Diễn đàn của người dân Quảng Ngãi
giới thiệu | liên lạc | lưu niệm

 April 14, 2025
Trang đầu Hình ảnh, sinh hoạt QN:Đất nước/con người Liên trường Quảng Ngãi Biên khảo Hải Quân HQ.VNCH HQ.Thế giới Kiến thức, tài liệu Y học & đời sống Phiếm luận Văn học Tạp văn, tùy bút Cổ văn thơ văn Kim văn thơ văn Giải trí Nhạc Trang Anh ngữ Trang thanh niên Linh tinh Tác giả Nhắn tin, tìm người

  Kiến thức, tài liệu
CUỘC CHIẾN TRANH LẠNH KẾ TIẾP: TRUNG CỘNG CHỐNG PHƯƠNG TÂY (Phần 2)
Webmaster
Các bài liên quan:
    MỘT CUỘC CHIẾN TRANH LẠNH MỚI VỚI TÀU CỘNG LÀ KHÔNG THỂ TRÁNH KHỎI?
    TÀU CỘNG VÀ HOA KỲ ĐÃ SẴN SÀNG CHO CUỘC CHIẾN TRANH LẠNH THỨ NHÌ CHƯA?
    TẠI SAO CHIẾN TRANH LẠNH HOA – MỸ SẼ KHÔNG XẢY RA?
    TRUNG CỘNG ĐANG THUA CUỘC CHIẾN TRANH LẠNH MỚI
    CHIẾN TRANH LẠNH LẦN II
    CUỘC CHIẾN TRANH LẠNH KẾ TIẾP: TRUNG CỘNG CHỐNG PHƯƠNG TÂY (Phần 1)
    CHIẾN TRANH LẠNH KHÔNG BAO GIỜ KẾT THÚC
    CHIẾN TRANH LẠNH MỚI: NHƯNG VỚI TRUNG CỘNG CHỨ KHÔNG PHẢI NGA

 

Đề tài liên hệ:

- CUỘC CHIẾN TRANH LẠNH Ở TRUNG ĐÔNG

 

(Der nächste Kalte Krieg: China gegen den Westen)

By Wolfgang Hirn

Phan Ba trích dịch

 

Phần 2. (Tiếp theo và hết)

 

Phần 1: click vào đây

 

Senkaku hay Điếu Ngư – Núi đá trong sóng cồn

 

 

Các hòn đảo Senkaku, Diaoyu vàTiaoyu. Hình: Wikipedia

 

Năm hòn đảo nhỏ đó hoàn toàn không có gì quyến rũ. Những ngọn núi đá lởm chởm nhô lên từ biển. Chỉ một vài con cừu đang ăn cỏ trên những bãi cỏ ít ỏi. Một vùng hoang vắng, cách Trung Quốc và Nhật Bản hàng trăm kilômét, tít ngoài xa trên biển Hoa Đông. Người ta không muốn sống và cũng không muốn được mai táng ở đây.

 

Mặc dù vậy, những hòn đảo không người này là một nguồn xung đột có lực nổ lớn giữa hai thế lực châu Á Trung Quốc và Nhật Bản. Không phải các hòn đảo là quan trọng đối với họ, mà là những gì ở xung quanh đó. Người ta đoán có nhiều khí đốt và dầu ở trong vùng biển này.

 

Cả hai quốc gia đều tuyên bố chủ quyền đối với quần đảo này, những cái mà người Nhật gọi là Senkakuz và người Trung Quốc gọi là Điếu Ngư. Và trong đó, cả hai đều đứng trên những vị trí không thỏa hiệp hết sức cứng rắn.

 

Nhật Bản tuyên bố chính thức: “Không còn nghi ngờ gì nữa, quần đảo Senkaku rõ ràng là lãnh thổ cố hữu của Nhật Bản trước những sự thật lịch sử và dựa trên luật lệ quốc tế.” Theo Bộ Ngoại giao Nhật trong một tuyên bố của ngày 25 tháng Chín năm 2010.

 

Quan điểm của Trung Quốc cũng không kém phần rõ rệt: “Từ thời xưa, quần đảo Điếu Ngư  đã thuộc về Trung Quốc.” Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Trung Quốc Dương Khiết Trì đã nói rõ như vậy với người đồng nhiệm Nhật thời đó trong chuyến đi thăm Bắc Kinh của ông. Với thời xưa, người Trung Quốc có ý muốn nói tới nhà Minh. Họ mang ra một quyển sách từ năm 1403, có một tấm bản đồ chỉ cho thấy rằng quần đảo Điếu Ngư rõ ràng là thuộc về Trung Quốc.

 

Để làm cho sự việc thêm phức tạp, người Đài Loan cũng tuyên bố chủ quyền những hòn đảo này. Tổng thống Đài Loan Mã Anh Cửu nói vào đầu tháng Tám 2012 ở Đài Bắc: “Điếu Ngư rõ ràng là một phần cố hữu của lãnh thổ nước Cộng hòa Trung Hoa, người ta có nhìn từ quan điểm của lịch sử, của địa lý hay luật pháp quốc tế thì cũng như nhau.”

 

Từ 1895, Nhật Bản tuyên bố chủ quyền các hòn đảo. Sau Đệ nhị Thế chiến, các hòn đảo được chia về cho thế lực chiến thắng Hoa Kỳ trong Hiệp ước San Francisco năm 1951 (cái mà Trung Quốc không bao giờ công nhận). Hơn 20 năm sau đó, trong Okinawa Reversion Agreement năm 1971, Hoa Kỳ trao trả các hòn đảo này về cho nước Nhật. Lúc đó, Trung Quốc đã phản đối theo nghĩa vụ.

 

Hiện nay, các hòn đảo này thuộc về gia đình Kurihara giàu có, những người đã cho chính phủ thuê cho tới tháng Ba 2013. Trong mùa Xuân 2012,  thị trưởng Tokio Shintaro Ishihara bất thình lình tuyên bố mối quan tâm. Tokio muốn mua các hòn đảo này. Ishihara, nổi tiếng là một người dân tộc chủ nghĩa, đã sử dụng những từ ngữ thật hùng hồn cho lần chào mời của mình: “Tôi không muốn nước Nhật sẽ chấm dứt như là một Tây Tạng thứ hai”, ông nói trong một cuộc phỏng vấn với Wall Street Journal.

 

Thế nhưng chính phủ Nhật Bản lại không muốn các hòn đảo đó thuộc về con người dân tộc chủ nghĩa ở Tokio, và vì vậy mà đã phỏng tay trên. Họ mua ba trong số năm hòn đảo với giá 26 triệu dollar: Uotsuri (đảo lớn nhất), Kitakojima và Minamikojima.

 

Với hành động này, chính phủ Nhật muốn làm cho tình hình bớt căng thẳng, thế nhưng họ lại gây ra điều ngược lại: một tiếng hét vang lên ở Trung Quốc. Một làn sóng phản đối – cũng như trong mùa Thu 2010 khi một ngư dân Trung Quốc bị người Nhật bắt trong vùng biển của quần đảo Senkaku – lan đi khắp nước. Ô tô Nhật bị đập phá, cả những chiếc Toyota của cảnh sát Trung Quốc nữa. Cửa hàng và nhà máy Nhật đóng cửa phòng ngừa trước. Nhiều trò chơi máy tính với tựa đề “Bảo vệ quần đảo Điếu Ngư” lan truyền đi trong Trung Quốc.

 

Các nhà hoạt động của cả hai nước đi hướng ra đảo, vẫy và kéo cờ quốc gia của họ. Chính khách của hai nước dùng những từ ngữ hùng hồn. Những người cực đoan ở Bắc Kinh còn yêu cầu ném bom nguyên tử xuống Tokio. Thủ tướng Nhật lúc đó, Noda, nói trước Quốc Hội, trong trường hợp cần thiết sẽ gửi quân lính ra Senkaku, “nếu các nước láng giềng có những hành động phi pháp trên lãnh thổ của chúng ta”.

 

Sau một vài ngày, bạo động và la hét cũng qua đi, Thế nhưng trong những tháng sau đó luôn có máy bay và tàu thủy của cả hai quốc gia qua lại trước những hòn đảo này. Cuộc tranh chấp các hòn đảo Senkaku/ Điếu Ngư sẽ tiếp tục song hành và tạo gánh nặng lên trên các quan hệ Trung-Nhật.

 

Lịch sử dạy cho chúng ta, rằng các quốc gia thường hay cầm lấy vũ khí từ những nguyên do được cho là nhỏ nhặt. Có ai đã nghĩ rằng năm 1982 với Argentina và Liên hiệp Anh đã có hai nhà nước văn minh bước vào chiến tranh vì một nhóm đảo có tên là Falkland ở đâu đó trên Đại Tây Dương?

 

Và cả Trung Quốc và Ấn Độ cũng đã có lần thù địch với nhau.

 

Trung Quốc và Ấn Độ – không chỉ dãy Himalaya chia cắt họ

 

Một tuần tập trung trao đổi ý kiến ở Delhi thủ đô của Ấn Độ có thể có tác động gây bối rối rất nhiều, đặc biệt là về đề tài: Ấn Độ cần phải đối xử như thế nào với người láng giềng ngày một hùng cường hơn ở bên kia của dãy Himalaya?

 

Người ta nghe được đủ mọi ý kiến đang lưu hành trong các thinktank và cơ quan nhà nước. Có ý kiến tuy nhìn Trung Quốc là một mối đe dọa về lâu dài, nhưng cho rằng người ta có thể phản công bằng cách chính mình vươn lên trở thành cường quốc. Rồi có những ý kiến khác, không tin vào khả năng phản công này và vì vậy ủng hộ liên kết đồng minh, để đặt giới hạn cho Trung Quốc ngày một hùng cường hơn. Và ở đó có những người có ý tốt, nhìn Trung Quốc như là một láng giềng thân thiện, không có ý xấu.

 

Trong giới quân sự, người ta phác họa kịch bản đe dọa nhiều hơn, trong kinh tế người ta thích đi theo hướng ôm ấp hơn (nhất là các quan hệ thương mại lại đang phát triển rất tốt) và trong chính trị thì người ta có thể nghe được tất cả các ý kiến về Trung Quốc. Ví dụ như thủ tướng Manmohan Singh đi theo một đường lối tương đối ôn hòa, trong khi các bộ trưởng Bộ Ngoại giao và Quốc phòng thì đã có lần làm ầm lên và dùng những từ ngữ cứng rắn hơn.

 

Stephen Cohen, chuyên gia Ấn Độ tại Brookings, nói: “Chính trị Ấn Độ không có chiến lược.” Chính trị gia Ấn Độ không có khả năng quyết định họ cần phải đối phó với Trung Quốc như thế nào. Ấn Độ không có một chính sách ngoại giao và an ninh nhất quán.

 

Trước đây thì khác. Dưới thời Gandhi và Nehru, Ấn Độ rõ ràng là người dẫn đầu của các nước không liên kết. Trong phong trào này của Thế giới thứ Ba, các vai trò được phân chia một cách rõ ràng: Liên bang Xô viết chống đế quốc là bạn, Hoa Kỳ đế quốc là thù. Sau khi Chiến tranh Lạnh chấm dứt, việc cũng chấm dứt sự tạo khối liên minh, Ấn Độ đã mất định hướng vào lúc ban đầu. Quay đến với ai? Họ quyết định chọn Phương Tây, cuối cùng thì họ cũng là một nền dân chủ.

 

Tiếp theo sau đó, người ta tiếp cận Hoa Kỳ một cách dè dặt. Các tổng thống của nó, Bill Clinton và George Bush – sau một thời gian bối rối ngắn do Ấn Độ thử bom nguyên tử – đã thay đổi hình ảnh Ấn Độ của họ và đáp trả tình cảm của Ấn Độ. Sự tiếp cận này lên tới đỉnh cao trong chuyến đi thăm Ấn Độ lịch sử của Clinton năm 2000, nơi ông đọc một bài diễn văn mang tính chỉ ra đường lối trước Quốc Hội Ấn Độ vào ngày 22 tháng Ba: “Sau 50 năm bỏ lỡ cơ hội, bây giờ là lúc Mỹ và Ấn trở thành những người bạn tốt hơn và đối tác mạnh hơn.” Nguyên thủ tướng Ấn Độ Atal Bihari Vajpayee tuyên bố cùng lúc đó, rằng Hoa Kỳ và Ấn Độ là “các đồng minh tự nhiên”.

 

Ý định của Hoa Kỳ thật rõ ràng, ngay cả khi họ không biểu lộ nó rõ như vậy: Họ muốn đặt Ấn Độ làm đối trọng với Trung Quốc. Nhưng Ấn Độ không muốn đóng vai trò này. Họ không muốn là một con cờ trên bàn cờ chiến lược của người Mỹ. Người Ấn Độ quá tự hào và quá tự tin cho việc đó.

 

Thay vì vậy, Ấn Độ lại cố gắng tiến hành một hoạt động cân bằng khó khăn. “Họ muốn có cùng một khoảng cách với Trung Quốc và Hoa Kỳ”, Edward Luce viết trong quyển In Spite of the Gods của ông. Nhưng chính sách cùng khoảng cách này dường như không thành công. Vì về một mặt họ nhích tới gần – nhưng không quá gần – người Mỹ hơn nhưng ở mặt kia thì khoảng cách với Trung Quốc ngày một lớn hơn.

 

Sự nghi ngờ Trung Quốc quá lớn, đặc biệt là trong giới tinh hoa Ấn Độ. Và nhiều người Ấn Độ vẫn còn bị chấn thương từ cuộc chiến với Trung Quốc trong mùa Thu 1962, cuộc chiến mà người Ấn Độ đã bị bại trận sau một trận chiến ngắn, dữ dội. Thời đó là vì biên giới giữa hai nước ở Himalaya.

 

Và câu hỏi biên giới này cho tới ngày nay vẫn còn chưa được giải quyết. Biên giới giữa hai quốc gia dài không thể tưởng tượng được, 4057 kilômét. Đó là biên giới dài nhất của thế giới mà đường đi của nó vẫn chưa được làm rõ. Cho tới chừng nào còn như vậy thì người ta vẫn tăng cường vũ trang đầy nguy hiểm ở bên này và ở bên kia của biên giới chưa được định rõ.

 

Trong vòng năm năm tới đây, Ấn Độ muốn chuyển 90.000 người lính tới biên giới và lập bốn sư đoàn mới ở đó. Cho tới 2030, người Ấn còn muốn xây 558 con đường chiến lược tới biên giới có tranh chấp. Người ta không hề ngại tốn kém để làm việc đó. Chính phủ Ấn Độ chi mười tỉ dollar cho công cuộc xây dựng đường sá về hướng Bắc này.

 

Qua đó, Ấn Độ chỉ muốn phản ứng lại những hoạt động của Trung Quốc ở bên kia biên giới, người Ấn lý luận. Đặc biệt chính sách quân đội hóa Tây Tạng của Trung Quốc khiến cho Ấn Độ lo ngại. Theo đó, dự định tuyến đường sắt Bắc Kinh-Lhasa sẽ được kéo dài tới  Yadong và Nyingchi trong miền Nam của Tây Tạng. Đã được bắt đầu xây – dưới những điều kiện cực kỳ khó khăn – là một con đường tới Metok County.

 

Metok có biên giới với bang Arunachal Pradesh của Ấn Độ. Trung Quốc tất nhiên là đòi hỏi chủ quyền cho vùng đất này. Từ 2006, Trung Quốc gọi bang Ấn Độ này là Nam Tây Tạng và ngày một hung hãn hơn, khi vấn đề là bảo vệ những cái được gọi là lợi ích của họ ở trong vùng này. Như Trung Quốc phản đối, khi thủ tướng Ấn Độ đến thăm bang Arunachal Pradesh. Và Trung Quốc đã ngăn chận không cho bang này nhận tiền từ Asian Development Bank.

 

Dường như một thành ngữ Trung Quốc đã nói đúng cho Himalaya: Nhất sơn bất dung nhị hổ.

