Bài liên quan:
Quyền lực trên biển nằm trong tay ai?
Có cần đánh nhau vì Biển Đông không?
(Washington’s Honeymoon in Cam Ranh Bay)
By James Holmes
Phạm Vũ Lửa Hạ dịch
Foreign Policy
May 23-2016.
“Hoạn nạn đưa đẩy khiến người ta kết thân với những kẻ đồng sàng lạ lẫm”, anh hề Trinculo tuyên bố như vậy trong vở kịch The Tempest (Giông tố) của William Shakespeare. Bị đắm tàu trên một hòn đảo kỳ bí và bị thời tiết xấu kìm chân, Trinculo trú ẩn dưới tấm áo choàng của anh chàng dị dạng Caliban xấu xí “cho tới khi những tàn dư của cơn bão tan biến”. Kẻ đắm tàu này chấp nhận như vậy dù Caliban tanh như cá – và thậm chí có thể là nửa người nửa cá: “Người hay cá? Chết hay sống? Đúng là cá rồi; hắn hôi tanh như cá; một cái mùi rất cổ và tanh như cá.” Nói chung là một bạn đồng hành đáng tởm mà ta đành phải chịu để chờ qua cơn bão tố.
Giống như trong văn chương tuyệt tác, chính trị đại cường quốc cũng vậy. Hoán đổi bài học về tấm áo choàng của Caliban sang chính trị thế giới – những nhân vật vốn tránh né nhau vào thời buổi bình thường có thể gạt bỏ những khác biệt rõ rệt để khắc chế một mối nguy chung. Ví như hai quốc gia dân chủ Mỹ và Vương quốc Liên hiệp Anh hợp sức làm đại nghĩa chung với quốc gia toàn trị Liên Xô để khuất phục các cường quốc phe Trục trong Đệ nhị Thế chiến. Nhưng các mối giao hảo như vậy không bền – ít khi duy trì sau khi bão tan. Trinculo vứt bỏ ấm áo choàng của Caliban ngay khi cơn bão lắng xuống. Đại Liên minh hầu như chẳng tồn tại sau khi Đệ nhị Thế chiến chấm dứt.
Chủ tịch nước Việt Nam Trần Đại Quang và TT Barack Obama
tại cuộc họp báo ở Trung tâm Hội nghị Quốc tế ở Hà Nội hôm 23-5-2016.
(Photo: Luong Thai Linh/ POOL/AFP/Getty Images)
Chính trị Châu Á chưa thấy những kẻ đồng sàng nào lạ lẫm hơn Việt Nam và Mỹ. Xin lại mượn điển tích Trinculo, sự hiếu chiến của Trung Quốc trong những vùng biển bị tranh chấp ở Biển Đông (South China Sea) đã gây ra hoạn nạn đủ để đoàn kết hai nước cựu thù nhằm bảo vệ các vùng biển và không phận ngoài khơi của Việt Nam. Hôm 23-5-2016, trong khi đang đi thăm Việt Nam với mục đích thắt chặt các mối quan hệ kinh tế và quốc phòng, Tổng thống Mỹ Barack Obama đã gỡ bỏ một lệnh cấm vận có từ lâu về xuất khẩu vũ khí sang Việt Nam. Được đưa ra với hy vọng yêu cầu [Việt Nam] có những nhượng bộ về thương mại và nhân quyền, các chi tiết của thỏa thuận này vẫn chưa được công bố. Tuy Obama phủ nhận rằng quyết định này có liên quan tới Trung Quốc, hiếm ai tin rằng ông có thể bỏ qua yếu tố Trung Quốc trong quan hệ Mỹ - Việt. Vẫn chưa rõ liệu Hà Nội và Washington có phá được logic kiểu Shakespeare hay không – hình thành mối quan hệ đối tác vẫn tồn tại sau khi họ vượt qua phong ba bão tố hiện nay.
Tuy nhiên, tin rất lý thú đối với bất kỳ thủy thủ Mỹ nào là Hà Nội có thể mở cửa lại cảng nước sâu tuyệt đẹp ở Vịnh Cam Ranh để đón các chiến hạm Hải quân Mỹ để đổi lại việc được bỏ cấm vận vũ khí. Nếu vậy (thứ lỗi cho tôi ở đây vì lại nhắc điển tích này), giới lãnh đạo Việt Nam, đóng vai của Trinculo, sẽ mời Mỹ, được phân vai Caliban, mở rộng tấm áo choàng của mình – giúp ngăn chặn bão tố Trung Quốc. Đúng là những kẻ đồng sàng lạ lẫm.
