tiếng, khi hai người đã có 6 người con, Thụy An sống chung với Đỗ Đình Đạo, cũng là một yếu nhân của Quốc dân Đảng. Khi Đỗ Đình Đạo chết một cách bí ẩn, ở Hà Nội lan truyền tin đồn Thụy An đầu độc chồng. [236] Theo như những gì được kể lại, năm 1954 Thụy An bay vào Sài Gòn, [237]nhưng sau đó lại trở ra Hà Nội – không có ai biết tại sao bà vào Nam rồi lại trở ra Bắc. Phải chăng bà muốn tiếp tục đấu tranh cho lý tưởng Quốc dân Đảng ở miền Bắc? Liệu đây chính là điểm khiến bà bị cáo buộc là gián điệp do Pháp để lại? Điều chắc chắn là bà “có nhiều quan hệ với người Pháp và các giá trị Pháp” – bà Thụy Khuê thuộc đài RFI tiếng Việt cho tôi biết như vậy. Tuy nhiên, liệu Thụy An có liên hệ với Phòng Nhì của Pháp hay không, thì, với các tài liệu đã được công bố hiện nay, chúng ta chưa thể xác định được. Cùng với Phan Tại – người sẽ được nói tới ngay dưới đây, Thụy An đã dựng vở kịch Topaze của Marcel Pagnol ở Hà Nội, và đây cũng là một lý do nữa để người ta bắt giam bà: đối với giới lãnh đạo cộng sản thì việc biểu diễn một vở kịch của Pháp (trong đó, sự mua chuộc, sự tham nhũng, lòng tham của cải vật chất và sự phản bội có hệ thống của các quan chức cộng hòa bị mổ xẻ không khoan nhượng) hồi đó là một hành động phản cách mạng. Theo đó, vở kịch Topaze đã phá hoại đường lối chính sách của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (trong khi có rất nhiều vở kịch của Liên Xô nhưng Thụy An lại không dựng!). Cáo trạng cho biết, tất cả các hoạt động của Thụy An đều cho thấy, đây là một kẻ đối lập chính trị nguy hiểm, kẻ lôi kéo văn nghệ sĩ về phía mình để chống lại chính quyền.

 

Trong giai đoạn Nhân văn, Thụy An được Phan Khôi nhận làm con gái nuôi. “Chị ấy rất thân với anh em Nhân văn. Rất thân với Lê Đạt. Tôi không thân với chị ấy, chúng tôi chỉ quen biết nhau thôi”, Hoàng Cầm nhớ lại. Trần Duy kể rằng, Thụy An có gửi 3 bài thơ tới Nhân văn, nhưng ông đã từ chối đăng, vì trung thành với đường lối của Nguyễn Hữu Đang: “Mình đều là dân kháng chiến trở về, mình không nên quan hệ với bà ta” – Nguyễn Hữu Đang nói. [238] (Thụy An đã ở lại khu Pháp trong thời gian kháng chiến). Bà bị kết án 15 năm tù giam và 5 năm quản thúc tại địa phương. Theo như nhiều nhân chứng kể lại, trong tù bà đã tự chọc mù một mắt – “Chọc mù mắt để không phải nhìn thấy cái thế giới này nữa”, bà đã nói như vậy. Nhiều người cùng thời đã đánh giá thái độ đáng sợ này của bà như một biểu hiện của sự cao ngạo.

 

Hoàng Cầm kể rằng, tại phiên tòa người ta cũng chỉ nói rất ít tới “gián điệp”. Người ta đọc một bức thư của nhà nhân chủng học kiêm Giám đốc Viễn đông Bác cổ của Pháp ở Hà Nội, Maurice Durand, gửi Thụy An. Theo cáo buộc của Viện Công tố thì Giáo sư Durand là người của Phòng Nhì (Cơ quan Tình báo Quân sự của Pháp). Trong bức thư gửi Thụy An vào thời điểm Nhân vănsố 1 ra mắt, Durand viết: “Giờ bà hãy đứng ngoài, nhưng phải để mắt trông nom mọi việc của các văn nghệ sĩ”. Bức thư này được coi là bằng chứng cho việc khởi tố Thụy An về tội làm gián điệp. Cách đây vài năm, Nguyễn Hữu Đang có nói với một người thân tín ở Hà Nội rằng, tại tòa Thụy An đã thừa nhận mọi tội trạng, và qua đó bà không những gián tiếp xác nhận cáo trạng mà còn gây áp lực nặng nề lên những bị cáo khác. Trong một lần gặp Thụy An thời gian ở tù, Nguyễn Hữu Đang đã trách Thụy An kiêu căng và độc ác, và bà đã tỏ ra ân hận vì hành vi thừa nhận tội trạng của mình. Tuy nhiên, chúng ta không bao giờ có thể đánh giá đúng hành vi nhận tội này ở mội phiên tòa nặng tính phô diễn, khi mà chúng ta không biết liệu những lời khai của bị cáo có được thẩm định không hoặc thẩm định theo cách nào, [239] nghĩa là, liệu những lời khai đó có phù hợp với những bằng chứng thu thập được hay không, hoặc phù hợp ở mức độ nào. Nguyễn Hữu Đang giải thích rằng, Hiệp định Paris 1973, hiệp định đã dẫn tới sự nới lỏng nhất định ở miền Bắc, đã cứu mạng sống và mang lại tự do cho ông năm 1974 – với Thụy An cũng vậy. Và cũng như Thụy An, khi được áp giải về quê [240] để chịu án quản thúc, Nguyễn Hữu Đang đã bị người ta ném đá. Nhờ thỉnh cầu của một người họ hàng, vài năm sau Thụy An được phép vào miền Nam. Năm 1978, bà đi tu trong một ngôi chùa. Bà qua đời năm 1989 ở Thành phố Hồ Chí Minh.

 

Bị cáo thứ ba là Minh Đức, [241] tức Trần Thiếu Bảo, ông chủ nhà in nơi xuất bản các số Giai phẩm và Nhân văn. Minh Đức cũng xuất thân từ vùng quê Nam Định như Nguyễn Hữu Đang, nơi ông đã mở nhà sách đầu tiên những năm 1930. Ông thành lập nhà xuất bản Minh Đức ở Hà Nội, kiêm chức năng in ấn và phát hành. Tên của nhà xuất bản, Minh Đức, cũng trở thành tên hiệu của Trần Thiếu Bảo, đồng thời là tên chương trình xuất bản có tính khai sáng (về chính trị-xã hội) cho Việt Nam của ông. Minh Đức là một người yêu nước. Có lẽ ông đã cộng tác với Nguyễn Hữu Đang trong phong trào phổ cập chữ Quốc ngữ (từ 1936) và phong trào xóa nạn mù chữ (sau 1945), chẳng hạn như thông qua việc in sách giáo khoa. Sau Cách mạng tháng Tám, Minh Đức tiếp tục hoạt động xuất bản, sau đó ông tham gia kháng chiến. Tuy nhiên, vì không thể xuất bản ở chiến khu, ông quay trở về vùng Pháp đóng (Hà Nội) để hành nghề. Thời gian này ông xuất bản những cuốn sách có nội dung yêu nước, như sách về các anh hùng Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Trần Hưng Đạo và Nguyễn Thái Học – nhân vật gần như đã trở nên một huyền thoại hồi đó. Dễ hiểu tại sao Nguyễn Hữu Đang đã chọn nhà xuất bản Minh Đức để in Nhân văn.

 

Tại tòa, Minh Đức, người luôn nhận được giấy phép in nhờ những mối quan hệ cá nhân với các cơ quan văn hóa, [242] bị cáo buộc đã xuất bản các tác phẩm phản động; trong đó có các tiểu thuyết Số đỏ và Giông tố của Vũ Trọng Phụng, ngoài ra còn một số tác phẩm văn học lãng mạn và các bài nghiên cứu văn học của Hoàng Xuân Hãn, dù thực ra Minh Đức không hề xuất bản các tác phẩm chính trị. Trần Thiếu Bảo bị kết án 6 năm tù giam và 3 năm quản chế. Ông được thả năm 1973, nhưng không được phép về Hà Nội mà phải chuyển tới Nam Định. Tại đây ông làm công tác phát hành cho nhà xuất bản Xunhasaba. Ông mất năm 1980.

 

Trong số những người bị khởi tố còn có Phan Tại (mất năm 2007) và một người nữa có tên là Lê Nguyên Chí. Phan Tại, người không tham gia Nhân văn – Giai phẩm, sinh ở Hưng Yên, là điêu khắc gia và họa sĩ, tốt nghiệp Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương. Tuy nhiên, Phan Tại lại nổi nhất trong lĩnh vực điện ảnh và kịch nghệ. Năm 1945, mặc dù không quan tâm tới chính trị, ông vẫn tham gia Việt Minh và lãnh đạo một nhóm kịch cách mạng. Ông đã tổ chức nhiều buổi biểu diễn ở Hà Nội và Hải Phòng. Khi quân Pháp tấn công Hải Phòng, Phan Tại cùng đoàn kịch gia nhập kháng chiến. Năm 1948, ông cùng gia đình bị bắt trong một đợt càn của Pháp ở Hưng Yên, nhưng ông không bị bắt giam mà bị đưa về Hà Nội, [243] và tại đây ông lại lãnh đạo một nhóm ca múa nhạc. Đây là thời gian ông được “đánh giá rất cao”. [244] Tháng 5.1950, tại Nhà hát Lớn Hà Nội, ông đã dàn dựng nhiều vở ca múa nhạc với những bài hát của các tác giả cách mạng như Tiếng hát sông Lô của Văn Cao, Tiếng hát quay tơcủa Tử Phác và Tiếng chuông nhà thờ của Nguyễn Xuân Phát. Sau Hiệp định Genève, Phan Tại ở lại Hà Nội và tiếp tục hoạt động trong một nhóm kịch gồm những người từ kháng chiến trở về cũng như những người ở lại thành. Ngôi nhà của Phan Tại tại 37 Trần Quốc Toản, cũng là nơi tá túc của Thụy An, ngay trong kháng chiến đã trở thành điểm tụ họp của nhiều văn nghệ sĩ. Sau khi Nhân văn bị cấm, trong khoảng thời gian 1957 – 1959, tại địa chỉ này đã hình thành một salon điện ảnh và văn chương xung quanh Phan Tại và Thụy An, mà Lê Đạt, Hoàng Cầm, Phùng Quán thường qua lại (nhưng không có Trần Duy). Tại phiên tòa, Phan Tại bị buộc tội vì đã cho Thụy An cùng sống ở ngôi nhà này. Ông bị kết án 6 năm tù giam và 3 năm quản thúc tại địa phương. Sau khi được thả, Phan Tại hoạt động điêu khắc và thiết kế các tượng đài anh hùng. Khi ông được mời tham gia dựng một tượng đài ở Quảng Nam, công an đã can thiệp khiến ông phải chấm dứt dự án. Ông phải làm mặt nạ cho các nhà hát để kiếm tiền. Ông sống nghèo khổ, thỉnh thoảng được bạn bè cưu mang. Phan Tại mất tháng 5 năm 2007.

 

Còn bị cáo thứ năm, Lê Nguyên Chí, là ai? Có vẻ như không ai thực sự biết người này là ai, ngay cả cái tên của ông ta cũng được các nhân chứng nhớ lại mỗi người một khác. Người thì bảo là Nguyễn Văn Thi hoặc Lý Nguyên Cát, có người lại bảo ông ta từng là tay chân của đế quốc Pháp. Hoàng Cầm kể câu chuyện đầy tính hoang đường kì bí như sau: “Đột nhiên xuất hiện một người lạ” – một người tầm tuổi 50, tóc đã bạc. Một ngày kia, ông ta đến trước nhà Phan Tại và dựng một cái hiệu cắt tóc vỉa hè, rồi ông ta lần lượt làm quen với những người sống ở đó, và chẳng bao lâu đã hình thành một mối quan hệ thân tình. Rốt cuộc, Lê Nguyên Chí đưa ra ý tưởng rủ cả nhóm chạy trốn trên một chiếc thuyền của em trai ông ta ở Hải Phòng… Như đã nói ở trên, tất cả những con người tuyệt vọng đó đã bị công an biển bắt giữ. Phải chăng Lê Nguyên Chí là một đặc tình, một nhân viên của Cơ quan An ninh Việt Nam? Trong phiên tòa, Lê Nguyên Chí là người duy nhất có sắc diện hồng hào, trong khi Nguyễn Hữu Đang và Thụy An thì xanh rớt, mệt mỏi và gầy gò. Bị ghép vào tội tham gia nhóm gián điệp, Lê Nguyên Chí bị tuyên 5 năm tù và 3 năm quản thúc – từ đó không một ai còn gặp lại ông ta nữa và nhiều người đã đặt ra câu hỏi: liệu việc kết án Lê Nguyên Chí có phải một vở kịch được dàn dựng hay không?

 

Chúng ta hãy trở lại với Nguyễn Hữu Đang. Ông bị bắt năm 1958. Thời gian đầu ông bị giam ở Hỏa Lò, nhà tù khét tiếng thời thuộc địa và nay là nơi tưởng niệm các nạn nhân của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược. Đầu năm 1960, ông bị kết tội phản bội chính quyền cách mạng và làm gián điệp cho Pháp. [245] Lời biện minh của Nguyễn Hữu Đang trong thời gian điều tra, và, như ông khẳng định, trong một cuộc trò chuyện với Trường Chinh, về việc ông muốn ra nước ngoài để tiếp tục cuộc đấu tranh thống nhất đất nước, [246] giống như ngày xưa Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã từng hoạt động như một nhà ái quốc, một người cộng sản và một nhà cách mạng ở hải ngoại, đã bị đáp trả với một thái độ không hiểu và khoái trá gần như lên đồng: Thật buồn cười! – người ta nói với ông như vậy – Chúng ta chỉ có thể đấu tranh cho sự nghiệp thống nhất đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng! Trên thực tế, Đảng Leninist không hề tính đến cuộc đấu tranh của những cá nhân hoặc những nhóm nhỏ (ngoài Đảng); chỉ trong tư cách một đảng viên đầy kỷ luật, một trí thức hoặc một văn nghệ sĩ, người ta mới có thể có khả năng thay đổi thế giới và thay đổi đất nước mình – theo luận điểm thứ 11 của Mác về Feuerbach. Nguyễn Hữu Đang đã sống 15 năm ở trại giam Quyết Tiến ở Giàng (Hà Giang), cách biên giới Trung Quốc 20 km, trong điều kiện đói, lạnh (nhiệt độ từ -15 tới -10 độ C) ở độ cao 1500 mét, bị cách ly khỏi thế giới bên ngoài, và bị lãng quên, [247] và 15 năm nữa dưới những điều kiện khốn cùng và thường xuyên bị giám sát tại ngôi làng của ông ở Thái Bình. Với tư cách một tù nhân chính trị, ông bị coi là kẻ thù của dân tộc, và chỉ tới đầu những năm 1990, ông mới được phép trở lại Hà Nội. “Những người đấu tranh cho dân chủ chúng tôi đã bị làm cho tê liệt tinh thần”, ông thú nhận với tôi như vậy năm 1999. [248] Nguyễn Hữu Đang mất ngày 8.2.2007 ở Hà Nội.

 

11. Lời kết

 

Trong lần gặp cuối cùng của tôi với Huy Cận ở Hà Nội cuối năm 2001, chúng tôi cũng nói về Nhân văn – Giai phẩm. Ngay từ lần gặp đầu tiên năm 1997, giữa chúng tôi đã có một thỏa thuận rõ ràng – và được Huy Cận chấp nhận – là trong mối quan hệ này, chúng tôi có thể có những quan điểm rất khác nhau. Khi Huy Cận đến thăm tôi ở Paris năm 2001, ông khẳng định – tôi xin trích dẫn đại ý – các nhà ly khai đã đặt mục tiêu lật đổ chính quyền miền Bắc, vì vậy Đảng và Chính phủ đã không thể làm gì khác hơn như họ đã làm. Tôi bảo, ông nói thế thì trâng tráo quá, và ông đã cười vang đáp lại. Nhưng vài tháng sau, khi tôi đề cập tới Nguyễn Hữu Đang, và kể về người bạn đang ốm nặng Georges Boudarel, trong một khoảnh khắc, Huy Cận đã đánh mất đi vẻ hài hước châm biếm thường thấy (và thường là một vẻ hài hước châm biếm đầy trí tuệ và sảng khoái), ông trở nên suy tư, và ông nói về Nguyễn Hữu Đang: “Đó là một bi kịch lớn…, một thảm họa… Chúng tôi đã phạm nhiều sai lầm.” [249]

 

Thời kỳ đến nay vẫn được gọi là “bước ngoặt”, một cách tương đối và dè dặt, không có gì đảm bảo và luôn có thể bị đe dọa, chỉ bắt đầu từ tháng 10 năm 1987 dựa trên những cải cách do Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh khởi xướng – căn bản trên đề xuất của tướng Trần Độ. Tuy nhiên đã không hề có sự phục hồi chính thức dành cho những người bị kết tội. Những vấn đề mà nhóm Nhân văn – Giải phẩm đặt ra, đặc biệt là những đòi hỏi về tự do biểu đạt và quyền công dân, đến nay vẫn còn hết sức thời sự. Cuối những năm 1980, một số nhà văn trẻ như Dương Thu Hương, Bảo Ninh hoặc Nguyễn Huy Thiệp, những người được coi là thuộc thế hệ vỡ mộng – thế hệ của cuộc Kháng chiến chống Mỹ cứu nước (đồng thời cũng là một cuộc nội chiến trong thời kì Chiến tranh Lạnh, hay là bước tiến cuối cùng của cách mạng) – cũng đã gây ra sự bất ổn, họ bị cấm xuất bản hoặc bị khám xét, hoặc thậm chí bị bắt giam (trường hợp Dương Thu Hương) và họ phải hứng chịu cơn giận giữ của cả hệ thống chuyên chế của Đảng và các cơ quan kiểm soát văn hóa. “Lĩnh vực văn nghệ phải do văn nghệ sĩ quản lý, chính trị không can thiệp”, Phan Khôi từng viết như vậy. Cuộc đấu tranh đòi tự do tư tưởng đã khiến giới cầm quyền ở Hà Nội năm 1956 sợ hãi cuống cuồng, bởi nó thách thức quyền lãnh đạo độc tôn về tinh thần. Với việc tiến hành chính sách giáo điều, thiển cận của Đảng từ cuối năm 1956, chủ nghĩa xã hội Việt Nam đã đánh mất tầng lớp trí thức-sáng tạo của mình, tầng lớp có năng lực và đã sẵn sàng cho công cuộc hiện đại hóa về văn hóa và khoa học, khiến cho chế độ có thể được dân chúng bên trong yêu mến và thế giới bên ngoài kính nể. Nhưng thay vì thế, những đảng viên và cán bộ văn hóa quan liêu của Việt Nam đã tự chặt đứt liên hệ với thế giới bên ngoài, thế giới của tri thức và của sự hoài nghi lành mạnh, cách ly khỏi tất cả những chủ đề thảo luận không phù hợp với chủ thuyết giáo điều của họ, xa rời tất cả những trào lưu văn hóa, tinh thần và khoa học của thời đại, để thúc thủ trong cái không gian thiển cận của đời sống tiểu nông tỉnh lẻ và trong sự giáo điều xơ cứng của mình.

