Diễn đàn của người dân Quảng Ngãi
giới thiệu | liên lạc | lưu niệm

 April 27, 2025
Trang đầu Hình ảnh, sinh hoạt QN:Đất nước/con người Liên trường Quảng Ngãi Biên khảo Hải Quân HQ.VNCH HQ.Thế giới Kiến thức, tài liệu Y học & đời sống Phiếm luận Văn học Tạp văn, tùy bút Cổ văn thơ văn Kim văn thơ văn Giải trí Nhạc Trang Anh ngữ Trang thanh niên Linh tinh Tác giả Nhắn tin, tìm người

  Kiến thức, tài liệu
NGA, TRUNG CỘNG VÀ BRICS: MỘT ẢO TƯỞNG VỀ SỰ ĐỒNG NHẤT?
Webmaster

 

By Bobo Lo

 

Cuộc tranh luận về nhóm nước BRICS (Brazil, Nga, Ấn Độ, Trung Cộng và Nam Phi) cho thấy hai quan điểm đối lập nhau. Theo quan điểm thứ nhất, BRICS đã trở thành một lực lượng có ảnh hưởng hàng đầu trong các mối quan hệ quốc tế, và sự nổi lên của BRICS cho thấy sự thống trị của phương Tây trong các vấn đề quốc tế đã chấm dứt. Ngược lại, quan điểm thứ hai coi BRICS như là một cái bánh vẽ có tiếng mà không có miếng. Tuy có khác biệt lớn về quan điểm, song tất cả các nhà quan sát đều cho rằng chìa khóa giúp diễn đàn BRICS được duy trì là sự tương tác hiệu quả của hai chủ thể chính – Nga và Trung Cộng.

 

 

Lãnh đạo 5 quốc gia BRICS 2017, lần họp thượng đỉnh thứ 9 hàng năm,

từ 3-9 đến 5-9 tại Hạ Môn (Xiamen) Trung Cộng.

 

Mạc Tư Khoa (Moskva) và Bắc Kinh (Beijing) thường xuyên nhắc lại những quan điểm đồng nhất của họ trong BRICS. Tuy nhiên, những tuyên bố này không che giấu được thực tế rằng thái độ cũng như suy nghĩ của họ khác nhau đáng kể. Tổng thống Putin nhận thấy BRICS là nền tảng của một trật tự đa cực “phi phương Tây”, nơi Nga sẽ đóng vai trò trung tâm. Còn Trung Cộng chỉ dành cho BRICS một tầm quan trọng thứ yếu, coi đó là một trong số những công cụ giúp họ tăng cường các lợi ích ở lục địa Á – Âu và ở những nơi khác. Những nhận thức đối lập nhau này hạn chế nghiêm trọng khả năng của BRICS trở thành một mô hình quản trị thế giới thay thế cho một mô hình cũ, hay một đòn bẩy phát triển hiệu quả. Dù BRICS vẫn là một nhân tố tạo nên bức tranh toàn cầu trong những năm tới, tầm quan trọng thực sự của nó sẽ ngày càng trở nên mơ hồ.

 

Cho dù xuất xứ chỉ là một khẩu hiệu marketing dành cho các khách hàng của ngân hàng Goldman Sachs, khái niệm BRICS đã nhận được sự ủng hộ không thể phủ nhận trong thập kỷ vừa qua. Từ chỗ trừu tượng, nó đã dần dần mang một nội dung thực sự: sự vươn lên của 5 nước thành viên BRICS dường như cho thấy rõ sự chuyển dần sức mạnh thế giới đang trượt từ Tây sang Đông. Hệ thống quốc tế, do Mỹ điều khiển, sẽ biến mất trước một trật tự đa cực thời hậu Mỹ, và các thể chế Bretton Woods được thiết lập sau Chiến tranh thế giới thứ hai sẽ bị thay thế bởi các tổ chức mới.

 

Tuy nhiên, nhiều tiếng nói phủ định quan điểm lạc quan này, và lưu ý rằng bất chấp vô số những tuyên bố ngày càng tham vọng hơn, tiến bộ đạt được cho đến nay vẫn còn rất ít ỏi. Trình độ phát triển kinh tế, văn hóa chính trị, những khát vọng chiến lược và các mục tiêu chính trị của các nước thành viên khác biệt nhau đến mức BRICS chỉ còn là một diễn đàn để tranh cãi. Một vài nước thành viên (đặc biệt là Trung Cộng) có một ảnh hưởng thực sự, song sức mạnh tập thể của BRICS thật nhỏ nhoi: Một số sự kiện đã cho thấy rõ sự yếu kém của BRICS: giảm tăng trưởng ở Trung Cộng, suy thoái ở Nga và Brazil, tụt hậu kéo dài của Ấn Độ và Nam Phi không có khả năng gây ảnh hưởng trên trường quốc tế. Quyết định của Goldman Sachs ngừng đầu tư vào khối BRICS và thay vào đó chọn cách đầu tư ở riêng mỗi nước thành viên cho thấy khái niệm BRICS đã mất ý nghĩa đến mức nào.

 

Do vậy, cuộc thảo luận về BRICS đi tới chỗ phân cực tới cực độ. Tuy nhiên, có một khía cạnh mà tất cả các quan điểm đều nhất trí: cho dù “tiến trình BRICS” được xem như là nền tảng của một trật tự thế giới mới hay, ngược lại, như một ảo tưởng, thì rõ ràng tương lai của nó phụ thuộc vào cặp đôi Hoa – Nga. Không phải là ngẫu nhiên khi tầm quan trọng ngày càng tăng của BRICS trong những năm gần đây gắn liền với sự phát triển của “quan hệ đối tác chiến lược” này: thực tế này chắc chắn sẽ kéo dài trong một thời gian. Như vậy, việc thiết lập các quan hệ hợp tác lâu dài giữa Bắc Kinh và Moskva trong các lĩnh vực kinh tế, an ninh và năng lượng sẽ tạo thuận lợi cho sự phát triển của BRICS. Ngược lại, sự xói mòn của các quan hệ song phương đó sẽ bộc lộ rõ sự mong manh của nhóm này.

 

Kể từ đó, vấn đề mấu chốt là sự phát triển mối quan hệ Trung – Nga. Liệu hai nước có hợp tác để thực hiện một tầm nhìn đầy tham vọng cho BRICS hay không? Hay trái lại, họ không có cùng những mục đích và tham vọng? Các nhà lãnh đạo hai nước không ngừng nhấn mạnh sự gần gũi về quan điểm, song những tuyên bố đó phản ánh đúng thực tế, hay chỉ lặp lại những câu nhàm chán cũ rích? Và cho dù họ thành thực mong muốn phát triển BRICS, thì trước rất nhiều trở ngại đang tồn tại, trong chừng mực nào mong muốn đó đưa đến những kết quả cụ thể? Để trả lời những câu hỏi này, cần xác định rõ những mục tiêu của Nga và Trung Cộng đối với BRICS; xem xét những điểm tương đồng và những mâu thuẫn trong chính sách của mỗi nước; cũng như đánh giá những thành công và thất bại đánh dấu mối tương tác của họ cho đến nay.