Vịnh Cam Ranh, hình chụp từ vệ tinh
Tùy thuộc vào các điều khoản của thỏa thuận này, điều đó có thể cho phép Hải quân Mỹ hiện diện thường xuyên ở những vùng phía Tây của Biển Đông. Sự hiện diện đó là một điều bắt buộc nếu Mỹ muốn duy trì quyền tự do hàng hải trong vùng biển rộng 1,4 triệu dặm vuông (3,63 triệu km vuông). Trung Quốc đã không thừa nhận luật theo thông lệ và luật hiệp ước về biển – cả hai loại luật này đều cho rằng không ai sở hữu biển – bằng cách “tuyên bố chủ quyền không thể tranh chấp” trên một khu vực rộng lớn các vùng biển và vùng trời Đông Nam Á, bao gồm những khu vực được phân bổ cho Việt Nam theo luật biển. Washington đáp lại sự thách thức của Bắc Kinh bằng cách chế nhạo.
Việc cho tàu Mỹ đi qua những vùng biển bị tranh chấp và cho máy bay bay qua vùng trời phía trên – tốt nhất là phối hợp với các đồng minh và bạn bè – đưa ra thông điệp khẳng định rằng cộng đồng quốc tế không chấp nhận nỗ lực của Bắc Kinh nhằm chiếm đoạt các vùng biển và không phận ngoài khơi của các nước láng giềng, hoặc bằng cách khác vượt quá các đặc quyền của Trung Quốc theo luật biển. Đó là lời khẳng định mà các quốc gia có hoạt động biển phải đưa ra, lặp đi lặp lại nhiều lần, để bảo tồn các quyền tự do hàng hải phải đấu tranh chật vật mới giành được. Có một nguyên tắc bất thành văn “nếu không dùng thì mất” trong luật quốc tế: Các hiệp ước chẳng qua cũng chỉ là những miếng giấy. Chúng có thể mất hiệu lực theo thời gian nếu các chính phủ phớt lờ chúng một phần hoặc toàn bộ. Nếu các bên có quyền lợi liên quan trong một trật tự pháp lý quên bác bỏ một tuyên bố hưởng quyền lợi phi pháp, dần dà theo thời gian tuyên bố đó có cách biến thành tập quán quốc tế.
Do đó, điều quan trọng là các khảo sát địa hình dưới nước, chuyến bay thám thính, các hoạt động bay và hàng loạt các hoạt động khác được bảo đảm bởi Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển (UNCLOS) phải được tiếp tục trên khắp các vùng biển khơi và các vùng đặc quyền kinh tế ngoài khơi của Đông Nam Á. Dùng hoặc bị mất! Tuy nhiên, để duy trì sự hiện diện ngoài khơi thường xuyên cần có như vậy, các tàu hải quân và tàu tuần dương cần có sự hỗ trợ hậu cần ở vùng lân cận. Tàu không thể đi biển lâu nếu không được tiếp nhiên liệu, tái vũ trang, hoặc nạp lại vật dụng và đồ dự trữ.
Giờ tới vai của Vịnh Cam Ranh. Cam Ranh đã là một tiền đồn hải quân quan trọng kể từ khi Pháp lập thuộc địa ở Đông Dương vào cuối thế kỷ 19. Và nó đã có mặt trong những sự kiện có ý nghĩa quan trọng trong lịch sử thế giới. Ví dụ, Đô đốc Nga Zinovy Rozhestvensky đã đưa Hạm đội Baltic bạc mệnh của mình vào vịnh này năm 1905. Ở đó, hạm đội đã nạp than và quân trang quân dụng dự trữ trước khi tiếp tục đi lên phía bắc để chịu bại trận trước hạm đội của Đô đốc Nhật Heihachiro Togo trong Trận Eo biển Tsushima (sẽ tròn 111 năm vào ngày 27-5 năm nay).