 

Nhưng đấy lại chính là một trong những mục tiêu của cách mạng, và phong trào Trăm hoa đua nở là một trong những chặng đường chính của cuộc cải tạo cách mạng miền Bắc. Bởi vì mục đích của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa hồi đó là mở rộng quyền lãnh đạo duy nhất và vô giới hạn của Đảng trong tất cả các lĩnh vực văn hóa, xã hội, kinh tế và chính trị; đời sống cá nhân – đứng tách ra khỏi quần chúng – được xem là có hại cho sự nghiệp chung, là phản cách mạng. Mỗi cá nhân là một phần của khối quần chúng thống nhất, phải phục tùng kỉ luật chung. Dưới những điều kiện như thế, người trí thức trước hết phải là một đảng viên, một “kĩ sư tâm hồn” của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, kẻ cùng gánh trách nhiệm, nhưng đồng thời cũng cùng chia chác quyền lực. Bằng việc đàn áp phong trào Nhân văn – Giai phẩm, Đảng đã củng cố được quyền lực độc tôn của mình, nhưng tính chính danh và uy tín đạo đức của Đảng thì bị tổn thương nặng nề. Cũng giống như Trung Quốc, từ cuối những năm 1980, Việt Nam đã nỗ lực thông qua cải cách và phát triển kinh tế để tìm ra những hình thức chính danh mới thay thế cho khoảng trống về tư tưởng. Tuy nhiên đến nay, mỗi khi đề cập tới Nhân văn – Giai phẩm, Đảng vẫn phản ứng một cách sợ hãi, lập cập và sắt máu. Bởi vì, dù Đảng vẫn chính thức bám giữ quan điểm cho rằng các thành viên Nhân văn – Giai phẩm là những kẻ phản động và gián điệp, có mục đích lật đổ chính quyền cách mạng, thì sự thật vẫn là: 50 năm trước, những người này đã không hề muốn có một cuộc lật đổ, mà họ chỉ muốn mở rộng dân chủ và quyền công dân trong khuôn khổ của hệ thống chính trị. Và những đòi hỏi về việc quyền lực phải được kiểm soát này đến nay vẫn bị từ chối với dân chúng, [250] cho dù kinh tế tăng trưởng nhanh, mức sống được nâng cao và đi cùng đó là một xã hội hàng hóa đang lan rộng. Bởi vậy, không có gì ngạc nhiên khi Đảng và Chính phủ vẫn sợ hãi việc gợi lại ký ức Nhân văn – Giai phẩm đến thế, như họ sợ một bóng ma có thể đe dọa tới sự tồn vong của mình.

 

Cũng giống như trong đạo Hồi, người ta chỉ được phép tạo ra hình ảnh để phụng sự quyền năng sáng tạo duy nhất của Allah, bằng cách nhân rộng mãi một khuôn mẫu đã hoàn thiện, và chỉ được phép làm thế – chứ không được phép, chẳng hạn, tạo ra những hình ảnh do con người hình dung, quan sát và cảm nhận – nghĩa là chỉ luôn tụng niệm cái đã được cho là chân lý cố định, chứ không phải cái độc đáo cá thể và sự vận động có tính lịch sử của những con người cá thế, của một con chó, một cái cây, tình yêu và nỗi đau của nó; cũng vậy, người nghệ sĩ trong chế độ toàn trị chỉ được miêu tả những con người tham dự vào cuộc đấu tranh và xây dựng cái hệ thống lý tưởng tương lai (chẳng hạn như chủ nghĩa xã hội), và chỉ được miêu tả những con người đó trong cái chức năng duy nhất đó. Người họa sĩ trung thành với truyền thống Hồi giáo ca tụng công trình sáng tạo hoàn mỹ và muôn đời không đổi của Allah, nhưng anh ta không bao giờ được khuyến khích bắt chước Allah để mô phỏng cái thế giới hoàn mỹ này, bởi đó sẽ là sự xúc phạm Đấng sáng tạo. Ngược lại, người nghệ sĩ trên mặt trận xã hội chủ nghĩa có nhiệm vụ miêu tả sự tranh đấu và những thành tích – nghĩa là những sự việc hoàn toàn có tính vận động – nhưng cũng vậy, những nhân vật của anh ta cũng như kết quả của cuộc tranh đấu thì đã được Đảng ta, Đảng thần thánh, Đảng trăm tay nghìn mắt, Đảng không thể thiếu, lên khuôn cố định trước cả rồi. [251]

 

 

Huy Cận (người thứ nhất từ phải) và Lê Đạt (người thứ hai từ phải)
trong một hội thảo tại Hà Nội ngày 23.10.2000

 

Tháng 3 năm 2007, rốt cuộc bốn thành viên của Nhân văn – Giai phẩm gồm Hoàng Cầm (khi đó đã 85 tuổi), Lê Đạt (78 tuổi), Phùng Quán (mất năm 1995) và Trần Dần (mất năm 1997), cũng được Bộ Văn hóa Việt Nam trao Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật.

 

HEINZ SCHÜTTE

 

Chú thích

 

[1] Tác giả xin cảm ơn Hannelore Windsor và Cao Quang Nghiệp đã giúp hiệu đính bản thảo.

 

[2] Công văn của Đại sứ CHDC Đức Pfürtzner từ Hà Nội ngày 27 và 29.11.1956 và ngày 08.1.1957 cũng như các báo cáo gửi Bộ Ngoại giao CHDC Đức tại Berlin kèm theo các công văn này. Trong đó nêu rõ, các vụ nổi loạn diễn ra tại những vùng Công giáo và do các phần tử phản động chịu ảnh hưởng của các linh mục Công giáo khiêu khích. – Lưu trữ chính trị của Bộ Ngoại giao, Berlin (PolA, AA), Bộ Ngoại giao (MfAA), 8699, thẻ 3, trang 000231-000245.

 

[3] Các diễn giải lịch sử này thực ra là tiếp nối của truyền thống viết sử tập quyền và kiểm duyệt của nhà nước Khổng giáo

 

[4]Boudarel 1991a và 1991b

 

[5] Fall 1957; Honey 1957; Honey 1959; Như Phong 1962

 

[6] Hoàng Văn Chí 1964. Hoa Mai (Sài Gòn 1958) gồm một số bản dịch các bài đăng trên Nhân văn.

 

[7] Hoàng Giang 1987. Xem thêm Boudarel 1997, tr. 131-140; Schütte 2002 và 2003.

 

[8] Ninh 2002, đặc biệt trang 121-163

 

[9] Schütte 1999a, 1999b, xem thêm Schütte 2001

 

[11] Lưu trữ cá nhân của Heinz Schütte

 

[12] So sánh Marr 1995, tr. 345 và 552, cũng như: Dương Thu Hương 1996, tr. 268tt.

 

[13] Đặng Văn Việt 1990

 

[14] Qiang Zhai 2000, tr. 5

 

[15] Theo đó Pháp đã cố gắng thuyết phục Mỹ (và thế giới phương Tây nói chung) rằng cuộc chiến tranh ở Đông Dương không phải là cuộc chiến để giữ thuộc địa, mà đó là đóng góp của Pháp trong việc đẩy lùi chủ nghĩa cộng sản. Tham khảo: Fall 1964, tr.69/70, tr. 225.

 

[16] Tham khảo: Tường Vũ 2006

 

[17] Hy V. Luong 1992, tr. 158

 

[18] Tháng 5.1950, Rudy Schröder (tên Việt Nam là Lê Đức Nhân, còn có tên khác là Kerkhof), một sĩ quan chống phát-xít gốc Đức trong hàng ngũ Lê-dương chạy theo Việt Minh, đã đọc tác phẩm On the Party của Liu Zhaoquis bằng tiếng Anh và có ghi chú về điều này trong nhật kí. Fonds Maria Schröder, Lưu trữ cá nhân của Heinz Schütte (FMS).

 

[19] Starobin 1968, tr. 91

 

[20] 98,2% đất nông nghiệp được sở hữu bởi các chủ có từ dưới 5 hécta đất trở xuống (xem Fall, The Two Viet-Nams, op.cit., tr. 308). Tuy nhiên chỉ có một phần mười số hộ sở hữu trên 1 hécta, và khoảng ba phần tư hộ gia đình không có sở hữu đất (xem Papin 2001, tr. 367). Moise năm 1983 cho rằng ảnh hưởng Trung Quốc thực ra không lớn như người ta tưởng; xem đặc biệt tr. 234-236. Nếu điều đó là đúng thì vấn đề đặt ra là, tại sao trong các cuộc nói chuyện của tôi với các trí thức ở Hà Nội, họ luôn nói tới ảnh hưởng trực tiếp của Trung Quốc? Vậy người ta có thể giả định rằng, bộ máy tuyên truyền Việt Nam đã tìm cách đổ hết những sai lầm trong cơn lên đồng cách mạng theo đường lối “tả khuynh” của họ thời đó cho Trung Quốc, để rửa sạch mình chăng?

 

[21] “La haine de classe devient la haine personnelle de chacun.” Trò chuyện với Hoàng Hữu Xứng tại Hà Nội 5.12.1997

 

[22] Greene 1980, tr. 137

 

[23] Trò chuyện tại Hà Nội 29.11.1997

 

[24] Tham khảo bản điều tra mẫu mực, chưa được công bố của Nguyễn Thị Ngọc Thanh 1999

 

[25] Tổng kết Hội nghị Khóa XIV Ban Thường vụ Đảng Lao động Việt Nam (11.1956), tại: Lưu trữ Chính trị của Bộ Ngoại giao, PolA, AA, MfAA/A 8679, thẻ 1 và 2, tr. 101

 

[26] Ninh 2002, tr. 124

 

[27] Trò chuyện với Trần Duy tại Hà Nội 17.10.2001 

 

[28] PolA, AA – MfAA/A 8582, tr.0180. Theo Điều lệ Hội Nghệ sĩ Tạo hình Việt Nam tháng 3.1957, thì các hội viên có nhiệm vụ: “sáng tác phục vụ cuộc cách mạng của nhân dân Việt Nam”. PolA, AA, MfAA/A 8582, tr. 000002. Xem thêm Chỉ thị về công tác báo chí ngày 14.12.1956, tại: PolA, AA, MfAA/A8652, tr.000078-000082 cũng như MfAA/A 11544.

 

[29] Nt, tr.040. Xem thêm Nguyễn Đình Thi, Kampf gegen Revisionismus in der Literatur und Kunst (Chống chủ nghĩa xét lại trong văn nghệ), tạp chí Hc tp số 3, 1958, tại: PolA, AA, MfAA/A 8494, tr.050-079.

 

[30] Xem: Truong Chinh, Marxism and Vietnamese Culture. Report delivered at the Second National Cultural Conference, July 1948, in: ders., Selected Writings, Hanoi 1994, S. 202–278; ders., Cultural Resistance (1947), in: op.cit., tr. 121–126. Trường Chinh là một nhà cách tân và là người đưa ra một lý thuyết về văn hóa Việt Nam một cách có hệ thống. Ông đã kết hợp tính dân tộc, tính đại chúng và tính khoa học của văn hóa với cuộc kháng chiến chống Pháp và Nhật do Việt Minh lãnh đạo. Trường Chinh không những chỉ ra cho các trí thức những năm đầu thập kỉ 1940 thấy con đường giải thoát khỏi nỗi nhục nô lệ, mà ông còn tìm được cách đưa họ vào Việt Minh. Xem thêm Ninh 2002. 

 

[31] Nguyễn Hữu Đang, thông báo riêng tại Hà Nội 20.10.2000

 

[32] Nguyễn Đình Thi, PolA, AA, MfAA/A 8582, tr.081; xem thêm Nguyễn Thế Anh 2005, tr. 26-27.

 

[33] Woodside 1976, tr. 224

 

[34] Brocheux 2000, tr. 178

 

[35] Đặng Phong, thông báo riêng tại Tam Đảo 10.2000

 

[36] Mao Tse-Tung 1968, tr. 129

 

[37] Có sự tương đồng về phương diện lý thuyết trong những quan điểm này với những quan điểm phổ biến dưới thời Vichy ở Đông Dương (cũng như dưới thời Quốc xã ở Đức), cho rằng, cội rễ của văn hóa nằm ở thời quá khứ huyền sử, trong máu và trong các huyền thoại cổ xưa của nông dân; nó nằm ở lối sống đơn giản, rắn rỏi và gia trưởng. Quan điểm trở về với quần chúng nông dân thật thà chất phác của các nhà tư tưởng thành thị đã đặc biệt được cổ vũ trong chiến tranh bởi các chính quyền chuyên chế, mà ở đó người nông dân được kêu gọi hãy hi sinh hết mình. Các phân tích của Jennings, 2001, tr.158, tr.160/161, đã chỉ ra sự tương đồng giữa chính sách văn hóa mới của Miền Bắc Việt Nam với các chính sách của chính quyền Vichy Đông Dương. Mặt khác, những người nói chuyện với tôi ở Hà Nội cũng nhiều lần bày tỏ sự ngưỡng mộ của họ với Hitler và chủ nghĩa Quốc xã. Tuy nhiên trong các buổi trò chuyện với tôi, những nhà tư tưởng chính trị như Nguyễn Đình Thi và Nguyễn Hữu Đang đã hoàn toàn phủ nhận có sự tương đồng. 

 

[38] Tường Vũ 2006, tr.23.

 

[39] Stern o. J., tr.860 (đây là bản thảo gốc 1216 trang của Frey 2001)

 

[40] Stern o. J., tr.1143. Theo nguồn tài liệu này thì Nguyễn Sơn lại được đảm nhận chức vụ cũ trong Đảng Cộng sản Trung Quốc, tuy nhiên ông bị những người đồng chí Trung Quốc phê bình nghiêm khắc vì sự chống đối tướng Giáp và Bộ Chính trị Việt Nam; Nt, tr.1168. Nhiều trí thức văn nghệ sĩ từng trò chuyện với tôi ở Hà Nội nói rằng, Nguyễn Sơn khi về Trung Quốc đã bị qui kết là thiếu kỉ luật cách mạng.

 

[41] Stern o. J., tr. 1089

 

[42] Trò chuyện với Đinh Xuân Lâm ở Hà Nội 28.11.2001

 

[43] Hoàng Văn Chí 1964, tr. 136

 

[44] Qiang Zhai 2000, tr. 34/35

 

[45] Phỏng vấn Hồ Sĩ Bằng tại Hà Nội 16.11.2001

 

[46] Trò chuyện với Nguyên Ngọc tại Paris 29.7.2003

 

[47] Xem thêm: Môn học và giảng viên, xuất bản khoảng 1948 tại Khu IV, mà Nguyễn Xuân Sanh đã vui lòng cho tôi sử dụng ở Hà Nội.

 

[48] Stern o. J., tr. 860. Nhà sử học Đào Hùng, hồi đó còn là một học sinh tiểu học, hồi tưởng lại: “Il a parlé avec nous, les lycéens, à notre niveau de connaissances, à Tây hóa”. Thông báo riêng tại Hà Nội 17.10.2001.

 

[49] Xem Chu Ngọc 1956. Trái lại, Nguyễn Hữu Đang nhận định ngày 15.10.2002: “Le général Nguyễn Sơn n´a aucun rôle dans le changement des conceptions littéraires et artistiques pour la nouvelle période.”

 

[50] Trò chuyện với Đào Hùng 17.10.2001. Stern/Frey miêu tả Nguyễn Sơn là một người “xuất khẩu” chiến thuật đấu tranh du kích của Mao. S.s. Stern, o. J., tr. 883.

 

[51] Trò chuyện với Lê Đạt ở Hà Nội 2.11.2001

 

[52] Trò chuyện với Hoàng Cầm ở Hà Nội 25.10.2001

 

[53] Trò chuyện với Lê Đạt ở Hà Nội 4.6.1999

 

[54] Nguyễn Tiến Lãng 1953

 

[55] Trường Chinh, Cultural Resistance, tại: ders. 1994, tr.121-124. Về các lớp đào tạo văn nghệ sĩ tại Việt Bắc, nơi các học viên nỗ lực “miêu tả cuộc đấu tranh và chủ nghĩa anh hùng của nhân dân”, xin tham khảo Figuères 1950, tr.55-58. Về “chân dung” nhà thơ được cách mạng tái sinh Nguyễn Xuân Sanh, xin tham khảo Faber 1955, tr. 142-144.

 

[56] Dan (sic!) Thai Mai 1961, tr.91.

 

[57] Jamieson 1995, tr.189, 209, 268-269. Tham khảo thêm Zinoman 2002, tr. 18-20. Trong truyện ngắn “Đường rừng” viết năm 1948, nhà văn Nam Cao (hi sinh năm 1951) viết (bản dịch của Georges Boudarel): “Je pensais vraiment trop à moi. Après la révolution d’Août, je mesurais un peu plus chaque jour que mon ‘moi’ ne signifiait pratiquement rien. Il prenait juste quelque valeur quand il arrivait à s’harmoniser avec les hommes qui m’entouraient. Souvent il fallait s’oublier, oublier son nom et sa réputation pour pouvoir être utile. A quoi bon se démener pour chercher à se faire un nom dans l’histoire? L’histoire est une prise bien plus grande. Elle est l’œuvre des masses. Penser au grand nombre plutôt qu’à soi. Je fis et je fais encore beaucoup d’efforts pour prendre de l’intérêt aux travaux modestes et obscurs, mais utiles…”. Nam Cao 1960, tr. 184. 

 

[58] Trò chuyện với Lê Đạt ở Hà Nội 4.6.1999 và 4.10.2000

 

[59] Trò chuyện với Nguyễn Đình Thi ở Hà Nội 26.03.2002

 

[60] Năm 1952 Đảng thực hành chính sách “hai lãnh đạo” trong Quân đội Nhân dân, trong đó lãnh đạo chính trị sát cánh cùng lãnh đạo quân sự. Hệ thống này chủ yếu được tướng Nguyễn Chí Thanh phác thảo và tiến hành thực hiện. S.s. Pike 1986, tr. 158-159. Mùa hè năm 1951, tướng Thanh đề nghị tướng Giáp cho tiến hành các khóa chỉnh huấn, đặc biệt áp dụng cho các cán bộ cấp trung có gốc gác tiểu tư sản, những người bị cho là yếu kém về ý thức giai cấp. S.s. Võ Nguyên Giáp 2004, tr. 244.