 

BRICS theo quan điểm cường quốc lớn của Vladimir Putin

 

Nga là nước thành viên có quyết tâm nhất trong việc phát huy vai trò của BRICS nhằm đưa BRICS trở thành thể chế quốc tế có ảnh hưởng. Ngay từ năm 2013, Vladimir Putin đã kêu gọi biến BRICS từ chỗ là “một diễn đàn đối thoại cho phép phối hợp quan điểm của các nước tham gia về một số vấn đề hạn chế thành một cơ chế hợp tác chiến lược toàn diện”. Kể từ đó, Moskva đã có những nỗ lực đáng kể để thúc đẩy BRICS theo hướng này, và đã đạt được một số thành công. Điều này đã được chứng minh qua con số những sáng kiến được đưa ra trong “Tuyên bố Ufa” (Thông cáo cuối cùng của Hội nghị thượng đỉnh 2015 của BRICS). Đáng kể nhất là sự ra đời của Ngân hàng phát triển mới (NBD) và Quỹ dự phòng chung (CRA). Tuyên bố này cũng đã đề cập tới những cơ chế hiện có khác hoặc sẽ được thiết lập trong tương lai: một cơ chế hợp tác liên ngân hàng, một chiến lược quan hệ đối tác kinh tế; một nhóm cộng tác đấu tranh chống tham nhũng; một hội đồng kinh tế; và một mạng lưới các trường đại học. Cho dù không chấp nhận việc thiết lập nhanh chóng một “cơ cấu văn phòng” cho BRICS, Putin cũng đã khẳng định rằng “để phối hợp tốt hơn, chúng tôi có thể sẽ thành lập một ban thư ký”.

 

Sự hăng hái của Moskva đối với BRICS và mong muốn thể chế hóa tổ chức này là điều hoàn toàn dễ hiểu. Trước hết, BRICS là một trong những tổ chức quốc tế hiếm hoi không bị phương Tây chi phối. Lý do tồn tại của tổ chức này – và đó là điều khiến nó trở nên hấp dẫn hơn trong mắt của Điện Kremlin – chính xác là xây dựng một khuôn khổ làm việc không dính đến phương Tây. Ở đó Nga đóng một vai trò lãnh đạo toàn quyền và không thể phủ nhận. Khác với G8 (nơi Nga là thành viên không phải phương Tây duy nhất cho tới khi nước này bị “treo giò” năm 2014) và G20, trong BRICS, Nga không gặp bất cứ khó khăn nào để được công nhận là một cường quốc lớn: sự “tôn trọng” được các nước khác toàn tâm toàn ý dành cho Nga. Moskva không chỉ hài lòng về điều đó: ảnh hưởng của Nga trong BRICS lớn hơn trong các tổ chức quốc tế khác, kể cả Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc. Nga tham gia xây dựng chương trình nghị sự, xây dựng các quy trình hoạt động và có một ảnh hưởng quyết định lên các biện pháp chính trị đã được thông qua, vì các nước thành viên khác chấp nhận vai trò lãnh đạo của Nga trong khi Trung Cộng có những mối quan tâm chính ở nơi khác. Ấn cố tình tỏ ra khiêm nhường đồng thời không hề che giấu những mối ràng buộc chiến lược của mình (đặc biệt việc cần thiết phải duy trì sự ủng hộ của Mỹ). Tình trạng suy yếu mãn tính cũng như vị trí địa lý ngăn cản Brazil có một ảnh hưởng thực sự ngoài khu vực Mỹ Latinh. Còn sự hiện diện của Nam Phi chủ yếu là để tăng cường bản sắc “thế giới” của BRICS khi Nam Phi là một nước châu Phi.

 

Thứ hai, sự tham gia của Nga trong BRICS, thậm chí việc cùng Trung Cộng điều hành BRICS, đã cho phép Nga tranh thủ được những thành công của các thành viên khác. Điều này đặc biệt được nhận ra sau cuộc khủng hoảng tài chính thế giới năm 2008. Năm 2009, từ chỗ là nền kinh tế hoạt động kém hiệu quả nhất trong G20, Nga đã nhanh chóng khôi phục sự tăng trưởng. Đối với Điện Cẩm Linh (Kremlin), BRICS mang tính biểu tượng cho một sự năng động mới của các mối quan hệ quốc tế, đối lập với thời kỳ suy tàn của một phương Tây được cho là thụ động, với những thể chế đã lỗi thời và những quy tắc không còn ý nghĩa. Theo các nhà lãnh đạo Nga, Nga là một phần không thể tách rời của “nơi tốt nhất thế giới” này.

 

Thứ ba, sự tồn tại của BRICS mang lại cho V. Putin cơ hội phản bác lập luận của các nước phương Tây, theo đó Nga bị quốc tế cô lập kể từ khi sáp nhập Crimea. Nga sẽ không chỉ là một cực sức mạnh độc lập; họ còn có những đồng minh ảnh hưởng trong nhiều khu vực khác nhau trên thế giới: ở Trung Quốc, Ấn Độ, Nam Mỹ và châu Phi. BRICS đã trở thành một biểu tượng về thái độ thách thức của Điện Kremlin – rằng chính phương Tây chứ không phải Moskva phải thích ứng với một trật tự thế giới mới và với một nước Nga đầy tự tin.

 

Cuối cùng, Nga nhận định rằng BRICS có thể thúc đẩy sự phát triển kinh tế của Nga. Việc phương Tây thông qua các biện pháp trừng phạt trong khuôn khổ cuộc xung đột Ukraine đã kìm hãm hoạt động trao đổi thương mại, đầu tư và chuyển giao công nghệ trong nhiều lĩnh vực. BRICS, cùng với các thể chế mới nổi như NDB, tạo thành một khuôn khổ trong đó Nga có thể thích ứng với bối cảnh mới, và sớm có thể đưa nền kinh tế Nga dựa vào những nền tảng hứa hẹn hơn và ít mong manh hơn. Khuôn khổ này cũng tạo thuận lợi cho các hoạt động đầu tư quy mô lớn, điều cho phép bù lấp sự mất đi các nguồn lực đến từ châu Âu trước đó và thúc đẩy sự phát triển ở miền Đông Siberia và vùng Cận Đông của Nga.