 

Vì mỗi bên đều muốn bảo vệ vùng đất của mình nên Ấn Độ cũng tăng cường vũ trang như Trung Quốc. Ngân sách vũ trang Ấn Độ tăng trong khoảng thời gian 2000 tới 2009 từ mười hai lên ba mươi tỉ Dollar. Mặc dù vậy, khoảng cách quân sự giữa Trung Quốc và Ấn Độ vẫn tăng lên. Những người phê phán nói rằng tiền chảy quá nhiều vào lương thay vì vào những hệ thống vũ khí mới. Ngoài ra thì lục quân mang tính áp đảo, nuốt trọn phân nửa ngân sách quân sự. Phải đầu tư nhiều hơn vào hải quân và không quân. Trong đó thì hải quân vẫn còn được tốt hơn là không quân. Ít ra thì Ấn Độ với chiếc Vikramaditya (trước kia là Admiral Gorschkow) vẫn sở hữu một chiếc tàu hàng không mẫu hạm có khả năng hoạt động, do Liên bang Xô viết sản xuất.

 

Có một cuộc cạnh tranh dữ dội giữa ba binh chủng lục, hải và không quân. Còn không có cả một sự tích hợp nghiêm chỉnh các kế hoạch của ba binh chủng. Trong một bức thư gửi Thủ tướng Manmohan Singh, cựu tham mưu trưởng Tướng V.K. Singh đã nói rõ: Ấn Độ chưa chuẩn bị đầy đủ cho một quyển lực quân sự đang tăng lên của một Trung Quốc hung hãn hơn.

 

Tất nhiên: người Ấn không đứng hoàn toàn bất lực ở đó. Trong tháng Tư 2012, Ấn Độ bắn chiếc tên lửa tầm xa đầu tiên Agni V của họ. Tầm hoạt động tối đa của nó: trên 5000 kilômét. Với nó, họ có thể đạt tới Bắc Kinh hay Thượng Hải. Giới truyền thông reo mừng của Ấn Độ vì vậy mà đã gọi tên lửa này ngay lập tức là “China-Killer”.

 

Ấn Độ và Trung Quốc đã bước vào một cuộc chạy đua vũ trang nguy hiểm. Nó có thể chấm dứt trong một xung đột hiện hữu. Hoặc là ở Himalaya – hoặc là ở Ấn Độ Dương.

 

Chuỗi ngọc trong Ấn Độ Dương

 

Gwadar nằm ở góc phía Đông của Pakistan. Một thành phố cảng có 50.000 dân, bị cát bao bọc. Một nơi chốn khô cằn nhiều hơn. Thế nhưng người ta nên ghi nhớ tên của thành phố trong sa mạc này. Nó có thể nổi tiếng giống những nơi là sân khấu của lịch sử thế giới như Carthago, Samarkand hay Angkor Wat.

 

 

Cảng Gwadar do người Trung Quốc điều hành

 

Thế nào đi nữa thì nhà báo và chuyên gia quân sự Mỹ Robert Kaplan cũng tiên đoán như vậy. Ông đã ở Gwadar, điều không đơn giản và còn là nguy hiểm nữa. Ông nhìn thấy người ta xây một cảng biển nước sâu khổng lồ ở đó. Ông nhìn thấy nhiều khu công nghiệp, một cảng hàng không và nhiều tuyến đường tàu hỏa hình thành sau những hàng rào kẽm gai.

 

“Gwadar sẽ trở thành một trung tâm sống động của một Con đường Tơ Lụa mới”, Kapplan viết trong quyển sách Monsoon của ông. Và ai ngồi ở ngay trung tâm của thời đại? Người Trung Quốc. Ngay từ năm 2000, tổng thống Pakistan thời đó Pervez Musharraf đã mời người Trung Quốc xây một cảng biển nước sâu ở Gwadar. Trung Quốc rất thích nhận lời và đã cho 200 triệu dollar để xây mở rộng cảng.

 

Sau đó, người ta cho PSA International, một doanh nghiệp Singapore, thuê cảng này trong vòng 40 năm. Nhưng hiện nay thì người ta cho rằng chính phủ Pakistan đã mời một doanh nghiệp Trung Quốc (China Overseas Post Holdings) thay PSA làm người điều hành cho cảng của Gwadar.

 

Gwadar là một khởi điểm quan trọng cho người Trung Quốc. Từ đây họ đào đất xây một tuyến đường sắt và đường bộ đi về hướng Bắc Pakistan. Đích đến là Karakorum Highway, nối liền Pakistan và Trung Quốc.

 

Nếu người Trung Quốc thành công với kết nối xuyên qua sa mạc và núi đồi này, đòi hỏi hết sức cao về công nghệ, thì đó là một thành công chiến lược rất lớn cho Trung Quốc. Một phần của dầu nhập khẩu từ Cận Đông không cần phải đi trên con đường xa xôi qua Đông Nam Á và qua Eo biển Malakka nguy hiểm nữa, mà có thể đi đường bộ trực tiếp qua Gwadar về Trung Quốc.

 

Như thế, Gwadar có một vị trí chiến lược hết sức quan trọng đối với Trung Quốc. Nó nằm ở lối ra của Eo biển Hormuz, cái cổ chai mà nhiều con tàu chở dầu phải đi qua đó. Và Gwadar là một trong số những cảng quan trọng nhất ở Ấn Độ Dương, đại dương sẽ trở thành một trong những sân khấu chính của chính trị thế giới trong những thập niên tới đây.

 

Ấn Độ Dương là biển có giao thông nhiều nhất thế giới. Tàu chở dầu từ Cận Đông đi qua đại dương này cũng như tàu chở container từ châu Âu, châu Á và ngày càng nhiều hơn từ châu Phi đang bùng nổ kinh tế. Không phải bỗng dưng mà chính ở trên biển này, hải tặc lại trải qua thời kỳ phục hưng không lấy gì làm vẻ vang cho lắm của nó. Vì vậy, để bảo vệ các đội tàu thương mại, ngày càng có nhiều tàu chiến từ châu Mỹ, châu Á và châu Âu đi lại ở Ấn Độ Dương. “Ấn Độ Dương sẽ trở thành một sân khấu chính của xung đột và cạnh tranh”, Kaplan nói.

 

Tất nhiên là người Mỹ có mặt khắp nơi cũng tham gia ở đây. Cứ điểm quan trọng nhất của họ là hòn đảo Diego Garcia giữa Ấn Độ Dương. Nó thuộc người Anh, nhưng họ đã cho người Mỹ thuê, và những người này sử dụng hòn đảo như là cứ điểm quân sự chính.

 

Thế nhưng hai đối thủ quan trọng nhất thì lại sẽ là hai cường quốc châu Á Trung Quốc và Ấn Độ. Người Ấn xem Ấn Độ Dương – nomen est omen [tên là dấu chỉ] – là mare nostrum [biển của chúng tôi] và tương ứng với đó xem người Trung Quốc như là những người xâm nhập vào.

 

Trung Quốc đã khéo léo tạo vị trí cho mình ở vùng này trong những năm vừa qua. Họ đã nắm lấy hết cảng này tới cảng khác. Từ Gwadar ở phía Đông qua Hambantota (Sri Lanka), Chittagong (Bangladesh) cho tới Coco Islands và đảo Ramree thuộc Myanmar. Người Trung Quốc chi trả để xây mới Hambantota trên Sri Lanka (Trung Quốc hiện nay là nhà chi tiền lớn nhất của hòn đảo), cũng như xây mở rộng cảng Chittagong tại Bangladesh.

 

 

Các tiền đồn của Trung Cộng

 

Vì những cảng này nằm nối nhau giống như một chuỗi ngọc nên hoạt động của Trung Quốc cũng còn được gọi là “Chiến lược Chuỗi Ngọc”. Người Ấn có một từ xấu hơn cho việc đó: bao vây. Gurmeet Kanwal, cựu giám đốc của Centre for Land Warfare Studies (CLAWS) in Delhi, nói như vậy: “Trung Quốc tiến hành một chính sách ma quỷ, với mục đích bao vây Ấn Độ.”

 

Vì không chỉ là những cảng châu Á láng giềng này, nơi những người Trung Quốc đang hoạt động, mà cả những cảng châu Phi quan trọng ở Ấn Độ Dương nữa. Có là Lamu ở Kenia, Daressalam ở Tansania hay Beira ở Mozambique đi nữa – người Trung Quốc đã có ở đó rồi.

 

Nhưng cả trên những hòn đảo du lịch ở Ấn Độ Dương – Maledives và Seychelles cũng như Mauritius – cũng đã có người Trung Quốc rồi. Trên Maledives, Trung Quốc mở một sứ quán, nước duy nhất bên cạnh các quốc gia Nam Á Ấn Độ, Sri Lanka, Pakistan và Bangladesh. Ngô Bang Quốc, người thứ ba trong nhà nước của Trung Quốc, thăm thù đô Male ba ngày.

 

Ấn Độ có thể bực tức về sự bao vây của Trung Quốc trong mare nostrum của họ, nhưng cũng phải chịu đựng lời cáo buộc rằng đã quan tâm quá ít tới các láng giềng của mình. Ấn Độ xung đột liên tục với Pakistan. Với Bangladesh và Sri Lanka thì các quan hệ, chúng ta cứ nói vậy, có khả năng tốt hơn.

 

Cũng như với láng giềng phía Đông Myanmar. Cả một thời gian dài, Burma trước đây chỉ có một người bạn: Trung Quốc. Người Trung Quốc đã bơm gần 40 tỉ dollar vào đất nước này trong các thập niên vừa qua, trước hết là để xây ống dẫn dầu, đường xá và đường tàu hỏa từ Ấn Độ Dương về Trung Quốc. Họ cũng không hề quan tâm tới lệnh cấm vận của Phương Tây.

 

Vào lúc ban đầu, Ấn Độ cũng tham gia vào trong lệnh cấm vận này. Thế nhưng khi người Ấn nhìn thấy người Trung Quốc ngày càng vững chân hơn ở Myanmar, nước mà theo truyền thống Ấn Độ có những mối quan hệ tốt và hết sức lâu đời, Ấn Độ đã bước ra khỏi mặt trận cấm vận của Phương Tây trong năm 2001. Và khi chính phủ Myanmar bắt đầu với những cuộc cải cách, thủ tướng Ấn Độ Manmohan Singh đã sang thăm Myanmar láng giềng trong tháng 5-2012, sếp chính phủ đầu tiên của Ấn Độ sau 25 năm.

 

Thế nhưng Ấn Độ đến với Myanmar cũng tương đối muộn – cũng như trong toàn bộ vùng Đông Nam Á. Tuy là người Ấn Độ từ đầu những năm 90 có một chính sách Look East mà với nó họ muốn đương đầu với người Trung Quốc, nhưng cho tới nay thì họ không có nhiều thành công cho lắm: Trung Quốc chiếm ưu thế ở Đông Nam Á – ít nhất là về kinh tế.

 

Hệ thống triều cống hiện đại của Trung Quốc

 

Cả một thời gian dài, Thụy Lệ là một nơi chốn đầy tội lỗi ở biên giới giữa Trung Quốc và Myanmar. Một chốn mại dâm và nơi trú ẩn của giới mua bán ma túy. Người nhiễm HIV sống vật vờ. Không có người nước ngoài nào tới đây, dân du lịch ba lô cũng không.

 

Ngày nay, ở đó có những con đường được trồng dừa hai bên, khách sạn năm sao, sân golf và cửa hàng Armani cũng như Gucci thật. Bất động sản trong thành phố 110.000 dân này có giá gần bằng trong các thành phố lớn như Bắc Kinh hay Thượng Hải.

 

 

Cửa khẩu biên giới Myanmar - Trung Quốc ở Ruili/ Thụy Lệ

 

Hiện nay, Thụy Lệ đã trở thành một trung tâm giữa Trung Quốc và Myanmar. Từ ở đây, người Trung Quốc thâm nhập – về kinh tế – ngày càng sâu vào trong Myanmar. Giờ Bắc Kinh đã thống trị ở miền Bắc của đất nước này rồi. Người Trung Quốc đặt dấu ấn và chi phối hình ảnh đường sá trong nhiều thành phố. Cùng một hình ảnh đó trong thủ đô Lào Vientiane hay trong thủ đô Campuchia Phnom Penh.

 

Myanmar, Lào, Campuchia – trong những nước này, sự hiện diện của Trung Quốc là rõ ràng nhất. Nhưng cả trong phần còn lại của Đông Nam Á, sự xuất hiện của Trung Quốc cũng để lại dấu vết. Tất cả mười quốc gia Đông Nam Á tạo thành liên minh các quốc gia ASEAN hiện giờ gắn kết rất chặt chẽ với Trung Quốc về kinh tế. Đối với tất cả, Trung Quốc là đối tác thương mại quan trọng nhất.

 

Nữ chuyên gia Trung Quốc Susan Shirk nói: “Trung Quốc nhìn Đông Nam Á như là vùng ảnh hưởng truyền thống của họ.” Trong đó, bà cũng nhìn thấy những điều tương tự với hệ thống triều cống của vương quốc các hoàng đế Trung Hoa ngày xưa. Thời đó, Bắc Kinh thống trị đã vạch những vòng tròn đồng tâm quanh vương quốc ở giữa. Quy định trong đó: càng gần Trung Quốc thì càng phải triều cống.

 

Ngày nay, sự lệ thuộc tinh vi hơn. Không ai còn phải tới khấu đầu công khai ở Bắc Kinh nữa. Ngày nay, người Trung Quốc thích ký kết hiệp định hơn. Ví dụ như Hiệp định Thương mại Tự do giữa Trung Quốc và mười quốc gia ASEAN. Vào ngày 01-01-2010, hiệp định về ASEAN - China Free Trade Area (ACFTA) bắt đầu có hiệu lực. Đó là vùng thương mại tự do lớn nhất thế giới với gần hai tỉ người.

 

Trong ACFTA, 90% tất cả hàng hóa có thể đi qua biên giới mà không cần phải đóng thuế. Mười phần trăm còn lại chỉ phải đóng thuế rất ít. Lần bãi bỏ các hàng rào thuế quan này đã đẩy mạnh thương mại giữa Trung Quốc và các quốc gia ASEAN. Ngay từ 2011, thương mại giữa hai bên đã vượt 400 tỉ dollar. Con số này lớn hơn thương mại giữa Trung Quốc và Nhật Bản.

 

Và trao đổi hàng hóa chắc chắn sẽ còn tăng lên thêm nữa, nếu như các điều kiện tiếp vận cho việc này được tạo thành, tức là kết nối giao thông tốt hơn giữa Trung Quốc và Đông Nam Á. Vì vậy mà Trung Quốc đã có kế hoạch cho những dự án hạ tầng cơ sở khổng lồ, để gắn các quốc gia này chặt hơn nữa vào họ.

 

Như có kế hoạch cho một tuyến đường sắt xuyên suốt từ Trung Quốc qua Lào và Thái Lan cho tới Singapore. Các con tàu dự định sẽ lao qua những cánh đồng lúa với 250 km/h. Người ta đã bắt đầu xây nhiều đoạn. Ở Trung Quốc đã xây cho tới biên giới Lào, từ Bangkok cũng đã tới biên giới Lào. Chỉ ở Lào là các tín hiệu vẫn còn đỏ. Chính phủ đã ngưng công cuộc xây dựng. Người Trung Quốc yêu cầu cả đất đai ở hai bên của tuyến đường 480 kilômét xuyên qua Lào. Nông dân Lào chống lại điều đó – và chính phủ nghe theo lời họ.

 

Các con đường cao tốc đầu tiên cũng đã thành hình rồi. Hiện giờ, một con đường cao tốc từ Côn Minh, thủ phủ đang phát đạt của tỉnh Vân Nam Trung Quốc, về tới thủ đô Việt Nam Hà Nội. Thời gian đi được rút ngắn từ ba ngày xuống còn chưa tới một ngày.