 

[61] Nhóm những người bạn này gồm nhà văn Thanh Tịnh, nhà thơ Vũ Cao và em trai ông, nhà văn Vũ Tú Nam, nhà văn Phùng Quán, họa sĩ Mai Văn Hiến, các nhạc sĩ Đỗ Nhuận, Lương Ngọc Trác và Doãn Nho, cũng như các nhà văn, nhà thơ, nhà báo Cao Nhị, Phác Văn, Tử Phác và dĩ nhiên là Hoàng Cầm. Nhân một chuyến thăm Mai Văn Hiến ở Hà Nội tháng 10.2005, tôi có hỏi ông về sự kiện này, nhưng ông không nhớ.

 

[62] Nhiều cuộc nói chuyện với Hoàng Cầm ở Hà Nội 1999/2000.

 

[63] Trò chuyện với Lê Đạt ở Hà Nội 11.10.2000

 

[64] Boudarel 1991b, tr. 49-50

 

[65] Thông báo riêng ở Hà Nội 11.10.2000; Trò chuyện với Lê Đạt ở Hà Nội 11.10.2000; Trò chuyện với Trần Duy ở Hà Nội 17.10.2001. Đối chiếu Ninh 2002, tr. 2005-2006.

 

[66] Tham khảo thêm tiểu thuyết Chuyn tình k trước lúc rng đông – Histoire d´amour racontée avant l´aube, của Dương Thu Hương. Hầu hết những cặp này chỉ ly dị sau Đi m1986, khi tình hình được nới lỏng một chút. Tôi xin cảm ơn họa sĩ Trần Duy về thông tin này. Trò chuyện với Trần Duy ở Hà Nội 17.10.2001. 

 

[67] D.C. 1946, tr. 2

 

[68] Thông báo riêng của Nguyễn Hữu Đang tại Hà Nội 30.10.2000

 

[69] Trò chuyện với Phan Kế An ở Hà Nội 2.10.200 và 14.10.2000

 

[70] Zur kulturellen Situation (Về tình hình văn hóa), báo cáo của Đại sứ quán Đức ở Hà Nội, o.D., có lẽ vào khoảng giữa năm 1956, tại: PolA, AA, MfAA/A 8420, tr. 020

 

[71] Nt, tr. 017. Trò chuyện với Trần Duy 17.10.2001 về cốt cán.

 

[72] FMS

 

[73] Trò chuyện với Lê Đạt ở Hà Nội 4.6.1999

 

[74] Trò chuyện với Đào Hùng ở Hà Nội 12.10.2000. “Je ne crois pas qu’il y ait eu plus de cinquante vrais communistes convaincus dans toute l’Indochine en 1945. En revanche, pour qui voulait l’indépendance nationale du Vietnam, il n’y avait pas d’autre choix que de soutenir le Vietminh.” Viet Tran 1979, tr.18.

 

[75] Xem Fourniau 1989

 

[76] Boudarel 1991b, tr. 23-24

 

[77] Những chuyện này chẳng hạn có thể đọc trong tiểu thuyết Nhng thiên đường mù của Dương Thu Hương, bản tiếng AnhParadise of the Blind. Bản tiếng Đức do nhà Ullstein xuất bản dưới cái nhan đề thiếu may mắn Bitterer Reis (Gạo đắng).

 

[78] Trần Đức Thảo, Freedom and Society, trong: Giai phm Mùa Đông, Hà Nội 1956, trích theo bản tiếng Anh, Hoàng Văn Chí 1964, tr. 123.

 

[79] Trong Ghosh 1992, tr. 251-252, có trình bày một so sánh có tính rọi sáng vào sự khác biệt giữa các giá trị tín ngưỡng dân gian với các giá trị của truyền thống tôn giáo (“chính đạo”), và sự tác động qua lại giữa hai hệ giá trị này đã tạo ra các thiết chế tôn giáo và đạo đức của xã hội Việt Nam như thế nào.

 

[80] Một trong những nhân vật lỗi lạc nhất của Nhân văn–Giai phẩm, nhà thơ Lê Đạt, thậm chí còn đưa ra nhận định: “C´est la faute des Français!”, bởi rốt cuộc thì đó chính là những giá trị của di sản Pháp – Rousseau, Voltaire, Montesquieu, Victor Hugo, và thêm cả “chủ nghĩa giải phóng thế giới” của Marx thời trẻ…. Sau 1954 và sau những hệ quả của Cải cách Ruộng đất, những giá trị ấy lại quay trở lại kích thích cảm hứng của họ. Trò chuyện với Lê Đạt ở Hà Nội 4.10.2000 và 2.11.2001

 

[81] Trò chuyện với Lê Đạt ở Hà Nội 4.6.1999

 

[82] Vũ Cận 1998 (tác giả phát 12 bản copy), tr. 59. Hai tuần trước khi mất ngày 17.5.1959, Vũ Cận nói với tôi bằng thứ giọng buồn rất đặc trưng của ông: “J’ai 50 ans au Parti Communiste et 25 ans de diabète – qu’est-ce qui est le pire selon toi?” (Tôi có 50 năm tuổi Đảng và 25 năm bệnh tiểu đường – theo anh thì điều gì là tồi tệ hơn?) Trò chuyện với Vũ Can ở Hà Nội 3.5.1999; xem thêm tài liệu trên, tr. 129-130.

 

[83] Boudarel 1991b, tr. 97. 

 

[84] Ninh 2002, tr. 126 tt. 

 

[85] Boudarel 1991b, tr. 49

 

[86] Theo các nguồn tin truyền miệng ở Hà Nội và Paris thì vị chính ủy này là Hoàng Xuân Tụy, người sau này sẽ giữ chức hiệu trưởng trường Đại học Bách khoa Hà Nội và Thứ trưởng Bộ Đại học. 

 

[87] Boudarel 1991b, tr. 52 tt., 87, 156 tt. Đầu tháng 3.2001, tôi có hỏi Georges Boudarel, rằng hồi 1955 ông và Trần Dần có biết gì về Hồ Phong không? Ông trả lời: “Rien”, không biết gì hết, và nói thêm: “Je me suis trompé”, nghĩa là: “Tôi đã nhầm”. Tham khảo thêm Ninh 2002, tr.128-129; Duiker 2000, tr.489. Về Hồ Phong, xem: Goldman 1967, cũng như Goldman 1960; MacFarquhar 1960. 

 

[88] Sẽ rất thú vị nếu được biết thêm về vai trò của tướng Trần Độ trong những sự kiện này. 

 

[89] PolA, AA, MfAA/A 8494, thẻ 1, tr. 050-079. Khái niệm “chủ nghĩa xét lại” năm 1954/55 còn chưa xuất hiện ở Việt Nam, và chỉ từ 1957 sau phản ứng với Đại hội 20 Đảng Cộng sản Liên Xô năm 1956, khái niệm này mới được sử dụng chỉ các trí thức ly khai Hà Nội.

 

[90] Nt, tr. 051 

 

[91] Gồm nhà văn Thanh Tịnh, nhà thơ Vũ Cao và em trai ông, nhà văn Vũ Tú Nam, nhà văn Phùng Quán, họa sĩ Mai Văn Hiến, các nhạc sĩ Đỗ Nhuận, Lương Ngọc Trác và Doãn Nho, cũng như các nhà văn, nhà thơ, nhà báo Cao Nhị, Phác Văn, Tử Phác và dĩ nhiên là Hoàng Cầm. Về tướng Thanh, xem thêm Bùi Tín 1999, tr.86-87,cũng như Boudarel 1991 b, tr. 98-100. 

 

[92]Trò chuyện với Hoàng Cầm ở Hà Nội 2.12.1998 

 

[93] Trò chuyện với Hoàng Cầm ở Hà Nội 24.6.1999 

 

[94] Trò chuyện với Hoàng Cầm ở Hà Nội 19.10.2000 

 

[95] Trò chuyện với Hoàng Cầm ở Hà Nội 6.11.1998 

 

[96] Năm 1999 ở tuổi 86, Trần Độ bị khai trừ khỏi Đảng sau nhiều năm đòi mở cửa và cách tân bằng các bài viết phổ biến trên internet. Ông đã lên tiếng sau nhiều năm giữ kín các quan điểm của mình, và điều đó đã vượt quá sức chịu đựng của Đảng. Ông mất tháng 8.2002. 

 

[97] Trong vòng 20 năm tiếp theo, sự chia rẽ giữa Trung Quốc và Liên Xô có ảnh hưởng quyết định tới chính sách đối nội và đối ngoại của Việt Nam trong việc phải duy trì mối quan hệ tốt với cả hai cường quốc này. Dù lúc này lúc khác, tư tưởng cũng có vai trò quyết định, song nhìn chung chính trị Việt Nam đã đi một con đường thực dụng rất đặc trưng. Xem thêm Grossheim 2005. 

 

[98] Như Phong 1962, tr. 57 

 

[99] Boudarel 1991b, tr. 92 

 

[100] Boudarel 1991b, tr. 90-92; Boudarel và Nguyen Van Ky 1997, tr.132-136 

 

[101] Như Phong 1962, tr. 57 

 

[102] Boudarel 1991b, tr. 93 

 

[103] Đại sứ Pfüzner, Sự nổi loạn của văn nghệ sĩ chống lại chính sách của Trung ương Đảng Lao động Việt Nam trong các vấn đề văn nghệ (Oppositionelle Bewegungen der Schriftsteller und Künstler gegen die Politik des ZK der Lao-Dong-Partei in den Fragen der Literatur und Kunst), tháng 11.1956, tại: MfAA/A 8420, tr. 031 

 

[104] “Những nét chính về tình hình và công tác phát triển văn nghệ”. Bài phát biểu tại Hội nghị Văn nghệ lần thứ 2 năm 1957. Die Entwicklung der Kunst und Literatur in ihren großen Zügen. PolA, AA, MfAA/A 8582, tr.079-080.

 

[105] Đại sứ quán CHDC Đức, Hà Nội, 20.9.1955, phụ chú ghi chép cuộc họp giữa các đại sứ các nước xã hội chủ nghĩa anh em với Tổng Bí thư Đảng Lao động Việt Nam, đồng chí Trường Chinh, ngày 17.9.1955 – từ 15:00 tới 18:00, tại: PolA, AA, MfAA/A 8679, thẻ 3, tr.0229a.

 

[106] Boudarel/ Nguyen Van Ky 1997, tr.134. 

 

[107] Anon 1978, tr.9. Cũng có thể tham khảo thêm Thürk 1970, tr.188.

 

[108] Xem Boudarel 1991b, tr.119 ff; Ninh 2002, tr.133-135; Tongas 1960, tr. 337, cũng như: Nguyen Tran Huan 1981, tr. 322-323 và tr.330-331. Về một tiểu sử (chính thức) của Tố Hữu (khoảng 1959) xem PolA, AA, MfAA/A 8494, tr.0137. Trò chuyện với Lê Đạt ở Hà Nội 4.10.2000. Ngoài ra thân phụ của họa sĩ Trần Duy.

 

[109] Trong một bản thảo không được công bố viết đầu những năm 1970, Rudy Schröder (tên Việt Nam là Nguyễn Đức Nhân) viết: “Khả năng đọc và viết được dùng quá tốt cho việc sản sinh, giữ gìn và truyền bá chủ nghĩa nô bộc. Tôi có lý do để lo sợ rằng Việt Nam ngày nay đã là một trong những nước mà quyền lực hoàn toàn chế ngự tri thức.” FMS, bản thảo Schröder, tr. 56.

 

[110] Đại sứ quán CHDC Đức gửi Bộ Ngoại giao, Hà Nội, 8.4.1957, tại: PolA, AA, MfAA/A 8383, tr.009.

 

[111] Tháng 9.1955, Tổng Bí thư Trường Chinh thông báo với các đại sứ “các nước anh em” như sau: “còn 91.000 người thất nghiệp, trong đó một số làm những việc thời vụ (hỏa xa, làm đường v.v.). Số người bị đói nặng giảm từ 1 triệu (tháng 3.1955) xuống còn 180.000 (tháng 7.1955). Sản lượng lương thực tháng 5 vượt mức đề ra (không có số liệu cụ thể). Tuy nhiên sản xuất công nghiệp và thương mại không đạt kế hoạch.” Điều khác thường trong thông báo này của Trường Chinh không phải là các con số (vì thực ra nó có đúng hay sai cũng không quan trọng), mà là sự thừa nhận có nạn đói lớn và những khó khăn lớn về kinh tế. Đại sứ quán CHDC Đức, Hà Nội, 20.9.1955, phụ chú ghi chép cuộc họp giữa các đại sứ các nước xã hội chủ nghĩa anh em với Tổng bí thư Đảng Lao động Việt Nam, đồng chí Trường Chinh, ngày 17.9.1955 – từ 15:00 tới 18:00, tại: PolA, AA, MfAA/A 8679, thẻ 3, tr.0229a

 

[112] Đại sứ quán CHDC Đức gửi Trung ương Đảng Xã hội Thống nhất Đức (SED), Berlin. Hà Nội, 17.10.1956, tại: Lưu trữ Liên bang, Berlin (BArch), Ủy ban Trung ương Đảng SED, Ban đối ngoại Trung ương, DY30/IV2/20/217.

 

[113] Giai phm mùa Thu, 10.1956, trích theo Hoàng Văn Chí 1962, tr. 96.

 

[114] Fall 1967, tr. 304-306

 

[115] Về những giọt nước mắt chiến lược của Hồ Chí Minh, tham khảo Maneli 1971, tr. 154.

 

[116] Honey 1957, tr. 251. Tôi không tìm thấy trong các kho lữu trữ của CHDC Đức thông tin nào về chuyến thăm này

 

[117] Ví dụ có thể xem Moise 1983, tr. 215 tt.

 

[118] Boudarel / Nguyen Van Ky 1997.

 

[119] Goldman 1967, tr. 160; tham khảo thêm MacFarquhar 1960.

 

[120] PolA, AA, MfAA/A 8380, tr. 056.

 

[121] Đại sứ Pfützner gửi Bộ Ngoại giao, 27.11.1956 và 8.1.1957, tại: PolA, AA, MfAA/A 8699, thẻ 3, tr.0233-0237, cũng như các bản tin từ báo Nhân Dân; Nt, tr. 0238-0244. Về con số những người bị giết, bị kết án tù hoặc bị giam cầm, xin xem: báo cáo của Đại sứ quán CHDC Đức gửi Ủy ban Trung ương Đảng Xã hội thống nhất (SED), Hà Nội 17.10.1956, tại Barch – Ủy ban Trung ương SED, DY 30/IV2/20/217. 

 

[122] Đại sứ Pfützer gửi Bộ Ngoại giao CHDC Đức, Hà Nội 8.1.1957, tại: PolA, AA, MfAA/A 8699, thẻ 3, tr. 0234.

 

[123] Đại sứ Pfützner gửi Bộ Ngoại giao CHDC Đức, Hà Nội 5.11.1956, tại: PolA, AA, MfAA/A 842O, tr. 0028.

 

[124] Xem MacFarquhar 1960, tr. 303/304.

 

[125] Theo Bùi Tín 1999, tr.57, thì Trường Chinh, người tham dự Đại hội 20 Đảng Cộng sản Liên Xô ở Moskva, đã bị một cú sốc nặng (“en état de choc”) khi nghe bản Báo cáo mật của Khrushchev. Trường Chinh đã giấu kín bản báo cáo mật này trong cặp tài liệu của mình; khi trở về Hà Nội, ông không hề nói với ai về điều đã xảy ra mà chỉ báo cáo riêng với Hồ Chí Minh.

 

[126] Trò chuyện với Đào Hùng ở Hà Nội 10.10.2000. 

 

[127] Nt, và Đào Hùng nói thêm: “Nhưng sau đó mọi sự từ từ thay đổi, và khi Breshnev lên thì hi vọng chấm dứt. Việc quân đội Liên Xô tràn vào Tiệp Khắc là dấu chấm hết với chúng tôi…”

 

[128] Trần Đức Tho, Development of Democratic Freedom (N lc phát trin t do dân ch), Nhân văn số 3, 15.10.1956, tại: Lữu trữ Quốc gia Úc (NAA), A463/17, tr.20-21. Những tài liệu từ NAA được Thomas Engelbert vui lòng cho tôi sử dụng.

 

[129] Barch, Ủy ban Trung ương Đảng Xã hội Thống nhất Đức (SED): Phụ chú hồ sơ số 117/63, Đại sứ quán CHDC Đức, Hà Nội, 7.9.1963, DY 30-IV A 2/20/442. Sách vở nước ngoài hầu như không còn được xuất bản thời gian này; thao khảo: Pommerening (phóng viên thường trú của đài ADN ở Hà Nội), Vài suy nghĩ về chính sách hiện nay của Đảng Lao động (1.1963), tại: Barch, Lưu trữ ADN, DC 900-54.

 

[130] Trường Chinh 1994, tr.271.

 

[131] PolA, AA, MfAA/A 8420, tr.022.

 

[132] Xem Hoàng Văn Chí 1964, tr.236; tham khảo thêm Hoang Giang 1987, tr.12.

 

[133] Xem Jamieson 1995, tr.109/11. Ông ngoại Phan Khôi là Tổng đốc Hoàng Diệu, người đã treo cổ tự vẫn khi Hà Nội thất thủ. Bản thân Phan Khôi từng bị tù 9 năm ở Côn Đảo. 

[134] Xem Jamieson 1995, tr.265; tham khảo Hoàng Văn Chí 1964, tr.237.

 

[135] Tóm tắt bài xã luận “Phê bình lãnh đạo văn nghệ” của Phan Khôi, Đại sứ quán CHDC Đức ở Hà Nội, tại: PolA, AA, MfAA/A 8420, tr. 015.

 

[136] Về tình hình văn hóa (Zur kulturellen Situation), Đại sứ quán CHDC Đức ở Hà Nội, tại: PolA, AA, MfAA/A 8420, tr.023.

 

[137] Từ: Giai phm mùa Xuân, 1956, Đại sứ quán CHDC Đức ở Hà Nội, tại: PolA, AA, MfAA/A 8420, tr.007-011.

 

[138] Về tình hình văn hóa (Zur kulturellen Situation), Đại sứ quán CHDC Đức ở Hà Nội, tại: PolA, AA, MfAA/A 8420.

 

[139] Đại sứ Pfützner, Hà Nội, tháng 11.1956, Phong trào đối kháng của văn nghệ sĩ chống đường lối của Đảng Lao động về công tác văn nghệ, tại PolA, AA, MfAA/A 8420, tr.032. Theo nhiều nguồn tin của các trí thức ly khai còn sống ở Hà Nội thì Tố Hữu đã ra lệnh cho Văn Phác, Trưởng Phòng Văn nghệ quân đội, bắt Trần Dần. Lệnh của Tố Hữu được đưa ra trong một cuộc họp lãnh đạo văn nghệ để bàn về tập Giai phm, trong đó nhà thơ Chế Lan Viên là người đã mở màn châm ngòi cuộc tấn công Trần Dần.

 

[140] Nay là số 6 Nguyễn Khuyến.