 

Tuy nhiên, đối với Nga, BRICS trước hết là một lợi ích địa chính trị. Cho dù Điện Kremlin hy vọng các hoạt động thương mại và đầu tư “Nam – Nam” được tăng cường thì vấn đề này cũng chỉ là thứ yếu vì các nền kinh tế đều lần lượt trải qua các chu kỳ thịnh, suy. Đối với Điện Kremlin việc thiết lập một trật tự thế giới mới thời hậu Mỹ là một dự án vĩnh cửu – trong đó BRICS được kỳ vọng đóng một vai trò trung tâm.

 

Một thể chế trong nhiều thể chế khác

 

Đối với Bắc Kinh, ngược lại, BRICS không phải là ưu tiên hàng đầu trong số những ưu tiên của chính sách đối ngoại. Một phần vì họ có những mối quan tâm cấp bách hơn: tăng cường quyền lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Hoa, nhu cầu hiện đại hóa đất nước; giải quyết mối quan hệ Trung – Mỹ trên trường quốc tế; và chiếm phần lớn nhất trong những phát triển chiến lược ở Đông Á. Việc Bắc Kinh ít quan tâm tới BRICS cũng phản ánh sở thích xưa nay của Chính phủ Trung Cộng là ngoại giao tay đôi.

 

Tuy nhiên, trong thập kỷ vừa qua, Chính phủ Trung Cộng đã mở rộng cửa hơn cho chủ nghĩa đa phương, và thừa nhận rằng cách tiếp cận này có thể giúp Trung Cộng dễ đạt được hơn những mục tiêu song phương. Trung Cộng tỏ ra tích cực hơn trong các tổ chức của Liên hợp quốc, đặc biệt trong Hội đồng bảo an. Mặt khác, Trung Cộng đóng vai trò quyết định trong các diễn đàn khu vực như Tổ chức hợp tác Thượng Hải (SCO), Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á – Thái Bình Dương (APEC) và Hội nghị thượng đỉnh Đông Á (EAS). Trong mỗi thể chế, Trung Cộng lại có những tính toán khác nhau, song đều dẫn tới mẫu số chung là hình ảnh một Trung Cộng “công dân tốt” trong khu vực và trên thế giới.

 

Xét từ quan điểm này, BRICS chỉ là một trong số những thể chế quốc tế mà Trung Cộng tham gia, và kém giá trị hơn nhiều thể chế khác như Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, Quỹ tiền tệ quốc tế, Ngân hàng thế giới, G20, APEC và EAS. Trái với Nga, Trung Cộng không thấy đặc biệt cần phải tăng cường ảnh hưởng trên trường quốc tế. Đối với Bắc Kinh, vấn đề đi theo hướng ngược lại: mục tiêu của Trung Cộng là xoa dịu những lo ngại về khả năng Trung Cộng tham gia các vấn đề thế giới, và chống lại quan điểm rất phổ biến ở phương Tây cho rằng Trung Cộng “lợi dụng” những tài sản công của thế giới.

 

Tuy nhiên, nếu BRICS không chiếm vị trí trung tâm trong chính sách ngoại giao của Trung Cộng, thì tại sao Chủ tịch Trung Cộng Tập Cận Bình lại dành sự quan tâm ngày càng tăng kể từ khi lên nắm quyền vào năm 2012? Điều này có thể được lý giải bởi ba lý do. Thứ nhất, ông Tập muốn lấy lòng Moskva. Ông biết V. Putin đánh giá cao tầm quan trọng của BRICS, nhất là trong bối cảnh suy thoái các mối quan hệ Nga – phương Tây. Cho dù quan hệ đối tác Trung – Nga được triển khai trong khuôn khổ song phương, song việc hỗ trợ quan hệ đối tác đó thông qua các cơ chế đa phương như BRICS và SCO là điều quan trọng. Khác với các nước phương Tây, Trung Cộng đã luôn cố gắng ve vãn Nga, ca ngợi BRICS, tức là ca ngợi những thành công cá nhân của Putin, tuyên bố Nga là một cường quốc lớn, và khẳng định rằng các mối quan hệ song phương – được giới thiệu như là một “quan hệ đối tác hợp tác chiến lược quy mô lớn” – chưa bao giờ tốt đẹp như vậy trong lịch sử hai nước.

 

Tuy nhiên, sự quan tâm mà Bắc Kinh dành cho BRICS không chỉ là chuyện xã giao. Sở dĩ Trung Cộng muốn giữ Nga đứng về phía mình là vì họ cũng muốn chỉ cho Mỹ và châu Âu thấy rằng họ phải quan tâm tới các lợi ích của họ. Việc thường xuyên không có được một ảnh hưởng tương đương với quy mô kinh tế của họ trong IMF và Ngân hàng thế giới đã khiến Bắc Kinh khó chịu. Nói một cách khái quát hơn, dù không phủ nhận vai trò lãnh đạo quốc tế của Mỹ, Trung Cộng mong muốn có tiếng nói nhiều hơn trong việc quản trị thế giới. Trung Cộng tăng cường sự can dự trong BRICS, cũng như thành lập Ngân hàng đầu tư cơ sở hạ tầng (AIIB) cốt nhằm để tăng cường ảnh hưởng của Bắc Kinh. Những quyết định này đã phát đi một thông điệp rõ ràng: nếu phương Tây và các thể chế của phương Tây không dành cho Trung Cộng một vị trí xứng đáng, thì nước này sẽ quay sang các thể chế khác để đạt được điều họ muốn.

 

Sự quan tâm của Trung Cộng dành cho BRICS cũng được giải thích bởi những động lực gắn với những mục tiêu của Trung Cộng trong khu vực. Cho dù công cụ gây ảnh hưởng đầu tiên của Trung Cộng trong khu vực là dự án “Vành đai và Con đường” – gồm “Vành đai kinh tế của con đường tơ lụa” và AIIB, thì BRICS vẫn tỏ ra hữu ích. Dù với nguồn lực tài chính khiêm tốn, Ngân hàng phát triển mới (NDB) có thể góp phần tài trợ các dự án cơ sở hạ tầng ở lục địa Á – Âu. Cuối cùng, trong một chừng mực nào đó, BRICS có một tầm quan trọng chính trị sống còn đối với Bắc Kinh khi họ coi BRICS như là một phương tiện đảm bảo sự hợp tác, hay ít ra là sự đồng thuận, của các nước đối với các dự án của Trung Cộng. Sự đồng thuận đó không chỉ được mong muốn, mà còn tạo thuận lợi cho việc thực hiện một số mục tiêu đặc thù của Trung Cộng, như củng cố mối quan hệ láng giềng ổn định ở Trung Á. Edit to here

 

Nga, Trung Cộng và trật tự thế giới mới

 

Sự khác biệt trong quan điểm giữa Nga và Trung Cộng về BRICS là do hai nước nhận thức khác nhau về trật tự thế giới hiện nay, mà Mỹ đóng vai trò lãnh đạo. V. Putin, cũng như phần lớn giới tinh hoa chính trị Nga, giữ thái độ hết sức thù địch với Mỹ. Điện Kremlin cho rằng trong thời hậu Chiến tranh Lạnh, Mỹ đã làm nghèo nền kinh tế Nga, làm nhục Nga ở nước ngoài và khai thác những điểm yếu của Nga để đạt được những lợi ích địa chính trị. Hệ thống quốc tế hiện nay đã tước đoạt của Nga, cũng như của các cường quốc khác, vị thế và quy chế mà lẽ ra họ phải có.