 

Vì các quốc gia láng giềng của Trung Quốc không có khả năng gánh vác phí tổn cho những dự án nhiều tham vọng như thế nên TQ đã hào phóng tuyên bố rằng họ sẽ chi trả một phần lớn cho các dự án này.

 

Người ta tạo sự lệ thuộc như thế đó – cũng như ở Nga và Trung Á. Người Trung Quốc tuy không xây đường sá tới đó, nhưng xây đường ống dẫn dầu.

 

Trung Quốc và Nga – hai đối tác không tương xứng

 

Trung Quốc chi phối vùng Viễn Đông của Nga – ít nhất là về kinh tế. Cho tới nay, nước Nga vẫn không có khả năng phát triển phương Đông xa xôi của họ và qua đó hưởng lợi từ châu Á đang bùng nổ về kinh tế. Tuy đã có nhiều cố gắng và có cả một chương trình của chính phủ ở Moscow, nhưng chúng ít nhiều đều thất bại. Sau lần tái đắc cử năm 2012, thủ tướng Dmitri Medvedev khởi động thêm một cố gắng nữa và còn lập cả một bộ để phát triển Viễn Đông. Liệu có được gì không?

 

 

Nga - Tàu tập trận chung trên biển

 

Trung Quốc đã tạo quá nhiều cơ sở. Và các con số cũng quá rõ ràng: Ở tỉnh cực Bắc của TQ, Hắc Long Giang giáp biên giới với Nga, có 38 triệu người sinh sống, trong Oblast Amur láng giềng bên phía Nga chỉ có 830.000. Đối diện ưu thế này thường hay có xung đột xảy ra. Thủ tướng Medvedev nói về một “sự bành trướng quá mức của các quốc gia láng giềng” và qua đó có ý muốn nói trước hết là tới Trung Quốc.

 

Không, đó không buộc phải là tình hữu nghị, cái hàn chặt hai quốc gia láng giềng to lớn lại với nhau. Mà nhiều hơn là sự thiếu thốn thiện cảm mà cả hai quốc gia này trải qua ở những nơi khác. Trung Quốc không có bạn bè, Nga cũng không. Moscow hy vọng vào một đối tác với Phương Tây, nhưng bị thất vọng. Vì Phương Tây – và là cả EU lẫn USA – có khó khăn trong việc bước vào một quan hệ gần gũi hơn nữa với Moscow không được hoàn hảo về dân chủ, nên nước Nga buộc phải tìm kiếm đối tác khác.

 

“Việc EU cứ khăng khăng giữ lấy một chính sách ngoại giao có định hướng tới các giá trị [dân chủ] đối với Nga đã khiến cho nước Nga xa rời châu Âu”, chuyên gia Nga Alexander Rahr đánh giá, “ngày nay, dường như nước Nga đã đặt cược tất cả vào lá bài Trung Quốc.”

 

Dường như là cả hai nhà bị xua đuổi của chính trường thế giới đã tìm đến với nhau trong một liên minh có mục đích. Ít ra thì chuyến đi ra nước ngoài đầu tiên của chủ tịch nước Tập Cận Bình cũng đã dẫn tới Moscow, nhưng thật sự thân thiện thì cả hai đều không. Dmitri Trenin, giám đốc của Carnegie Moscow Center, nói: “Vẫn còn một lỗ hổng của niềm tin ở giữa hai bên, và không ai trong cả hai bên thật sự muốn có một liên minh.”

 

Đó là một quan hệ đối tác không tương xứng mà trong đó hai bên không ngang tầm với nhau. Vì tiềm năng kinh tế mà Trung Quốc rõ ràng là đối tác mạnh hơn. Nga chỉ là đối tác đàn em, phải đóng vai người cung cấp năng lượng và vũ khí. Và trên các lĩnh vực đó thì đối tác này cũng hoạt động tương đối tốt, vì cả hai bên đều hưởng lợi.

 

Trung Quốc, nước thèm khát năng lượng triền miên, cần khí đốt và dầu của Nga. Và nước Nga vui mừng là có một khách hàng ở phương Đông và qua đó mà có thể làm giảm bớt sự phụ thuộc của mình vào Phương Tây. Đường lối đã được công bố của tổng thống Putin là đa dạng hóa cơ cấu khách hàng dầu và khí đốt, để trong trường hợp cần thiết thì có thể dùng người này chống lại người kia, thể theo khẩu hiệu: nếu các anh không muốn trả cái giá này cho dầu và khí đốt của chúng tôi thì tôi vẫn còn người khác muốn mua.

 

Hiện nay, có cả đường ống dẫn dầu lẫn đường ống dẫn khí đốt từ Nga sang Trung Quốc. Từ ngày đầu năm mới 2011, dầu từ Skovorodino ở Đông Sibiria chảy về Đại Khánh, trung tâm dầu của Trung Quốc. Công cuộc xây dựng đường ống với cái tên East Siberian Pacific Ocean (ESPO) được chi trả hầu hết qua số tiền 25 tỉ do Trung Quốc cho vay. Khí đốt dự định sẽ bắt đầu chảy từ cuối 2015. 30 tỉ mét khối mỗi năm, 30 năm trời. Một hợp đồng tương ứng với Gazprom đã được ký kết.

 

 

Đường ống dẫn khí đốt ở Nga

 

Cũng có lợi cho đôi bên tương tự như vậy là các quan hệ trên lĩnh vực tăng cường vũ trang. Trung Quốc thích mua và mua nhiều từ các lò sản xuất vũ khí của Nga, vì Phương Tây từ lệnh cấm vận năm 1989 đã không còn là người cung cấp được nữa. Nước Nga ngược lại nhờ vào người khách hàng trung thành này mà có thể tận dụng tốt công suất của ngành công nghiệp vũ khí của họ và qua đó thì cuối cùng cũng là bảo đảm cho sự sống còn của nó. Vào lúc ban đầu, người Nga e dè hơn. Họ không muốn cung cấp cho người Trung Quốc công nghệ hiện đại nhất. Nhưng điều này hiện nay đã thay đổi. Người Trung Quốc nhận được thiết bị hiện đại nhất, ví dụ như máy bay phản lực công nghệ cao Su-35 và cả hệ thống tên lửa S-400 nữa.

 

Giới quân đội của hai nước cũng đã tiến đến gần với nhau hơn trong những năm vừa qua. Người ta tập trận chung, ví dụ như Peace Mission trong năm 2009 dọc theo biên giới Nga - Trung và ở biển Hoa Đông. Nhưng đó không phải là một liên minh. Alexander Rahr nói: “Ở bề ngoài, Trung Quốc chưa từng bao giờ xuất hiện trước Phương Tây như là một đồng minh thực thụ của Nga.”

 

Vì vậy mà Trung Quốc cũng xem Shanghai Cooperation Organitation (SCO) dưới một ánh sáng khác với người Nga. Trong khi người Nga muốn nhìn tổ chức được thành lập năm 2001 này, mà bên cạnh Trung Quốc và Nga còn có các nước Trung Á thuộc vào trong đó, như là một đối trọng với NATO thì Trung Quốc xem nó như là một liên minh kinh tế nhiều hơn.

 

Người Trung Quốc đã khéo léo chiếm lấy một vị trí vững chắc trong các quốc gia Trung Á, tất cả đều nguyên là cộng hòa Xô viết lúc trước. Họ đặc biệt nhắm tới nguyên liệu của vùng này. Ở đây, TQ cũng hào phóng cho vay tiền cho các dự án hạ tầng cơ sở. Công ty nhà nước TQ xây đường ống dẫn dầu, tuyến đường xe lửa và đường sá, ví dụ như ở Kazakhstan là tuyến đường sắt giữa Almaty và Astana, thủ đô cũ và mới của đất nước này. Hay một đường ống dẫn khí đốt từ Turkmenistan xa xôi về tới Trung Quốc.

 

Các quốc gia Trung Á vui mừng là có một đối trọng với nước Nga quá hùng mạnh. Cả ở đây, trong vùng ảnh hưởng ngày xưa của mình, Nga cũng là người thua cuộc thì nhiều hơn. Chuyên gia Nga Alexander Rahr nói: “Ảnh hưởng của Nga rõ ràng là đã giảm xuống. Trung Quốc mạnh tới mức các nước Trung Á phải trao đổi với họ.”

 

Nhưng vì vậy mà người ta cũng không thể gọi các quốc gia Trung Á là đồng minh được, nhiều lắm là các đối tác có thiện ý. Trung Quốc phải dựa vào chính mình. Vì vậy mà lại càng quan trọng hơn là việc các hàng ngũ ở nhà phải đồng lòng. Công cụ quan trọng nhất và được ưa thích nhất của giới lãnh đạo Trung Quốc ở đây: một chủ nghĩa dân tộc được chăm sóc.

 

Chủ nghĩa Dân tộc khi cần

 

 

Tàu khu trục Trung Cộng

 

Các sạp báo ở Trung Quốc chào mời một sự đa dạng nhiều màu sắc. Với hàng chục tờ báo về thể thao, thời trang và ô tô, những sạp báo nhỏ đó gần như đã bị dán kín. Nhưng ở giữa đó cũng có treo những tờ kỳ lạ như Weapon (8,4 nhân dân tệ) hay Naval Vessel Knowledge (10 nhân dân tệ). Đó là những tạp chí quân sự. Chúng đang bán chạy. Đặc biệt đàn ông trẻ tuổi hay với tới những tờ báo này với những tường thuật và hình ảnh về máy bay ném bom mới, tên lửa và tàu khu trục.

 

Nhiều người Trung Quốc trẻ rất say mê quân sự. Anthony Wong, chủ tịch International Military Association ở Macao, nói: “Con số của họ đã tăng lên rất nhiều, đặc biệt là từ khi Bắc Kinh bắt đầu hiện đại hóa quân đội trước đây hai thập niên.” Người đọc không phải là những người sống ở rìa xã hội mà phần lớn là nhân viên bình thường với việc làm toàn thời gian.

 

Những người công dân bình thường trẻ tuổi với sở thích về quân sự này cũng tạo thành một phần của Thanh niên Thịnh nộ. Những người quốc gia chủ nghĩa có tên như vậy trong Internet, một phần đưa ra những lời bình rất gay gắt. Họ suy nghĩ hành động như thế nào, điều này thì người ta có thể đọc được từ những lời bình luận của họ sau cơn sóng thần trong đất nước của kẻ thù không đội trời chung Nhật Bản. Nhiều hoan hỉ vì hoạn nạn của người khác đã được lan truyền trực tuyến ở đó. Trận động đất đó là “bị trời phạt”. Về Nhật Bản thì là: “Người ta không thể chờ đợi một con sói bất chợt biến thành một con chó được, chỉ vì nó đã không cắn 30 năm nay.”

 

Những người trẻ tuổi ở Trung Quốc tuy cũng có tinh thần phê phán đối với đất nước của chính họ, nhưng họ cũng hãnh diện vì đất nước của họ, chính phủ của họ và về những gì đã đạt được của ba thập niên vừa qua. Đã có thể cảm nhận được một chủ nghĩa dân tộc nhất định ở đó, cái được chính phủ hài lòng khoan dung và thỉnh thoảng còn cổ vũ nữa. Vì thiếu một ý thức hệ khác nên một chủ nghĩa dân tộc trung hòa là một cái gì đó giống như một mẫu số chung giữa Đảng và nhân dân. Chủ nghĩa dân tộc được Đảng phát hiện và chăm sóc, đặc biệt là sau 1989, như là một hình thức mới cho tính chính danh chính trị.

 

 

Biểu tình chống Nhật ở Trung Cộng năm 2012

 

Điều đó được thổ lộ ra trong những việc nhỏ nhưng có ý nghĩa lớn: General Administration of Press and Publication xua đuổi việc sử dụng từ ngữ bằng tiếng Anh và chữ viết tắt bằng mẫu tự La tinh ra khỏi giới truyền thông. Tức là không có phòng 2B hay dãy A nữa, và cũng xin là không có viết tắt NBA hay WTO. Các cơ quan cần phải mang tên theo bính âm Hán ngữ thay vì theo tiếng Anh, tức là Beijing Minzu University thay vì Central University for Nationalities.

 

Tất nhiên, đó là việc nhỏ, cũng như lần bài ngoại quá lố của Dương Duệ trong mùa Xuân 2012. Dương, ngôi sao của đài truyền hình nhà nước CCTV và nổi tiếng ở đó như là người chủ nhà thân thiện của chương trình Dialogue, bất thình lình chửi mắng những người nước ngoài sống ở Trung Quốc: “Những người không tìm thấy việc làm ở Hoa Kỳ và châu Âu tới Trung Quốc lấy cắp tiền của chúng ta, mua bán người và lan truyền đi những lời dối trá.”

 

Không thể hiểu được tất cả những bùng phát dân tộc chủ nghĩa đó nếu như không nhìn lại lịch sử Trung Quốc gần đây. Chính những người đang cầm quyền rất thích chỉ tới – và điều đó cũng không phải là không đúng – “thế kỷ bị sỉ nhục”, thời gian từ khi cuộc Chiến tranh Thuốc phiện lần thứ nhất bắt đầu năm 1839 cho tới khi chiến thắng được nước Nhật năm 1945. Trong hơn 100 năm này, Trung Quốc hầu như luôn là nạn nhân của xâm chiếm và đàn áp – lúc đầu là bởi nhiều thế lực Phương Tây và rồi sau đó bởi nước Nhật. Phương Tây rất thích đuổi đi những hành động xấu xa này, những cái mà họ đã gây ra cho dân tộc Trung Quốc. Nhưng Phương Tây cũng không nên đối xử một cách phi lịch sử như vậy, vì chỉ có thể giải thích được nhiều động thái của Trung Quốc ngày nay khi người ta biết được quá khứ này.

 

Cái gai của sự sỉ nhục này vẫn còn cắm sâu trong người dân Trung Quốc. Cảm giác này được truyền lại từ thế hệ này sang thế hệ khác và ngày nay vẫn còn có mặt ở khắp nơi. Vật Vong Quốc Sỉ – Đừng quên sự sỉ nhục quốc gia – vẫn còn nằm trên nhiều tượng đài kỷ niệm và tòa nhà. Và cũng để cho đừng quên, nhiều bảo tàng đã được thành lập trên khắp nước trong những năm vừa qua – từ Bảo tàng Chiến tranh Thuốc Phiện ở Quảng Châu cho tới Nanjing Massacre Memorial Hall ở Nam Kinh.

 

Đảng và chính phủ bảo tồn cảm giác là nạn nhân này. Cho tới ngày nay, nhiều người Trung Quốc vẫn còn cảm thấy bị sỉ nhục và hỏi: Sao các anh chống chúng tôi? Tại sao truyền thông các anh lại viết xấu như thế về chúng tôi? Họ bực dọc – nhưng trong thời gian của Thế Vận Hội 2012 ở London – khi các nữ vận động viên bơi lội Trung Quốc, chỉ vì họ bỏ xa các đối thủ Phương Tây, bị cáo buộc doping, cứ như ở Phương Tây không có trường hợp doping nào. Lúc nào – lời lên án là như thế – Trung Quốc cũng là một mối đe dọa, và lúc nào Trung Quốc cũng là xấu.

 

Bất cứ lúc nào Phương Tây tấn công Trung Quốc bằng lời nói hay tấn công thật sự, Trung Quốc cũng đều rút lá bài dân tộc ra. Như trong vụ ném bom sứ quán Trung Quốc ở Belgrad trong tháng 5-1999; như trong vụ chiếc máy bay tuần tra EP3 của Mỹ thâm nhập vào không phận Trung Quốc trong tháng 4-2001; cũng như tại những xung đột thường xuyên xảy ra với Nhật. Luôn có những chấn động dữ dội và ngắn trong người dân. Người dân trật tự kéo ngang qua sứ quán của các nước bị lên án, hô vang một vài câu khẩu hiệu giận dữ và ném chai nhựa. Và vào ngày kế tiếp, chậm nhất là vào ngày kế đó nữa – đạo diễn nhà nước muốn vậy – thì sự việc chấm dứt.