Vai trò của vịnh Cam Ranh trong lịch sử cũng không phải là sự kiện chỉ diễn ra một lần. Đế quốc Nhật đã chiếm hải cảng này trong thời kỳ tấn công từ năm 1941 tới năm 1942 vào “Vùng Tài nguyên phía Nam” – tức là Đông Nam Á – và vị trí chiến lược của nó khiến đó là một căn cứ dàn binh lý tưởng để tấn công Malaysia và Singapore. Bắt đầu từ giữa thập niên 1960, Hải quân và Lục quân Mỹ đã phát triển cơ sở hạ tầng hải cảng tại vịnh này để giúp tiến hành Chiến tranh Việt Nam. Liên Xô đã mở rộng cảng này sau khi Việt Nam Cộng hòa sụp đổ vào năm 1975, còn các kỹ sư Nga đã tân trang cảng này trong những năm gần đây. Cơ sở hạ tầng để tiếp đón tàu Mỹ và các tàu ngoại quốc khác hiện nay đã có sẵn. Chỉ còn thiếu mỗi quyết định từ Hà Nội tái chấp nhận Hải quân Mỹ trở lại trung tâm vận hành của họ trước đây.
Người ta hy vọng rằng Hà Nội và Washington đều bịt mũi tránh mùi hôi tanh và ký kết một thỏa thuận dàn xếp cung cấp quyền sử dụng như vậy. Hạm trưởng Alfred Thayer Mahan (đô đốc hải quân, nhà chiến lược và nhà sử học người Mỹ [1840-1914], N.D.), có lẽ là người cổ xúy quyền lực trên biển mạnh mẽ nhất trong lịch sử, giải thích tại sao những nơi như Vịnh Cam Ranh hết sức quan trọng. Theo Mahan, giá trị chiến lược của bất cứ hải cảng nào cũng dựa trên ba đặc điểm: vị trí địa lý của nó; độ kiên cường của nó, tức là các khả năng phòng thủ tự nhiên hoặc khả năng được củng cố chống tấn công; và các tài nguyên của nó, tức là khả năng của cảng về việc cung cấp cho các nhu cầu của chính mình và nhu cầu của các hạm đội ghé qua.
Bản đồ Vịnh Cam Ranh, dùng trong QL.VNCH trước 30-4-1975.
Thử áp dụng các tiêu chuẩn của Mahan cho Vịnh Cam Ranh. Cảng này có thừa ba đặc điểm này. Nó gần với các tuyến đường phía đông tới Eo biển Malacca, giúp cho những tàu nằm ở vịnh này có ảnh hưởng đối với việc đi lại qua tuyến hàng hải trọng yếu này. Nó gần với Quần đảo Hoàng Sa đang bị tranh chấp hơn trung tâm hải quân gần nhất của Trung Quốc, căn cứ ở thành phố Tam Á (Sanya) trên đảo Hải Nam (Hainan) về phía Bắc. Và ngoài việc bọc sườn Trung Quốc, Cam Ranh giúp tiếp cận ngay vào vùng nước sâu: Đáy biển trũng xuống rất sâu ngay bên ngoài cảng – cho phép tàu ngầm lặn xuống và biến mất, ngay sau khi rời cảng. Chẳng có gì đáng ngạc nhiên là trong vòng 8 năm qua, Hà Nội đã đầu tư vào một đội tàu ngầm chạy bằng động cơ diesel do Nga chế tạo để chống Trung Quốc.
Hải cảng này mạnh tới đâu? Không có căn cứ quân sự nào, kể cả Cam Ranh, có thể tránh được tấn công bằng tên lửa trong thời đại có vũ khí chính xác tầm xa hiện nay. Nhưng Cam Ranh an toàn hơn nhiều mục tiêu khả dĩ. Diện tích và hình dạng trải rộng của cảng này sẽ giúp cho các hải quân đóng căn cứ ở đó có thể dàn trải các tài sản tới các cầu tàu và bãi neo đậu quanh khắp khu ngoại vi. Điều đó sẽ góp phần gây khó khăn cho nỗ lực của các chuyên gia tên lửa Trung Quốc muốn nhắm vào các tàu Mỹ và Việt Nam. Và các biện pháp “kiên cố hóa” truyền thống – những tòa nhà và cơ sở hạ tầng xây dựng kiên cố tại cảng được bảo vệ tên lửa chống tàu và phòng không – sẽ giúp cho hải cảng này có khả năng chống cự bền bỉ. Những cải tiến như vậy nên là một phần trong bất kỳ hiệp ước Mỹ - Việt nào về quyền tiếp cận hải quân.