 

Do vậy, trong mắt Nga, BRICS là nền tảng của một trật tự thế giới mới không còn sự thống trị của Mỹ, nơi mà sự quản trị quốc tế sẽ tập trung xoay quanh một “sự hiệp đồng giữa các cường quốc lớn”, và là nơi mà thuyết phổ biết tự do phương Tây sẽ bị bác bỏ để nhường chỗ cho việc tái khẳng định các luật pháp và các đặc quyền đặc lợi của các nhà nước. Nói cách khác, đối với Nga, BRICS là một công cụ quan trọng mà Nga hy vọng có thể giúp Nga đảo ngược trật tự thế giới hiện tại.

 

Bắc Kinh có cái nhìn tích cực hơn về tình hình quốc tế hiện tại. Trong ba thập kỷ gần đây, Trung Quốc đã tận dụng được đáng kể vai trò lãnh đạo thế giới của Mỹ, của các thể chế Bretton Woods và thương mại tự do. Trong giai đoạn này, Trung Quốc đã chuyển từ vị thế một chủ thể khu vực có vai trò thứ yếu sang vị thế siêu cường đang đi lên. Do vậy, dễ hiểu khi đội ngũ lãnh đạo của Đảng không muốn hủy bỏ hệ thống quốc tế hiện tại mà muốn “cải thiện” để hệ thống đó phục vụ tốt hơn những lợi ích của Trung Quốc và tôn trọng sự vươn lên của hùng mạnh của nước này.

 

Trung Quốc chia sẻ với Nga mong muốn làm giảm bớt sự thống trị của Mỹ và phủ nhận tính chính đáng của thuyết phổ biến tự do phương Tây. Tuy nhiên, Trung Quốc không quan tâm tới việc thiết lập một trật tự thế giới như Moskva mong muốn: Trung Quốc hiểu rằng vai trò lãnh đạo thế giới là một công việc bạc bẽo khiến các nước khác vừa thèm muốn, vừa ngờ vực, vừa lo lắng. Vì vậy, Trung Quốc không chắc rằng mình có thể mang trên vai một gánh nặng như vậy, do những thách thức trong nước, sự thiếu kinh nghiệm trên trường quốc tế và sự lạc hậu so với các cường quốc khác trong nhiều lĩnh vực. Cho dù Trung Quốc đã cử một tàu tới Địa Trung Hải hay tham gia một số hoạt động gìn giữ hòa bình nhân danh Liên hợp quốc, song những tham vọng quốc tế của Bắc Kinh vẫn còn tương đối khiêm tốn.

 

Moskva và Bắc Kinh bất đồng quan điểm, chủ yếu về “trật tự thế giới mới”. Trong khi V. Putin mong muốn xây dựng một trật tự ba cực dựa trên sự tương tác giữa Washington, Bắc Kinh và Moskva, thì Trung Quốc nhận định chỉ Mỹ mới thực sự là người đối thoại toàn cầu của Trung Quốc. Thế giới quan của Trung Quốc chủ yếu mang tính hai cực, cho dù họ thừa nhận bối cảnh quốc tế phức tạp hơn và khó nắm bắt hơn so với thời kỳ Chiến tranh Lạnh. Quan điểm này dẫn đến kết luận logic là Nga có thể là một đối tác của Trung Quốc, nhưng sẽ không bao giờ ở ngang tầm với Trung Quốc; nhất là trong cảnh tương đối suy tàn hiện nay, Nga chỉ có thể là một trong những đối tác của Trung Quốc, chứ không phải là đối tác duy nhất.

 

Giải quyết những mâu thuẫn

 

Lợi ích của “công thức BRICS” là ở chỗ nó cho phép hai bên trao đổi về những điểm tương đồng – mong muốn hạn chế sức mạnh “bá quyền” của Mỹ và thay đổi những quy tắc quản trị thế giới – đồng thời giảm nhẹ hay bỏ qua những vấn đề mà họ có ý kiến khác nhau. Tuy nhiên, việc né tránh những vấn đề này khiến họ không thể đưa ra những quyết định cụ thể. Sở dĩ cho đến nay BRICS vẫn giữ được sự đoàn kết vì các nước thành viên chỉ dừng lại ở mức đưa ra những tuyên bố nguyên tắc và hiếm khi có những cam kết đặc biệt. Cách ứng xử này không thể kéo dài nếu BRICS muốn phát triển thành một thể chế đa phương hiệu quả, và càng không thể như vậy để trở thành một nền tảng thay thế quản trị thế giới.

 

Do đó, các nước thành viên đứng trước một lựa chọn khó khăn: tìm cách tăng cường ảnh hưởng chính trị của BRICS, dù có nguy cơ phải đương đầu với những nỗi thất vọng lớn, hay giữ nguyên hiện trạng, có nghĩa là duy trì một sự đoàn kết không có thực chất, thiết lập những cơ cấu tổ chức khác nhau và tuyên bố những sáng kiến “táo bạo”. Nói cách khác, liệu BRICS có sẵn sàng chấp nhận những nguy cơ?

 

Thêm một điều phức tạp nữa là Nga và Mỹ có những nguy cơ khác nhau. Đối với Điện Kremlin, nguy cơ chính là họ có thể phải xem xét lại những đánh giá của họ về “sự đồng thuận” của các cường quốc không thuộc phương Tây và về sự nổi lên không thể tránh khỏi của một thế giới đa cực. Nếu Nga quá nhấn mạnh những vấn đề dẫn đến những bất đồng lớn trong nội bộ BRICS – như sự ủng hộ những hành động can thiệp của Nga ở Ukraine và Syria hay “an ninh mạng”, thì Nga có thể bị cô lập. Như vậy, thay vì sử dụng BRICS như một công cụ để đối phó với Mỹ và châu Âu, Moskva có thể bất đắc dĩ cũng cố vị thế của các nước phương Tây.