 

Nhưng sẽ như thế nào nếu như người dân không tuân lời đạo diễn nữa? Sẽ như thế nào nếu như chủ nghĩa dân tộc tiềm ẩn này trở nên độc lập? Điều gì sẽ xảy ra nếu như người dân không tuân theo lời của Đảng nữa mà tuân theo lời của một vài kẻ khiêu khích đang được khoan dung cho, những kẻ rõ ràng là đang hiện diện? Đó là tác giả của những quyển sách như "Trung Quốc bất hạnh" hay "Trung Quốc hãy đứng dậy". Cả hai đều đứng ở hàng đầu trên danh sách bán chạy trong những năm vừa qua.

 

Tư tưởng nào đứng ở đằng sau đó, điều này thì người ta có thể trải nghiệm thực sự qua lời nói của Vương Hiểu Đông, người đã viết nhiều chương của quyển "Trung Quốc bất hạnh". Khi một phóng viên BBC hỏi ông trong căn hộ đơn sơ của ông, rằng Trung Quốc có cần một quân đội hùng mạnh và chuẩn bị sẵn sàng cho một cuộc chiến tranh hay không, Vương trả lời: “Tất nhiên rồi. Một đất nước hùng cường như Trung Quốc tất nhiên là cũng cần một quân đội hùng mạnh, và là một quân đội có thể chiếm lĩnh được bất cứ góc nhỏ nào của thế giới này. Đó cần phải là viễn tưởng của chúng tôi”

 

Và nó đã bắt đầu trong không gian ảo rồi.

 

Chiến tranh mạng – Một chiều mới của chiến tranh

 

Bất thình lình tối như mực. Các đoàn tàu điện ngầm kẹt lại trong những đường hầm dưới mặt đất, đèn giao thông không bật cả xanh lẫn đỏ, máy bay không thể đáp xuống ở JFK lẫn La Guardia. Giao thông hỗn loạn ở New York. – Khoa học viễn tưởng? Phim của Hollywood? Một vụ tập kích của AL-Qaida?

 

Không phải, một ác mộng của những nhà chiến lược quân sự Mỹ: Một thế lực ngoại quốc tấn công mạng lưới điện của các thành phố lớn ở Mỹ. Và không phải bằng những loại vũ khí lỗi thời như tên lửa mà với một con virus máy tính qua Internet. Hoàn toàn không có đổ máu, chỉ nhiễm khuẩn. Trong lúc tấn công, địch thủ còn chẳng phải đứng dậy từ bàn làm việc của mình và có thể vừa ngoác miệng cười vừa quan sát thiệt hại gây ra từ xa, ở cạnh chiếc máy tính bàn hay máy tính xách tay của mình.

 

 

Lần đầu tiên Hoa Kỳ truy tố đại diện nhà nước

Trung Cộng vì do thám kinh tế qua mạng internet

 

Chiến tranh mới chắc sẽ trông như thế đó. Chiến tranh đã có một chiều mới, trong nghĩa đen thật sự của từ này – chiều thứ năm. Sau đất liền, nước, trên không và vũ trụ bây giờ là không gian ảo. Các chuyên gia nói về chiến tranh mạng.

 

Và trong cuộc chiến này thì vũ khí được phân bổ mới. Ở đây thì hầu như tất cả đều bắt đầu từ con số không, tức là có vũ khí ngang nhau. Và đó là một cơ hội lớn của những nước sắp trở thành nước công nghiệp như Trung Quốc. Ở xe tăng, tên lửa và tàu chiến – vũ khí cũ của thế kỷ 20 – có thể còn có một cái hố sâu giữa Trung Quốc và người Mỹ, nhưng không ở vũ khí mạng. “Ở đó, khoảng cách giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ rất nhỏ”, sử gia người Anh Niall Ferguson nói, “Trung Quốc có thể là một đối thủ rất hung hãn.”

Vì vậy mà cả trong lĩnh vực này người Mỹ cũng xem Trung Quốc như là địch thủ lớn nhất. Tác giả và là giáo sư kinh tế Peter Navarro quả quyết: “Hacker đỏ của Trung Quốc đã thâm nhập vào NASA, Lầu Năm Góc và Ngân hàng Thế giới.” Và cả bản báo cáo 2011 của Office of the National Counterintelligence Executive cũng không ngần ngại nêu thẳng tên Trung Quốc như là “người thực hiện những cuộc tấn công mạng tích cực nhất và kiên quyết nhất ở Hoa Kỳ”. Trong tháng 2-2013, công ty an ninh Hoa Kỳ Mandiant công bố một nghiên cứu gây chú ý mà trong đó họ nghi ngờ một đơn vị quân đội (số 61398) ở Thượng Hải đã thực hiện những cuộc tấn công theo dạng hacker vào các cơ quan và công ty Mỹ.

 

Cả người Đức mà ngoài ra thì hay dè dặt hơn cũng công kích Trung Quốc. Một “phần rất lớn” các cuộc tấn công mạng vào cơ quan và doanh nghiệp Đức mang dấu ấn Trung Quốc, chính phủ liên bang [Đức] tuyên bố. “Việc Trung Quốc lấy thông tin từ khắp nơi trên thế giới không phải là một việc bí mật”, Berthold Stoppelkamp, lãnh đạo Nhóm hoạt động về an ninh kinh tế. Bộ Nội vụ [Đức] ghi nhận tròn 1600 cuộc tấn công trên mạng vào các máy tính của cơ quan nhà nước. Hơn phân nửa đến từ Trung Quốc, theo bộ này.

 

Người Trung Quốc giận dữ phủ nhận tất cả các cáo buộc này – từ Đức hay từ Hoa Kỳ. “Không có chiến tranh mạng giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ”, thứ trưởng Bộ Ngoại giao Thôi Thiên Khải nói. “Vâng, có hacker tấn công Internet của Mỹ, nhưng mà cả của Trung Quốc nữa. Nhưng họ không đại diện cho một quốc gia đặc biệt.” Những lời tố cáo là “không có cơ sở và phản ảnh tinh thần Chiến tranh Lạnh”. Để đáp trả, giới quân đội Trung Quốc lên án Hoa Kỳ đang chuẩn bị một cuộc “chiến tranh Internet”.

 

Thế nào đi nữa thì cả hai bên đều tăng cường vũ trang. Tháng 5-2010, Hoa Kỳ thiết lập United States Cyber Command (USCybercom). Cơ quan này có trụ sở ở Fort Meade tại Maryland. Sếp của đơn vị mới này là tướng Keith B. Alexander. Ông gọi việc đánh cắp trên mạng là “chuyển giao sự giàu có lớn nhất trong lịch sử.” Để ngăn chận việc này, trong tháng 7-2011, Lầu Năm Góc đã đưa ra một chiến lược đe dọa trên mạng với cái tên Strategy for Operation in Cyberspace. Mục tiêu không được nói ra của tài liệu 19 trang này: Trung Quốc.

 

Ở Trung Quốc, từ 2005 đã có một đơn vị quân đội chuyên về mạng trong Quân đội Giải phóng Nhân dân. Người ta không biết nhiều về hoạt động của Trung Quốc trong lĩnh vực này. Ngoài ra, người ta cho rằng còn có một đơn vị quân đội bao gồm nhiều hacker tinh hoa, có nhiệm vụ bảo vệ đất nước trước những cuộc tấn công mạng. “Đạo quân Xanh” này được cho là chỉ bao gồm 30 người. Đó là những người tài giỏi nhất mà đất nước này có được. Tại số đông khổng lồ của hacker ở Trung Quốc thì người ta có thể tưởng tượng là những người được lựa chọn này có tài năng cho tới đâu.

 

Hoa Kỳ cũng đã “tập dượt” một cuộc tấn công mạng. Với con virus máy tính có tên Stuxnet, họ đã làm tê liệt nhà máy nguyên tử Iran Nataz. Trong các nhà máy điện nguyên tử, hàng năm máy ly tâm bất thình lình phát rồ lên. Ngay George W. Bush đã khởi động một chương trình bí mật với tên mật Thế Vận Hội để tấn công nhà máy Iran qua mạng. Obama đẩy mạnh chương trình này và cuối cùng ra lệnh tấn công. Mãi tới tháng 6-2012 mới lộ ra rằng Stuxnet là một cộng tác phát triển của Hoa Kỳ và Israel.

 

Chiến dịch Stuxnet là một chiến dịch hoàn toàn không đổ máu. “Virus máy tính có phải là những quả bom nguyên tử của kỷ nguyên số?”, Nils Minkmar hỏi trên tờ Nhật báo Phổ thông Frankfurt – với khác biệt quan trọng là nó không cướp đi sinh mạng con người. Tức là chúng ta đang đứng trước ngưỡng của những cuộc chiến tranh mới không có nạn nhân?

 

Chuyên gia chiến tranh mạng Richard A. Clarke không tin vào một thế giới chiến tranh lành lặn như vậy: “Tôi có thể tưởng tượng là trong tương lai, hai quốc gia độc lập vào lúc ban đầu có thể chống nhau trong không gian ảo – nhưng một cuộc chiến tranh như vậy sẽ không ở trong không gian ảo mãi đâu.”

 

Giành ngôi cường quốc thế giới: Trung Quốc chống Hoa Kỳ

 

“Các nhà chiến lược của cả hai nước đều lập kế hoạch với khả năng của một cuộc chiến Hoa Kỳ – Trung Quốc.” Gideon Rachman, bình luận trưởng của Financial Times.

 

Trong lịch sử thế giới, bao giờ cũng có cường quốc đến và cường quốc đi. Robert Gilpin gọi đó là “Chu kỳ bá chủ”. Thế giới – nhà chính trị học người Mỹ nói như vậy – phải chịu lời nguyền của một cuộc cạnh tranh liên tục giữa các cường quốc. Lúc nào cũng có người bảo vệ quyền lực và kẻ thách thức đứng chống nhau. Đã như thế rồi ngay từ trong nước Hy Lạp cổ xưa, khi Sparta đứng dậy chống Athena. Và ngày nay cũng thế, khi Trung Quốc tấn công vị thế của Hoa kỳ như là cường quốc đứng đầu thế giới.

 

Thường – và đó là điều nguy hiểm ở tình huống này – thì những lần chuyển đổi quyền lực như thế này được đi kèm bởi xung đột quân sự. Vì vậy mà hiện nay nhiều nhà quan sát tình hình thế giới đưa ra câu hỏi đầy lo lắng: Lần tranh giành quyền lực này giữa cường quốc thế giới cũ và mới, giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc, có diễn ra trong hòa bình hay không?

 

Nếu hỏi những người đang nắm quyền lực của hai cường quốc thì người ta sẽ nghe được những từ ngữ giận dữ. “Trung Quốc không bao giờ hướng tới quyền bá chủ”, Tập Cận Bình, sếp Đảng và nhà nước mới tuyên bố khi ông lần đầu tiên gặp khách nước ngoài sau khi lên ngôi vào đầu tháng 12-2012. “Chúng tôi không phải là một mối đe dọa quân sự cho Trung Quốc”, theo chính phủ Obama.

 

Cả hai tuyên bố có thể là nghiêm túc, nhưng chúng không nhận ra rằng cả hai quốc gia này đã bị giam giữ trong một tình thế tiến thoái lưỡng nan kinh điển. Ai cũng tin rằng những cố gắng về mặt quân sự của mình chỉ thuần túy là để tự vệ, nhưng người kia thì lại cảm nhận chúng như là một sự công kích. Josef Braml từ Hội Đức về Chính sách Đối ngoại (Deutsche Gesellschaft für Auswärtige Politik – DGAP) nói: “Khi chúng ta nhìn Trung Quốc như là một mối đe dọa về quân sự thì nó sẽ trở thành một mối đe dọa.” Hiện tượng này có tên là self-fulfilling prophecy.

 

Từ Trung Quốc cũng như từ Hoa Kỳ, mối nguy hiểm của sự leo thang này bị phớt lờ một cách ngang ngạnh. Họ cứ tiếp tục đường lối đối đầu của họ. Trung Quốc vẫn tiếp tục vươn tới vị thế bá quyền trong khu vực, tức là đi theo một học thuyết Monroe không được nói ra. Người Trung Quốc muốn là ông chủ trong ngôi nhà châu Á. Trong lúc đó, người Mỹ hiện đang sống cùng xem họ như là những người đang xâm nhập vào, những người không thuộc vào trong đó. Vì vậy mà họ cố gắng, ngay cả khi họ không nói ra điều đó, giữ không cho người Mỹ vào ít nhất là phần phía Tây của Thái Bình Dương và phát triển những vũ khí tương ứng để đạt tới điều đó.

 

Hoa Kỳ chống lại việc đó. Họ không muốn và cũng sẽ không rời bỏ vùng phía Tây của Hawaii một cách hòa bình. Còn ngược lại là đàng khắc: Sau khi chấm dứt những cuộc phiêu lưu về quân sự ở Cận Đông hay không bao lâu nữa sẽ chấm dứt, họ lại quay lại với vùng Thái Bình Dương nhiều hơn. Khẩu hiệu của Obama: Viễn Đông thay vì Cận Đông.

 

Hải quân Hoa Kỳ ở Thái Bình Dương sẽ được tăng cường trong những năm tới đây. Ngoài ra, Hoa Kỳ liên minh với những bạn bè cũ và mới xung quanh Trung Quốc, để cho giới lãnh đạo của nước này có ấn tượng bị nước Mỹ bao vây.

 

Đó là một sự phát triển nguy hiểm, cái đang diễn ra trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Nếu cuộc Chiến tranh Lạnh thứ nhì trở thành một cuộc chiến tranh nóng thì nó sẽ xảy ra ở trong vùng này. Ngoại trừ trường hợp các đối thủ nhớ lại lịch sử, cái có sẵn và đầy đủ các ví dụ xấu cho những lần chuyển tiếp đầy khó khăn từ cường quốc thế giới cũ sang cường quốc thế giới mới.

 

Khi thế lực trỗi dậy gặp thế lực suy giảm

 

Trong phần ba cuối cùng của thế kỷ 19, Liên hiệp Anh là một cường quốc. Đế quốc Anh bao gồm một phần lớn thế giới. Đất nước này thời đó là quốc gia công nghiệp dẫn đầu và sỡ hữu đội tàu thương mại và tàu chiến lớn nhất.

 

Trên các đại dương, người Anh không có một đối thủ đáng gờm nào.

 

Thế như vào cuối thế kỷ 19 có một đối thủ lớn lên hết sức nhanh chóng trên châu Âu lục địa – Đế chế Đức. Nó rượt đuổi thật nhanh về kinh tế. Và song song với đó, nước Đức tăng cường vũ trang. Người ta đặc biệt chú ý mở rộng hải quân. Người thúc đẩy sự phát triển này là Đại đô đốc Alfred von Tirpitz, người trong tháng 6-1897 được bổ nhiệm làm quốc vụ khanh của Cơ quan Hải quân Đế chế [tương đương với Bộ Hải quân]. Ông là một người theo trường phái Maha, tức là một người ủng hộ cho sức mạnh của hải quân. Trong tháng 6-1900, Quốc hội [Đế chế Đức] dựa trên lời đề nghị của cơ quan ông đã thông qua việc tăng gấp đôi hạm đội Đức. Liên hiệp Anh chấp nhận lời thách thức đó và phản ứng bằng cách đóng nhiều tàu chiến thật to theo kiểu mới, cái mà người Anh đặt cho cái tên là Dreadnought (Không sợ gì). Một gia đoạn tăng cường vũ trang trên biển bắt đầu. Kết thúc cay đắng của nó thì đã biết – cuộc Đệ Nhất Thế chiến.

 

Nhiều sử gia và chính khách so sánh tình hình của thời đó với tình hình của ngày hôm nay. Lần này thì chỉ khác về nhân vật. Trung Quốc đang trỗi dậy gặp nước Mỹ đang suy yếu. Nước Mỹ đóng vai trò của Liên hiệp Anh, Trung Quốc vai trò của nước Đức. Cố vấn chính trị người Mỹ và cũng là tác già Robert Kagan nhìn thấy những điều tương tự: “Giới lãnh đạo Trung Quốc nhìn thế giới tương tự như Hoàng đế Wilhelm II đã làm trước đây một thế kỷ.”