 

[141] Trung úy Hoàng Cầm cũng bị quân đội ép phải bỏ người vợ mà ông kết hôn năm 1956, bởi cô này bị coi là “tư sản” và đã ở lại Hà Nội trong kháng chiến, nơi cô làm công việc y tá. Vì vậy Hoàng Cầm đã ra khỏi quân đội. Trò chuyện với Hoàng Cầm ở Hà Nội 23.11.1948.

 

[142] Báo cáo nhân danh Ban chấp hành Hội Văn nghệ tại Đại hội Văn nghệ toàn quốc lần thứ 2, ngày 28.2.1957, trích theo Tongas 1960, tr.336.

 

[143] Trò chuyện với Nguyễn Đình Thi ở Hà Nội 26.3.2002.

 

[144] Nguyễn Tuân, tại: Về tình hình văn hóa (Zur kulturellen Situation), Đại sứ quán CHDC Đức ở Hà Nội, tại: PolA, AA, MfAA/A 8420, tr.018. Thậm chí Tố Hữu, người cứng rắn nhất trong những người cứng rắn, dưới ảnh hưởng của Đại hội 20 cũng trở nên hoang mang, khi ông tuyên bố: “… thời gian qua đã có những sai lầm nghiêm trọng phải sửa đổi trong công tác văn nghệ và trí thức. Tất cả những sai lầm đã xảy ra đều là do định hướng yếu kém về tư tưởng.” Nt, tr.020.

 

[145] Boudarel 1990, tr.160-161. Tham khảo thêm: Kommuniqué der vietnamesischen Regierung zur innenpolitischen Lage in der DRV – 1956, tại: PolA, AA, MfAA/A 11621.

 

[146] Trò chuyện với Nguyễn Đình Thi ở Hà Nội 26.3.2002. Nguyễn Đình Thi cho biết, trong lớp học này, người ta đã sử dụng bản dịch Marx ra tiếng Pháp của Jean Fréville tại Éditions sociales francaises.

 

[147] Jamieson 1995, tr.270.

 

[148] Sĩ Ngọc, Nhân văn số 3, 15.10.1956, tại: NAA, A 463/17, tr. 23-25.

 

[149] “Ví dụ đầu tiên là các đại biểu quốc hội tại Đại hội 3 ở Hà Nội đã phê bình hoàn toàn tự do về tình hình thành phố và thảo luận về các giải pháp. Đây thật sự là điều mới mẻ trong đời sống chính trị.” Về tình hình văn hóa (Zur kulturellen Situation), Đại sứ quán CHDC Đức ở Hà Nội, tại: PolA, AA, MfAA/A 8420, tr. 023.

 

[150] Tự phê bình của Ban thường trực Hội Văn nghệ Việt Nam được công bố ngày 2.10.1956. Tham khảo: PolA, AA, MfAA/A 8420, tr. 020-021.

 

[151] Theo nhiều nhân chứng kể lại thì Nguyễn Bính – “một người gần như mù chữ, vô chính phủ, một nhà thơ thứ thiệt” – được Ủy ban Tuyên giáo của Đảng ứng tiền để ra báo chống lại Nhân văn – nhưng, vì là “một nghệ sĩ đích thực” nên chẳng bao lâu tờ báo của Nguyễn Bính cũng nhanh chóng trở nên gai góc.

 

[152] Có dịch cúm xảy ra thật và nó đã được lợi dụng. Thao khảo: Tongas 1960, tr.313.

 

[153] Theo lời nói đầu của Nhà xuất bản Minh Đức thì Giai phm mùa Thu được ấn hành để: “góp phần vào việc chuẩn bị Đại hội Văn nghệ toàn quốc, để phát huy và đẩy mạnh tự do sáng tác văn nghệ theo phương châm trăm hoa đua nở, chúng tôi xuất bản tập Giai phẩm mùa Thu gồm có nhiều bài của nhiều tác giả bản sắc khác nhau, khuynh hướng khác nhau. Mỗi tác giả chịu trách nhiệm bài viết của mình.” Xem: PolA, AA, MfAA/A 8420, tr. 023.

 

[154] Tóm tắt bài viết của Phan Khôi, tại: PolA, AA, MfAA/A 8420, tr. 013.

 

[155] Theo Hoàng Văn Chí 1958, tr.79. Một bản dịch khá đầy đủ bài xã luận của Phan Khôi có tại Hoa Mai o.J. tr.29-41. Tôi sử dụng cả hai nguồn, mặc dù không nguồn nào đầy đủ.

 

[156] Nt, tr. 81-82.

 

[157] Theo báo cáo của Đại sứ quán CHDC Đức chuyển về Berlin thì Phan Khôi được coi là một “kiện tướng ăn nghệ” và giải thích thêm rằng danh hiệu này là do Đảng phong cho ông và Phan Khôi được “cấp lương 60.000 nghìn đồng và sở hữu một phòng riêng”. Đại sứ quán CHDC Đức, Hà Nội, 27.3.1958, gửi Bộ Ngoại giao, Berlin, tại: PolA, AA, MfAA/A 8420, tr.000065. 

 

[158] Trò chuyện với Nguyễn Hữu Đang ở Hà Nội 21.5, 24.5 và 3.6.1999

 

[159] Mặc dù trong quá khứ thuộc địa, đây là nơi đặt Phủ Toàn quyền Đông Dương – một biểu tượng của đế quốc Pháp (xem Meyer, 1985, tr.192) – nhưng vì là nơi diễn ra Lễ Tuyên ngôn Độc lập ngày 2.9.1945, Quảng trường Ba Đình vẫn được chọn là biểu tượng của nhà nước mới, và dường như để nhấn mạnh điều này, sau này người ta đã cho xây lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh tại đây. 

 

[160] Schröder, bản thảo chưa công bố, tại: FMS, xem Schütte 2006

 

[161] Hội Văn hóa Cứu quốc tồn tại tới 1948 thì bị thay thế bởi Hội Văn học và Nghệ thuật

 

[162] Khi được hỏi về chuyện này, Nguyễn Hữu Đang nói với tôi: “Có sự bất đồng giữa ông ấy (Trường Chinh) và tôi, nhưng vì những lý do khác, ví dụ như việc phân công công tác cách mạng, những việc ông ấy quyết định mà tôi cho là không thỏa đáng; hồi đó tôi đã có cảm nhận rằng mình sẽ phải gánh chịu những kết cục không lành. Tôi rất đau khổ vì có quá ít những thay đổi hợp lý. Sau này thì ông ấy đã thừa nhận những sai lầm của mình. Thực ra hồi đó tôi đã từ bỏ con quái vật chính trị để giành sức lực cho (cũng như quay lại với) công việc văn hóa. Rốt cuộc tôi đã tìm được vị trí của mình trong vai trò Trưởng Hội truyền bá Quốc ngữ để xóa nạn mù chữ cho nhân dân.” Trò chuyện với Nguyễn Hữu Đang ở Hà Nội, 30.10.2000.

 

[163] Trò chuyện với Hoàng Cầm ở Hà Nội, 23.11.1998. Trong giới văn nghệ cũng như chính trị ở Hà Nội có rất nhiều tin đồn khác nhau về chuyện này, tuy nhiên đến nay tôi vẫn chưa tìm thấy bằng chứng cụ thể. Trong những buổi trò chuyện với Nguyễn Hữu Đang, ông luôn từ chối nói về chuyện này. Báo Nhân văn được in ở nhà xuất bản Minh Đức với trụ sở ở số nhà 25 đường Phan Bội Châu.

 

[164] Trò chuyện với Nguyễn Hữu Đang ở Hà Nội, 24.5.1999

 

[165] Trò chuyện với Hoàng Cầm ở Hà Nội, 14.6.1999 và với Nguyễn Hữu Đang, 3.6.1999

 

[166] Trò chuyện với Lê Đạt ở Hà Nội, 4.10.2000

 

[167] Trò chuyện với Nguyễn Hữu Đang ở Hà Nội, 30.10.2000

 

[168] Nguyễn Mạnh Tường 1992

 

[169] Đại sứ CHDC Đức ở Hà Nội hồi đó miêu tả và đánh giá nhóm Nhân văn như sau: “Nhóm này có xu hướng và nội bộ không thống nhất. Một bộ phận, bộ phận phản động nhất, đã nhân danh chống bệnh sùng bái cá nhân để chống Chính phủ và Đảng Lao động. Bộ phận khác là những kẻ có tư tưởng lệch lạc, hoặc tự cho mình là đại diện cho ‘chủ nghĩa Mác chân chính’, hoặc đòi hỏi tất cả những ‘quyền tự do dân chủ’ nào đó, giống như những quyền ở những nước tư bản. […] Do những sai lầm của Đảng và Chính phủ, không chỉ trong lĩnh vực văn nghệ (ví dụ sai lầm trong Cải cách Ruộng đất, vi phạm các quyền tự do dân chủ), nhóm này tụ tập lại thành một đám bất mãn đủ kiểu và đòi Đảng và Chính phủ phải quan tâm tới họ.” Đại sứ Pfützner,Phong trào đi kháng ca văn ngh…, 11.1956, PolA, AA, MfAA/A 8420, tr.034.

 

[170] Trò chuyện với Hoàng Cầm, 13.11 và 2.12.1998, và Trần Duy, 17.10.2001

 

[171] Trò chuyện với Lê Đạt ở Hà Nội, 11.10.2000

 

[172] Điểm này và những điểm sau: Trò chuyện với Hoàng Cầm ở Hà Nội tháng 11.1998, tháng 6.1999 và tháng 9.2000; Theo đó, những điểm này đã được Nguyễn Chí Thanh nói trước đó khi ông đến thăm Trần Dần nằm viện trong vụ (giả vờ) tự tử.

 

[173] Ví dụ về việc tình hình miền Nam hồi đó được chăm chú theo dõi thế nào, có thể đọc báo cáo của Đại sứ quán Úc tại Sài Gòn gửi về Canberra 1956/57; tham khảo Memo. No.287 – File NV. 201/2/1, Australian Embassy on Secretary, Department of External Affairs, Canberra, 11.4.1957, tại: NAA, A463/17.

 

[174] Lê Đạt cho rằng, thực ra Đảng không bao giờ muốn chia sẻ quyền lực, không bao giờ chấp nhận khác biệt, và luôn luôn chuyên chế – tình hình miền Nam chỉ là cái cớ tốt nhất hồi đó. Nếu không có cái cớ này thì Đảng sẽ lại tìm ra cái cớ khác mà thôi. Trò chuyện với Lê Đạt, 11.10.2000.

 

[175] Đây là một giai đoạn rất đáng chú ý: thực tế, người ta có thể tranh luận mọi chuyện trong phạm vi nội bộ, bởi luôn có những quan điểm khác nhau. Tuy nhiên đưa các ý kiến ra công luận thì lại vượt quá ranh giới cho phép.

 

[176] V tình hình văn hóa (Zur kulturellen Situation), PolA, AA, MfAA/A 8420, tr.024

 

[177] Trò chuyện với Trần Duy ở Hà Nội, 17.10.2001

 

[178] Ngược lại, Nguyễn Hữu Đang nói về Trần Duy ngày 30.10.2000 như sau: “Trần Duy là thư ký tòa soạn, rất hăng hái, can đảm, trung thành với anh em, với mục tiêu dân chủ”.

 

[179] Đại sứ Pfützner, Phong trào đi kháng ca văn ngh…, tại: PolA, AA, MfAA/A 8420, tr.034. Những người tham giaNhân văn ở Hà Nội nói số đầu in 1.500 bản và tới số 5 thì in 20.000 bản.

 

[180] Trò chuyện với Trần Duy ở Hà Nội, 17.10.2001

 

[181] Trích dẫn theo Boudarel 1990, tr.164

 

[182] Trích dẫn theo báo cáo V tình hình văn hóa (Zur kulturellen Situation), PolA, AA, MfAA/A 8420, tr.024. Bài xã luận “Những người khổng lồ” của Trần Duy trên Giai phm mùa Thu tập 2 được Đại sứ Pfützner tóm tắt như sau: “Đất nước bị đám ma vương quỉ dữ hành hạ và cai trị. Những người khổng lồ xuất hiện và dũng cảm chiến đấu chống lại những kẻ cai trị và rốt cuộc đã chiến thắng. Nhưng họ đã không để ý đến những người bị trị và trong cuộc chiến đấu đó họ đã giết chết luôn cả tình yêu và tình người.”, xem tại: Phong trào đi kháng ca văn ngh sĩ…: PolA, AA, MfAA/A 8420, tr.033. Tuy nhiên bản thân Trần Duy thì cho rằng ông bị hiểu lầm. Ông muốn người ta phải phân biệt giữa những người khổng lồ không tim và những người khổng lồ có tim; “những người có tim là Hồ Chí Minh và Bộ Chính trị, những người không tim là Tố Hữu, Trường Chinh…”. Trò chuyện với Trần Duy ở Hà Nội, 17.10.2001.

 

[183] PolA, AA, MfAA/A 8420, tr.033. Có thể tham khảo một bản dịch khác về bài thơ của Lê Đạt tại Nguyen Dang Thuc 1958, tr.69: “Placing police stations and machinery in the center of the human heart, / Forcing feelings to be expressed according to a set of rules romulgated by the government.“

 

[184] Xem: Hoa Mai o.J., tr.130

 

[185] Nt, tr.131.

 

[186] Nguyen Huu Dang, It Is Necessary To Have A More Ordered Society, Nhân văn, 5. November (1956), xem: Hoa Mai o. J., S. 101-104.

 

[187] Nguyen Huu Dang, How Are Democratic Freedoms Guaranteed By The Vietnamese Constitution Of 1946, in: Nhân Van, November 20 (1956), trích dẫn theo: Hoa Mai o. J., S. 127-129.

 

[188] Trò chuyện với Nguyễn Đình Thi ở Hà Nội, 26.3.2002

 

[189] Nguyễn Chiến Sĩ, Cuc đu tranh chng ch nghĩa xét li trong văn ngh Vit Nam Dân ch Cng hòa, Hà Nội 29.7.1958, tại: Lưu trữ Liên bang (BArch), Lưu trữ của Đài AND, SAPMO, DC 900-926; về việc tiếp cận tư liệu này, tôi xin cảm ơn đồng nghiệp Martin Grossheim ở Berlin. Thời gian ngắn sau khi Chiến Sĩ gửi báo cáo này thì người phiên dịch của văn phòng Đài AND ở Hà Nội, Tran Anh Do, bị Bộ An ninh Hà Nội cáo buộc “có liên hệ với các phần tử chống đối và nhóm phản động chống chính quyền Nhân văn-Giai phnhững năm qua” cũng như đã từng có mặt ở “một quán cà phê đáng ngờ ở Hà Nội”. Đại sứ quán Đức ở Hà Nội được Cơ quan An ninh Việt Nam yêu cầu hãy đặc biệt lưu ý tới đồng chí Chiến Sĩ trong các báo cáo mật, và không tiết lộ với Chiến Sĩ về việc điều tra đang tiến hành với phiên dịch viên Tran Anh Do. Tham tán Kittler, phụ chú hồ sơ số 51/60, Hà Nội, 20.3.1960, tại: PolA, AA, MfAA/A 8563. Trụ sở của Đài AND, nơi Borchers (Chiến Sĩ) từng trú ngụ và làm việc, là nơi lui tới của “nhiều trí thức Hà Nội”, những người, theo lời Borchers, “mong có nhiều điều lệ tự do hơn trong Đảng của họ”. Pommerening, Hà Nội, 10.11.1961, tại: BArch, Lưu trữ của đài AND, DC 900-296a. Tham khảo thêm: Schütte 2006, tr.272-274.

 

[190] Quyết định của Ủy ban Hành chính Hà Nội về việc đình chỉ và cấm lưu hành báo Nhân văn, kèm theo thư của Đại sứ quán Đức ngày 7.1.1957gửi Bộ Ngoại giao ở Berlin, tại: PolA, AA, MfAA/A 8420, tr.026.

 

[191] Về tình hình văn hóa, tại: PolA, AA, MfAA/A 8420, tr. 026

 

[192] Trò chuyện với Hoàng Cầm ở Hà Nội 24.6.1999

 

[193] PolA, AA, MfAA/A 8582, tr. 035, 036, 040. – Về việc các lãnh đạo văn nghệ phê bình các điểm yếu của văn nghệ sĩ, thao khảo thêm: Nguyễn Đình Thi, “Die Entwicklung der Kunst und Literatur in ihren großen Zügen”, tại: ibid., tr. 083-085, 095-096. Về báo cáo của Nguyễn Đình Thi tại Đại hội Văn hóa Toàn quốc lần 2, tham khảo Tongas 1960, tr. 329 tt.

 

[194] Hội thoại. Theo báo cáo của Đại sứ quán CHDC Đức về Hội nghị, tại: PolA, AA, MfAA/A 8582, tr. 154. Liên quan đến vấn đề này, Vụ trưởng Vụ nước ngoài Bộ Văn hóa Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã bày tỏ quan điểm rất chi tiết. Trong một cuộc hội thoại ngày 22.11.1961 về chủ đề “Những điểm đặc thù của đời sống văn hóa Việt Nam Dân chủ Cộng hòa”, ông lưu ý “nhiều người hoạt động văn hóa có xuất thân từ tầng lớp hữu sản cũ”. Thực ra phần nhiều các văn nghệ sĩ này đều đã được “cải tạo” trong kháng chiến, cho nên họ đều là những “cán bộ có trách nhiệm và trở thành đảng viên của những người lao động Việt Nam”. Tuy nhiên “sau khi hòa bình lập lại… nhiều người trong số này, những người vốn đã vượt qua mọi thử thách khắc nghiệt trong các vùng  kháng chiến, nay tỏ ra trầm lắng, vì thế chúng tôi đòi hỏi họ phải tích cực hơn trong việc tham gia giáo dục quần chúng, nhất là ở những vùng nông thôn lạc hậu”. Đại sứ quán CHDC Đức, Hà Nội 8.12.1961, ghi chú tài liệu về cuộc hội thoại với đồng chí Vo Kung Ky… ngày 22.11.1961, tại:  PolA, AA, MfAA/A 8583, thẻ 2, tr. 000125.

 

[195] Trích từ bản tin Việt Nam số 7/57 ngày 2.3.1957 theo PolA, AA, MfAA/A 8582, tr. 0168.

 

[196]  Về vấn đề văn nghệ tại Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, tháng 5.1958, tại Lưu trữ Liên bang, Bộ Chính trị Đảng Xã hội Thống nhất Đức, DY30/IV2/20/217 

 

[197] Hội thoại. Theo báo cáo của Đại sứ quán CHDC Đức về Hội nghị, tại: PolA, AA, MfAA/A 8582, tr. 0152-0162. Đỗ Nhuận và Phùng Quán đều là thành viên của nhóm nghệ sĩ quân đội dưới quyền tướng Nguyễn Chí Thanh; xem ở trên.