 

Trái lại, ưu tiên của giới lãnh đạo Trung Quốc là tránh đối đầu với phương Tây. Trong khi Putin không hề do dự chống đối Mỹ, thì Bắc Kinh không muốn gây tổn hại cho quan hệ hợp tác giữa họ và Washington. Những bất đồng chính trị, dù nghiêm trọng tới mức nào, vẫn chỉ ở một mức thấp hơn so với sự khủng hoảng hiện nay trong các mối quan hệ Nga – phương Tây. Như vậy, điều quan trọng là BRICS không được trở thành một liên minh chống phương Tây và chống Mỹ (hay không được nhìn nhận như vậy). Nói một cách thực dụng, có nghĩa là trong nội bộ BRICS, những vấn đề liên quan tới phát triển phải được ưu tiên hơn những mối quan tâm địa chính trị – không chỉ vì cách tiếp cận này ít gây khích động hơn, mà còn vì nó trùng khớp với những ưu tiên khu vực của Trung Quốc ở lục địa Á – Âu.

 

Lợi ích phát triển hay lợi ích địa chính trị?

 

Dù Nga và Trung Quốc vẫn dành quan tâm cho sự phát triển khu vực, cách tiếp cận của họ đôi khi khác nhau một cách đáng kể. Sự khác biệt lớn nhất liên quan tới các nguồn lực tài chính mà mỗi bên sẵn sàng đầu tư. Trung Quốc, nền kinh tế lớn thứ hai thế giới, là chủ ngân hàng không chính thức của BRICS. Nếu không có sự lãnh đạo về kinh tế và những đảm bảo tài chính của Bắc Kinh, BRICS có lẽ sẽ không có được kế hoạch thực sự trong lĩnh vực phát triển. BRICS cũng thiếu các thể chế tài chính: NDB đã được thành lập mới đây, do Trung Quốc có thể đảm bảo các hoạt động của NDB cũng như của CRA. Điều này phản ánh một thực tế lớn hơn và ngầm được thừa nhận: BRICS chỉ có ảnh hưởng không đáng kể nếu như không có Trung Quốc (dù tăng trưởng giảm tốc). Là cường quốc không thể qua mặt, Trung Quốc quyết định những ưu tiên của BRICS, những nỗ lực cần thực hiện cho vấn đề này hay vấn đề khác, và lời lẽ của những tuyên bố công khai.

 

Ngược lại, Nga khá thụ động trong việc quyết định chương trình hành động của BRICS. Cho dù Putin tìm cách tạo dựng hình ảnh là “người tài trợ” các nước đang phát triển, thì ưu tiên của ông vẫn là thu hút những nguồn tài trợ quy mô lớn cho các dự án cơ sở hạ tầng quốc gia, đặc biệt ở Đông Siberia và vùng Viễn Đông của Nga. Xét về mặt này, “sự xoay trục về phía Đông” của Moskva đã diễn ra nhanh chóng kể từ khi phương Tây áp đặt các lệnh trừng phạt, và các hoạt động đầu tư và chuyển giao công nghệ từ phương Tây giảm mạnh. Điện Kremlin lúc đầu nghĩ rằng Trung Quốc có lẽ sẽ nhanh chóng lấp vào chỗ trống. Sự lạc quan nguội lạnh từ đó, song Nga vẫn hy vọng các khoản tài trợ thông qua AIIB, NDB và Quỹ con đường Tơ lụa.

 

Tính toán này không hẳn là không có căn cứ. Vành đai kinh tế của Con đường tơ lụa đã trở thành một ưu tiên quan trọng kể từ khi Tập Cận Bình lên nắm quyền, và một số dấu hiệu dường như đã chỉ ra rằng điều đó được thể hiện bằng những dự án cụ thể. Trong lĩnh vực hợp tác phát triển, không nhất thiết phải biết liệu Trung Quốc có phải là nhà tài trợ và Nga là nước được hưởng lợi hay không. Trong 20 năm qua, mối quan hệ giữa Nga và phương Tây trong các hoạt động đầu tư cũng mang tính không cân xứng, hay bổ sung cho nhau. Cho tới cuộc khủng hoảng Ukraine, hệ thống này đã tỏ ra bền vững, sống sót qua nhiều cuộc khủng hoảng tài chính và căng thẳng chính trị. Với “quan hệ đối tác chiến lược” Trung – Nga tương đối tốt, Moskva và Bắc Kinh có thể sẽ duy trì sự hợp tác tương tự, dù song phương hay trong khuôn khổ BRICS. Chắc chắn, Trung Quốc không phát triển về công nghệ như Mỹ và các nước châu Âu lớn khác (như Đức, Pháp), nhưng Trung Quốc có kinh nghiệm thực sự trong các lĩnh vực quan trọng đó với Nga, như cơ sở hạ tầng.

 

Điều đáng buồn là không có rào chắn kín giữa các vấn đề kinh tế và những can thiệp địa chính trị. Cho dù mối quan hệ Trung – Nga gắn bó chặt chẽ hơn bao giờ hết, và dù không sẵn sàng công khai chấp nhận điều này, Moskva không hề muốn khoảng cách giữa hai nước về tầm ảnh hưởng ngày càng mở rộng. Đó không phải là biểu hiện của tư tưởng bài Trung Quốc, tức là nỗi lo sợ bị “xâm lược”, mà đúng hơn là cảm giác khó chịu của Moskva vì phải phụ thuộc vào Bắc Kinh về kinh tế và chiến lược đến như vậy. Thành ra, Điện Kremlin đứng trước một tình thế tiến thoái lưỡng nan: một mặt, Moskva cho rằng một quan hệ đối tác chặt chẽ với Bắc Kinh là cần thiết để xây dựng một trật tự thời hậu Mỹ, hợp pháp hóa vai trò của Nga như là một chủ thể quốc tế, và giảm bớt những tác động của các biện pháp trừng phạt của phương Tây. Mặt khác, Moskva lo sợ rằng nếu Nga phụ thuộc quá nhiều vào Trung Quốc, thì Trung Quốc sẽ áp đặt các điều khoản hợp tác kinh tế và nhanh chóng mở rộng ảnh hưởng ở Trung Á và trong toàn bộ không gian hậu Xô Viết.

 

Về lý thuyết, BRICS có thể sẽ tạo nên một khuôn khổ làm việc thuận lợi, trong đó Moskva và Bắc Kinh sẽ thảo luận về những điểm mâu thuẫn này – một vai trò có thể so sánh với vai trò của SCO đối với những gì liên quan tới các cuộc đàm phán giữa hai nước về Trung Á. Hai bên đã nhất trí cho rằng dự án Liên minh Á – Âu của Putin và dự án “Vành đai và Con đường” của Bắc Kinh không xung đột nhau, mà bổ sung cho nhau. Tuy nhiên, trên thực tế, không dễ biến những “ý tưởng cao thượng” này thành hiện thực. Sau khi trải qua những thập kỷ lo lắng về “sự bành trướng” của Trung Quốc – một mối đe dọa được thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, tùy thuộc vào các thời kỳ, giới tinh hoa chính trị Nga có lẽ sẽ không quên những lo ngại địa chính trị của họ, nhất là khi chính sách ngoại giao rất năng động của Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình kể từ năm 2012 có thể đưa đến những tác động tiêu cực. Rõ ràng, ông Tập coi Trung Quốc như một cường quốc thế giới đang vươn lên, điều có nghĩa là sự thỏa hiệp trước đây đối với lục địa Á – Âu – ưu thế kinh tế của Trung Quốc và quyền lãnh đạo địa chính trị của Nga – sẽ ngày càng bị xem xét lại.