 

Trong lịch sử hay, vâng, thường xuyên xảy ra xung đột khi một cường quốc đang trỗi dậy gặp một cường quốc đang suy tàn. Sử gia giải thích nhiều cuộc chiến tranh với sự chuyển tiếp từ một nhà bá chủ này sang một bá chủ khác. Khi một cường quốc lung lay thì trật tự thế giới mà cho tới chừng đó vẫn còn có hiệu lực cũng sẽ lâm vào tình trạng vô trật tự. Có đủ những ví dụ trong lịch sử cho những đế quốc thất bại: Đế quốc La mã, Đế quốc Tây Ban Nha, Đế quốc Ottoman và Đế quốc Anh.

 

Trường hợp đầu tiên diễn ra trong Hy Lạp Cổ đại. Athen thống trị một mình cho tới lúc đó gặp phải Sparta thách thức. Trong thế kỷ thứ 5 trước Công Nguyên, Chiến tranh Peloponnesus đã xảy ra, cuộc chiến mà nhà chép sử Hy Lạp Thukydides đã ghi lại một cách đầy ấn tượng. Đó là xung đội quân sự lớn đầu tiên giữa một cường quốc đang trỗi dậy và một cường quốc đang suy giảm. Nhiều cuộc thay đổi quyền lực khác đã tiếp theo sau đó trong diễn tiến của lịch sử.

 

Phần nhiều đều không diễn ra một cách hòa bình. Cơ hội để mà một chuyển đổi từ một cường quốc thế giới cũ sang một cường quốc thế giới mới diễn ra không có xung đột là 1-2. Thế nào đi nữa thì người ta có được kết quả này nếu như tin vào các nghiên cứu của nhà chính trị học Harvard Graham Allison. Ông nghiên cứu trong thời gian từ năm 1500 tất cả các trường hợp mà trong đó một quyền lực đang trỗi dậy thách thức một quyền lực đang thống trị. Kết quả đáng ngại của ông: trong 11 của 15 trường hợp đã dẫn tới chiến tranh.

 

Có mối đe dọa của một cuộc chiến như thế giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ hay không?

 

Có, cũng có. Nhưng giữa 2 nước còn có một lý do chiến tranh nữa, cái có một nguồn gốc hoàn toàn khác.

 

Đài Loan – Yên lặng trước cơn bão?

 

Đang có im lặng tương đối xung quanh hòn đảo Đài Loan. Đó trước hết là công lao của Mã Anh Cửu, người được bầu lại vào chức vụ tổng thống trong tháng 3-2012 sau nhiệm kỳ bốn năm đầu tiên. Ứng cử viên này của Quốc Dân Đảng cố tìm sự cân bằng với nước Cộng hòa Dân nhân quá mạnh, vẫn tiếp tục nhìn hòn đảo như là một tỉnh bội phản và rất muốn lấy nó trở về với đất nước khổng lồ.

 

Mã theo chính sách cân bằng không hướng tới một nền độc lập cho hòn đảo. Đường lối chủ đạo của ông đối với Bắc Kinh là công thức "ba không" – không thống nhất, không độc lập và không dùng bạo lực. Trong tinh thần của chính sách này, Mỹ đã ký kết không ít hơn là 16 hiệp định với nước Cộng hòa Nhân dân, trong số đó là hiệp định quan trọng nhất: The Economic Cooperation Framework Agreement (ECFA). Dự định sẽ có nhiều ưu đãi về thuế quan và qua đó sẽ còn thúc đẩy nền thương mại vốn đã phát triển mạnh giữa hai nước thêm nữa. Nhưng qua đó, Đài Loan sẽ còn phụ thuộc kinh tế nhiều hơn nữa vào Trung Quốc. Ngay từ bây giờ đã có trên 40% hàng xuất khẩu của Đài Loan đi sang Trung Quốc và Hongkong. Đầu tư bạc tỉ chảy đi theo cả hai hướng. Hiện nay đã có không biết bao nhiêu là chuyến bay trực tiếp giữa Đài Loan và Trung Quốc. Doanh nhân cũng như khách du lịch không còn phải đi vòng vất vả qua Cảng hàng không Hongkong nữa.

 

Tức là tất cả đều tốt đẹp giữa Cộng hòa Trung Hoa, như Đài Loan chính thức tự gọi họ, và Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa? Xin hãy cẩn thận, đó có thể là một sự yên lặng lừa dối.

 

Cả hai bên đều có quân đội được vũ trang cao, ngay cả khi Quân đội Giải phóng Nhân dân có lợi thế thấy rõ. Từ 14.000 tới 16.000 tên lửa trên lục địa được hướng tới Đài Loan. Để đối phó với kho vũ khí này, người Đài Loan trước sau vẫn phải dựa vào những xuất khầu vũ khí từ Hoa Kỳ. Chính phủ Đài Loan thường xuyên đưa ra danh sách muốn có tại Washington. Không phải tất cả các ý muốn đều được toại nguyện, nhưng Hoa Kỳ thường xuyên cung cấp vũ khí cho hòn đảo nhỏ. Trong lúc đó, luôn có những tiếng thét vang giống như phản xạ từ người Trung Quốc, khi người Mỹ cung cấp. Cũng như lần mua bán vũ khí mới đây với số tiền là sáu tỉ dollar. Lư Minh Phúc, giáo sư tại Đại học Quốc phòng Quốc gia, hỏi: “Tại sao các anh bán vũ khí cho Đài Loan? Chúng tôi cũng không bán vũ khí cho Hawaii.”

 

Cho tới chừng mào mà đôi bên cứ tiếp tục tăng cường vũ trang thì mối nguy hiểm của một cuộc chiến là có thật. Vấn đề trong lúc đó là cả Trung Quốc lẫn Hoa Kỳ đều không kiểm soát được nhân vật quyết định thứ ba, tức là chính phủ Đài Loan và cuối cùng là người dân Đài Loan. Chính phủ Quốc Dân Đảng hiện nay đang theo đuổi một đường lối mang tính hòa giải, vâng, gần như là âu yếm với Bắc Kinh. Nhưng ai có thể bảo đảm rằng vẫn sẽ như vậy? Điều gì sẽ xảy ra khi Đảng Dân chủ Tiến Bộ (Democratic Progressive Party – DDP) đối lập cầm quyền tại lần bầu cử tới đây?

 

Tuy DDP cũng cải thiện quan hệ của họ với lục địa. “Trung Quốc đang thay đổi, vì vậy mà DDP cũng không nên có ý rằng nó không cần phải thay đổi”, chủ tịch đảng đương nhiệm Tô Trinh Xương nói. Ông Tô thực tế được bầu làm chủ tịch cho tới tháng 5-2014. Nhưng không chắc chắn là ông sẽ đứng ra tranh cử vào lần bầu cử tới đây trong năm 2016. Trong DDP còn có những lực lượng mạnh, ủng hộ một nền độc lập cho hòn đảo. Nếu các lực lượng này giành được quyền kiểm soát trong DDP và rồi tiếp theo sau đó là trong lần bầu cử tổng thống thì rồi chúng ta sẽ có một Casus belli [hành động gây ra chiến tranh]. Và rồi Hoa Kỳ sẽ bị bắt buộc. Vì Taiwan Relations Act. Nó buộc người Mỹ phải giúp đỡ trong trường hợp có xung đột quân sự.

 

“Những người bạn của chúng ta ở Trung Quốc không nên đánh giá quá thấp tình cảm chúng ta giành cho Đài Loan”, Richard Bush và Michael O’Hanlon, chuyên gia Á châu tại Brookings Institution, viết trong quyển sách "A War Like No Other" của họ. Người Mỹ ủng hộ Đài Loan dân chủ, ngược lại, đối với nước Cộng hòa Nhân dân độc tài thì họ có một quan hệ rất căng thẳng.

 

Trung Quốc và Hoa Kỳ nghĩ gì về nhau?

 

Họ rất thích học đại học ở Hoa Kỳ, họ xem phim từ Hollywood và nghe nhạc từ New York, họ theo dõi các cầu thủ NBA trên truyền hình, và họ uống latte macchiatos đắt tiền trong một của những quán cà phê Starbucks mà hiện nay có tại gần như mỗi một ngã tư trong các thành phố lớn Trung Quốc. Nhìn sự hâm mộ của người Trung Quốc đối với văn hóa và tiểu văn hóa Mỹ, người ta có thể cho rằng người Trung Quốc có một mối quan hệ thoải mái với người Mỹ.

 

Thế nhưng mối quan hệ của Trung Quốc với Hoa Kỳ là một mối quan hệ mâu thuẫn. Nó là một "tình yêu - căm thù". Một mặt, nhiều người Trung Quốc ngưỡng mộ tính sáng tạo và lực cải mới – tuy là đang giảm dần – của người Mỹ, mặt khác, Hoa Kỳ đối với họ là địch thủ lớn tầm chiến lược, người mà theo ý họ đang tìm mọi cách để không cho Trung Quốc trở nên hùng cường. Vì vậy mà trong truyền thông nhà nước, nhưng cả trên nhiều trang mạng cá nhân, Hoa Kỳ được xem như là một mối đe dọa.

 

“Sự ngờ vực tầm mang tính chiến lược của Trung Quốc đối với Hoa Kỳ có cội rễ rất sâu xa và trong những năm vừa qua dường như còn sâu thêm nữa”, hai nhà chính trị học Kenneth Lieberthal (Hoa Kỳ) và Vương Tập Tư (Trung Quốc) viết chung trong một bài báo.

Nó tất nhiên là một sự ngờ vực lẫn nhau. Cả người Mỹ cũng có khó khăn với người Trung Quốc và trước hết là quy cho họ tất cả mọi điều xấu có thể nghĩ ra được: người Trung Quốc cướp việc làm của họ, đánh cắp công nghệ của họ và dự định tiến hành một cuộc chiến tranh mạng chống lại họ. Tất cả những nỗi lo sợ không rõ nét này đã nổi lên trong lần tranh cử của năm vừa rồi, khi cả Mitt Romney lẫn Barack Obama luôn với tới công cụ China-Bashing [Đánh Trung Quốc].

 

Cũng như ở Trung Quốc, mối quan hệ với Trung Quốc ở Hoa Kỳ cũng mâu thuẫn. Một mặt, người ta nhìn những thành công hết sức nhanh chóng của Trung Quốc về mặt kinh tế với một sự ngưỡng mộ nào đó, mặt khác, người ta khinh thường hệ thống chính trị độc tài. Đặc biệt giới tinh hoa Mỹ rất chia rẽ trong câu hỏi "đất nước của họ phải đối xử như thế nào với Trung Quốc phi dân chủ đang hùng mạnh lên?". Hố chia cắt sâu nhất là trong giới trí thức Mỹ, nơi có hai phái đứng đối diện với nhau mà không thể hòa giải được – dragon slayer và panda hugger – hay theo một cách phân chia phổ biến khác – blue team chống red team.

 

Thuộc đội đỏ, những người hiểu Trung Quốc, ngoài những người khác là cựu Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Henry Kissinger, hai nhà trí thức Kenneth Lieberthal và John Thornton của Brookings, Charles Freeman (Center for Strategic and International Studies, CSIS) và các đại diện của U.S.-China Bunisess Council. Đứng trong đội xanh đối nghịch là cựu sếp Ngân hàng Thế giới Paul Wolfowitz, nhà báo Bill Gertz của Washington Times cũng như giáo sư kinh tế và tác giả (Death by China) Peter Navarro.

 

Hai phái tiến hành những cuộc tranh luận gay gắt. Đó một phần là những cuộc thảo luận mang nhiều xúc cảm. Nhưng cuối cùng thì cũng là việc hết sức quan trọng. Đó là câu hỏi "Liệu Hoa Kỳ có vẫn còn là nhà hoạt động toàn cầu quyết định tất cả mọi việc hay sẽ mất vai trò dẫn đầu về tay Trung Quốc?".

 

Khán giả Mỹ theo dõi cuộc đấu tay đôi này như thế nào? thiện cảm của họ nằm ở đâu? Dường như đa số họ ủng hộ cho đội xanh. Vì theo một khảo sát của Gallup, "Trung Quốc được xem như là kẻ thù lớn thứ nhì của đất nước". Chỉ về Bắc Triều Tiên là người Mỹ có một ý kiến xấu hơn vậy.

 

Hoa Kỳ đối xử với Trung Quốc như thế nào?

 

Chủ tịch Trung Quốc lúc đó, Hồ Cẩm Đào, đã đáp xuống căn cứ không quân Andrews gần Washington vào buổi chiều của ngày 17-01-2011. Vào buổi tối – theo nghi thức là sự công nhận cao nhất cho một người khách nhà nước – có buổi ăn tối riêng với tổng thống trong Tòa Nhà Trắng. Vào ngày hôm sau, 21 phát súng đại bác chào mừng người khách Trung Quốc. Cái ngày có nhiều sự kiện đó chấm dứt với một buổi chiêu đãi có nhiều người nổi tiếng hiện diện, cả từ ngành kinh doanh giải trí nữa. Sau khi ăn tôm hùm và bánh táo, huyền thoại nhạc Jazz Mỹ Herbie Hancock và người chơi dương cầm Trung Quốc Lang Lãng đã biểu diễn.

 

 

Hồ Cẩm Đào thăm chính thức Hoa Kỳ

 

Đó là một cuộc họp thượng đỉnh không có những tiếng nói nghịch tai và đầy sự hài hòa, cái đã diễn ra vào đầu năm 2011 ở Hoa Kỳ. Sau đó, Hồ Cẩm Đào đã nói về một tình thế hai bên cùng có lợi. Các vị khách Trung Quốc thích coi trọng địa vị đã hài lòng, vì họ đã được tiếp đón với những nghi thức danh dự cao nhất, và tổng thống hai cường quốc có thể nói là đã gặp nhau ngang tầm. Chủ nhà Mỹ vui mừng vì hợp đồng xuất khẩu có giá trị 45 tỉ dollar đã được ký kết.

 

Tất nhiên là có ích và cần thiết, việc người Trung Quốc và người Mỹ đàm thoại với nhau – nhất là trên bình diện cao nhất. Nhưng họ có nói cùng tiếng nói không? Họ có hiểu nhau không? Ở đây thì sự nghi ngờ là thích đáng. “Vấn đề chính trong quan hệ giữa hai nước là sự nghi ngờ lẫn nhau”, Paul Gewitz, giám đốc của China Law Center ở Đại học Yale nói.

 

Nó là một sự ngờ vực đã đi kèm theo quan hệ của hai quốc gia từ 1949, với cường độ khác nhau. Quan hệ giữa hai nước luôn dao động rất lớn. Nó luôn phụ thuộc vào thời tiết chính trị thế giới đang thống trị. Trong quyển "A Contest for Supremacy" của ông, giáo sư Princeton Aaron Friedberg đã chia các quan hệ của hai cường quốc ra thành ba thời kỳ – mỗi thời kỳ bao gồm 20 năm. Ngay sau khi Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa được thành lập năm 1949, người Mỹ đã bắt đầu cô lập và làm mất ổn định Trung Quốc cộng sản. Đó là thời cao trào chống cộng sản ở Hoa Kỳ. Trung Quốc cố gắng xuất khẩu cuộc cách mạng của mình ra thế giới thứ ba. Hoa Kỳ muốn ngăn chận điều đó.