 

[198] Smith 1993, tr. 29

 

[199] Về vấn đề văn nghệ tại Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (Báo cáo của Đại sứ Đức tại VNDCCH), Vụ Đối ngoại và Quan hệ quốc tế, tháng 5.1958, tại: Lưu trữ Liên bang, Bộ Chính trị Đảng Xã hội Thống nhất Đức, Phòng Quan hệ quốc tế, DY30/IV2/20/217.

 

[200] Đại sứ quán CHDC Đức… gửi Bộ Ngoại giao ở Berlin, Hà Nội 27.2.57 [đúng ra phải là 1958], tại: PolA, AA, MfAA/A 8420, tr. 046-048. Bản dịch bài thơ Bertolt Brecht của Trần Dần mới được in lại trong tập Thơ tr tình của Bertolt Brecht, Nhà xuất bản Hội Nhà văn, Hà Nội 2006. Xem bài viết Nhận định về Bertolt Brecht ở Hà Nội của tôi tại: Tạp chí Đông Nam Á (Suedostasien Magazin), 3-2008.

 

[201] G.F. Hudson, China and the Communist “Thaw”, xem tại: Mac Farquhar 1960, tr. 295, 303; Tham tán Kittler, Về cuộc đấu tranh chống các phần tử hữu khuynh…, tại: PolA, AA, MfAA/A 8494, tr. 000084. 

 

[202] Đại sứ quán CHDC Đức gửi Bộ Ngoại giao, Hà Nội 27.2.58, tại: PolA, AA, MfAA/A 8420, tr. 048; tham khảo thêm: PolA, AA, MfAA/A 8499, tr. 092.

 

[203] Nguyễn Đình Thi, Chống chủ nghĩa xét lại trong văn nghệ, Hc tp số 3, 1958, tại: PolA, AA, MfAA/A 8494, tr. 000057.

 

[204] Những khóa chỉnh huấn kéo dài nhiều tuần cũng được áp dụng cho trên 300 cán bộ của Bộ Văn hóa, 1.000 thành viên dàn nhạc quân đội, 4.000 sinh viên và khoảng 10.000 học sinh học nghề. Các vấn đề văn nghệ tại Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (báo cáo của Đại sứ quán ở Hà Nội), Vụ Đối ngoại và Hợp tác quốc tế, tháng 5.1958, tại Lưu trữ Liên bang, Đảng Xã hội Thống nhất Đức/Bộ Chính trị-Phòng quan hệ quốc tế, DY30/IV2/20/217, tr.149-157.

 

[205] Trương Tửu còn “phát minh” ra một lý thuyết mới, theo đó mâu thuẫn cơ bản hiện nay nằm ở một bên là khối sản xuất và quần chúng được giải phóng, còn bên kia là bộ máy nhà nước quan liêu. Dựa trên “lý thuyết” này, Trương Tửu quay ra khủng bố Đảng và Nhà nước”. Tham tán Kittler, Về cuộc đấu tranh chống các phần tử hữu khuynh…, tại: PolA, AA, MfAA/A 8494, tr. 000083.

 

[206] Đại sứ quán CHDC Đức, Hà Nội, gửi Bộ Ngoại giao ở Berlin, 27.3.1958, tại: PolA, AA, MfAA/A 8420, tr. 000065-000068; xem thêm: Vụ Đối ngoại và Quan hệ quốc tế. Các vấn đề văn nghệ tại Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, tháng 5.1958, tại: Lưu trữ Liên bang, Đảng Xã hội Thống nhất Đức/Bộ Chính trị-Phòng quan hệ quốc tế, DY30/IV2/20/217; tham khảo thêm Tongas 1960, tr.340/342.

 

[207] Tham tán Kittler, Về cuộc đấu tranh chống các phần tử hữu khuynh…, tại: PolA, AA, MfAA/A 8494, thẻ 1, tr. 080.

 

[208] Lưu Quý Kỳ, Vụ trưởng Vụ báo chí Đảng Lao động Việt Nam ngày 20.3.1959, theo một công văn của Đại sứ quán CHDC Đức tại Hà Nội gửi Bộ Ngoại giao ở Berlin ngày 7.4.1959, tại: PolA, AA, MfAA/A 8679, thẻ 4, tr. 000306.

 

[209] Tham tán Kittler, Về cuộc đấu tranh chống các phần tử hữu khuynh…, tại: PolA, AA, MfAA/A 8494, thẻ 1, tr. 080. – tham khảo thêm Honey 1959, tr.24.

 

[210] Tham tán Kittler gửi Bội Ngoại giao, Hà Nội 24.6.1958, tại: PolA, AA, MfAA/A 8420, tr. 070.

 

[211] Trò chuyện với Hoàng Cầm ở Hà Nội 26.11.1998

 

[212] Trường Chinh, Cải tạo những người lầm đường lạc lối và cuộc tấn công lần thứ hai, tại: Học tập, tháng 11.1956, trích dẫn theo: Lưu trữ Liên bang, Đảng Xã hội Thống nhất Đức/Bộ Chính trị-Phòng quan hệ quốc tế, DY30/IV2/20/217. Các quan điểm khác nhau về vấn đề này, them khảo Kunihara 1992, tr.162-172. 

 

[213] Trích dẫn theo: PolA, AA, MfAA/A 8493, tr. 028

 

[214] Papin 2001, tr. 317

 

[215] Trò chuyện với Lê Đạt ở Hà Nội 4.6.1999

 

[216] Trò chuyện với Hoàng Cầm ở Hà Nội 5.10.2000

 

[217] Papin 2001, tr. 320 tt

 

[218] Về Trần Đức Thảo “à la campagne”, tham khảo Boudarel 1991a, tr. 410

 

[219] Tham khảo Nguyễn Mạnh Tường 1992

 

[220] Trò chuyện với Hoàng Cầm ở Hà Nội 23.6.1999

 

[221] Trò chuyện với Hoàng Cầm ở Hà Nội 26.11.1998 và 24.6.1999

 

[222] Đại sứ quán CHDC Đức gửi Bộ Ngoại giao Berlin, Hà Nội 24.6.1958, Sự phát triển của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trên lĩnh vực văn hóa, tại: PolA, AA, MfAA/A 8420, tr. 070-079

 

[223] Nghị quyết Hội nghị 14 Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam (11.1958), tại: PolA, AA, MfAA/A 8679, thẻ 1, tr. 067

 

[224] Thực ra Erwin Brochers, một người xác quyết theo Việt Minh, chống phát xít và chống thực dân, đã ở trong cơn say men; không lâu sau đó, chính Brochers cũng bị đóng dấu “xét lại”; Nguyễn Chiến Sĩ, cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa xét lại…, tại: PolA, AA, MfAA/A 8494. Xem thêm Schütte 2006.

 

[225] Báo cáo của Đại sứ quán CHDC Đức ở VNDCCH, tháng 5.1958, Các vấn đề văn nghệ tại Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, tại: Lưu trữ Liên bang, Đảng Xã hội Thống nhất Đức/Bộ Chính trị-Phòng quan hệ quốc tế, DY30/IV2/20/217, tr. 149-157

 

[226] Về tình hình Việt Nam, Đại sứ quán CHDC Đức ở Hà Nội, không ghi ngày (có lẽ khoảng 1960/61), tại: PolA, AA, MfAA/A 8555, tr. 000052

 

[227] Đại sứ quán CHDC Đức ở Hà Nội gửi Bội Ngoại giao ở Berlin, Hà Nội 23.4.1958, tại: PolA, AA, MfAA/A 8420, tr. 069. – Như Phong 1962, tr.64

 

[228] “… j´ai confiance en Nehru et en Tito. Je voudrais bien les rencontrer et les demander conseil pour lutter pour le Vietnam divesé, pour que le Vietnam soit réuni et gagne l’indépendance”. Trò chuyện với Nguyễn Hữu Đang ở Hà Nội 21.5.1999

 

[229] Xem tại: PolA, AA, MfAA/A 8494, thẻ 2, tr. 089-091

 

[230] Bài phát biểu của Thủ tướng Phạm Văn Đồng trước các văn nghệ sĩ tại Hội nghị Học tập Nghị quyết Đại hội lần thứ ba của Đảng Lao động Việt Nam (13.10.1960), tại: PolA, AA, MfAA/A 8583, thẻ 1, tr. 000077-000089

 

[231] Đại sứ quán CHDC Đức, Hà Nội 24.11.1964, Tham tán Matzke, Đánh giá chính sách văn hóa và sự phát triển văn hóa ở VNDCCH, đặc biệt xem xét việc thực hiện Nghị quyết Hội nghị 9 Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam về văn nghệ, tại: : Lưu trữ Liên bang, Đảng Xã hội Thống nhất Đức/Bộ Chính trị-Phòng quan hệ quốc tế, DY30/IV A2/20/437.

 

[232] Mạnh Phú Tư, “Nguyễn Hữu Đang – tên phản động đầu sỏ”, Nhân dân, 15.4.1958, tại: PolA, AA, MfAA/A 8494, thẻ 1, tr. 000090/91

 

[233] Đơn của tôi gửi ngày 7.2.2008 về việc xin giấy phép đặc biệt để tiếp cận các tài liệu liên quan trong Kho dữ liệu của Bộ Ngoại giao Pháp ở Paris đến nay (cuối tháng 4.2009) vẫn chưa được hồi âm.

 

[234] Tôi sử dụng những thông tin này đặc biệt dựa trên những thông báo của bà Thụy Khuê ở Paris ngày 5.9.2007.

 

[235] Năm 1954 Bùi Nhung cùng các con di cư sang Mỹ.

 

[236] Tham khảo thêm Đại sứ quán CHCD Đức gửi Bộ Ngoại giao, Hà Nội, 27.3.1958, tại: PolA, AA, MfAA/A 8420, tr.000066.

 

[237] Một bài viết trên báo Nhân dân ngày 19.1.1960 (xem phụ lục) nói Thụy An đã tới Hải Phòng, chứ không thấy nói gì về việc bà tới Sài Gòn. Trên thực tế, Hải Phòng là nơi cuối cùng Pháp rút quân khỏi miền Bắc theo thỏa thuận tại Hiệp định Genève.

 

[238] Trò chuyện với Hoàng Cầm 23.11.1999 và Trần Duy 22.10.2001 ở Hà Nội. Tham khảo thêm: Đại sứ quán CHDC Đức gửi Bộ Ngoại giao Berlin, Hà Nội 27.3.1958, tại: PolA, AA, MfAA/A 8420, tr.000066.

 

[239] Thomas Engelbert đã lưu ý tôi ở điểm này. Thomas Engelbert đã hào phóng cho tôi những thông tin trên, vốn xuất hiện trong một cuộc trò chuyện ngày 3.9.2007 giữa Thomas Engelbert và một người không muốn nêu tên tại Hà Nội.

 

[240] Quê Thụy An là làng Hòa Xã, huyện Ứng Hòa, tỉnh Hà Đông.

 

[241] Sau đây tôi chủ yếu dựa vào những thông tin trong cuộc trò chuyện nói trên của Engelbert tại Hà Nội ngày 3.9.2007.

 

[242] Sau vụ Nhân văn-Giai phẩm, việc kiểm duyệt mới bị thắt chặt.

 

[243] Thomas Engelbert lưu ý rất có lý rằng, đoạn này đặt ra những câu hỏi – cũng có thể áp dụng cho trường hợp Minh Đức – khi mà từ 1947/48 càng có nhiều trí thức ở các vùng “giải phóng” quay trở về vùng Pháp chiếm đóng, bởi vì một phần – cũng giống như giai đoạn chỉnh huấn theo mô hình Maoist Trung Quốc từ 1951 – họ không muốn chịu đựng sự kiểm soát và nhồi sọ cộng sản nữa, và một phần họ thấy cuộc sống trong vùng kháng chiến quá khắc nghiệt đến mức không thể chịu đựng được.

 

[244] Thông tin từ cuộc trò chuyện của Th. Engelbert ở Hà Nội 3.9.2007 cũng như trong cuộc trò chuyện của tôi với Hoàng Cầm ở Hà Nội 23.11.1998.

 

[245] Vài năm sau, những thành viên của Nhân văn-Giai phẩm bị miêu tả là “những tên gián điệp của Mỹ-Diệm”, những kẻ “chống sự lãnh đạo của Đảng và chủ nghĩa xã hội”. “Đồng thời bọn chúng còn gây sức ép lên một số đảng viên trong các hội văn nghệ, nhằm làm suy yếu Đảng từ bên trong”. Nguyễn Khải, Chúng ta hãy đề cao cảnh giác! Hãy tập hợp mọi sức mạnh dưới sự lãnh đạo đúng đắn của các cán bộ đảng viên để bảo vệ các tổ chức Đảng! tại: MfAA/A 8750, tr.000151.

 

[246] Trò chuyện với Nguyễn Hữu Đang ở Hà Nội 24.5.1999.

 

[247] “Le secret qui m’a aidé à vivre normalement (comme chez moi) a été la philosophie du Taoisme de Lao Tse que j’ai trovée condensée dans cette phrase – devise du Dao Duc Kinh: ‘Ne réaliser ardemment que l’inertie. Ne maintenir son attachement qu’à l’indifférence”. Trò chuyện với Nguyễn Hữu Đang ở Hà Nội 24.5 và 3.6.1999.

 

[248] Trò chuyện với Nguyễn Hữu Đang ngày 22.6.1999 ở Hà Nội. Nguyễn Hữu Đang không được phục hồi, tuy nhiên ông cũng được nhận 1 khoản trợ cấp từ khi ông được cho về Hà Nội. Ngoài ra Chính phủ còn tặng ông một ngôi nhà ở khu sang trọng đường Phan Đình Phùng, nhưng ông đã bán không lâu sau đó. Ngày 2.9.2000 ông được xuất hiện khoảng 1 phút trên truyền hình như một nhân chứng trong Lễ tuyên ngôn độc lập năm 1945. Đó là lần đầu tiên tên ông được công khai nói tới trước công luận. Tháng 4.2001, cùng với Trần Đức Thảo, Đào Duy Anh (đã qua đời) cũng như một số trí thức và chính trị gia khác, ông được trao Giải thưởng Hồ Chí Minh, giải thưởng cao quý nhất của CHXHCN Việt Nam.

 

[249] Trò chuyện với Huy Cận ở Paris 12.6.2001 và Hà Nội 26.11.2001.

 

[250] Xem Wang 2007.

 

[251] Pamuk 2001.

 

[252] La transcription des entretiens a été effectuée avec précaution; j’ai essayé de conserver le plus possible le caractère particulier du français parlé de monsieur Nguyễn Hữu Đang. 

 

*  *  *

 

Phụ lục 1:

 

Trích lời ghi cuộc trò chuyện với Nguyễn Hữu Đang ngày 21 và 24 tháng 5, ngày 3 và 22 tháng 6-1999; ngày 30 tháng 10 và 2 tháng 11-2000; ngày 15 tháng 10-2002 (tiếng Pháp)

 

Extraits d’entretiens avec M. Nguyễn Hữu Đang à Hanoi les 21 et 24 mai, les 3 et 22 juin 1999; les 30 octobre et 2 novembre 2000; le 15 octobre 2002. [252]

 

Le soir du 21 mai 1999, Monsieur Nguyễn Hữu Đang avait déposé dans mon logement à Hanoi le message suivant:

 

“Cher Monsieur Heinz SCHUTTE,

 

Gràce à la diligence du poète Vu Cân, j’ai été informé de votre aimable désir de me rencontrer pendant votre présent séjour à Hànôi. Je m’empresse de vous faire part de mon grand plaisir à rencontrer un ami de G. Boudarel pour qui j’ai une grande estime.

 

Je vous laisse l’entière initiative quant aux détails de cette rencontre sauf le choix du moment et du lieu de rencontre qui doit être un accord de nous deux dans un éventuel coup de téléphone de votre part. Appelez le no. 7.560.391 de préférence entre 14 et 21 heures.

Bien à vous,

 

(signé) Nguyen Huu Dang

Plusieurs rencontres s’ensuivirent…

 

Je suis né à Thái Binh en 1913, l’année du buffle. Le buffle est condamné à une vie ingrate; il travaille beaucoup, jouit très peu… (grand rire) Je préfère l’hiver à l’été. Le froid me convient.

 

Bui Tin m’a écrit; il m’a encouragé à écrire mes mémoires… J’ai écrit un résumé de biographie: (il traduit du vietnamien) Résumé succinct du processus d’activités sociales de Nguyễn Hữu Đang. C’est une sorte de biographie, c’est à dire du commencement 1929-1931; 1932-1936 ; 1937-1939 ; 1938-1945 ; de 1943 à 1946; 1944-1945; 1946-1948-49-54, 56 Nhân Văn – Giai Phẩm. 1958-1973 prison; 1990 réhabilitation partielle, pour la forme. 1992 anniversaire de 80 ans, organisé par mes amis écrivains et intellectuels – oh, c’était grandiose ! (Il montre des photos et désigne :) La demeure de Phung Quan, poète et sa femme Phung Kung – ici une sentence parallèle…ce sont les prénoms de Phung Kung et de Phung Quan: on rencontre le moment, le temps actuel – Duong, c’est Dang…Phung, c’est Phung Kung…pendant l’époque contemporaine, Dang… nouvel ordre, nous sommes dans les temps modernes ; Dang est un bel homme… Des lettres d’un poète de talent autour du portique. Ici le compliment – Phung Kung, c’est-à-dire les deux organisateurs… le compliment pour chanter la longue vie de Nguyễn Hữu Đang… ici Phung Quan comme assistant. Ici ce cactus avec banderole rouge: le cactus est le symbole de Nguyễn Hữu Đang ; une vie (vécue) sèchement mais magnanimement. A la fin, il lit un poème chantant le cactus, et le poème se terminait ainsi : Cactus, oh cactus, es-tu vraiment cactus? ou es-tu le squelette d’un chevalier qui fut sous forme de cactus? (grands rires)…

 

Alors ce résumé succint – je ferai quelques petits remaniements et puis je le ferai taper à la machine, et je vous donnerai une copie…

… ma vie comme une phase de course, de relais – il y a des courses, des relais dans les activités sociales. Ainsi j’ai participé à une phase de cette course de relais. Maintenant, à l’âge de 86 ans, je me repose – j’ai le droit de me reposer. (il rit)

 

HS – Y-avait-t-il une tradition politique dans votre famille?