 

Những thành công nào?

 

Sẽ là phi thực tế nếu trông chờ những thành tựu nổi bật của BRICS trong khi nó chỉ tồn tại với tư cách là một thực thể chính thức kể từ năm 2009. BRICS có thể tự hào là đã phát triển nhanh hơn ASEAN hay SCO. Những tổ chức này, đặc biệt trong giai đoạn đầu tăng trưởng, chỉ có thể đưa ra những tuyên bố mang tính nguyên tắc với nội dung chung chung, thiết lập các tổ chức “hữu danh vô thực” và tránh đề cập tới tất cả những vấn đề có khả năng gây ra những bất đồng giữa các thành viên. Ưu tiên của họ là phô trương một sự thống nhất bề ngoài, chứ không phải là thực hiện những bước đột phát ngoạn mục.

 

Không phải là nền tảng của một sự quản trị thế giới

 

Tuy nhiên, cũng có ích khi điểm lại những kết quả mà BRICS đạt được bằng cách xem lại một số tuyên bố của những người ủng hộ, và cả của những người gièm pha. Tuyên bố quan trọng nhất khẳng định rằng BRICS tạo nền tảng cho một trật tự thế giới mới. V. Putin đã lợi dụng việc tổ chức đồng thời Hội nghị thượng đỉnh BRICS và Hội nghị thượng đỉnh Thượng Hại tại Ufa hồi tháng 6/2015 để tuyên bố một sự nhất trí chiến lược mới và chuẩn mực thời hậu phương Tây.

 

Tuy nhiên, đó là một ảo tưởng. Cho dù tính đến “sự trẻ trung” của BRICS, người ta chỉ có thể nhận thấy rằng BRICS không có bất cứ động lực nào nhằm tạo ra một sự thách thức tập thể đối với phương Tây và các thể chế như Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) hay Ngân hàng thế giói (WB). Ý kiến cho rằng BRICS đại diện cho một sự thay thế trật tự thế giới là quá xa thực tế vì không nước nào, ngoại trừ Nga, coi đó là điều nghiêm chỉnh. Sự đoàn kết ở Ufa đã không thể che giấu thực tế là BRICS không có các mục tiêu cụ thể. Hội nghị thượng đỉnh này đã không đạt được bước đột phá chính trị nào, và các quan sát viên có cảm tưởng đang chứng kiến một sự sáo mòn. Thậm chí, ngay cả các nhà bình luận Nga cũng nhấn mạnh rằng BRICS chỉ là một tiến trình chứ không phải là một tổ chức, và hơn thế nữa là một “tiến trình rất chậm chạp”.

 

Quan điểm chính thức của Bắc Kinh là BRICS và các phân nhánh của BRICS có thể bổ sung, chứ không thể thay thế các cấu trúc quốc tế hiện đang tồn tại. Điều có ý nghĩa hơn là những hành động của Trung Quốc chỉ ra rằng sự quan tâm của Trung Quốc dành cho BRICS là có giới hạn và Trung Quốc chỉ xem BRICS như một công cụ. Chính sách ngoại giao đa phương của Bắc Kinh dành ưu tiên cho việc gia tăng ảnh hưởng của họ trong các tổ chức do phương Tây thống trị và cho việc tạo ra các cơ chế của riêng Trung Quốc. Về điểm này, Trung Quốc đầu tư nhiều vào AIIB và sáng kiến “Vành đai và Con đường” hơn là vào NDB. Trung Quốc đã hứa hẹn đóng góp khoảng 10 tỷ USD cho NDB, tức là một khoản tiền thấp hơn các khoản cho vay và đầu tư song phương mà Trung Quốc đã dành cho một số nước, như Kazakhstan.

 

Không có gì chứng tỏ rằng Trung Quốc sẵn sàng biến BRICS thành yếu tố chính trong hoạt động đa phương của họ, và càng không thể nghĩ rằng Trung Quốc sẽ coi BRICS như một mô hình quản trị toàn cầu. Không hài lòng về phương thức hoạt động của các thể chế Bretton Woods là một chuyện, nhưng nghĩ rằng chúng có thể bị thay thế bằng BRICS và các định chế của BRICS là chuyện khác. Việc Tập Cận Bình lựa chọn các tổ chức “made in China”, như AIIB đã cho thấy ông không mấy tin vào tính hiệu quả của BRICS.

 

Trung Quốc cũng chống lại những nỗ lực của Moskva nhằm lái BRICS đi theo hướng cố tính chống Mỹ. Trung Quốc muốn tránh gây ra một cuộc đối đầu chiến lược với Washington và trên hết muốn giữ quyền kiểm soát các mục tiêu của chính sách đối ngoại. Bắc Kinh muốn được đảm bảo rằng BRICS không tạo ra một bản sắc địa chính trị thực sự và hướng các hoạt động của BRICS tới lĩnh vực phát triển quốc tế ít gây tranh cãi hơn. Trung Quốc có thể dựa vào sự ủng hộ của các thành viên khác trong BRICS, trước hết là của Ấn Độ vốn có lập trường vẫn mập mờ. Sở dĩ Bắc Kinh muốn duy trì một quan hệ thực dụng với Mỹ, đó là vì Ấn Độ coi Mỹ như là đối tác chiến lược hàng đầu của họ, có vai trò sống còn đối với việc giải quyết những mối quan tâm về an ninh và địa chính trị của họ trước Trung Quốc. Do đó, thật phi lý khi hình dung rằng Trung Quốc có thể chấp nhận để BRICS trở thành một địch thủ tuyệt ương bướng của phương Tây.