Và cuối cùng, cảng này có tài nguyên thiên nhiên dồi dào. Vịnh Cam Ranh có vị trí không chỉ gần các tuyến đường biển quan trọng, mà còn nằm ở miền Nam xanh tươi trù phú của Việt Nam, cách không xa đại đô thị quan trọng Sài Gòn. Luôn có sẵn thực phẩm để cung cấp cho cảng và hạm đội. Nguồn cung cấp nhiên liệu cũng không phải là vấn đề lớn: trữ lượng dầu thô của Việt Nam chỉ đứng thứ hai trong khu vực sau Trung Quốc. Trong khi đó, nếu Hà Nội đồng ý cho Hải quân Mỹ hiện diện lâu dài, việc dự trữ quân trang quân dụng và phụ tùng ở Cam Ranh sẽ chẳng gây khó khăn gì: Hải quân Mỹ đã có tàu đóng ở các cảng ngoại quốc như Yokosuka, ở Nhật, Bahrain, và Naples trong nhiều thập niên. Hải quân Mỹ có thể sao chép những cách bố trí tương tự ở nước Việt Nam có nhiều biển.
Một số điều nên theo dõi khi chuyến phiêu lưu tuyệt vời của Obama diễn ra: Thứ nhất, câu hỏi quan trọng về việc liệu giới lãnh đạo cộng sản Việt Nam có thể quyết định phải chấp nhận Hải quân Mỹ hay không. Thứ hai, có những điều kiện gì? Liệu có phải Hà Nội sẽ chỉ chấp nhận “sự hiện diện luân chuyển” (rotational presence) trong đó tàu lưu lại ở Cam Ranh trong những thời gian dài rồi sau đó về nước? Hay liệu giới lãnh đạo [Việt Nam] sẽ chấp nhận các điều khoản rộng rãi hơn, chẳng hạn như thiết lập vĩnh viễn một cảng nhà cho một đội tàu? Thứ ba, Hà Nội sẽ cho phép hiện diện với quy mô lớn đến đâu? Hà Nội sẽ cho phép bao nhiêu tàu neo đậu ở đó, và những loại tàu nào?
Quân cảng Cam Ranh
Một đội tàu gồm các loại chiến hạm lớn như khu trục hạm và tuần dương hạm – những tàu được trang bị các thiết bị cảm biến và vũ khí đủ loại – là một công cụ chính sách cho Washington khác hẳn với một đội tàu chiến cận bờ được vũ trang nhẹ. Điều đó cũng sẽ đưa ra một lời khẳng định khác hẳn với Bắc Kinh về năng lực và quyết tâm của Mỹ và Việt Nam.
Và cuối cùng, Hà Nội sẽ cho phép tàu Mỹ làm gì sau khi đóng ở Vịnh Cam Ranh? Chào đón một cựu thù quay trở lại lãnh thổ Việt Nam không phải là một nước cờ nhỏ, kể cả vào thời điểm bốn thập niên sau chiến tranh Việt Nam. Liệu hải quân của hai nước có tiến hành tuần tra phối hợp ở các khu vực bị tranh chấp? Liệu các lực lượng tuần duyên của hai nước có thành lập các đơn vị phối hợp để giữ trật tự trị an cho các vùng biển của Việt Nam? Hay liệu Hà Nội sẽ cho phép các tư lệnh Mỹ được thoải mái làm theo lệnh của Washington?
Ta có thể hình dung rằng, do Trinculo trú ẩn dưới tấm áo choàng của Caliban chỉ vì cần trong lúc nguy cấp, giới lãnh đạo Việt Nam sẽ có quan điểm hạn chế đối với các hoạt động hàng hải của Mỹ. Điều đó sẽ cho phép Hà Nội trút bỏ tấm áo choàng bảo vệ khi (và nếu) bão tan. Hà Nội sẽ cho Hải quân Mỹ sử dụng Vịnh Cam Ranh trong khi giữ quyền từ chối quyền sử dụng đó vì bất cứ lý do gì – hoặc không vì lý do gì cả. Và đối với hai cựu thù muốn tìm đại nghĩa chung, như vậy là phù hợp.