 

Pas du tout, mais ma famille et tous ceux qui m’entouraient, étaient plus ou moins anti-français. Ma mère qui était analphabète, inculte, elle ne savait ni lire ni écrire, mais entendant des français, elle les appelle toujours (par une expression) qui est une insulte pour les français. Mon père n’était pas anti-français, mais il n’était pas bon serviteur de l’administration. Il était chef de canton, notable, mais sans être pro-français. Il est un lettré, il garde sa dignité – pas un serviteur. A côté de mon père, mon frère anti-français participait à la grève des élèves de l’école pratique d’industrie, grève contre le directeur méchant, c’était en 1927/28. Mais à cette époque déjà, en 1927, il y a un oncle, le mari de notre tante paternelle, M. Lê Ngoc Ru, secrétaire de la section provinciale du Parti communiste de Nam Dinh. Il a été arrêté par l’administration colonialiste en tant que dirigeant du Parti communiste, et il est condamné à perpétuité et exilé à Poulo Condor. Là il a fabriqué une barque ou un radeau, et il s’est évadé dans l’océan avec le secrétaire général du P.C. de l’Indochine Ngò Gia Tu, cherchant à regagner le continent par la Chine, par la Malaysia ou bien par Saigon ou Hải Phòng, on n’en sait rien. Tous les deux ont trouvé la mort dans l’océan au cours d’un typhon imprévu.

 

C’était M. Lê Ngoc Ru qui avait éveillé le sentiment patriotique et révolutionnaire de mon frère aîné Nguyên Huu Rung, élève de l’Ècole pratique d’Industrie de Hải Phòng. Rung participait à la grève des élèves contre le Directeur brutal Camboulive (?) et fut arrêté et emprisonné un an. Mon frère me communiquait ses idées progressistes et me donnait des copies de poésie patriotique incendiaire comme le “chieu hon nuoc” – Appel à l’âme de la Patrie – de Phan Tât Dac, très célèbre à cette époque où commençaient déjà les activités du Parti nationaliste “Quôc dân Dang Viêt Nam” de Nguyên Thai Hoc, Nguyên Khac Nhu et Phó Duc Chinh…

 

En 1929, entraîné par les évènements politiques brûlants, je participais, sans comprendre ce qu’est le Marxisme, à l’Association des écoliers dirigée par le Parti des Jeunes révolutionnaires viêtnamiens (“Viêt nam thanh nien cách mang dông chi Hôi”) de tendance socialiste, fondé par Nguyên Aí Quôc en Chine…

Après un an d’activités clandestines, je fus arrêté et emprisonné. L’année suivante, je fus traduit devant le tribunal provincial mais grâce à mon jeune âge (17 ans) je profitais d’une mesure modérée de répression réservée aux “jeunes turbulents” avec la peine de surveillance au village natal.

 

HS – Dans les années 30, vous avez déjà travaillé avec Truong Chinh?

 

J’ai travaillé avec Truong Chinh à partir de 1936, à l’époque du Front Populaire. Je faisais partie de la rédaction permanente du journal du Parti avec Truong Chinh et Trần  Huy Liêu. Nous étions un trio pour la rédaction permanente du journal du Parti.

 

Le trio du Comité Permanent de la Rédaction du journal hebdomadaire “DOI NAY” (Temps modernes), organe du Parti communiste indochinois, en 1939:

 

Trần Huy Liêu: vétéran révolutionnaire, d’abord membre dirigeant du Parti nationaliste “Viêt Nam Quôc dân Dang” de Nguyên Thai Hoc, puis converti au communisme au bagne de Poulo Condor et restera communiste influen auprès du Comité central jusqu’à sa mort.

 

Truong Chinh: Secrétaire de la Section du Tonkin du Parti communiste Indochinois.

 

Nguyễn Hữu Đang: Communiste (avant l’admission officielle au Parti).

 

J’ai commencé ma carrière de journaliste en 1937, lors du mouvement de Front populaire.

 

Truong Chinh deviendra Secrétaire Général du P. C. I. en 1941, après le retour au Viêt Nam de Nguyên Ai Quôc (alias Hô Chi Minh).

 

Politiquement, si je suis la révolution ce n’est pas parce que je crois au communisme. Pratiquement, lorsque je participais aux activités révolutionnaires dans la clandestinité, j’ignorais complètement le communisme. Je ne savais rien du marxisme, mais je participais aux organisations clandestines du communisme. A l’âge de 16 ans je répandais tous les tracts communistes, je faisais circuler tous les journaux communistes clandestins. Au 1er mai et à la cérémonie de commémoration de la Révolution d’Octobre, je grimpais sur les arbres, sur les piliers de maçonnerie, pour suspendre le drapeau rouge avec faucille et marteau, avec témérité, sans crainte de mort ni de prison. Mais j’ignorais complètement le communisme. Je participais à la révolution, c’est-à-dire au mouvement communiste à cause seulement de l’esprit antifrançais, de la haine du colonialisme. A 16 ans, toute organisation politique qui proclame la lutte contre les colonialistes français, j’y adhère, j’adhèrerai à n’importe quelle organisation – Parti communiste, parti X, parti Y et cetera, n’importe quel parti pourvu qu’il soit l’ennemi du colonialisme. J’appartiens au camp des ennemis du colonialisme, pas au camp des communistes. Communisme, connais pas. Marxisme, connais pas. A 16 ans, comment – lutte de classes, sais pas. Dictature du prolétariat, sais pas. C’est rien, je ne sais rien du communisme. Je commençais à savoir ce qu’est le communisme à partir de 1936 dans le mouvement de Front Populaire avec les livres et les journaux venus librement de France… C’est le Front Populaire qui a créé l’autorité du Parti communiste. Sans le Front Populaire, le peuple vietnamien ignorerait complètement le rôle du Parti communiste. C’est grâce au Front Populaire avec l’importation des journaux et des livres marxistes publiés en France. C’est cette époque de libéralisme colonialiste qui a renforcé l’influence des groupements du parti communiste vietnamien. Auparavant, tous les révolutionnaires vietnamiens sont anticolonialistes, des antifrançais. Plus tard c’est la résistance contre l’impérialisme français qui rassemble et renforce plus encore l’influence du parti communiste. Sans la résistance, peut-être le parti communiste n’aurait pas le pouvoir. On peut dire que c’est le retour des colonialistes français, l’offensive du corps expéditionnaire amené par Leclerc qui a provoqué la résistance, et cette résistance a rendu puissant le parti communiste vietnamien. L’origine du pouvoir du parti communiste vietnamien est l’attaque de Leclerc. C’est la menace du colonialisme français, de la deuxième conquête française au Vietnam qui a provoqué la résistance, et la résistance a élevé le rang, a créé la puissance du parti communiste parce que le parti communiste a su réunir autour de lui un front national. Sans la menace d’une deuxième conquête des colonialistes, comment le parti communiste peut-il réunir un front national autour de lui ? Et le front national le soutient dans la prise du pouvoir, autrement dit la Révolution d’Août, ce n’est pas le fait du Parti communiste mais c’est le fait de ce front national qui a réalisé la prise de pouvoir, c’est le front Viêt Minh.

 

… Pour Hô Chi Minh, liberté c’est la démocratie; démocratie c’est liberté pour Hô Chi Minh…

 

HS – C’est donc le thème de votre vie – les années 30 à 1954 : lutte pour l’indépendance; depuis 1954: lutte pour la démocratie…

 

Exactement cela! Deux périodes, deux étapes – exactement. Pour la lutte pour l’indépendance, j’étais deux fois emprisonné par l’administration française avant la Révolution d’août. Et dans la seconde phase j’étais arrêté une fois par le gouvernement vietnamien, un gouvernement socialiste.

 

HS – Quand et pourquoi y a-t-il eu rupture entre vous et Truong Chinh?

 

Après la suppression répressive du journal “Nhân Văn”. Ma position était intransigeante, c’est-à-dire sans soumission à la discipline du Parti, ce qui implique une attitude d’opposition politique, voire même de dissidence.

 

HS – Avez-vous collaboré avec Hoàng Minh Chinh déjà pendant les années 50? Vos idées sont très proches.

 

Je n’ai jamais collaboré avec Hoàng Minh Chinh, même pas dans les colloques ou dans l’organisation des jeunes ou dans une publication, livre ou journal – non, je n’ai jamais collaboré avec Hoàng Minh Chinh, mais je suis son ami depuis 1939 dans le mouvement contre l’analphabétisme. C’est dans ce mouvement que je l’ai connu, mais pas de collaboration étroite. Mais c’est un ami de vieille date…

 

HS – Avez-vous assisté au Congrès de la Culture au Viêt Bac en 1948?

 

Oui. J’y étais présent.

 

HS – Y a-t-il eu discorde entre vous et le secrétaire général Truong Chinh à partir de ce moment à cause de ses thèses?

 

Il y a eu un désaccord entre lui et moi mais pour d’autres raisons, par exemple la division du travail révolutionnaire qu’il décidait pour moi n’était pas juste ; j’en subissais les conséquences néfastes. Je souffrais trop de changements peu rationnels. Plus tard, il a reconnu ses erreurs. C’est sur ces entrefaites que j’ai quitté le domaine purement politique pour me consacrer – plutôt revenir – aux activités culturelles. Finalement, j’ai demandé le poste d’Inspecteur général de l’enseignement populaire se chargeant de la tâche de diriger la lutte contre l’analphabétisme.

 

HS – Est-ce que les thèses sur la culture du PC indochinois de 1941 étaient à la base du rapport de Truong Chinh de 1948?

 

Truong Chinh est bien le vrai novateur de la culture marxiste au Viêt Nam. C’était en 1943 qu’il rédigeait le document dit “Dê cuong van hóa moc” (Les grandes lignes d’un mouvement culturel proposé par le Parti). Il décida de me remettre dans l’ancienne spécialité qui était le domaine de culture et me chargea de manœuvrer parmi les intellectuels écrivains et artistes pour fonder la “Société culturelle pour la libération nationale” (Van hóa cuu quôc) qui durait jusqu’en 1948. En effet, j’ai organisé le Premier Congrès national de culture en Novembre 1946 à Hanoi. Ce qu’on appelle le “Congrès culturel de 1948” n’était qu’un palliatif dans la situation difficile de la résistance générale. Dans ce congrès, Truong Chinh lut une communication qu’il n’a pas pu présenter au Premier congrès vraiment national organisé en Novembre 1946. En réalité, les membres du Congrès de 1948 sont presque tous les membres du Parti présents au Nord Viêt Nam et ne discutent que des questions de seconde importance.

 

HS – En ce qui concerne les thèses de “Marxisme et Culture” (1948), vous n’étiez pas tout à fait d’accord?

 

Dans cette communication (Le marxisme et les questions de culture au Viêt Nam), Truong Chinh a insisté trop sur le rôle de l’idéologie marxiste-léniniste au détriment des acquisitions culturelles depuis plusieurs siècles. Je fus obligé de proposer un amendement: Supprimer les passages affirmant d’une manière trop optimiste les résultats futurs de cette voie de développement. Plus tard, dans le Bulletin du Parti, Truong Chinh critiquait mon attitude considérée comme manquant de conviction orthodoxe.

 

HS – Vous avez également travaillé avec Nguyen Dinh Thi?

 

Nguyen Dinh Thi n’a collaboré avec moi que dans les premiers pas de l’Association culturelle pour le salut du Viêt-Nam (Hôi Van hóa Cuú quôc). Nous étions deux co-auteurs du Manifeste de l’Association publié en brochure en août 1945 dès le retour à Hanoi du Gouvernement Provisoire. Ce manifeste s’est inspiré des idées de Mao Tse Tung lors des causeries à Dziên An. Le Projet de Culture du Parti communiste reprendra ces idées comme fondement théorique.

 

HS – Puis-je vous demander de me parler de la vie de tous les jours dans la prison?

 

On m’a souvent demandé le secret qui m’a aidé à vivre pleinement ma vie dans la prison. Je suis bien portant, je suis optimiste, je continue à spéculer en philosophie, en politique et cetera, c’est-à-dire je mène une vie normale dans la prison aisément. Je n’ai pas connu de peine, de fatigue, de tristesse, de douleur, de repentir, de haine, non, non, rien du tout. Je vis normalement comme chez moi avec les autres prisonniers.

 

HS – Avec des livres?

 

Non! Non! C’est la prison la plus sévère du Vietnam.

 

HS – Ici à Hanoi?

 

Non, à Gian, à 20 km de la frontière chinoise, sur la crête de la montagne, à mille mètres d’altitude – toute l’année on porte des vêtements ouatés; la température moyenne descend à 10, à 5 degrés; la nuit c’est 0 degré. Alors c’est la prison la plus sévère…

 

HS – Donc pas de livres du tout…

 

Rien du tout! Il n’y a pas de régime pour les détenus politiques, non, nous sommes emprisonnés comme les criminels… C’est l’indifférence qui annulait tous les méfaits de la prison, de la peine de prison. La prison, je ne connais pas ; la répression, je ne connais pas. Vivre et mourir ici, ça m’est égal.

 

HS – Die Welt als Wille und Vorstellung selon Schopenhauer (1819) / Le monde est volonté et ‘représentation’ (imagination).

 

Exactement! Pour moi, dans la prison, pour ma pensée, toute forme de vie, tous les degrés de la civilisation dans chaque vie, si diverse –  il y a mille manières de vivre. Mais toutes les manières de vie se ressemblent dans l’essence. Je vis chez moi, je vis en qualité de vice-ministre, en qualité de publiciste, en qualité de riche, de pauvre – toute forme de vie. Pour moi la vérité est dans le Taoisme et non pas dans le Marxisme.

On a déclaré dès notre arrivée à la prison: Vous devez vous rappeler que, une fois arrivé ici, vous ne rentrerez pas, vous resterez ici jusqu’à la mort. On a déclaré ça – le surveillant en chef de la prison déclare officiellement, publiquement devant tous les détenus politiques: Une fois arrivé ici, vous ne rentrerez pas, vous ne sortirez jamais de ce lieu. Soyez contents de votre sort. Quoique votre peine soit 5 ans, 10 ans, 15 ans, 20 ans – et pourtant vous resterez ici jusqu’à la mort. Pourquoi? Parce que vous, réactionnaires, traîtres à la patrie, traîtres à la révolution – vous méritez la mort. C’est par indulgence, par bienveillance, par humanité que le gouvernement vous laisse la vie sauve, mais vous rendre la liberté – jamais! Vous rendre la liberté c’est rendre la liberté aux tigres – vous resterez ici jusqu’à la mort.

 

HS – C’est le discours de Tô Huu…

 

La peine de tant ou de tant d’années importe peu, ça ne compte pas. Aucune relation avec l’extérieur, pas de lettres, pas de visites, pas d’envoi d’argent ou de cadeaux ou de vivres – non, vous ne recevez rien de vos amis ou de votre famille. Vous n’avez pas le droit de recevoir une visite ici, pas de contact avec l’extérieur. Vous vivrez exclusivement entre vous, prisonniers, détenus politiques. Votre monde, votre humanité pour vous, c’est deux cents prisonniers – non pas de compatriotes, pas de concitoyens; pour vous, il n’y a rien, il n’y a que deux cents co-bagnards du même sort… Je connais et je suis bien informé de l’attitude fanatique, extrêmement tyrannique, brutale, inhumaine de Tô Huu. Il avait une grande rancune pour le groupe “Nhân Văn – Giai Phẩm”. C’est le “Nhân Văn – Giai Phẩm” qui est pour Tô Huu, comme le dit un proverbe vietnamien, un ennemi ne doit pas vivre sous le même ciel… Tô Huu et les humanistes et les belles oeuvres ne peuvent pas vivre sous le même ciel – ennemis… Tô Huu et Truóng Chinh étaient rancuniers.

 

HS – Pourquoi?

 

Parce qu’ils étaient critiqués par ce mouvement. Ce mouvement critique un état de choses, mais cet état de choses est représenté en la personne de Tô Huu et de Truóng Chinh – la dictature, la tyrannie, l’étroitesse de la ligne politico-culturelle… Je ne sais pas si on a mal interprété l’éditorial que j’ai écris au numéro six qui n’a pas été diffusé. Peut-être c’est une malinterprétation, une interprétation erronée – c’est une interprétation exagérée. Cette exagération, cette méprise a dramatisé l’éditorial. J’ai parlé de la constitution chinoise qui a préconisé une liberté de meetings et de manifestations – avec même cette condition que le gouvernement apporte aux gens du peuple des moyens pour se réunir en meetings, pour organiser des manifestations. C’est écrit dans la constitution chinoise. Alors j’ai fait une citation pour affirmer que même en pays socialiste, les libertés démocratiques peuvent être respectées. Alors on a calomnié l’éditorial le présentant comme un appel au soulèvement, et c’est avec cette exagération ou avec une déduction calomnieuse – je ne sais pas si c’est de bonne volonté ou de mauvaise foi, je ne sais pas. Mais enfin, c’est cet éditorial qui décide la fermeture du journal et qui fait la clé d’accusation pour intenter un procès contre le dirigeant d’un mouvement dissident. Après m’avoir emprisonné provisoirement à la prison de Hoa Loa à Hà Nôi, on a voulu transformer le procès de liberté de presse en procès d’espionnage. On a projeté un procès dans ce sens, mais je ne le sais pas alors – on m’a demandé de m’habiller correctement, on m’a donné un petit déjeuner très substantiel pour me présenter devant le tribunal avec la clé d’accusation de procès d’espionnage. Mais je ne sais quelle était cette intervention – attendre 7 heures, vous attendez à 8 heures, vous attendrez à 9 heures, vous attendrez à 10 heures – ah, c’est ajourné, c’est ajourné, allez, revenez dans votre cellule. Alors on change l’accusation – pas de fait d’espionnage. C’est une affaire de sabotage par les publications tout simplement: Dans les publications Nguyễn Hữu Đang et quelques autres ont réalisé un sabotage politique, selon la teneur du procès. Mais la propagande ne manquait pas de parler d’affaire d’espionnage – on en parlait, mais on ne le poursuivait pas devant le tribunal. Sans accusation, sans procès, on continue par la propagande à faire croire qu’il y a une affaire, qu’il y a des activités d’espionnage dans ce procès. C’est la méthode essentielle communiste. C’est-à-dire on avance des informations ambigues – libre à vous de croire à ceci, de croire à cela.

 

HS  – Vous avez essayé de partir vers le Sud?