 

… cũng không phải là một động lực phát triển kinh tế

 

Lập luận lớn thứ hai đã được trích dẫn để nêu bật lợi ích của BRICS khẳng định rằng khuôn khổ này hứa hẹn là một hình thức viện trợ phát triển mới, mà không kèm theo các điều kiện chính trị vốn đặc trưng cho các chương trình của IMF và WB. Những người ủng hộ quan điểm này nhận định rằng việc thành lập NDB và CRA là một bằng chứng thuyết phục về những tiến bộ có thể đạt được trong khuôn khổ BRICS. Là những thể chế mới ra đời, NDB và CRA có thể đóng một vai trò có ý nghĩa hơn trong những năm sắp tới. Tuy nhiên, hiện tại, hai thể chế này chỉ đưa ra những hứa hẹn mà không mang lại một kết quả nào. Tổng số tiền tài trợ dự kiến – khoảng 50 và 100 tỷ USD – còn khiêm tốn so với những khoản tiền mà riêng Trung Quốc có thể đầu tư vào các dự án khác nhau của Con đường tơ lụa thông qua dự án “Vành đai và Con đường”. Điều này đặt ra câu hỏi về những hoạt động trong tương lai của NDB: tiền sẽ đi về đâu? Sẽ được chi tiêu như thế nào? Và với những điều kiện gì? Câu trả lời phụ thuộc vào khả năng của BRICS hoạt động với tư cách là cơ quan phát triển “mới”. NDB có thể chỉ bằng lòng với một vài hành động tượng trưng – tài trợ những khoản tiền nhỏ cho một vài dự án quy mô nhỏ, trong khi trên thế giới, các chương trình cơ sở hạ tầng dài hạn sẽ được tài trợ bởi các thể chế khác như WB, ADB và AIIB.

 

NDB và CRA sẽ không thể hoạt động thực sự nếu như nguồn tài trợ không tăng; nếu hai thể chế này ít có khả năng tài chính, thì họ sẽ chỉ làm được rất ít việc. Các thành viên của BRICS cũng sẽ phải quyết định dành ưu tiên phát triển vào những lĩnh vực nào. Họ nên tập trung vào những dự án trực tiếp có lợi cho họ hay họ sẵn sàng hành động một cách “nghĩa hiệp” nhằm đóng góp “công ích” cho thế giới? Lựa chọn đầu tiên rõ ràng mâu thuẫn với tuyên bố BRICS là “thủ lĩnh thay thế” các thể chế Bretton Woods. Nhưng lựa chọn thứ hai sẽ không thể thực hiện được nếu không có nguồn lực tài chính, điều sẽ khiến BRICS mất đi lợi thế so sánh, chẳng hạn hứa hẹn tài trợ mà không cần sự đánh đổi nào. Do vậy, những nước xin tài trợ sẽ một lần nữa quay sang IMF và WB, hay các nước tài trợ như Trung Quốc.

 

Điều này đặt ra một vấn đề: Kể từ cuộc khủng hoảng tài chính thế giới, Trung Quốc đã tăng cường các hoạt động cho vay quốc tế và viện trợ phát triển ở nhiều khu vực trên thế giới, kể cả ở lục địa Á – Âu. Có những nguồn dự trữ ngoại hối lớn, đã mở rộng được quyền lực mềm, lẽ gì Trung Quốc lại chịu tuân thủ những ràng buộc của hành động đa phương? Chắc chắn, Bắc Kinh có thể tăng cường những tuyên bố theo hướng này, nhằm củng cố hình ảnh là chủ thể quốc tế có trách nhiệm và chia sẻ gánh nặng tài chính. Tuy nhiên, cần có những lý do cấp thiết hơn để thuyết phục các nhà chức trách Trugn Quốc từ bỏ cách thức đã vận hành tốt cho tới hiện nay và chọn một cách thức khác mà giá trị chưa được kiểm chứng và nguyên lý vận hành thậm chí còn đáng ngờ.

 

Logic của một sự hòa giải chiến lược

 

Thật nghịch lý, thành công lớn nhất của BRICS vào lúc này lại thuộc phạm vi quan hệ song phương vì BRICS thường được sử dụng như một cơ chế điều chỉnh các mối quan hệ Trung – Nga. Cho dù hai bên không có cùng ưu tiên, cùng phương tiện, thì họ vẫn có thể làm giảm bớt những khác biệt ở BRICS nếu họ thống nhất về phần lớn những chủ đề quan trọng. Quả thực, Điện Kremlin đã thất vọng khi Bắc Kinh chỉ ủng hộ họ ở mức tối thiểu trong các vấn đề Ukraine và Syria, cũng như đầu tư nhỏ giọt vào nền kinh tế Nga. Nhưng đối với Nga, điều quan trọng nhất là duy trì một sự thống nhất chiến lược bề ngoài. Xét về mặt này, chính sách ngoại giao của BRICS cho phép khẳng định sự đồng nhất quan điểm Trung – Nga, dựa trên nền tảng của một sự nổi lên hùng mạnh của các nước không thuộc phương Tây.

 

Việc cho đây chỉ là ảo tưởng thật ra không mấy quan trọng đối với Moskva. Điều quan trọng là nó có sức thuyết phục. Từ quan điểm này, BRICS là một thành công đáng ngạc nhiên. Nỗi lo sợ về một trục cực quyền Trung – Nga lại ám ảnh Mỹ, đến mức nhiều tiếng nói đã kêu gọi phương Tây “nương tay” với Putin và tấn công “mối đe dọa” thực sự là Trung Quốc. Điện Kremlin cho rằng thuyết phục phần còn lại của thế giới về sự thân cận Trung – Nga sẽ làm tăng cơ hội hy vọng phương Tây sẽ giảm bớt và gỡ bỏ các biện pháp trừng phạt Nga do can thiệp vào Ukraine. Về phần mình, Trung Quốc chấp nhận sự “dàn cảnh” này. Bắc Kinh không cần lắm sự hợp tác tích cực từ phía Moskva mà chỉ muốn Nga không “nổi loạn”.

 

Tương lai nào cho BRICS?

 

Trong khi những người biện hộ cho BRICS thổi phồng những thành công của nó, thì những người chê bai lại cho rằng nó sắp tan vỡ. Đúng là BRICS có ít ảnh hưởng, nhưng trớ trêu thay điều này lại làm tăng cơ hội sống sót của nó. Đó là một khuôn khổ làm việc lỏng lẻo và không mang tính ép buộc, nên các thành viên có thể làm gì thì làm. Vì vậy, Nga có thể xem BRICS như là nền tảng của một trật tự thế giới mới, trong khi Trung Quốc có thể sử dụng BRICS để trấn an Moskva đừng lo sợ về sức mạnh của Trung Quốc, để gây sức ép với phương Tây buộc phương Tây tỏ ra biết điều hơn, hay để thúc đẩy các mục tiêu phát triển khu vực của Trung Quốc. Các nhà hoạch định chính sách phương Tây không coi BRICS như một mối đe dọa: Để chứng thực điều này, chỉ cần so sánh sự thờ ơ của Washington đối với NDB với những nỗ lực của họ nhằm chống lại AIIB. Nói một cách tổng quát, những điều người ta trông đợi ở BRICS quá ít ỏi đến mức không có gì thúc đẩy nó cần phải phát triển nhanh chóng. Nó chỉ có thể “lớn từ từ” trong sự nhất trí của các thành viên.