James Holmes
Phạm Vũ Lửa Hạ dịch
(Bản dịch đã đăng trên Thời Mới - Canada ngày 25/5/2016)
James Holmes, Tiến sĩ, là giáo sư về chiến lược tại Đại học Chiến tranh Biển.
Washington’s Honeymoon in Cam Ranh Bay
By James Holmes
Foreign Policy
May 23-2016.
Chinese bellicosity in the disputed waters of the South China Sea has brought the United States back to a strategic port and created enough misery to unite the former foes.
Photo credit: LUONG THAI LINH/Pool/AFP/Getty Images
Misery acquaints a man with strange bedfellows,” the jester Trinculo proclaims in William Shakespeare’s The Tempest. Shipwrecked on a mysterious island and beset by foul weather, Trinculo takes shelter underneath the beastly Caliban’s cloak “till the dregs of the storm be past.” The castaway does so even though Caliban stinks like a fish — and may even be part fish: “A man or a fish? Dead or alive? A fish; he smells like a fish; a very ancient and fish-like smell.” All in all, a repellent companion with whom to weather a storm.
As in great literature, so in great-power politics. Transpose the lesson of Caliban’s cloak to world politics — protagonists who recoil from one another in normal times can set aside glaring differences to quell a common threat. Think about democratic United States and Great Britain making common cause with totalitarian Soviet Union to vanquish the Axis powers during World War II. But such fellowships are flimsy — seldom do they outlast the storm. Trinculo casts off Caliban’s cloak as soon as the tempest subsides. The Grand Alliance barely outlived World War II.
Asian politics has seen few stranger bedfellows than Vietnam and the United States. To borrow from Trinculo again, Chinese bellicosity in disputed waters in the South China Sea has created enough misery to unite the former foes in defense of Vietnam’s offshore waters and skies. On May 23, while on a visit to Vietnam meant to tighten economic and defense ties, U.S. President Barack Obama lifted a longstanding embargo on arms exports to Vietnam. Done in the hope of exacting concessions on trade and human rights, the details of the deal remain unannounced. While Obama deniedthat the decision had anything to do with China, few believe he can disregard the China factor in U.S.-Vietnam relations. Whether Hanoi and Washington can buck Shakespearean logic — fashioning a partnership that endures after they ride out the storm currently raging — remains to be seen.
Most intriguing for any U.S. mariner, though, is the news that Hanoi might reopen the splendid deepwater harbor at Cam Ranh Bay to U.S. Navy warships as part of the quid pro quo for revoking the arms ban. If so (and bear with me here), the Vietnamese leadership, playing the part of Trinculo, will have invited the United States, cast as Caliban, to spread out his cloak — helping keep out the monsoon that is China. Strange bedfellows indeed.
Depending on the agreement’s terms, that could let the U.S. Navy mount a regular presence in the western reaches of the South China Sea. Doing so is a must if the United States wants to uphold freedom of navigation in the 1.4 million-square-mile sea. China has challenged the customary and treaty law of the sea — which both maintain that no one owns the sea — by claiming “indisputable sovereignty” across a massive swath of Southeast Asian waters and skies, including expanses allocated to Vietnam by the law of the sea. Washington replies to Beijing’s challenge by flouting it.
Sending U.S. ships through contested waters and planes through the sky overhead — preferably in unison with allies and friends — constitutes a statement that the international community does not accept Beijing’s effort to poach its neighbors’ offshore waters and airspace or to otherwise exceed its prerogatives under the law of the sea. That’s a statement seafaring states must make, over and over, to preserve hard-won nautical freedoms. There’s an unwritten use-it-or-lose-it principle in international law: Treaties are little more than bits of parchment. They can lose force over time if governments ignore them in part or in whole. If stakeholders in the legal order neglect to challenge an unlawful claim, that claim has a way of calcifying into international practice over time.
It’s imperative, consequently, that underwater surveys, surveillance flights, flight operations, and the other hosts of operations guaranteed by the U.N. Convention on the Law of the Sea continue throughout Southeast Asia’shigh seas and offshore exclusive economic zones. Use it or lose it! To sustain that regular offshore presence required, though, navy and coast guard vessels need nearby logistical support. Ships cannot remain at sea for long without refueling, rearming, or restocking their storerooms.