 

Passer à l’étranger, non pas le Sud, mais j’ai posé cette condition: Si vous m’aidez à partir pour un pays étranger, j’accepte, mais partir pour le Sud, je refuse car ça implique une idée de trahison, de passer dans un camp adverse, dans un camp ennemi – je refuse. C’est une honte. Vers le Sud – pour quoi faire? Arriver au Sud pour quoi faire avec Ngo Dinh Diem ? Mais je veux bien partir pour l’étranger – je l’ai dit carrément à Truóng Chinh en une entrevue entre lui et moi. La première question que Truóng Chinh m’a posé en riant: Eh bien, comment, vous avez déclaré aux camarades que vous préfériez partir pour l’étranger, l’atmosphère dans le pays était irrespirable. Alors, vous désirez partir pour l’étranger, mais c’est un pays étranger du camp socialiste ou du camp impérialiste, dites moi. (il rit) Alors je réponds en riant : Je veux bien partir pour l’étranger, pour un pays du camp socialiste si les conditions le permettaient, c’est ce que je veux. Mais si les difficultés m’obligent à partir pour un pays du régime bourgeois, je peux accepter. Car on peut rester patriote, révolutionnaire dans un pays de régime bourgeois. La preuve c’est que le président Hô Chi Minh a séjourné en France, et il a conservé son patriotisme et son esprit révolutionnaire, et je peux faire comme lui. Je pense que je peux faire comme Nguyên Ai Quôc. Nguyên Ai Quôc est un révolutionnaire, moi je suis un révolutionnaire. Nguyên Ai Quôc est un communiste, moi je suis aussi communiste. Nguyên Ai Quôc a du courage, moi j’ai aussi du courage. Je ne crains pas un séjour plus ou moins long dans un pays bourgeois. Alors on a préparé… – cet ami qui me conseille de partir pour l’étranger a accepté de m’aider à gagner un pays étranger, mais pas le Sud Vietnam! Il l’a promis, mais ce voyage n’a pas été réalisé. Donc je manquais une occasion de partir pour un pays étranger – soit dans le camp bourgeois, soit dans le camp socialiste – mais ce n’est pas du tout le Sud que je vise! J’ai dit que, ou bien en passant la frontière vietnamienne-lao, puis à travers le Laos je gagne la Thailande, voilà c’est l’itinéraire dont je rêve, mais jamais je ne passerai par le Sud, même un seul jour – non ! Mais pour pigmenter le texte de l’accusation, on a introduit cette phrase que j’ai voulu gagner le Sud. Alors j’ai répondu au tribunal: Non, je n’ai pas voulu gagner le Sud; je veux partir pour l’étranger. Et on m’a demandé: Mais à l’étranger, que ferez-vous? “Lutter pour l’unité, pour l’unité des deux zones; à l’étranger je continurai de lutter pour réaliser l’union nationale, l’union entre le Nord et le Sud.” A cette déclaration l’auditoire… le tribunal comprenait les pro-gouvernementaux, les partisans, des membres du Parti, les cadres des différentes organisations et activités – alors comme ils étaient tous antihumanistes, ils éclataient de rire pour se moquer de mon intention de lutter pour l’union nationale: Mais on ne peut lutter pour l’union nationale que sous la direction du Parti – mais vous, vous partez à l’étranger et vous prétendez lutter pour l’union nationale, c’est ridicule! On a éclaté de rire – je me moque de l’ironie de ces gens. Dans ce voyage pour m’expatrier à l’étranger, j’aurai voulu visiter l’Inde et la Yougoslavie de Tito, j’ai confiance en Nehru et en Tito. Je voudrais bien les rencontrer et leur demander conseil pour lutter pour le Vietnam divisé, pour que le Vietnam soit réuni et gagne l’indépendance. Je voulais rencontrer Tito et Nehru…

 

Il faut dire que le régime pénitencier réservé aux détenus politiques sous la domination colonialiste était beaucoup plus humanitaire que le régime pénitencier communiste. Pourquoi? Parce que le régime pénitencier colonialiste a été plus ou moins contrôlé par le gouvernement français de la métropole, c’est-à-dire sous le contrôle de l’opinion, c’est-à-dire qu’une partie de ce contrôle appartient au public et aux organisations démocratiques, par exemple la Ligue des Droits de l’Homme et du Citoyen et des journaux… C’est absurde, mais c’est la réalité! Et le régime pénitencier politique dans les prisons communistes est plus sévère que le régime réservé aux condamnés du droit commun.

 

Dans la prison j’ai déclaré à mes voisins que si je savais cette distinction, c’est-à-dire droit commun (des hommes égarés dans la masse du peuple) et prisonniers politiques (ennemis du peuple), si je savais cette différence, j’aurai dû me faire voleur, escroc, assassin et non révolutionnaire. Je ne participerais pas à la révolution, mais je participerais aux activités de ces agents antisociaux. Je suis assez apte dans les prisons. (il rit) D’abord, le trait essentiel c’est l’insuffisance de nourriture. On peut dire que dans la prison la plus sévère, les détenus politiques sont condamnés à la faim permanente et au froid permanent. Et ce sont la faim et le froid et les maladies – ces trois facteurs ont épuisé la santé des prisonniers politiques. C’est-à-dire les détenus politiques sont condamnés à une mort lente. Epuisé par la faim, le froid, les maladies, c’est une mort lente – on n’attend que la mort. Au point de vue de la future culture minimale ou dans la vie normale des hommes, les détenus politiques de la prison qui était la mienne, aucune information soit par la radio de La Voix du Vietnam, soit par les journaux pendant 15 ans – rien du tout, rien du tout. Chaque semaine comme toute information, le surveillant général organise une réunion de tous les prisonniers. Dans cette réunion le surveillant général donne des nouvelles de la guerre vietnamo-américaine, des victoires  remportées sur les forces expéditionnaires américaines – c’est la seule information par la voix du surveillant-général. Et c’est tout. Les familles des détenus politiques ne savaient pas le sort de leurs enfants, de leurs frères. Si les membres de famille vivent encore ou s’ils sont déjà morts – on ne le savait pas. Lorsque le Traité de Paris me rendit la liberté, j’ai écrit à ma famille – on me permet d’écrire à ma famille pour l’informer de mon retour à la liberté. Alors la famille s’émerveillait, toute la famille était tout à fait stupéfaite : Oh, mais voyons, Dang vit encore, nous croyons qu’il était mort depuis longtemps. Aucun contact avec l’extérieur, aucun contact avec la famille, avec les amis, avec qui que ce soit… Le monde pour nous était un rassemblement de 200 prisonniers dans une enceinte de murailles en pierres, une muraille en pierre haute et surmontée de fils barbelés – ça c’est le monde pour nous; il n’y a pas d’autre monde.

 

HS - Dans votre village, depuis 1970, aviez-vous des liens avec ‘le monde’?

 

Si, un tout petit peu, un tout petit peu de liens – pas de journaux, pas de livres, pas de réunions à participer, pas de causeries, pas de contacts… un tout petit lien avec le monde, pas beaucoup et négligeable.

 

HS - Avez-vous retrouvé votre famille en sortant de la prison?

 

Avant de sortir on m’a autorisé à écrire à ma famille. Avant de quitter la prison, on a autorisé mes deux frères à venir me voir, m’apporter des gâteaux, des viandes, de la nourriture.

 

(Le 3 juin 1999, nous – Nguyễn Hữu Đang, ma femme et moi – parlons sur le Nhân Văn-Giai Pham; il propose de téléphoner à Lê Đạt afin que je puisse le rencontrer…)

 

- C’est un poète intelligent, cultivé et dynamique. Je crois qu’il pourra vous être utile. Tandis que pour ma part depuis quelques jours j’ai l’intention de vous écrire pour vous présenter premièrement mes excuses au sujet du manque de réponse à votre questionnaire ; deuxièmement pour vous exposer ma situation qui n’est pas propice à rédiger de telles réponses qui demanderaient peut-être une centaine de pages si je les rédige en bonne forme…

 

(Au lieu de cela, je lis quelques unes de vos) questions et je réponds immédiatement.

 

HS – Quel rôle a joué le philosophe Trần  Duc Thao dans les Cent Fleurs, c’est-à-dire dans ce mouvement d’Humanisme et de Belles Œuvres?

 

Son rôle n’est pas important. Il a écrit seulement un article dans les Belles Œuvres insistant sur la nécessité de développer l’individualisme. C’est contre les formules communistes-staliniennes qui ont voulu que l’individualisme soit écarté radicalement. Au contraire, Trần  Duc Thao affirme qu’il faut développer jusqu’à sa dernière limite l’individualisme car toutes les créations culturelles sont individuelles. Ce n’est pas par la collectivité qu’on peut fournir des créations en littérature, en arts, et même en science. La science, dans les découvertes scientifiques, il y a la contribution de la collectivité, mais pour atteindre jusqu’au résultat positif, concret – c’est toujours le travail personnel d’un savant. A cette époque le service de propagande et d’éducation du Parti communiste s’opposait aux vues de Trần  Duc Thao. Mais il n’a écrit qu’un seul article, et dans la direction du mouvement Humanisme et Belles Œuvres, Trần  Duc Thao reste presque à l’écart. Il nous laisse la pleine initiative.

 

HS - Etiez-vous invité au stage de formation politique des écrivains (pendant 18 jours) en août 1956?

 

Oui. Non seulement on m’avait invité, mais j’ai le droit d’y participer. Avant le mouvement Humanisme et Belles Œuvres je fus un membre de grande confiance du Parti dans le domaine littéraire et artistique. On m’a proposé de travailler dans cette séance d’études, on m’a proposé de participer à la cellule numéro 2 de littérature qui comportait des intellectuels et écrivains de l’ancienne capitale de Hanoi. Ils étaient plus cultivés que les écrivains et artistes revenus de la résistance. Comme ils sont plus cultivés, ils posaient des questions difficiles pour l’enseignement, pour la formation théorique en matière politique pour des écrivains et artistes dans ces 18 jours de séance d’études. Alors la direction croyait que je devais participer à cette cellule pour guider les études théoriques de documents cruciales et le Manifeste du Parti Communiste. Le Manifeste du Parti Communiste est un document qui résume toute la doctrine communiste, mais en termes concis, condensés. Alors il faut un membre plus ou moins compétent en la matière pour expliquer aux anciens intellectuels de la capitale qui avaient lu André Gide, Kravchenko etc. Boudarel a bien relaté mes activités dans cette séance d’études de 18 jours, Boudarel a bien refleté les péripéties de ces discussions.

 

HS - Pensez vous que le régime vous a considéré comme la tête politique de la dissidence?

 

Je n’ai jamais renié ou dissimulé cette responsabilité.

 

HS - Pourquoi la romancière Thụy An (de son vrai nom Luu Thi Yên) et l’éditeur Minh Đức ont-ils été traduit devant le tribunal en même temps que vous?

 

La séance du jugement du tribunal, organisée pour l’accusation de moi-même, de Thụy An et de l’éditeur Minh Đức a pour but de présenter au public un procès contre ceux qui sont considérés comme les saboteurs du régime révolutionnaire. Nguyễn Hữu Đang, organisateur et dirigeant du mouvement, Minh Đức, l’éditeur répondant à ce mouvement, et Thụy An considérée comme contestataire fanatique – ces trois saboteurs doivent être jugés dans la même séance. C’est un procès contre le sabotage politique du régime. Au premier abord on a cru me condamner pour avoir porté atteinte au statut de la publication de journaux, mais après on a changé la clé d’accusation pour me présenter comme un des principaux saboteurs politiques du régime. Plus encore on a considéré Thụy An avec ses relations avec les français dans l’occupation, particulièrement avec M. Maurice Durand, le directeur de l’Ecole Française d’Extrême Orient à Hà Nôi. Alors on a voulu présenter Durand comme un agent d’ espionnage laissé par les autorités françaises qui se retiraient… Alors comme Thụy An avait beaucoup de relations étroites avec M. Durand et comme celui-ci est soupçonné d’espionnage, on soupçonne en même temps Thụy An. Et comme Thụy An est considéré comme agent d’espionnage, Nguyễn Hữu Đang qui avait quelques relations dans le mouvement Humanisme et Belles Œuvres avec la romancière et publiciste Thụy An… Avant la Révolution, Mme. Thụy An a publié le journal Dàn bà, Les Femmes. Elle en est directeur, propriétaire et rédacteur en chef. Alors on a greffé les activités de Nguyễn Hữu Đang aux activités de Mme. Thụy An pour présenter Nguyễn Hữu Đang comme un écrivain et publiciste ayant des relations étroites avec l’espionnage. Le jour de la séance du tribunal, le journal « Hà Nôi Moi », « Nouvel Hanoi » publie en grands titres en première page : Les espions Nguyễn Hữu Đang et Thụy An ont été jugé par le tribunal populaire et condamné à 15 ans de prison. C’est un procès d’espionnage. Lors de mon jugement on a ruminé de me condamner comme un agent d’espionnage avec Mme. Thụy An, mais on a changé l’accusation. Le premier jour, au premier abord, s’est concentré l’accusation d’un agent d’espionnage avec Thụy An, mais on a changé l’accusation pour me présenter comme un des principaux saboteurs politiques du régime. Et, par conséquent, je dois recevoir la peine de 15 ans de prison – non pas pour affaire d’espionnage mais pour affaire de sabotage.

 

HS - Les contestataires écrivains-artistes de 1956 ont été réhabilités en 1986/87… Etiez-vous parmi ceux à être réhabilités?

 

La réhabilitation a été citée au VIe Congrès national du Parti communiste avec Nguyen Van Linh comme secrétaire général. Mais dans cette résolution du VIe Congrès il a été spécifié dans un article supplémentaire que la réhabilitation doit être partielle et non publique… tous ceux qui ont été condamnés par erreur ou par exagération doivent être réhabilités, mais partiellement et non publiquement… tout le monde ne jouit que partiellement de la réhabilitation. Et tout le monde doit être réhabilité discrètement…

HS - Sans reconnaître l’erreur… Qu’est-ce que veut dire ‘discrètement’?

 

Sans publication – on ne proclame jamais que ceux-ci, ceux-ci sont réhabilités – non, on ne l’a jamais dit. Même maintenant. Si on me demande: Dang est-il réhabilité ou bien non? Mais il n’a jamais été réhabilité, personne ne l’a réhabilité! Car cela n’a pas été publié. Ce n’est que discrètement, dans l’intérieur…

 

HS - … pour ne pas reconnaître les erreurs?

 

Le Parti communiste vietnamien n’a jamais accepté une erreur si petite soit-elle, jamais d’erreur, toujours juste, toujours clairvoyant… Une seule erreur – de la réforme agraire. On a proclamé que le mouvement humaniste, Humanisme et Belles Œuvres, a voulu multiplier l’erreur de la réforme agraire – il n’y a qu’une seule erreur, mais ces contestataires veulent faire comprendre au public qu’il y a plusieurs erreurs – non, il n’y a qu’une seule, une seule. En somme, je répète, il n’y a pas eu de réhabilitation. Personne n’a été réhabilité officiellement.

 

HS - Pourrais-je publier un article sur nos rencontres ? Qu’est-ce qu’on ne peut pas publier?

 

Non, vous ne devez pas publier même un tout petit article car, en principe, une collaboration même sans ambiguité avec un étranger, par principe doit passer par l’entremise des organes de sécurité, les organes de police politique. Comme notre rencontre ne passe pas par l’entremise des services de sécurité, une telle publication peut poser des questions, des suspicions: Mais qu’avez-vous fait avec cet étranger? Nous n’avons aucun contrôle sur vos activités, et nous ne connaissons pas son point de vue. Alors nous posons des questions sur ça. Donc – ne rien dire. Ne rien dire !… Je cite un exemple. Madame Thuy Khuê – vous connaissez Madame Thuy Khuê? Madame reporter de la radio RFI  (Radio France Internationale) m’a proposé une interview sur le mouvement de lutte contre l’analphabétisme. On n’a pas permis de parler par téléphone de France au Vietnam ; à deux reprises notre causerie a été coupée. Alors l’interview a été arrêtée. Comme l’interview n’a pas été organisée par l’entremise des organes de sécurité, on a coupé notre causerie, on a supprimé lereportage à deux reprises. Par téléphone Mme. Thuy Khuê me demandait une interview de France, mais on coupe…

 

Nguyễn Hữu Đang est mort le 8 février 2007. Je me considère désormais délié de ma promesse d’alors de ne rien publier sur nos rencontres.

 

*  *  *

 

Phụ lục 2:

 

Bài trên báo Nhân dân ngày 19.01.1960 (tư liệu)

 

NGÀY 19-1-1960, TÒA ÁN NHÂN DÂN HÀ NỘI ĐÃ XỬ VỤ GIÁN ĐIỆP NGUYỄN HỮU ĐANG VÀ THỤY AN

 

Ngày 19-1-1960, Tòa án Nhân dân Hà Nội đã xử vụ gián điệp có tổ chức do bọn Nguyễn Hữu Đang và Thụy An cầm đầu. Nhiều đại biểu các tầng lớp nhân dân Hà Nội đã tới dự phiên tòa này.

 

Bọn gián điệp bị đưa ra xét xử gồm năm tên: Nguyễn Hữu Đang, Lưu Thị Yến tức Thụy An, Trần Thiếu Bảo tức Minh Đức, Phan Tại và Lê Nguyên Chí.

 

Ông chánh án Nguyễn Xuân Dương, hai ông hội thẩm Nguyễn Tử Các và Phùng Bảo Thạch đã lần lượt hỏi các tội phạm, và bọn chúng đã được tự do trình bày hết tư tưởng và hành động của chúng trong thời gian phạm pháp.

 

Thụy An là một tên gián điệp lợi hại của bọn đế quốc. Khi hòa bình được lập lại, y đã nhiều lần xuống Hải Phòng bàn định kế hoạch hoạt động gián điệp phá hoại với bọn tay sai của Mỹ – Diệm. Sau khi Chính phủ ta tiếp quản Hải Phòng, y trở về Hà Nội, chịu mệnh lệnh của một số phần tử người nước ngoài trong đó có tên là Đuya-răng, thi hành những âm mưu và hoạt động phá hoại miền Bắc nước ta. Âm mưu của chúng nhằm xuyên tạc sự thật, khích động lòng người, gây nghi ngờ, hoang mang chống đối với chế độ dân chủ nhân dân. Chúng gọi thủ đoạn này là thủ đoạn “phá hoại tư tưởng, phá hoại nền tảng chính trị”. Đó chính là một thủ đoạn gián điệp rất quỷ quyệt của Mỹ, tinh vi và độc ác hơn phá hoại bằng vũ khí, – lối gián điệp “tác động tinh thần”, “chiến tranh tâm lý”. Đối với nhiệm vụ gián điệp mà Đuya-răng đã giao cho, Thụy An thú nhận: “Tôi đã làm việc đó một cách thích thú, và nó phù hợp với tư tưởng phản động của tôi”.

 

Năm 1956, Thụy An, Nguyễn Hữu Đang, Phan Khôi nhập thành một nhóm. Tháng 9-1956, dựa vào tiền bạc của những phần tử tư sản phản động, bọn chúng xuất bản tờ báo Nhân văn. Nguyễn Hữu Đang thú nhận: “Thực chất tư tưởng của tôi và những người theo tôi là phản động, cho nên lúc đó chúng tôi bàn ra một tờ báo để làm lợi khí chống đối. Tờ báo Nhân văn do chính tôi giữ một vai trò chủ chốt”.

 

Báo Nhân văn là một tờ báo chính trị phản động. Mục đích của tờ báo này là nhằm khích động quần chúng chống lại chế độ dân chủ nhân dân. Nguyễn Hữu Đang thú nhận: “Để đạt mục đích ấy, chúng tôi đã dùng lối bịa đặt, vu khống, xuyên tạc, các bài báo của chúng tôi không đúng sự thật, cứ viết bừa, nói bừa, chuyện không nói có và nói toàn những vấn đề quan trọng để gây những tác hại lớn”.