 

Trong tương lai, BRICS có thể trải qua sự phát triển giống như ASEAN trong những năm 1990. Trong giai đoạn đó, ASEAN đã thành lập nhiều định chế và kết nạp nhiều thành viên mới. Người ta sẽ chứng kiến sự ra đời của ban thứ ký BRICS, nghị viện BRICS, các trường đại học BRICS… Phần lớn các định chế này sẽ chỉ có tầm ảnh hưởng mang tính biểu trưng, song chúng sẽ góp phần duy trì một sự năng động nào đó về mặt thể chế. Ở mức độ lớn hơn, NDB và CRA có thể nhận được các khoản viện trợ lớn hơn – không bằng so với AIIB và ADB nhưng đủ để NDB và CRA có thể tài trợ, dù khiêm tốn, cho một số dự án cụ thể.

 

Cho dù những tuyên bố gần đây không đi theo hướng này, sẽ là ngạc nhiên khi, cùng với thời gian, BRICS không mời các nước đại diện cho các khu vực khác trên thế giới gia nhập hàng ngũ của họ: Mỹ Latinh (Argentina, Mexico), Bắc Phi (Ai Cập), Tây Phi (Nigeria), Trung Đông (Thổ Nhĩ Kỳ, Iran) và Đông Nam Á (Indonesia, Việt Nam). Moskva có thể lo ngại rằng một sự mở rộng như vậy sẽ khiến BRICS trở nên kém đặc sắc và làm phức tạp thêm quá trình ra quyết định. Nhưng sự mở rộng này sẽ mang lại hai lợi ích quan trọng cho Điện Kremlin: khẳng định ý tưởng về một sự đồng thuận rộng rãi không phải phương Tây, và giảm sự chi phối của Bắc Kinh đối với BRICS. Về phần Trung Quốc, ít có khả năng nước này phản đối mạnh mẽ việc mở rộng BRICS, bởi BRICS chỉ có tầm quan trọng thứ yếu đối với chính sách đối ngoại của nước này. Tất nhiên, Trung Quốc sẽ tiếp tục dành ưu tiên cho những mối quan hệ song phương mấu chốt hơn; khuyến khích các tổ chức đa phương mà Bắc Kinh kiểm soát, như AIIB; và hoan nghênh ngoài miệng sự đa cực.

 

Tương lai của BRICS mở ra những cửa sổ cơ hội về phát triển thể chế chính trị. Cho dù dường hư tiến trình xây dựng BRICS sẽ tiếp tục diễn ra trong khoảng từ 15 tới 20 năm nữa, BRICS ít có khả năng trở thành cực sức mạnh gắn kết trên trường quốc tế. Ngoại trừ Nga, không thành viên nào mong muốn điều này – và điều này sẽ không tiến triển trong ngắn hạn, do sự bất cân xứng ngày càng gia tăng của quan hệ đối tác Trung – Nga, sự gia tăng căng thẳng địa chính trị giữa Bắc Kinh và New Delhi trong khi Brazil và Nam Phi bị gạt ra rìa.

 

Khuyến nghị cho những nhà quyết định phương Tây

 

Các nhà lãnh đạo phương Tây cần nhớ rằng chỉ một số nước thành viên BRICS, chứ không phải BRICS, với tư cách một khối có thể trở thành mối đe dọa với phương Tây. Cho dù chỉ là một tập hợp ít ỏi các nước thành viên, song BRICS cũng vận hành không mấy trơn tru trên cơ sở sự đồng thuận, và các nước thành viên BRICS có những khác biệt đáng kể, tới mức khả năng phối hợp hành động trong BRICS hết sức bị hạn chế. Do vậy, cần có một cái nhìn chọn lọc trước những tuyên bố của BRICS vốn chỉ trích chính sách của phương Tây, lên án sự bất công của hệ thống quốc tế hay hoảng hốt thông báo sự xuất hiện của một trật tự đa cực.

 

Tương tự, các chính phủ phương Tây cần hiểu rằng khuôn khổ BRICS có thể tồn tại lâu dài, và thậm chí lớn mạnh. Do vậy, thái độ coi thường BRICS là phản tác dụng. Ngược lại, cần phát triển các kênh thông tin, thậm chí các cơ chế đối thoại. Đừng sợ rằng điều này sẽ củng cố sức mạnh của BRICS: thành công của BRICS phụ thuộc rất ít vào việc các nước phương Tây có đối thoại với họ với tư cách là đối tác/quan sát viên hay không. Cho dù sự tiếp xúc như vậy không nhất thiết dẫn đến những kết quả ấn tượng, phương Tây cũng chẳng thiệt thòi gì nhiều.

 

Điều quan trọng nhất, đối với các nhà quyết định chính trị phương Tây, có lẽ là đặt thay thế quan hệ song phương lên trước quan hệ đa phương: cần phân biệt giữa một mặt là sự hợp tác Trung – Nga, và mặt khác là sự đồng thuận Trung – Nga trong BRICS và ở nơi khác. Một trong những thành công lớn nhất của Bắc Kinh trong chính sách đối ngoại là khả năng tăng cường các lợi ích của họ ở lục địa Á – Âu, thường bất lợi cho Nga, dưới vỏ bọc của một chính sách ngoại giao “hai bên cùng thắng”. Trung Quốc nhấn mạnh những quan điểm “gần như đồng nhất” của hai nước về những vấn đề quốc tế lớn và khát vọng chung của họ về một thế giới công bằng hơn. Nhưng ở mỗi thời điểm Trung Quốc tìm cách đạt được các mục tiêu riêng, và hoàn toàn biết rõ việc họ đang làm. Biết rằng vị thế của mỗi nước rất khác nhau trên thế giới, Trung Quốc và Nga hợp tác vì điều đó phục vụ những lợi ích riêng của họ, chứ không phải vì quan điểm giống nhau sâu sắc. Phương Tây cần phải hiểu rõ thực tế này, cũng như tính chất thực sự của việc hợp tác với BRICS.

 

*  *  *

 

Xem bài liên hệ với đề tài: click vào đây

Xem trang Kiến thức, tài liệu: click vào đây
Xem các bài trên trang Anh ngữ: click vào đây
Trở về trang chính: http://www.nuiansongtra.net

 


Nếu độc giả, đồng hương, thân hữu muốn: 

* Liên-lạc với Ban Điều Hành hay webmaster 
* Gởi các sáng tác, tài liệu, hình-ảnh... để đăng 
* Cần bản copy tài liệu, hình, bài...trên trang web:

Xin gởi email về: quangngai@nuiansongtra.net 
hay: nuiansongtra1941@gmail.com

*  *  *

Copyright by authors & Website Nui An Song Tra - 2006


Created by Hiep Nguyen
log in | ghi danh