Enter Cam Ranh Bay. Cam Ranh has been an important naval outpost since France colonized Indochina in the late 19th century. And it has featured in events of world historical importance. For instance, Russian Adm. Zinovy Rozhestvensky brought his ill-starred Baltic Fleet into the bay in 1905. There, it took on coal and stores before continuing north to meet a grim fate at the hands of Japanese Adm. Heihachiro Togo’s fleet at the Battle of Tsushima Strait (111 years ago this May 27).
Nor was Cam Ranh Bay’s role in history a one-off thing. Imperial Japan captured the seaport during its 1941 to 1942 onslaught on the “Southern Resource Area” — aka Southeast Asia — and its strategic position made an ideal staging base for assaulting Malaysia and Singapore. Starting in the mid-1960s, the U.S. Navy and Army developed seaport infrastructure in the bay to help wage the Vietnam War. The Soviet Union expanded the port after the fall of South Vietnam in 1975, while Russian engineers have renovated it in recent years. The infrastructure to host U.S. and other foreign ships is now in place. All that’s missing is a decision from Hanoi to readmit the U.S. Navy to its erstwhile operational hub.
One hopes Hanoi and Washington both hold their noses at the fishy smell and conclude an arrangement providing such access. Captain Alfred Thayer Mahan, perhaps history’s foremost exponent of sea power, explains why places like Cam Ranh Bay are so crucial. For Mahan, the strategic value of any seaport hinges on three attributes: its geographic position; its strength, meaning its natural defenses or capacity to be fortified against attack; and its resources, meaning the port’s capacity to provide for its own needs and those of visiting fleets.
Apply Mahan’s yardstick to Cam Ranh Bay. The harbor is abundant in all three attributes. It adjoins the eastern approaches to the Strait of Malacca, granting ships based at the bay influence over shipping through this vital nautical thoroughfare. It’s closer to the disputed Paracel Islands than China’s nearest naval hub, the base at the city of Sanya on Hainan Island to the north. And besides outflanking China, Cam Ranh supplies ready access to deep water: The seafloor drops off precipitously outside the harbor — letting submarines submerge, and vanish, soon after leaving port. Small wonder that over the last eight years, Hanoi has invested in a flotilla of Russian-built diesel-electric subs to counter China.
And how strong is the seaport? No military base, including Cam Ranh, is exempt from missile attack in this age of long-range precision weaponry. But Cam Ranh is better off than many potential targets. The harbor’ssprawling size and shape would allow navies based there the luxury of dispersing assets to piers and anchorages all around the periphery. That would help confound Chinese rocketeers’ efforts to target U.S. and Vietnamese vessels. And old-fashioned “hardening” measures — toughly constructed buildings and infrastructure on the port guarded by antiship and antiair missiles — would lend the seaport resiliency. Such improvements should be part of any U.S.-Vietnam accord on naval access.
And lastly, the harbor is lavishly endowed with natural resources. Cam Ranh Bay is located not just adjacent to important waterways, but also sits in the verdant southern part of Vietnam, not far from the important metropolis Ho Chi Minh City. Foodstuffs to feed the port and the fleet are in ready supply. Nor should fuel pose major problems: Vietnam’s crude oil reserves are second only to China’s in the region. If Hanoi consents to a long-term U.S. Navy presence, meanwhile, stockpiling supplies and spare parts at Cam Ranh should cause little trouble: The U.S. Navy has based ships in foreign ports such as Yokosuka, in Japan, Bahrain, and Naples for many decades. It could replicate similar arrangements in coastal Vietnam.
Some things to watch for as Obama’s excellent adventure unfolds: First, the big question of whether or not Vietnam’s communist leadership will decide to readmit the U.S. Navy. Second, on what terms? Will Hanoi accept only a “rotational presence,” whereby ships tarry at Cam Ranh for lengthy intervals but then return home? Or is the leadership amenable to more generous terms, such as permanently establishing a home port for a squadron of ships? Third, how large a presence will Hanoi allow? How many hulls will it permit to dock there, and what types of hulls?
A flotilla featuring major combat vessels like destroyers or cruisers — ships festooned with sensors and armaments of all types — is quite a different policy implement for Washington than a squadron of lightly armed littoral combat ships. It would also make quite a different statement vis-à-vis Beijing about U.S. and Vietnamese capability and resolve.