 

Trong khi Nguyễn Hữu Đang và Phan Khôi phản tuyên truyền và phá hoại bằng báo Nhân văn thì đồng bọn đã ráo riết hoạt động để phối hợp.

 

Thụy An thường xuyên gặp Đuya-răng báo cáo tình hình. Thụy An thú nhận: “Đuya-răng bảo tôi: giờ bà hãy đứng ngoài, nhưng phải để mắt trông nom mọi việc”. Do đó Thụy An không có tên trong tòa soạn báo Nhân văn nhưng y đã tích cực cổ động cho báo Nhân văn…, cho một tay chân của Phan Tại đến giúp việc Nguyễn Hữu Đang. Phan Tại đã đã vận động người giúp tiền choNhân văn, lợi dụng sân khấu, điện ảnh để tiến hành phản tuyên truyền; Minh Đức đã câu kết với một số phần tử xấu như nhóm Trương Tửu xuất bản một số sách nội dung giống như Nhân văn, mục đích đều là chống lại chế độ dân chủ nhân dân.

Trong những hoạt động phá hoại của bọn Phan Tại, Minh Đức đều có bàn tay chỉ huy của Nguyễn Hữu Đang và Thụy An. Thụy An thú nhận “là cố vấn của Phan Tại”, còn Nguyễn Hữu Đang “là linh hồn của nhà xuất bản Minh Đức” (lời khai của Minh Đức). Hơn thế nữa, Nguyễn Hữu Đang còn mưu đồ thành lập một đảng chính trị phản cách mạng.

 

Tháng 12-1956, khi bọn Nguyễn Hữu Đang tụ tập được một số người, chúng hoạt động liều lĩnh hơn. Sau khi đã trực tiếp viết luôn mấy bài xã luận chuẩn bị trước cho tư tưởng chống lại chế độ, trong số 6 báo Nhân văn (không ra được), Đang viết một bài có tính chất kêu gọi biểu tình, nhằm gây ra phiến loạn. Trần Duy khai: “Chúng tôi tưởng rằng số 6 Nhân văn ra được thì bọn gián điệp sẽ ngóc đầu dậy, bọn chiến tranh tâm lý sẽ có đất hoạt động… sẽ có biểu tình, súng nổ…, tiếp theo đó là những mưu đồ lật đổ”. (Bọn gián điệp Trần Minh Châu, Nguyễn Quang Hải – bị xử án trước đây – v.v… đã có điều kiện hoạt động ráo riết nhất trong thời gian này).

 

Sau khi báo Nhân văn bị đóng cửa, bọn Nguyễn Hữu Đang và Thụy An vẫn câu kết chặt chẽ với nhau và tiếp tục hoạt động gián điệp phá hoại. Thụy An thú nhận: “Sau khi báo Nhân văn bị đình bản tôi vội đến báo cáo tình hình với Đuya-răng và xin chủ trương. Đuya-răng bảo tôi: Lúc này là lúc bà phải đi sát với họ”. Nguyễn Hữu Đang và Thụy An lấy nhà Phan Tại làm một “câu lạc bộ” bí mật, tụ tập một số phần tử phản cách mạng chuyên đem những luận điệu phản tuyên truyền của bọn Mỹ – Diệm và những sách báo phản động của bọn đế quốc ra bàn và thảo luận những âm mưu phá hoại mới. Nguyễn Hữu Đang thú nhận: “Trong thời gian đi lại với Thụy An, những câu nói phản tuyên truyền của chúng tôi rất nhiều, và tôi nhận rằng tôi đã bịa đặt ra những việc không đúng sự thật và đã gây tai hại là gieo rắc hoang mang và hoài nghi…”

 

Trong khi Nguyễn Hữu Đang và Thụy An ra sức “tác động tinh thần” như vậy, thì Minh Đức được Đang giới thiệu với những phần tử tư sản phản động cung cấp cho hàng triệu đồng (tiền cũ), cho in lại hàng loạt sách của thời thuộc Pháp để tiếp tục đầu độc các tầng lớp thanh niên, còn Phan Tại thì lợi dụng việc tập kịch, ca hát để phục hồi nếp sống trụy lạc, đồi bại của thời tạm bị chiếm. Đến khi chúng thấy âm mưu và hoạt động của chúng bị bại lộ, chúng định trốn vào Nam để tiếp tục làm tay sai cho Mỹ – Diệm. Lê Nguyên Chí thú nhận: “Đang nói với tôi, Đang vào theo Mỹ – Diệm sẽ được chúng tin dùng và sẽ làm được những việc lớn”. Đang cùng Lê Nguyên Chí chuẩn bị trốn đi Nam.

 

Trước tòa án, với những bằng chứng đầy đủ, bọn gián điệp nói trên đã nhận hết tội lỗi của chúng.

 

Sau khi luật sư Đỗ Xuân Sảng bào chữa cho các tội phạm, căn cứ vào chính sách xét xử và trừng trị của Tòa án nhân dân là nghiêm trị bọn chủ mưu và bọn ngoan cố, khoan hồng với những người lầm đường, bị lừa gạt đã biết hối cải, Tòa án đã tuyên án:

 

Nguyễn Hữu Đang, 15 năm phạt giam, 5 năm mất quyền công dân; Lưu Thị Yến tức Thụy An, 15 năm phạt giam, 5 năm mất quyền công dân; Trần Thiếu Bảo tức Minh Đức, 10 năm phạt giam, 5 năm mất quyền công dân; Phan Tại, 6 năm phạt giam, 3 năm mất quyền công dân; Lê Nguyên Chí, 5 năm phạt giam, 3 năm mất quyền công dân.

 

P.V.

 

*  *  *

 

Thư mc

 

Literaturverzeichnis

Archivquellen

Barch           Bundesarchiv, Berlin

FMS             Fonds Maria Schröder, Oberursel – im Privatarchiv Heinz Schütte

NAA             National Archives of Australia

PolA, AA        Politisches Archiv des Auswärtigen Amtes, Berlin

Monographien, Sammelbände und Einzelbeiträge

Anon., Blood and Flowers. The path of the poet To Huu. Hanoi: Foreign Languages Publishing House, 1978

Brecht, Bertolt, Thơ tr tình. Quang Chiến tuyển chọn. Hà Nội. Nhà xuất bản Hội Nhà văn, 2006

Boudarel, Georges, „Intellectual Dissidence in the 1950s. The Nhân Văn-Giai Phẩm Affair“. In: The Vietnam Forum, no. 13: 1990

Derselbe, Autobiobraphie. Paris: Jacques Bertoin, 1991 (1991a)

Derselbe, Cent Fleurs Écloses dans la Nuit du Vietnam. Communisme et Dissidence 1954-1956. Paris: Jacques Bertoin, 1991 (1991 b)

Derselbe und Nguyen Van Ky, Hanoi 1936-1996. Du drapeau rouge au billet vert. Paris: Editions Autrement, 1997

Brocheux, Pierre, Hô Chi Minh: Du révolutionnaire à l’icône. Paris: Payot, 2003

Bùi Tín, 1945-1999. Vietnam – La Face Cachée du Régime. Paris: Editions Kergour, 1999

Chu Ngọc, Nguyn Sơn, người đi đu trong đường li văn ngh rng rãi (Nguyên Son, der Pionier einer liberalen Linie in Literatur und Kunst). In: Nhân Văn, No. 5, Hanoi: 20. 11. 1956

Dan (sic!) Thai Mai, La Littérature Vietnamienne. In: Europe, no. 3877/388: Juli-August 1961

Đặng Văn Việt, La RC 4: Campagne des frontières (1947-1950). Hanoi: Editions en Langues Etrangères, 1990

Duiker, William C., Hô Chi Minh. New York: Hyperion, 2000

D. C., Vers le Congrès Culturel National. In: Le Peuple. Organe du Combat pour l’Indépendence du Viêt-Nam. Hanoi: 18. 4. 1946, S. 2

Dương Thu Hương, Histoire d’amour racontée avant l’aube. La Tour d’Aigles: Editions de l’Aube, 1993

Dieselbe, Paradise of the Blind. Harmondsworth: Penguin, 1993

Dieselbe, Au-delà des illusions. Paris: Editions Philippe Picquier, 1996

Faber, Franz, Rot leuchtet der Song Cai. Berlin: Kongress-Verlag, 1955

Fall, Bernard B., Crisis in North Vietnam. In: Far Eastern Survey. New York: January 1957, S. 12-16

Derselbe, The Two Viet-Nams. A Political and Military Analysis. New York, London: Praeger, 1964

Derselbe, Ho Chi Minh on Revolution – Selected Writings, 1920-1966. London: Pall Mall Press, 1967

Figuères, Léo, Je reviens du Viêt-Nam libre: Notes de voyage. Paris: J. London, 1950

Fourniau, Charles, Annam-Tonkin 1885-1896.  Lettrés et paysans vietnamiens face à la conquête coloniale. Paris: L’Harmattan, 1989

Frey, Ernst, Vietnam, mon amour. Ein Wiener Jude im Dienst von Hô Chi Minh. Wien: Czernin 2001

Ghosh, Amitav, In an Antique Land. New York: Vintage Books, 1992

Goldman, Merle, Hu Feng’s Conflict with the Communist Literary Authorities, in: The China Quarterly. Oxford University Press, 1960

Dieselbe, Literary Dissent in Communist China. Cambridge, Massachusetts: Harvard U. Press, 1967

Greene, Graham, Ways of Escape. Harmondsworth: Penguin, 1980

Grossheim, Martin, ‚Revisionism’ in the Democratic Republic of Vietnam: New Evidence from the East German Archives. In:Cold War History, Vol. 5, No. 4, November 2005, S. 451-477

Guillemot, François, La tentation „fasciste“ des luttes anticoloniales Dai Viet. Nationalisme et anticommunisme dans le Viêt-Nam des années 1932-1945. In: Vingtième Siècle. Revue d’Histoire, Numéro 104. Paris: Octobre-Décembre 2009, S. 45-66

Hoa Mai, The „Nhan-Van“ Affair. o. O. (Saigon, 1958): The Vietnam Chapter of the Asian Peoples’ Anti-Communist League, o. J.

Hoàng Giang, La Révolte des Intellectuels Communistes au Viet-Nam en 1956. In: Chroniques Vietnamiennes, no. 2. Paris: 1987, S. 12-15

Hoàng Văn Chí, The New Class in North Vietnam. Saigon: Công Dân, 1958

Derselbe, Collectivisation and Rice Production, in: The China Quarterly, no. 9, 1962

Derselbe, From Colonialism to Communism: A Case History of North Vietnam. New York (et. al.): Praeger, 1964

Honey, P. J., Revolt of the Intellectuals in North Vietnam. In: The World Today, vol. 13, no. 6. June 1957, S. 250-260

Derselbe, Ho Chi Minh and the Intellectuals. In: Soviet Survey, no. 28, 1959: S. 19-24

Hy Văn Lương, Revolution in the Village: Tradition and Transformation in North Vietnam, 1925-1988. Honolulu: University of Hawaii Press, 1992

Jamieson, Neil L., Understanding Vietnam. Berkeley et al.: University of California Press, 1995

Jennings, Eric T., Vichy in the Tropics: Pétain’s National Revolution in Madagascar, Guadeloupe, and Indochina, 1940-1944. Stanford CA: Stanford University Press, 2001

Kunihara, Hirohide, Changes in the Literary Policy of the Vietnamese Workers’ Party, 1956-1958. In: Takashi Shiraishi and Motoo Furuta, Hg., Indochina in the 1940s and 1950s. Ithaca, New York: Southeast Asia Program, Cornell University, 1992

Maneli, Mieczyslaw, War of the Vanquished. NY, Evanston, San Francisco, London: Harper & Row, 1971

MacFarquhar, Roderick, Hg., The Hundred Flowers. With an Epilogue by G. F. Hudson. London: Atlantik Books, 1960

Mao Tse-Tung, Ausgewählte Werke, Band II. Peking: Verlag für fremdsprachige Literatur, 1968

Marr, David G., Vietnam 1945: The Quest for Power. Berkeley (et al.): University of California Press, 1995

Meyer, Charles, Les Français en Indochine, 1860-1910. Paris: Hachette, 1985

Moise, Edwin E., Land Reform in China and North Vietnam. Consolidating the Revolution at the Village Level. Chapel Hill, London: The University of North Carolina Press, 1983

Nam Cao, Chi Pheo et autres nouvelles. Traduction de Le Van Lap et Georges Boudarel. Hanoi: Fleuve Rouge – Editions en Langues étrangères, 1983

Nguyễn Đăng Thục, An Intellectual views the Nhan-Van Affair. In: Asian Culture, vol. 1, no. 2, 1958

Nguyễn Mạnh Tường, Un Excommunié. Hanoi 1954-1991: Procès d’un intellectuel. Paris: Quê Me, 1992

Nguyễn Thế Anh, The Formulation of the National Discourse in 1940-45 Vietnam. In: Derselbe, Into the Maelstrom: Vietnam during the fateful 1940s. Westminster, Ca.: Vien Viet-Hoc – Institute of Vietnamese Studies, 2005, S. 21-40

Nguyễn Thị Ngọc Thanh, The reform of capitalists and capitalism in North Vietnam. Institute of Economics, Hanoi: September 1999 (unveröffentlichtes Paper)

Nguyễn Tiến Lãng, Les Chemins de la Révolte. Paris: Amiot-Dumont, 1953

Nguyen Tran Huan und Than Seong, The Literature of Vietnam, 1954-1973. In: Tham Seong Chee, Hrsg., Essays on literature and society in Southeast Asia. Political and sociological perspectives. Singapore: 1987

Nhân Văn, Hanoi, Chủ nhiệm: Phan Khôi; Thư ký tòa soạn: Trần  Duy. Số 1, 20. 9. 1956; Số 2, 30. 9. 1956; Số 3, 15. 10. 1956; Số 4, 5. 11. 1956; Số 5, 20. 11. 1956 (Privatarchiv Heinz Schütte)

Nguyên Van Ky, La société vietnamienne face à la modernité. Le Tonkin de la fin due XIXe siècle à la seconde guerre mondiale. Paris: L’Harmattan, 1995

Ninh, Kim N. B, A World Transformed. The Politics of Culture in Revolutionary Vietnam, 1945-1965. Ann Arbor: The University of Michigan Press, 2002

Như Phong, Intellectuals, Writers and Artists. In: The China Quarterly, no. 9, 1962: S. 47-62

Pamuk, Orhan, Mein Name ist Rot. München und Wien: Hanser, 2001

Derselbe, Das schwarze Buch. Frankrfurt am Main: Fischer TB Verlag, 2006

Papin, Philippe, Histoire de Hanoi. Paris: Fayard, 2001

Pike, Douglas, PAVN – People’s Army of Vietnam. Novato, Calif.: 1986

Qiang Zhai, China and the Vietnam Wars. Chapel Hill (et al.): University of North Carolina Press, 2000

Schütte, Heinz, Sur le syncrétisme culturel parmi les intellectuels de Hanoi. In: Etudes Vietnamiennes, no. 2, (132), Hanoi: 1999 (1999 a)

Derselbe, Le colonialisme ambigu. In: Xua & Nay, 12, Hanoi: 1999 (1999 b)

Derselbe, Le syncrétisme culturel parmi des intellectuels francophones vietnamiens. In: ASIEN, Nr. 79: April 2001, S. 94-97

Derselbe, Kurzlebige Hundert Blumen in Vietnam 1955-1957. In: Internationales Asienforum, 33 (2002), Nr. 3-4, 271-303

Derselbe, Hundred Flowers in Vietnam 1955-1957. Berlin: Institut für Asien- und Afrikawissenschaften, 2003, Südostasien Working Papers 22

Derselbe, Zwischen den Fronten. Deutsche und österreichische Überläufer zum Vit Minh. Berlin: Logos Verlag, (2006) 2. Auflage 2007

Derselbe, Hanoier Anmerkungen zu Brecht (1898-1956), in: Südostasien Magazin, 3-2008

Smith, William F. G., The Nhan Van Giai Pham Affair: Literary dissidence in the Democratic Republic of Vietnam, 1956-1957. Unveröffentlichte MA-Arbeit. London: Area Studies (South East Asia), SOAS, September 1993

Starobin, Joseph R., Eyewitness in Indo-China. New York: Greenwood Press, 1968

Stern, Ferry (Frey, Ernst), Und ist es auch Wahnsinn. Typoscript, o. J.

Strittmatter, Erwin, Der Laden, 3. Teil. Berlin: Aufbau Verlag, 1998

Thürk, Harry u. a., Stärker als die reißenden Flüsse. Vietnam in Geschichte und Gegenwart. Berlin: Deutscher Militärverlag, 1970

Tongas, Gérard, J’ai vécu dans l’Enfer Communiste au Nord Viêt-Nam et j’ai choisi La Liberté. Paris: Nouvelles Editions Debresse, 1960

Trường Chinh, Selected Writings (New Impression), Hanoi: The Gioi Publishers, 1994

Tường Vũ, From Cheering to Volunteering: Vietnamese Communists and the Coming of the Cold War, 1940-1951. Monterey, CA: May 2006 (unveröffentlichtes Paper)

Derselbe, ‚It’s time for the Indochinese Revolution to show ist true colours’: The radical turn of Vietnamese politics in 1948. In: Journal of Southeast Asian Studies, (40) 3, Singapore, Oct 2009, S. 519-542

Viet Tran, Vietnam: J’ai choisi l’exil. Paris: Editions du Seuil, 1979

Võ Nguyên Giáp, The Road to Dien Bien Phu. Hanoi: The Gioi Publishers, 2004

Vũ Cận, Frissons d’Hérésie. Poèmes. Hanoi: 1998 (vom Autor in 12 photokopierten Exemplaren veröffentlicht)

Wang, Chaohua, Diary. In: London Review of Books, vol. 29 (5. 7. 2007), Nr. 13, 38-39

Woodside, Alexander B., Community and Revolution in Modern Vietnam. Boston: Houghton Mifflin, 1976

Zinoman, Peter, Introduction to ‚Dumb Luck’, a novel by Vu Trong Phung. Ann Arbor: The University of Michigan Press, 2002

 

Bản tiếng Việt 2010 talawas

 

Xem Phần I: Click vào đây

 

*  *  *

 

Xem bài liên hệ đến đề tài: click tại đây

Xem bài trên trang Tài liệu: click vào đây
Trở về trang chính: www.nuiansongtra.net

 


Nếu độc giả, đồng hương, thân hữu muốn: 

* Liên-lạc với Ban Điều Hành hay webmaster 
* Gởi các sáng tác, tài liệu, hình-ảnh... để đăng 
* Cần bản copy tài liệu, hình, bài...trên trang web:

Xin gởi email về: quangngai@nuiansongtra.net 
hay: nuiansongtra1941@gmail.com

*  *  *

Copyright by authors & Website Nui An Song Tra - 2006


Created by Hiep Nguyen
log in | ghi danh