 

Giai đoạn ngăn chận Trung Quốc đầu tiên này kéo dài cho tới 1969. Chậm nhất là cho tới lúc đó, người Mỹ nhận ra rằng kẻ thù không phải ngồi ở Bắc Kinh, mà là ở Moscow. Trung Quốc đã lộ ra rằng mình là một con cọp giấy, nước Nga ngược lại – ít nhất thì người ta đã tin là như vậy vào thời đó – là một con gấu hung hãn. Vì lúc đó Liên bang Xô viết và nước Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc đang đi trên những con dường khác nhau để tiến lên thiên đàng cộng sản, và vì vậy mà tranh cãi với nhau, nên người Mỹ cư xử theo khẩu hiệu “kẻ thù của kẻ thù mà bạn của tôi” và đã tiến gần tới Trung Quốc dưới thời tổng thống Nixon lúc đó. Liên minh Trung Quốc – Hoa Kỳ này kéo dài đúng hai mươi năm – cho tới khi cuộc Chiến tranh Lạnh chấm dứt năm 1989. Rồi Liên bang Xô viết sụp đổ. Mặt trận hệ tư tưởng – ở đây là thế giới tự do, ở đó là thế giới cộng sản – thuộc về quá khứ. Vì vậy mà Hoa Kỳ không còn cần Trung Quốc như là đồng minh trong cuộc chinh chiến chống vương quốc Xô viết xấu xa nữa.

 

Sau 1989, một thời kỳ rất mâu thuẫn của quan hệ Mỹ - Trung bắt đầu, cái mà nhiều nhà quan sát Hoa Kỳ mô tả với từ congagement. Từ mới này là một sự lai ghép từ containment und engagement, tức là ngăn chận và ràng buộc.

 

Mâu thuẫn này là hậu quả từ sự lưỡng lự của giới lãnh đạo Mỹ trong việc họ cần phải đối xử như thế nào với Trung Quốc ngày một mạnh lên. Trung Quốc đối với họ không phải là bạn mà cũng không phải là thù. Và Trung Quốc đối với Hoa Kỳ đồng thời là đối tác, nhưng cũng là kình địch. Dù là Bill Clinton, George W. Bush hay Barack Obama – tất cả ba tổng thống Hoa Kỳ đều không có đường lối rõ ràng trong chính sách Trung Quốc của họ. Clinton và Bush, vào đầu nhiệm kỳ của họ, đã nện vào Trung Quốc, để rồi trong những năm sau đó càng lúc càng thân thiện hơn. Ở Obama thì ngược lại. Vào đầu nhiệm kỳ đầu tiên của mình, ông đã cố gắng đi theo một đường hướng ôm ấp với Bắc Kinh (cái tuy vậy đã không nhận được nhiều tình yêu thương đáp trả từ ở đó), để rồi quay sang một đường lối cứng rắn hơn với Trung Quốc.

 

Obama sẽ hành động như thế nào đối với Trung Quốc trong nhiệm kỳ thứ hai của ông? Quan hệ sẽ có nhiều xung đột hơn, ngay cả khi các bộ trưởng mới của ông John Kerry (Bộ trưởng Bộ Ngoại giao) và Chuck Hagel (Bộ trưởng Bộ Quốc phòng) là bồ câu nhiều hơn là diều hâu. Vì Obama muốn mở rộng hoạt động của người Mỹ ở khu vực Thái Bình Dương. Ông đã tuyên bố điều đó váo cuối nhiệm kỳ đầu của ông. Bây giờ thì ông muốn để cho hành động đi theo lời nói trong nhiệm kỳ thứ hai của chính phủ ông.

 

Mỹ trở lại châu Á

 

Vào ngày 17-11-2011 Barack Obama đọc một bài diễn văn lịch sử trước Quốc hội Úc ở Canberra. Hoa Kỳ trong tương lai sẽ quan tâm nhiều hơn tới khu vực châu Á - Thái Bình Dương, tổng thống nói, người được sinh ra trên Hawaii và đã sống một vài năm ở Indonesia, và qua nơi sinh mà cảm nhận mình là một tổng thống của Thái Bình Dương. Hoa Kỳ – theo Obama ở Canberra – sẽ đóng một vai trò lớn hơn và mang tính lâu dài trong việc định hình khu vực này. Và rồi ông nói câu hẳn là đã được trích dẫn nhiều nhất từ bài diễn văn này: “Hoa Kỳ là một cường quốc Thái Bình Dương và chúng tôi tới đây để ở lại đây.”

 

 

Tổng thống Obama phát biểu trước Quốc hội ở Canberra

 

Bài diễn văn Canberra là đỉnh cao của một cuộc tấn công trên truyền thông của người Mỹ. Từ nhiều tháng trước đó, trong nhiều bài báo, phỏng vấn và diễn văn, các bộ trưởng quan trọng nhất của Obama đã tuyên bố rằng Hoa Kỳ sẽ trở lại như là một cường quốc Thái Bình Dương. Như Hillary Clinton trong một bài diễn văn tại East-West Center ở Honolulu, rằng thế kỷ 21 của Mỹ sẽ là thế kỷ Thái Bình Dương. “Thay vì lui về”, theo Clinton ở Hawaii, “chúng ta phải thể hiện sự hiện diện và nhấn mạnh tới yêu cầu lãnh đạo của chúng ta.” Sự định hướng mới sang Viễn Đông này của chính sách ngoại giao và an ninh Mỹ được gọi là pivot, chuyển trục.

 

Lần trở lại châu Á này của Mỹ, được tuyên bố rất hoành tráng và hùng hồn, khiến cho người ta nghĩ rằng Hoa Kỳ đã không có mặt ở đây. Nhưng họ có thật sự là đã từng đi khỏi không? Tuy trong thời của Bush, người Mỹ chú tâm tới vùng này có ít hơn một chút vì các hoạt động ở nơi khác (Afghanistan, Iraq), nhưng quân đội của họ lúc nào cũng có mặt ở châu Á.

 

Nhưng cái mới ở đây là việc quân đội Hoa Kỳ ở Viễn Đông sẽ được tăng cường – mặc cho những vấn đề lớn về ngân sách ở Washington. Lầu Năm Góc phải tiết kiệm ở mọi nơi mọi chỗ, nhưng ngoại trừ khu vực Thái Bình Dương. Obama nói hết sức rõ ràng ở Canberra: “Việc cắt giảm ngân sách quốc phòng của Hoa Kỳ sẽ không – tôi nhắc lại – không phương hại gì tới kế hoạch ở châu Á - Thái Bình Dương.”

 

Điều đó có nghĩa cụ thể như thế nào, nguyên Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Leon Panetta đã giải thích vài tháng sau đó ở Singapore. Trước hết là Thủy Quân Lục Chiến sẽ thể hiện sự hiện diện nhiều hơn nữa trên các vùng biển Thái Bình Dương. Nếu như sự hiện diện của tàu chiến Mỹ giữa Đại Tây Dương và Thái Bình Dương cho tới nay được phân chia theo tỷ lệ 50:50 thì trong tương lai nó sẽ là 60:40 nghiên về cho Thái Bình Dương. Sáu chiếc hàng không mẫu hạm sẽ có mặt liên tục ở Thái Bình Dương. Và ở Singapore, Panetta cũng tuyên bố trước giới quân đội đã tụ họp lại của vùng này: “Trong những năm tới đây, chúng tôi sẽ tăng số lần cũng như quy mô những cuộc tập trận của chúng tôi ở Thái Bình Dương.”

 

Vùng này hiện nay quan trọng như thế nào đối với giới quân sự Mỹ, điều này cũng có thể nhận biết được qua việc Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Mỹ và Martin E. Dempsey, Tổng tham mưu trưởng, cứ hai tuần một lần là có một hội nghị video với viên Tổng Chỉ huy khu vực Đô đốc Samuel J. Locklear. Theo thông tin từ Lầu Năm Góc, một trao đổi liên tục như vậy thông thường là chỉ với những vùng đang có chiến tranh.

 

Người Á phản ứng như thế nào trước sự trở lại của người Mỹ? Mâu thuẫn. Đồng minh như Nhật Bản thì chào mừng bước đi này. Ấn Độ cũng vỗ tay, nhưng có hơi dè dặt. Ở Malaysia và Indonesia thì người ta dè dặt hơn. Ở đó, người ta lo ngại rằng căng thẳng trong vùng do sự kình địch giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc mà sẽ tăng lên. Đặc biệt các quốc gia ASEAN lo ngại rằng người ta sẽ bị lôi kéo trong một cuộc xung đột giữa hai cường quốc. Những nước này muốn không phải ủng hộ một phía. Vì vậy mà trước tiên là họ tìm tới quan hệ tốt với cả hai. Với Trung Quốc, vì gã khổng lồ châu Á là đối tác kinh tế quan trọng nhất của họ; với Hoa Kỳ vì nước này đưa cho họ sự an toàn cần thiết, nếu như người Trung Quốc phát triển và muốn thỏa mãn những thèm muốn bá chủ toàn cầu hay ít nhất là trong vùng.

 

Nhưng người Đông Nam Á còn có thể đi dây như vậy thêm bao nhiêu lâu nữa? Khi nào thì giờ khắc quyết định sẽ đến?

 

Ngay từ bây giờ đã có thể nhận thấy được rằng liên minh ASEAN đang vỡ ra và có nguy cơ tan rã ra thành hai phe, một phe theo Trung Quốc và một phe theo Mỹ. Hai thế lực này đang ra sức ve vãn tình cảm ở trong vùng. Mới đây, Hoa Kỳ đã bổ nhiệm một đại sứ tại ban thư ký ASEAN ở thủ đô Jakarta của Indonesia, như là một dấu hiệu cho sự gắn bó mới của họ.

 

Người Đông Nam Á đang ở trong một tình thế tiến thoái lưỡng nan. Họ không có nhiều tự do lựa chọn. Ngay từ bây giờ thì từ ngữ “Phần Lan hóa” đã lan đi trong vùng này. Vào thời của một Chiến tranh Lạnh lần thứ nhất, cung cách đối xử rẻ tiền, thận trọng của Phần Lan đối với láng giềng Liên bang Xô viết to lớn của họ được gọi là Phần Lan hóa. Các quốc gia láng giềng châu Á của Trung Quốc bây giờ đang ở trong cùng một vai trò như Phần Lan ngày xưa. Họ phải tự dàn xếp như thế nào đó với gã khổng lồ hùng mạnh ở phía Bắc.

 

Ngay cả Australia xa xôi hơn một chút cũng bị vướng vào trong cùng một tình thế tiến thoái lưỡng nan như các nước láng giềng châu Á trong vùng. Cả châu lục thứ năm cũng phụ thuộc vào Trung Quốc về mặt kinh tế, nhưng phụ thuộc Hoa Kỳ về mặt chính trị - quân sự. Câu hỏi, Australia trong tương lai phải hướng tới ai, được thảo luận sôi nổi. Chuyên gia quốc phòng và giáo sư chính trị Hugh White đã kêu gọi trong bài viết được chú ý và thảo luận nhiều của ông, "Power Shift: Australia’s Future Between Washington and Beijing", rằng Hoa Kỳ và Trung Quốc cần phải cộng tác trong vùng thay vì kình địch với nhau. Tuy vậy, điều đó có nghĩa là người Mỹ phải lui bước. Do đó mà White đề nghị: “Chúng ta nên thuyết phục người Mỹ ở lại, nhưng không thống trị.”

 

Hiện giờ thì tất nhiên là trông không có vẻ như người Mỹ sẽ trở nên khiêm tốn hơn trong vùng này. Còn ngược lại: Họ – cũng như người Trung Quốc đang tăng cường vũ trang và bành trướng lãnh thổ – đang chơi một trò chơi kép. Họ muốn bao vây Trung Quốc về mặt quân sự và ngăn chận về mặt kinh tế.

 

Một khối thương mại chống Trung Quốc

 

Một vùng tự do thương mại quanh Thái Bình Dương: bên này là các quốc gia châu Mỹ, bên kia là các quốc gia châu Á – đó là giấc mơ to lớn của người Mỹ, giấc mơ mà họ muốn hiện thực nó trong những năm tới đây. Giấc mơ này mang cái tên tương đối phi lãng mạn Trans-Pacific Partnership (TPP). Mười một quốc gia hiện đang thương lượng về một hiệp ước như vậy, trong đó là Hoa Kỳ, Spiritus Rector [“tinh thần dẫn đầu”] của TPP, Australia, Việt Nam, Singapore và Malaysia. Nước Nhật cũng đã bày tỏ sự quan tâm của mình.

 

 

Trans-Pacific Partnership (TPP).

 

Vào cuối một quá trình thương lượng dài, vùng tự do thương mại lớn nhất thế giới có thể sẽ thành hình mà trong đó hàng hóa và dịch vụ có thể lưu thông không gặp những trở ngại lớn như thuế quan. Tất cả các thành viên của vùng sẽ có thêm tăng trưởng – ít nhất là trên lý thuyết.

 

Chỉ có một đất nước sẽ không hưởng lợi từ đó: Trung Quốc. Người Trung Quốc không có mặt trong các cuộc thương lượng. TPP này – ngay cả khi người Mỹ không nói ra – có định hướng chống Trung Quốc. Tuy là họ tuyên bố công khai, cả Trung Quốc cũng có thể tham gia vào vùng này, ví dụ như Barack Obama đã nói trong bài diễn văn Canberra nổi tiếng của ông. Nhưng đồng thời, người Mỹ lại đặt ra cho người Trung Quốc những điều kiện cao tới mức họ sẽ không bao giờ muốn và có thể tham gia. Trước hết là các quy định về bảo vệ sở hữu trí tuệ, về các tiêu chuẩn lao động và bảo vệ môi trường cũng như về các công ty nhà nước đã được lập ra sao cho người Trung Quốc không thể chấp nhận chúng được.

 

Hoa Kỳ đẩy mạnh các cuộc thương lượng về TPP trước hết là từ hai động cơ. Thứ nhất, họ hy vọng qua thương mại tăng lên với các quốc gia TPP mà sẽ có được kích thích tăng trưởng cho nền kinh tế đang dậm chân tại chỗ của họ. Và thứ nhì, họ muốn qua đó mà ngăn chận ảnh hưởng kinh tế của TQ trong châu Á.

 

Vì người Mỹ đang lo lắng về thế thống trị kinh tế của Trung Quốc trong châu Á còn lại. Hiện nay, Trung Quốc là đối tác thương mại lớn nhất trong gần như tất cả các nước trong vùng. Điều này tạo ra sự phụ thuộc mà Hoa Kỳ không thích nhìn thấy. Ngoài ra, họ lo sợ sẽ bị loại trừ ra về kinh tế. Họ có ít hiệp định thương mại tự do với các nước châu Á hơn là Trung Quốc.

 

Người Trung Quốc đã sớm có các hiệp định song phương và đa phương với mười quốc gia ASEAN và các nước khác của khu vực Thái Bình Dương. Hiệp định quan trọng nhất cho tới nay là Hiệp định thương mại tự do giữa ASEAn và Trung Quốc, có hiệu lực từ ngày 01-01-2010. Với 1,9 tỷ người và tổng số thương mại gần 500 tỷ, nó là khối thương mại lớn thứ ba của thế giới – sau EU và North American Free trade Agreement NAFTA (Hoa Kỳ, Canada và Mexico).

 

Với TPP trên kế hoạch, bây giờ người Mỹ muốn bắt đầu chống lại các liên minh về kinh tế của người Trung Quốc. Và đó không phải là showdown duy nhất của hai cường quốc thế giới trong vùng này.

 

Liên minh quân sự chống Trung Quốc

 

Guam là một hòn đảo nhỏ ở giữa Thái Bình Dương, cách Hongkong bốn và cách Hawaii sáu giờ bay. Từ 1899, Guam là lãnh thổ của Hoa Kỳ. Nó có tầm quan trọng chiến lược to lớn đối với Hoa Kỳ. Nó là tiền đồn cực Tây của họ ở Thái Bình Dương. Từ đây, máy bay và tàu chiến của họ có thể khởi hành hướng về châu Á trong trường hợp khẩn cấp.

 

Đối với người Mỹ thì hòn đảo này giống như một chiếc hàng không mẫu hạm nằm tại chỗ. Đóng trên Anderson Air Force Base là những chiếc máy bay ném bom chiến lược B-2 và B-52 cũng như những chiếc máy bay chiến đấu F-15 và F-22. Đường băng cất và hạ cánh vừa được cải mới cho chúng. Người Mỹ đã tốn tổng cộng 40 tỉ dollar vào trong việc hiện đại hóa căn cứ Guam.