And, lastly, what will Hanoi let the U.S. ships do once stationed at Cam Ranh Bay? Welcoming a former enemy back into Vietnamese territory is no small move, even four decades after the Vietnam War. Will the two navies mount joint patrols of disputed expanses? Will their coast guards form joint units to police Vietnamese waters? Or will Hanoi permit U.S. commanders a free hand to do Washington’s bidding?
One imagines, since Trinculo is sheltering beneath Caliban’s cloak for expediency’s sake, Vietnamese leaders will take a restrictive view toward U.S. maritime exploits. That will let Hanoi doff the protective cloak when (and if) the storm passes. It will grant the U.S. Navy access to Cam Ranh Bay while reserving the right to withhold that access for any reason — or no reason at all. And for two erstwhile enemies making common causes, that’s fitting.
James Holmes
James Holmes is a professor of strategy at the Naval War College, a combat veteran of the Gulf War, and co-author of Red Star Over the Pacific: China's Rise and the Challenge to U.S. Maritime Strategy. The views voiced here are his alone. (From Foreign Policy)
James R. Holmes, Ph.D. is an associate professor of strategy at the Naval War College and a contributor to Competitive Strategies for the 21st Century, just out from Stanford University Press and senior fellow at the University of Georgia School of Public and International Affairs. A former U.S. Navy surface warfare officer, he served as military professor at the Naval War College, College of Distance Education, and as director of a steam engineering course at the Surface Warfare Officers School Command. On sea duty he served as an engineering and gunnery officer on board the battleship Wisconsin. He is a combat veteran of the first Gulf War.
Jim is a Phi Beta Kappa graduate of Vanderbilt University (B.A., mathematics and German) and earned graduate degrees from the Fletcher School of Law and Diplomacy at Tufts University (M.A.L.D. and Ph.D., international relations), Providence College (M.A., mathematics), and Salve Regina University (M.A., international relations). He was the recipient of the Naval War College Foundation Award in 1994, signifying the top graduate in his Naval War College class.
He has been a visiting scholar at the Institute of International Relations, National Chengchi University (Taipei), and the Institute for Defense Studies & Analyses (New Delhi). He has testified before the U.S.-China Economic and Security Review Commission and spoken at such institutions as the French Institute of International Relations (Paris), Center for the National Interest, Center for a New American Security, German Marshall Fund, Carnegie Endowment for International Peace, Clingendael Institute of International Relations (The Hague), Chinese Council of Advanced Policy Studies (Taipei), American Enterprise Institute, and China Institutes of Contemporary International Relations (Beijing). He was the 2012 Memorial Day keynote speaker in Mattapoisett, Massachusetts.
Jim's most recent book is Red Star over the Pacific: China’s Rise and the Challenge to U.S. Maritime Strategy (with Toshi Yoshihara), an Atlantic Monthly Best Book of 2010 and a U.S. Naval Institute Notable Naval Book for 2010. It has been translated into German and Korean and is under contract to be translated and published by the China Social Sciences Press, an arm of the Chinese Academy of Social Sciences. The chief of naval operations named it to the 2012 Navy Professional Reading List as "Essential Reading." A paperback edition will appear in 2013.
Forthcoming is Strategy in the Second Nuclear Age: Power, Ambition, and the Ultimate Weapon (Georgetown University Press). Under contract is Naval Diplomats: The U.S. Asiatic Fleet. He is the author or co-author of 20 book chapters and over 100 journal articles, as well as over 300 opinion columns for such outlets as the Providence Journal, Taipei Times, Atlanta Journal-Constitution, Boston Globe, Los Angeles Times, and Athens (Ga.) Banner-Herald, where he was a staff columnist from 2001-2007. He is a defense analyst for The Diplomat, a Real Clear World Top 5 World News Site for 2010 and 2011, where he blogs as The Naval Diplomat. His work has been quoted or cited in such outlets as El Mercurio (Chile), the Financial Times, Asia Times, Fox News, China Daily, the Wall Street Journal, the Associated Press, Foreign Policy, the Washington Post, the New York Times, Foreign Affairs, The Economist, Xinhua, and The Hindu. He has appeared on NPR and the BBC World Service.
* * *
Xem bài liên hệ với chủ đề: click vào đây
Xem bài trang Kiến thức, tài liệu: click vào đây
Xem bài trên trang Anh ngữ: click vào đây
Trở về trang chính: http://www.nuiansongtra.net