 

 

Một chiếc F-15 đang cất cánh tại Anderson Air Force Base trên đảo Guam.

 

Ngay từ những năm 60 và 70 trong cuộc Chiến tranh Việt Nam, Guam đã đóng một vai trò chiến lược quan trọng. Và ngày nay, Guam lại cũng quan trọng giống như vậy đối với người Mỹ. Nhưng dẫu cho Guam là một mảnh ghép rất quan trọng, thì nó cũng chỉ là một mảnh ghép trong chiến lược châu Á mới của Mỹ.

 

Trong những năm vừa qua, giới quân sự Mỹ đã khéo léo mở rộng các quan hệ thân thiện cũ trong vùng và giao kết quan hệ mới – từ Đông Á qua Đông Nam Á cho tới Nam Á, từ Nhật cho tới Ấn:

 

Nhật Bản:

 

Đồng minh trung thành nhất của Hoa Kỳ ở Thái Bình Dương là Nhật Bản. Hai quốc gia liên kết chặt chẽ với nhau qua một hiệp ước an ninh. Treaty of Mutual Cooperation and Security netween the United States and Japan, được ký kết năm 1960, quy định hai quốc gia hỗ trợ cho nhau nếu như lãnh thổ của họ bị tấn công. Tròn 38.000 người lính Mỹ từ mọi binh chủng đóng quân ở Nhật.

 

Hoa Kỳ rất muốn mở rộng liên minh với nước Nhật qua Hàn Quốc. Cũng đã có những cuộc tập trận chung trên biển đầu tiên của ba quốc gia. Nhưng đề tài này rất nhạy cảm, vì Hàn Quốc và Nhật Bản có những mối hận thù lịch sử. Ví dụ như hiệp ước quân sự đầu tiên giữa Seoul và Tokyo đã bị hủy chỉ vài giờ trước khi ký kết vào cuối tháng 6-2012.

 

Nam Hàn:

 

Đối với Hoa Kỳ, Nam Hàn giống như một cậu trẻ gương mẫu về quân sự. Người Hàn Quốc nhộn nhịp tăng cường vũ trang từ nhiều năm nay. Tỷ lệ chi phí cho quân đội trên tổng sản phẩm quốc dân cao hơn là ở Trung Quốc và Nhật. Hoa Kỳ còn đóng tròn 28.000 người lính trên Hàn Quốc. Tuy Hàn Quốc và Trung Quốc có gắn kết chặt chẽ về kinh tế, và họ có cùng trải nghiệm gây chấn thương của thời Nhật chiếm đóng, nhưng hai láng giềng này cũng không còn có điểm chung nào nữa. “Không có điều gì cho thấy rằng nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa sẽ thay thế Hoa Kỳ trở thành đồng minh quan trọng nhất của Nam Hàn trong tương lai gần đây”, Sebastian Heilmann và Dirk Schmidt viết. Nam Hàn sẽ vẫn ở bên phe của Mỹ.

 

Philippinies:

 

Đó là một nghi thức mang tính tượng trưng trên chiếc USS Fitzgerald trong vịnh Manila. Nguyên Bộ trưởng Bộ Ngoại giao thời đó Hillary Clinton đã nhân chuyến đi thăm của bà trên chiếc tàu hàng không mẫu hạm vào giữa tháng 11-2011 để đưa ra một lời phát biểu rõ ràng: “Hòa Kỳ sẽ luôn luôn đứng bên cạnh Philippines, và chúng tôi sẽ chiến đấu cùng với các anh.” Tình hữu nghị giữa Hoa Kỳ và quốc đảo này không phải lúc nào cũng chặt như vậy. Vào đầu những năm 90, người Mỹ đã phải đóng cửa căn cứ không quân Clark và căn cứ hải quân Subic Bay trên Philippines. Bây giờ, người Mỹ quay lại – tất nhiên là với những đơn vị nhỏ hơn, nhưng có sức chiến đấu mạnh hơn. Giới quân đội Philippines cần sự giúp đỡ này, vì trước hết là hải quân của họ bị cho rằng không có nhiều sức chiến đấu cho lắm. Lực lượng này nhỏ và phải dùng vật liệu lỗi thời. Về mặt thể chế, Hoa Kỳ và Philippines cũng thắt chặt quan hệ của họ. Năm 2012 là lần đầu tiên có những cuộc trao đổi được gọi là 2+2 mà các bộ trưởng bộ ngoại giao và quốc phòng của hai nước gặp nhau ở đó.

 

 

Tàu sân bay tấn công đổ bộ USS Essex ở Subic Bay

 

Việt Nam:

 

Lần đầu tiên sau 30 năm, một bộ trưởng Bộ Quốc phòng Mỹ lại đến thăm vịnh Cam Ranh vào đầu tháng 6-2012. Leon Panetta nói rất đúng – với một chiếc mũ bóng chày trên đầu – trên tàu USS Richard E. Byrd: “Đây là một chuyến đi lịch sử.” Vịnh Cam Ranh, nằm trong Nam Việt Nam trước đây, là một căn cứ hải quân quan trọng đối với người Mỹ trong cuộc Chiến tranh Việt Nam. Thời đó, họ xây mở rộng nó thành cảng tự nhiên lớn nhất của Đông Á. Và bây giờ thì người Mỹ đã trở lại, họ lại được phép cập cảng này. Gần 40 năm sau khi Chiến tranh Việt Nam chấm dứt lại có những cuộc tập dượt quân sự của hai địch thủ ngày xưa. Chiếc hàng không mẫu hạm USS George Washington và tàu khu trục hạm USS John McCain đã cùng tập dượt với hải quân Việt Nam trên biển Đông. Đi kèm theo những lần tập dượt quân sự đó là những cuộc trao đổi tích cực trên bình diện chính trị cao nhất. Từ 2009 đã có US - Vietnam Political, Security and Defence Dialogue được thể chế hóa. Người Mỹ còn muốn tăng cường thêm cho các quan hệ. Họ cố gắng vươn tới một đối tác chiến lược với nước cộng sản này. Người Mỹ còn chưa cung cấp – ít nhất là chính thức – vũ khí. Việt Nam, nước đã tăng cường vũ trang mạnh trong những năm vừa qua, mua theo truyền thống ở Nga. Họ vừa mới đặt máy bay chiến đấu Su-30 và sáu chiếc tàu ngầm hạng Kilo. Chí phí tổng cộng: 3,2 tỷ dollar.

 

Myanmar:

 

Cả một thời gian dài là một quốc gia bị bài xích, Myanmar – Miến Điện trước đây – đã biến đổi trong những năm vừa qua. Chính phủ dân sự đang cầm quyền, vẫn còn bị giới quân đội thống lĩnh, tạo cho mình một lớp sơn dân chủ, cuối cùng cũng để cho nữ chính khách đối lập nổi tiếng thế giới Aung San Suu Kyi vào Quốc Hội. Và bất thình lình, các quốc gia Phương Tây ve vãn chính quyền mới. Hillary Clinton tới thăm vào cuối tháng 11-2011 như là chính trị gia hàng đầu đầu tiên của Phương Tây, và trong tháng 11-2012, Barack Obama vừa tái đắc cử đã lướt qua cựu thủ đô Yangoon của Miến Điện sáu giờ đồng hồ trong chuyến đi ra nước ngoài đầu tiên (!) của mình. Cũng đã có những cuộc trao đổi bí mật giữa các chuyên gia quân đội hai bên với mục đích đào tạo người quân đội Miến Điện ở Hoa Kỳ. Hoa Kỳ bây giờ hưởng lợi từ việc rằng cả trong thời tẩy chay bởi Phương Tây, họ luôn giữ tiếp xúc không chính thức với giới quân đội. Hoa Kỳ là nước Phương Tây duy nhất có một tùy viên quân sự trong sứ quán của họ.

 

Thái Lan:

 

Quan hệ với Thái Lan là một trong những quan hệ đối tác lâu đời nhất giữa Hoa Kỳ và một nước châu Á. Nó bắt nguồn từ một hiệp ước năm 1833. Thế nhưng trong những năm vừa qua, quan hệ giữa hai đối tác lâu năm này đã trì trệ. Đồng thời, các quan hệ của Thái Lan đối với Trung Quốc lại ngày một tốt hơn. Ian Storey, chuyên gia ở International Institute for Strategic Studies (IISS) tại Singapore, nói: “Trong tất cả các quốc gia ở Đông Nam Á, Thái Lan có những quan hệ quân sự chặt chẽ nhất với Trung Quốc.”

 

Singapore:

 

Quốc đảo nằm ở khởi điểm của Eo biển Malacca cho phép bốn chiếc tàu chiến siêu nhanh của người Mỹ, những cái được gọi là Littoral Combat Ships (LCS) thường xuyên cập bến cảng Singapore. Chiếc đầu tiên của những tảu này đến đó vào trong mùa Xuân 2013 và được phép đóng ở đó mười tháng. Singapore đồng minh tuy không phải là một căn cứ quân sự chính thức của người Mỹ, nhưng người ta có thể gọi đó là một căn cứ trên thực tế.

 

Indonesia:

 

Cả một thời gian dài, quan hệ giữa Hoa Kỳ và Indonesia bị trục trặc. Nhưng từ khi đất nước này biến đổi từ một chế độ độc tài sang một nền dân chủ bền vững, Hoa Kỳ và Indonesia đã tiến lại gần nhau. Trong năm 2010, một Comprehensive Partnership Agreement được ký kết, cái cũng bao gồm cả một cộng tác quân sự. Hiện nay, người Mỹ cũng cung cấp vũ khí cho quân đội Indonesia, ví dụ như hai chục chiếc máy bay chiến đấu F-16 đã qua sử dụng và tám chiếc trực thăng Apache mới tinh.

 

Úc:

 

Hoa Kỳ và Úc có một truyền thống cộng tác quân sự trên 60 năm. Sự cộng tác này còn được tăng cường thêm trong những năm vừa qua. Trong một thỏa thuận trong tháng 9-2011, Úc cho phép Hoa Kỳ tiếp cận không giới hạn các căn cứ và cảng quân sự của Úc. Có tầm quan trọng đặc biệt trong đó là Darwin, thành phố cảng ở miền Tây Bắc của Úc. Thành phố này nằm gần biển Đông nhất. Người Mỹ muốn đóng tròn 2500 lính Thủy quân Lục chiến ở đó, Darwin cũng có thể được mở rộng thành căn cứ cho máy bay Hoa Kỳ, vì Guam đơn giản là nằm cách quá xa những điểm nóng trong tương lai.

 

Ấn Độ:

 

Dưới thời của Tổng thống George W. Bush, một hiệp ước bảo vệ (New Framework for the US - India Defense relationship) có hạn mười năm được ký kết năm 2005 giữa Ấn Độ và Hoa Kỳ. Sự tiếp cận về quân sự này diễn ra tiếp tục dưới thời Obama. Ấn Độ, cả một thời gian dài phụ thuộc vào vũ khí do Nga cung cấp, hiện nay đã mua ngày càng nhiều trên thị trường vũ trang Mỹ. Dù là pháo siêu âm, trực thăng có trang bị hỏa tiễn hay máy bay vận tải – hiện giờ thì người Mỹ sẵn sàng thỏa mãn các ước muốn của quân đội Ấn.

 

 

Tập trận ở biển Hoa Đông với sự tham gia của hải quân Hoa Kỳ.

 

Bên cạnh nhiều liên minh và hợp tác đa phương này, người Mỹ cũng cỗ vũ cho sự cộng tác về quân sự giữa các đối tác châu Á của họ. Dấu hiệu rõ rệt nhất là con số tăng lên của những cuộc tập trận trên Thái Bình Dương mà thường có nhiều quốc gia tham dự.

 

Trước những hoạt động đa dạng về quân sự này của người Mỹ ở châu Á, người Trung Quốc có cảm giác họ bị Hoa Kỳ và bạn bè hay đồng minh của nó bao vây. Họ nhìn thấy một vòng vây theo dạng của một chữ C lớn, cái trải dài từ Nhật Bản qua Đông Nam Á cho tới Ấn Độ. Đái Húc, đại tá không quân Trung Quốc còn nhìn thấy cả một NATO Á châu đang thành hình.

 

Người Mỹ tất nhiên là chối cãi việc họ muốn bao vây hay ngăn chận Trung Quốc. Dù đó là Obama, Biden phó của ông hay giới cao cấp trong quân đội Hoa Kỳ – họ phủ nhận làu làu là có những ý định xấu xa như vậy. Ví dụ như Phó Tổng thống Joseph R. Biden thường hay nói: “Tôi dứt khoát cự tuyệt những ý nghĩ của một sự bao vây.”

 

Nhưng người ta không cần phải là chuyên gia quân sự để nhận ra một mâu thuẫn lớn giữa những lời nói và việc làm này. Chính sách liên minh trong những năm vừa qua của Mỹ ở châu Á cần phải chống lại ai nếu như không chống lại Trung Quốc?

 

Người ta cũng phải lên án cả người Trung Quốc vì sự không thành thật này. Họ ngây thơ tuyên bố rằng họ không có ý định làm bá chủ ở châu Á, thế nhưng hành động của họ đã cho thấy rằng họ nói dối.

 

Thuyết Monroe của Trung Quốc

 

James Monroe là tổng thống thứ năm của Hiệp Chúng Quốc Hoa Kỳ. Việc tên của ông cho tới nay vẫn còn hiện hành đối với nhiều sử gia và nhà chính trị học có nguyên nhân của nó trong bài diễn văn của Monroe về tình hình quốc gia mà ông đã trình bày trước Quốc Hội Mỹ ngày 02-12-1823. Lúc đó, ông tuyên bố rằng "Người Âu không nên xen vào Mỹ" – và trong đó ông có ý muốn nói cả phần phía Bắc lẫn phía Nam của lục địa. Và nếu như các thế lực châu Âu tuy vậy vẫn dám, ví dụ như can thiệp vào trong các thuộc địa trước đây của họ ở châu Mỹ La tinh, thì ông đe dọa "sẽ có chiến tranh".

 

 

Nguồn: Center for Strategic and Budgetary Assessment.

Greg Jaffe, Gene Thorp, Bill Webster/The Washington Post

 

Quan điểm này của Monroe đi vào sử sách như là thuyết Monroe. Nó nói rằng một thế lực bá chủ địa phương – trong trường hợp này là Hoa Kỳ – sẽ giơ bàn tay bảo vệ ra trên vùng của nó và sẽ không nhân nhượng bất cứ thế lực nào khác trên sân sau của nó. Ai không lưu tâm tới điều này thì phải dự tính trước với sự phản công bằng quân sự của thế lực bảo hộ.

 

Bây giờ thì người Trung Quốc cũng có ý định giống như vậy. Họ muốn là quyền lực thống trị ở châu Á, và muốn đẩy lùi tất cả những ai theo cách nhìn của họ là không có dính líu gì tới. Và qua đó tất nhiên là họ có ý muốn nói tới người Mỹ trước tiên. Nhà chính trị học ở Chigaco John Mearsheimer không thể nhận ra điều gì xấu xa trong hành vi này: “Tại sao người trung Quốc không được phép có một học thuyết Monroe như chúng ta đã từng có?”

 

Người Trung Quốc không ủng hộ rõ ràng và công khai cho việc người Mỹ rút lui ra khỏi Tây Thái Bình Dương. Thế như hành động Trung Quốc gợi ý điều này.

 

Giới quân đội Trung Quốc hiện nay đã có một kho lớn những thứ vũ khí được gọi là Anti-Access/ Area-Denial (A2/AD) mà với chúng người Trung Quốc muốn ngăn cản không cho người Mỹ bước vào Hoàng Hà, Biển Hoa Đông và Biển Đông. Thuộc vào trong số đó là các tên lửa di động tầm ngắn với tầm hoạt động trên 1000 kilômét. Người ta cho rằng Trung Quốc đã sở hữu hơn 1100 tên lửa như vậy.

 

Người Trung Quốc vẫn còn phát triển loại vũ khí quan trọng nhất của họ để giữ cho người Mỹ đừng tiến tới gần. Nó đã có một cái tên: Đông Phong 21D. Tức là Gió Đông. Và thứ vũ khí kỳ diệu này cũng được hướng về phía Đông, tức là Thái Bình Dương. Vũ khí kỳ diệu, vì từ đất liền nó có thể bắn trúng chính xác ví dụ như hàng không mẫu hạm trên biển. Một loại tên lửa nhu vậy cho tới nay là chưa có. Vào lúc cuối của cuộc Chiến tranh Lạnh lần thứ nhất, Hoa Kỳ và Liên bang Xô viết thống nhất với nhau không phát triển một loại vũ khí như vậy, vì nó rất đắt tiền.

 

Thế nhưng rõ ràng là tiền không đóng vai trò nào ở người Trung Quốc cả.  Sự phát triển Đông Phong 21 được cho là đã tiến triển khá xa, ngay khi theo ý kiến của các chuyên gia thì còn phải thử nghiệm nhiều năm liền, cho tới khi vũ khí này thật sự có thể được sử dụng. Người Trung Quốc không phủ nhận là họ đang phát triển một loại vũ khí như vậy, nhưng ngây thơ tuyên bố rằng họ chỉ sẽ sử dụng nó để phòng vệ chớ không tấn công.

 

Loại hỏa tiễn đất chống hạm đầu tiên trên thế giới này được các chuyên gia quân sự như đô đốc người Mỹ hiện đã về hưu Robert Willard xếp vào hàng game changer. Nó sẽ làm thay đổi sâu sắc tương quan lực lượng ở Thái Bình Dương, và là nghiên cán cân về cho người Trung Quốc. Cho tới nay, Hoa Kỳ thống trị Thái Bình Dương với những chiếc hàng không mẫu hạm của họ. Nhưng nếu như những chiếc tàu này có thể bị Đông Phong 21D tấn công, thì sự thống trị Thái Bình Dương của Mỹ sẽ thuộc về quá khứ.

 

Nhưng cả quyền bá chủ trên không của người Mỹ cũng ngày càng bị hoài nghi. Một nghiên cứu của Rand Corporation (Shaking the Heavens and Splitting the Earth) đi tới kết luận rằng trong vòng 5 năm tới đây, không quân Trung Quốc có thể thách thức ưu thế của Hoa Kỳ và đồng minh của nó. Đối với tác giả Roger Cliff là Trung Quốc là “người đầu tiên thách thức ưu thế trên không của Mỹ kể từ Chiến tranh Triều Tiên”.

 

Nhưng Hoa Kỳ sẽ không tự nguyện và không rời bỏ Tây Thái Bình Dương mà không đấu tranh. Họ trả lời sự tăng cường vũ trang của Trung Quốc với phương án mới của AirSea Battle, được trình bày trong một bản ghi nhớ trong tháng 9-2009. Phương án này tương đương với phương án Air-Land-Battle trong thời của cuộc Chiến tranh Lạnh, và kết hợp hết sức chặt chẽ các lực lượng hải quân và không quân. Trong tháng 11-2011, một phòng điều phối mới trong Ngũ Giác Đài đã được thiết lập riêng cho việc này.

 

Người Trung Quốc đã đe dọa, rằng họ – nếu người Mỹ tiếp tục theo đuổi phương án AirSea Battle và cũng thực hiện nó – sẽ trả lời với một dự án đối lại.

 

Vì vậy mà vòng xoáy tăng cường vũ trang cứ tiếp tục xoay, và đứng ở kết cuộc cay đắng của nó có thể là một cuộc xung đột vũ trang ở Thái Bình Dương, và cuộc Chiến tranh Lạnh lần thứ nhì có thể trở thành một cuộc chiến tranh nóng.

 

Lời kết

 

Lời tiên đoán tối tăm về một cuộc Chiến tranh Lạnh lần thứ nhì có buộc phải thật sự xảy ra hay không? Có bắt buộc phải dẫn tới một cuộc xung đột vũ trang trong vùng khủng hoảng mới của Tây Thái Bình Dương hay không? Hay có những khả năng có thể ngăn chận kịch bản Worst Case này?

 

Có chúng. Nhưng phải thay đổi nhiều thứ và việc này nên xảy ra đồng thời, và là cả ở những nhân vật đang hoạt động (đó trước hết Trung Quốc và Hoa Kỳ), cũng như ở nhân vật cho tới nay vẫn không hoạt động EU.

 

Đầu tiên, Phương Tây phải giải quyết vấn đề về tính cách của mình. Trong tròn 250 năm vừa qua, Phương Tây đã vượt trội hơn tất cả các vùng khác của thế giới này – về kinh tế, công nghệ và quân sự. Lúc đầu, người Anh là cường quốc thống trị thế giới, rồi tới người Mỹ. Thế nhưng những người này đang ở trong một tình trạng suy tàn tương đối từ nhiều năm nay, cái đã tăng tốc thêm một lần nữa sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu.

 

Phương Tây và đặc biệt là Hoa Kỳ đã không chấp nhận việc đang mất dần tầm quan trọng này, và vẫn còn cảm thấy mình đang ở trong một vị trí của kẻ mạnh. Nhiều người Mỹ trước sau vẫn còn suy nghĩ giống như cựu Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Hillary Clinton: “Tôi biết rằng người ta hoài nghi vị thế cường quốc thế giới của chúng ta. Đó là một bài ca mà cứ vài năm là lại được hát một lần. [Nhưng] khả năng của chúng ta, luôn bước ra khỏi một cuộc khủng hoảng với sức lực mạnh hơn, là độc nhất vô nhị trong lịch sử hiện đại.” Câu khẩu hiệu là: Chúng ta đã luôn thành công, tức là lần này chúng ta cũng sẽ thành công.

 

Ngược với tính lạc quan nội tại này của các chính trị gia Mỹ, các nhà chiến lược của các mật vụ Mỹ phán xét gần hiện thực hơn một chút. Như National Intelligence Council đã nhận dịnh trong Global Trends 1030 – đã được xuất bản trong tháng Mười Hai 2012: “Pax Americana đang nhanh chóng tiến tới kết cuộc của nó.”

 

Chúng ta ở Phương Tây, tức người Mỹ và người Âu, cuối cùng cũng phải nhận thức rằng chúng ta đang ở trong một giai đoạn suy tàn tương đối. Điều đó không có nghĩa là chúng ta đứng nhún nhường xếp hàng chào tại lần suy tàn của chúng ta. Nhưng chúng ta cần phải học cách đối phó với nó. Quản lý thành công lần suy tàn của châu Âu, chuyên gia đối ngoại Eberhard Sandschneider đã gọi điều đó nhu vậy.

 

Trong lúc đó, chúng ta nên nhìn vào hiện thực. Và bây giờ thì hiện thực, dù chúng ta có thích nó hay không, là điều này: Trung Quốc ngày một mạnh hơn về kinh tế, trữ những lượng tiền khổng lồ, cũng rút ngắn khoảng cách cả về công nghệ và tiếp tục tăng cường vũ trang. Trong một sự pha trộn của kiêu căng và không am hiểu, chúng ta cảm thấy khó chấp nhận được sự phát triển này.

 

Từ nhiều năm nay, các nhà tận thế của Phương Tây đã phỏng đoán lần sụp đổ về kinh tế và chính trị của hệ thống ở đó. Những người có ý tốt ở Phương Tây dựa trên cách thức đã được thử thách trong cuộc Chiến tranh Lạnh lần thứ nhất “biến đổi qua thương mại”. Trung Quốc càng được tích hợp vào nền kinh tế thế giới (hoạt động theo các quy luật của Phương Tây) thì nó sẽ càng trở nên giống Phương Tây. Cho tới nay thì cả hai điều này đã không xảy ra. Trung Quốc không sụp đổ mà cũng không bị Tây Phương hóa.

 

Trung Quốc là một cường quốc sui generis [loại mới], hoạt động cả theo hinh thức kinh tế thị trường lẫn can thiệp trên bình diện nhà nước, và có cấu trúc đồng thời là tư bản (kinh tế) lẫn lêninít (chính trị). Chúng ta ở Phương Tây phải học cách sống với Trung Quốc có đầu giống thần Janus [trong thần thoại La Mã, có hai mặt] này. Chỉ là làm sao? Trong hòa bình hay trong xung đột?

 

Hiện nay, cả hai – thế lực dẫn đầu Phương Tây Hoa Kỳ và Trung Quốc ngày một mạnh hơn – đang đi theo đường hướng xung đột. Đó là một chính sách sai lầm và nguy hiểm. Henry Kissinger đã đúng khi ông nói. “Hoa Kỳ không nên tiếp nhận sự xung đột như là chiến lược được lựa chọn của họ.” Bậc thầy về chiến lược này vì vậy mà ủng hộ cho một Pacific Community, bao gồm cả Trung Quốc chớ không loại trừ nó. Chuyên gia chính trị người Úc Hugh White cũng có suy nghĩ tương tự, người đề ngị một Sino - US Condominium. Nhưng không nên hiểu đó là một G2, đã từng được Fred Bergsten nghĩ tới và đã tìm được một vài người ủng hộ như Zbigniev Brezinski và cựu giám đốc Ngân hàng Thế giới Robert Zoellick. Ý tưởng lưỡng cực này đã nhanh chóng biến mất khỏi chương trình nghị sự chính trị vì phần còn lại của thế giới không muốn cúi mình xuống dưới sự áp đặt của hai cường quốc.

 

Sự cộng tác của cường quốc cũ và mới – và đó là ý tưởng của Kissinger – cần được giới hạn ở khu vực Thái Bình Dương. Thế nhưng điều này đòi hỏi cả hai bên phải thay đổi hoàn toàn cung cách cư xử. Hoa Kỳ cần phải giảm bớt phô diễm sức mạnh quân sự của họ ở châu Á. Trung Quốc ngược lại phải chấm dứt các trò chơi bắp thịt của mình ở Biển Đông. Thay vì tàu thuyền và máy bay, người Trung Quốc tốt hơn nên gởi phái viên tới bàn thương  lượng. Và ở đó cần nên thảo luận đa phương, chứ không phải – như Trung Quốc muốn – song phương. Ngoài ra, như là biện pháp gây tin tưởng, Trung Quốc cuối cùng cũng phải tạo sự minh bạch trong chính sách quân sự và vũ trang của mình.

 

Cả hai thế lực sẽ khó mà lui lại. Nhưng một thế lực thứ ba có thể giúp họ trong lúc đó. Ví dụ như châu Âu. Châu Âu? Liên minh châu Âu có thể nào hay cần phải đóng một vai trò “ở dưới đó” không. Chúng ta [người Âu] – bây giờ nhiều người sẽ nghĩ và nói – không phải là một thế lực ở Thái Bình Dương. Chúng ta không có lợi ích chiến lược ở đó. Nhưng chính vì không có tham vọng chiến lược và động cơ được che dấu mà EU tựa như được định trước cho vai trò của một người môi giới trung thực trong vùng.

 

Tại nhiệm vụ làm trung gian này, châu Âu có thể chào mời nhiều điều, đặc biệt là việc người ta có thể giải quyết các xung đột xuyên biên giới như thế nào. Chỉ cần nhắc lại Hội nghị về An ninh và Hợp tác ở châu Âu, cái trong thời của cuộc Chiến tranh Lạnh lần thứ nhất đã đóng một vai trò không phải là không quan trọng và đã góp phần cơ bản vào việc làm giảm bớt căng thẳng của xung đột Đông - Tây. Tại sao lại không sáng lập một hội nghị về an ninh và hợp tác ở châu Á?

 

Vì châu Á thiếu một cấu trúc an ninh.

 

Wolfgang Hirn

Phan Ba trích dịch

 

 

Wolfgang Hirn studied economics in Tübingen, traineeship at the "Southwest" in Ulm, editor of the "Kölner Stadt-Anzeiger" and the "Business Week" from 1985 to 1988 and since 1991 the manager magazin. Focus: Consumer, SME, Asia.

 

*  *  *

 

Phụ bản:

 

Chiến tranh lạnh là gì?

 

Đọc báo thỉnh thoảng chúng ta thấy có câu "Chiến tranh lạnh". Vậy "Chiến tranh lạnh" là gì?

 

"Chiến tranh lạnh" là một cuộc chiến tranh không có tiếng súng; là những cuộc cạnh tranh về chính trị, kinh tế, vũ khí, văn hoá, xã hội giữa hai hay nhiều quốc gia hoặc giữa hai nhóm các quốc gia liên minh.

 

Nguồn gốc thuật ngữ

 

Việc sử dụng lần đầu tiên thuật ngữ Chiến tranh Lạnh miêu tả những căng thẳng chính trị thời hậu Thế chiến II giữa Liên bang Xô viết và các Đồng minh Tây Âu của họ được gán cho Bernard Baruch, một nhà tài chính và là cố vấn tổng thống Hoa Kỳ. Tại Nam Carolina, ngày 16 tháng 4 năm 1947, ông đã có bài phát biểu (theo nhà báo Herbert Bayard Swope) nói rằng, “Hãy để chúng ta không bị lừa gạt: chúng ta hiện ở giữa một cuộc chiến tranh lạnh.” Nhà báo Walter Lippmann đã làm cho thuật ngữ được biết đến rộng rãi, với cuốn sách Cold War (1947).

 

Trước đó, trong cuộc chiến, George Orwell đã sử dụng thuật ngữ Chiến tranh Lạnh trong tiểu luận “You and the Atomic Bomb” (Bạn và quả bom nguyên tử) được xuất bản ngày 19-10-1945, trên tờ Tribune của Anh. Suy ngẫm về một thế giới sống dưới bóng của một mối đe doạ chiến tranh hạt nhân, ông đã cảnh báo về một “nền hoà bình không có hoà bình”, mà ông gọi là một cuộc “chiến tranh lạnh” thường trực, Orwell đã trực tiếp đề cập tới cuộc chiến tranh đó như là một sự đối đầu ý thức hệ giữa Liên bang Xô viết và các cường quốc phương Tây. Hơn nữa, trong tờ The Observer xuất bản ngày 10 tháng 3 năm 1946, Orwell đã viết rằng “... Sau hội nghị Moscow vào tháng 12 vừa rồi, Nga đã bắt đầu thực hiện một cuộc ‘chiến tranh lạnh’ với Anh và Đế chế Anh.”

 

Một số cuộc chiến tranh lạnh

 

1871-1914: Anh, Pháp và Nga ở một bên và Đức, Áo, Hung ở bên kia.

 

1923 - đến nay: giữa Hy Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ

 

1945 – 1991: Sau Thế chiến thứ hai, giữa Khối Warszawa do Liên Bang Xô Viết đứng đầu và NATO do Hoa Kỳ đứng đầu có xảy ra cuộc Chiến tranh Lạnh kéo dài từ 1945 cho đến 1991 - khi Liên Bang Xô Viết và Khối Warszawa tan rã.

 

1949 - đến nay: giữa Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và Trung Hoa Dân Quốc

 

1953 - đến nay: giữa Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Triều Tiên và Đại Hàn Dân Quốc

 

1962 - đến nay: Mỹ và Cuba.

 

(Nguồn: Bách khoa toàn thư mở Wikipedia).

 

*  *  *

 

Xem bài liện hệ với đề tài: click tại đây

Xem trang Kiến thức, Tài liệu: click vào đây

More in English topic: please click here

Về trang chính: www.nuiansongtra.net

 


Nếu độc giả, đồng hương, thân hữu muốn: 

* Liên-lạc với Ban Điều Hành hay webmaster 
* Gởi các sáng tác, tài liệu, hình-ảnh... để đăng 
* Cần bản copy tài liệu, hình, bài...trên trang web:

Xin gởi email về: quangngai@nuiansongtra.net 
hay: nuiansongtra1941@gmail.com

*  *  *

Copyright by authors & Website Nui An Song Tra - 2006


Created by Hiep Nguyen
log in | ghi danh